Mục Lục
I. Hệ thống thông tin của thị trường chứng khoán . 2
1. Sự cần thiết . 2
2. Các loại thông tin của hệ thống thông tin thị trường
chứng khoán . 2
2.1. Thông tin về tổ chức niêm yết . 2
2.2. Thông tin về tổ chức kinh doanh 3
2.3. Thông tin thị trường 3
2.4. Thông tin về quản lý . 3
2.5. Thông tin về giao dịch chứng khoán 3
2.6. Chỉ số giá cổ phiếu . 4
2.7. Các phương pháp tính chỉ số giá hiện nay 5
2.8. Một số chỉ giá chứng khoán quốc tế 7
II. Thực trạng hệ thống thông tin thị trường chứng khoán
Việt Nam . 12
1. Quá trình hình thành thị trường chứng khoán
Việt Nam 12
2. Vai trò của thông tin trên thị trường chứng khoán . 12
3. Hệ thống thông tin và chỉ số giá cổ phiếu trên
thị trường chứng khoán Việt Nam . 13
4. Vấn đề công bố thông tin trên thị trường chứng khoán
Việt Nam . 13
4.1. Khung Pháp luật . 13
4.2. Yêu cầu thực hiện công bố thông tin . 14
4.3. Phương tiện và hình thức công bố thông tin . 14
4.4. Người được ủy quyền công bố thông tin . 15
4.5. Bảo quản và lưu giữ thông tin . 15
4.6. Đối tượng phải công bố thông tin . 15
5. Thực trạng hệ thống thông tin trên thị trường
chứng khoán Việt Nam 19
5.1. Giao dịch nội gián 19
5.2. Bất cân xứng thông tin trong thị trường chứng khoán . 20
III. Đóng góp cải thiện hệ thống thông tin thị trường
chứng khoán Việt Nam 23
Tài liệu tham khảo 26
26 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3596 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hệ thống thông tin của thị trường chứng khoán, thực trạng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông tin về diễn biến thị trường
Thông tin về giao dịch trên thị trường (giá mở cửa, đóng cửa; giá cao nhất và thấp nhất trong ngày giao dịch; giá trị giao dịch
Thông tin về lệnh giao dịch (giá chào mua, chào bán tốt nhất; quy mô đặt lệnh; số lượng lênh mua hoặc bán)
Thông tin về chỉ số giá (Chỉ số giá cổ phiếu tổng hợp; bình quân giá cổ phiếu; chỉ số giá trái phiếu)
Thông tin về quản lý
Phần này chủ yếu bao gồm thông tin về cơ quan quản lý, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và phối hợp công tác
Thông tin về giao dịch chứng khoán
Các thông tin về giao dịch được thông báo trên bảng điện tử kết quả giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán và trên các phương tiện thông tin đại chúng như: báo,tạp chí, ….Mẫu thông tin mà nhà đầu tư thường thay đổi với một chứng khoán như sau:
Cổ phiếu: xyz
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
52 week
Stock
Div
Yld
P/E
Sales
High
Low
Close
NetChg
High
Low
Giải thích ý nghĩa của các cột:
Cột 1-52 week: Cho biết trong vòng 48 tuần gần đây giá cao nhất và thấp nhất của chứng khoán xyz là bao nhiêu?
Cột 2- Stock: Cho biết tên cổ phiếu.
Cột 3- Div: Chỉ biết cổ tức mà cổ tức phát hành chi trả trong thời gian gần đây.
Cột 4- Yld: Là chữ viết tắt của Yield, nghĩa là tỷ suất lợi tức của năm gần đây nhất. Tính bằng cách lấy cổ tức chia cho giá cổ phiếu (cột 3/ cột 9)
Cột 5- PE: Là hệ thống Price Earning Ratio, là tỷ lệ giữa giá cổ phiếu hiện tại với thu nhập tính trên một cổ phiếu trong năm gần nhất.
Cột 6- Sales: Cho biết doanh số bán trong ngày tính theo đơn vị là lô chẵn.
Cột 7- High: Cho biết giá thực hiện cao nhất trong ngày.
Cột 8- Low: Cho biết giá thực hiện thấp nhất trong ngày.
Cột 9- Net Chg (Net Change): Cho biết mức thay đổi giá đóng cả của ngày thông báo so với ngày trước đó
Chỉ số giá cổ phiếu
Chỉ số giá cổ phiếu là thông tin rất quan trong đối với hoạt động của thị trường, đối với nhà đầu tư và đánh giá kinh tế bởi nó thể hiện tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán. Tất cả các thị trường chứng khoán đều xây dựng hệ thống chỉ số giá cổ phiếu cho riêng mình.
Là chỉ báo phản ánh xu hướng phát triển của thị trường cổ phiếu, thể hiện xu hướng thay đổi của giá cổ phiếu và tình hình giao dịch của thị trường. Đơn giản, chỉ số giá cổ phiếu là giá bình quân cổ phiếu tại một ngày nhất định so với ngày gốc
Nội dung
Chỉ số giá cổ phiếu là thông tin thể hiện giá chứng khoán bình quân hiện tại so với giá bình quân thời kỳ gốc đã chọn
Chỉ số giá cổ phiếu được xem là phong vũ biểu thể hiện tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán. Đây là thông tin rất quan trọng đối với hoạt động của thị trường, của nhà đầu tư và các nhà phân tích kinh tế
Tất cả các thị trường chứng khoán đều xây dựng hệ thống chỉ số giá cổ phiếu cho riêng mình
Giá bình quân thời kỳ gốc trong so sánh chỉ số giá thường được lấy là 100 hoặc 1000
Chỉ số giá cổ phiếu được tính cho
Từng cổ phiếu
Tất cả cổ phiếu của từng thị trường
Từng ngành, nhóm ngành
Thị trường quốc tế
Chỉ số giá cổ phiếu được tính cho từng cổ phiếu và được niêm yết trên báo chí: có thể là chỉ số cho tất cả cổ phiếu trên thị trường của một quốc gia, như chỉ số giá Hangseng của Hồng Kông, chỉ số giá cổ phiếu tổng hợp của Hàn Quốc (KOSPI); có thể là chỉ số cho từng ngành, nhóm ngành, như chỉ số giá cổ phiếu ngành công nghiệp của Mỹ (DJIA) hoặc cho trường quốc tế như chỉ số Hangseng Châu á (HSAI), chỉ số Dow Joness quốc tế (DJWSI)…
Ngoài ra một số chỉ tiêu sau cũng thường được thống kê, tổng hợp đối với chỉ số giá và thông báo rộng rãi:
chỉ số giá trong ngày
ngày đó so với ngày trước
so với đầu năm
chỉ số cao nhất hoặc thấp nhất trong năm…
Phân tích biến động theo ngành
Chỉ số giá có thể được tính theo thời gian (so sánh theo thời gian) hoặc theo không gian để so sánh giữa các vùng lãnh thổ khác nhau.
Một số chỉ số giá chứng khoán thường được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Các phương pháp tính chỉ số giá hiện nay
Hiện nay, các nước trên thế giới dùng 5 phương pháp để tính chỉ số giá cổ phiếu, đó là:
Chỉ số giá bình quân Laspeyres.
Chỉ số giá bình quân Laspeyres là chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị, lấy quyền số là số cổ phiếu niêm yết thời kỳ gốc. Như vậy, kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu quyền số thời kỳ gốc:
Trong đó: IL : Là chỉ số giá bình quân Laspeyres
pt: Là giá thời kỳ báo cáo
p0 : Là giá thời kỳ gốc
q0: Là khối lượng (quyền số) thời kỳ gốc hoặc cơ cấu của khối lượng c (số lượng cổ phiếu niêm yết) thời kỳ gốc
Có ít nước áp dụng phương pháp này, đó là chỉ số FAZ, DAX của Đức.
Chỉ số giá bình quân Paascher.
Đây là loại chỉ số giá cổ phiếu thông dụng nhất và nó là chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị với quyền số là số lượng chứng khoán niêm yết thời kỳ tính toán. Kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu quyền số thời kỳ tính toán:
Người ta dùng công thức sau để tính:
Trong đó : IP là chỉ số giá Passcher
Pt là giá thời kì t
P0là giá thời kì gốc
Qt là khối lượng thời điểm tính hoặc cơ cấu của khối lượng thời điểm tính toán.
Chỉ số giá bình quân Passcher là chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị lấy quyền số là quyền số thời kỳ tính toán, vì vậy kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu quyền số (cơ cấu chứng khoán niêm yết) thời tính toán.
Các chỉ số KOSPI (Hàn quốc); S&P500(Mỹ); FT-SE 100 (Anh); TOPIX (Nhật); CAC (Pháp); TSE (Đài loan); Hangseng (Hồng Kông); các chỉ số của Thuỵ Sỹ,.. và VnIndex của Việt Nam áp dụng phương pháp này.
Chỉ số giá bình quân Fisher.
Chỉ số giá bình quân Fisher là chỉ số giá bình quân nhân giữa chỉ số giá Passcher và chỉ số giá Laspayres. Phương pháp này trung hoà được yếu điểm của hai phương pháp trên, tức là giá trị chỉ số tính toán ra phụ thuộc vào quyền số của cả 2 thời kỳ: Kỳ gốc và kỳ tính toán.
Trong đó:IF : Là chỉ số giá Fisher
IP: Là chỉ số giá Passcher
IL: Là chỉ số giá bình quân Laspeyres
Về mặt lý luận có phương pháp này, nhưng trong thống kê không thấy nó áp dụng ở bất kỳ một quốc giá nào.
Chỉ số giá bình quân giản đơn.
Ngoài các phương pháp trên, phương pháp tính giá bình quân giản đơn cũng thường được áp dụng. Công thức đơn giản là lấy tổng thị giá của chứng khoán chia cho số chứng khoán tham gia tính toán
Trong đó: Ip là giá bình quân;
Pi là giá Chứng khoán i;
n là số lượng chứng khoán đưa vào tính toán.
Các chỉ số họ Dow Jone của Mỹ; Nikkei 225 của Nhật; MBI của Ý áp dụng phương pháp này. Phương pháp này sẽ tốt khi mức giá của các cổ phiếu tham gia niêm yết khá đồng đều, hay độ lệch chuẩn (s ) của nó thấp.
Chỉ số giá bình quân nhân giản đơn
Chúng ta chỉ nên dùng loại chỉ số này khi độ lệch chuẩn khá cao. Các chỉ số: Value line (Mỹ); FT-30 (Anh) áp dụng phương pháp bình quân nhân giản đơn này.
Tuy nhiên về mặt lý luận, chúng ta có thể tính theo phương pháp bình quân cộng hoặc bình quân nhân gia quyền với quyền số là số chứng khoán niêm yết.
Quyền số thường được dùng trong tính toán chỉ số giá cổ phiếu là số chứng khoán niêm yết. Riêng ở Đài Loan thì họ dùng số chứng khoán trong lưu thông làm quyền số, bởi vì tỷ lệ đầu tư của công chúng rất cao ở đây (80 .. 90%).
Một số chỉ giá chứng khoán quốc tế
Các chỉ số giá cổ phiếu của thị trường chứng khoán Hồng Kông
Chỉ số HangSeng (HIS) Hong Kong: Chỉ số này do công ty HIS Service Ltd, một công ty do ngân hàng HangSeng sở hữu tính toán và công bố. Chỉ số này được công bố đầu tiên vào tháng 11 năm 1969. Đây là chỉ số được niêm yết rộng rãi nhất của thị trường chứng khoán HongKong cả ở trong nước và quốc tế. HIS được tính từng phút trong phiên giao dịch và được thông tin ra trong nước và quốc tế qua mạng thông tin tài chính và đại chúng như Tele Text, Reuters, Telerate, Bloomberg, …. Từ năm 1996, công ty HSI Service Ltd đã xuất bản bảng tin hàng ngày về chỉ số HangSeng, trong đó đưa tin về chỉ số này và các chỉ số phụ của nó, cứ 15 phút một lần bảng tin sẽ đưa ra những thong báo mới, bao gồm các mức giá cao nhất, thấp nhất và giá đóng cửa của mỗi ngày giao dịch. HIS là chỉ số gia quyền giá trị của 33 loại cổ phiếu. Ngày gốc là ngày 31/7/1964 với giá trị gốc là 100. Khi đưa thêm 4 chỉ số phụ vào năm 1985, ngày gốc được đổi thành ngày 13/01/1984 và trị giá gốc là 975,47 (giá đóng cửa của ngày đó).
Chỉ số tổng hợp cổ phiếu thường Hong Kong (AOI): Chỉ số này là chỉ số gia quyền giá trị của tất cả các cổ phiếu thường được niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán Hong Kong. Nó được tính toán và công bố lần đầu vào ngày 2/1/1989. Ngày gốc là ngày 2/4/1996 với giá trị gốc là 1.000. Chỉ số này có bảy chỉ số ngành: Tài chính; dịch vụ; bất động sản; xây dựng; công nghiệp; khách sạn; các ngành khác. Cho dù chỉ số AOI tiêu biểu hơn HIS, nhưng một vài loại cổ phiếu trong đó có giao dịch rất ít.
Chỉ số tham chiếu HangSeng LonDon của Hong Kong (HSLRI): Hiện nay, 28 trong số 33 loại cổ phiếu hợp thành HIS được giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán LonDon (LSE). Chỉ số tham chiếu HangSeng LonDon là chỉ số phản ánh sự biến đổi giá cả của 28 loại chứng khoán thuộc HIS nhưng có niêm yết và giao dịch ở LSE.
Chỉ số HangSeng Châu Á của Hong Kong (HSAI): Đây là chỉ số khu vực đầu tiên dựa trên 8 chỉ số cổ phiếu của các nước Châu Á
Chỉ số HangSeng (HongKong).
Chỉ số giá hỗn hợp ISX (Indonesia).
Chỉ số giá hỗn hợp Korea.
Chỉ số hỗn hợp KLSE (Malaisia).
Chỉ số hỗ hợp PSE (Phillipine).
Chỉ số tổng hợp SES (Singapore).
Chỉ số SET (Thai Land).
Chỉ số quyền số vốn huy động (Taiwan)
Các loại chỉ số giá cổ phiếu của Mỹ
Chỉ số Dow Jone (Dow Jone Average): Chỉ số Dow Jone là chỉ số giá chứng khoán, phản anhsuwj biến động bình quân của giac chứng khoán thuộc thị trường chứng khoán New York, một thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới. Chỉ số Dow Jone hiện nay là chỉ số giá chung của 65 chứng khoán đại diện, thuộc nhóm hàng đầu (Blue chip) trong các chứng khoán được niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán New York. Nó bao hàm 3 chỉ số thuộc 3 nhóm ngành: công nghiệp DJIA (DowJone Industrial Average), vận tải DJTA (DowJone Trangsportation Average) và dịch vụ DJUA (Dowjone Utilities Average).
Chỉ số DJIA (Dowjone công nghiệp): Chỉ số DowJone công nghiệp là chỉ số lâu đời nhất ở Mỹ do ông Charles H.Dow cùng với công ty mâng tên ông thu thập giá đóng cửa của chứng khoán để tính và công bố trên Wall Street Journal từ năm 1896. Khởi đầu công ty chỉ tính giá bình quân số học của 12 cổ phiếu. Ngày tính đầu tiên là ngày 26/5/1896 với mức giá bình quân ngày này là 40,94 đôla. Năm 1916, số lượng cổ phiếu để tính chỉ số là 20 cổ phiếu vào năm 1928 tăng lên là 30 cổ phiếu và giữu nguyên số lượng này cho đến ngày nay. Trong quá trình đó thường xuyên có sự thay đôit các công ty trong nhóm top 30. Mỗi khi có công ty chứng tỏ là không thuộc tiêu chuẩn top 30 của các cổ phiếu Blue Chip nữa thì sẽ có công ty khác thay thế.
Chỉ số DJTA (DowJone vận tải): Chỉ số này được công bố đầu tiên vào ngày 26/10/1896 và cho đén ngày 2/01/1970 vẫn mang tên chỉ số công nghiệp đường sắt, vì thời gian này vận tải đường sắt là chủ yếu. Chỉ số DJTA bao gồm 20 cổ phiếu của 20 công ty vận tải đại diện cho ngành đường sắt, đường thủy và hàng không được niêm yết tại sở giao dịch chứng khoan New York.
Chỉ số ngành phục vụ công cộng (DJUA): chỉ số này được công bố trên tờ báo Wall Street từ tháng 1/1929. Chỉ số này được tính dựa vào giá đóng cửa của chứng khoán 15 công ty lớn nhất trong ngành khí đốt và điện. Như vậy, tuy chỉ số DowJone chỉ tính đối với 65 loại cổ phiếu khác nhau nhưng khối lượng giao dịch của chúng chiếm đến hơn ¾ khối lượng giao dịch của thị trường chứng khoán New York, bởi vậy chỉ số DowJone thường phản ánh đúng xu thế biến động giá của thị trường chứng khoán Mỹ. Chỉ số giá chứng khoán nói chung, chỉ số DowJone nói riêng được coi là phong vũ biểu, hay là nhiệt kế để đo tình trạng sức khỏe của nền kinh tế xã hội. Thông thường nền kinh tế lên (Tăng trưởng) thì chỉ số tăng và ngược lại. Ở thị trường chứng khoán New York, sở giao dịch sẽ đóng cửa 30 phút nếu chỉ số DowJone giảm ở mức 250 điểm và đóng cửa 3h nếu giảm 500 điểm. Nếu số tăng giảm này ta đem so với ngày hôm trước ta sẽ có sự biến động theo %. Các thị trường này cũng thường thông báo sự biến động giá chứng khoán thong qua tiêu thức điểm và %.
NASDAQ Composite Index (NASDAQCI – Nationlal Association of Securities Dealers Automated Quatation System): Chỉ số chứng khoán này là chỉ số tổng hợp của 4.700 công ty, kể cả của Mỹ và nước ngoài được niêm yết trên thị trường chứng khoán NASDAQ. Ngày cơ sở là ngày 5/2/1971 với giá trị gốc là 100, có thính thêm các chỉ số phụ cho các nhóm ngành: Ngân hàng, máy tính, công nghiệp, bảo hiểm, vận tải, tài chính khác và bưu chính viễn thông.
New York Stock Exchange Index (NYSEI): Là chỉ số tính theo phương pháp bình quân gia quyền giá trị cho tất cả các chứng khoán ở NYSE. Ngày cơ sở là ngày 31/12/1964, quyền số thay đổi theo giá trị thị trường, trị giá cơ sở là 50USD và biến đổi của nó được thể hiện theo điểm. Các chỉ số phụ bao gồm chỉ số ngành công nghiệp, vận tải, phục vụ công cộng và chỉ số tổng hợp cho khu vực tài chính.
Amex Major Market Index (XMI) của Mỹ: Đây là chỉ số tính theo phương pháp gia quyền với quyền số giá cả của 20 cổ phiếu đang làm ăn phát đạt nhất (Blue Chip) trong ngành công nghiệp được niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Mỹ. Chỉ số này do AMEX tính và tương đối giống DJIA, trong đó có 15 cổ phiếu thuộc nhóm các cổ phiếu của DJIA.
Amex Market Value Index ( XAM) của Mỹ: chỉ số này do Amex tính và công bố từ ngày 4/9/1973, theo phương pháp tính gia quyền với quyền số là giá trị thị trường (quyền số giá trị). Ngày gốc trong tháng 9 năm 1973 bao gồm 800 cổ phiếu đại diện cho tất cả các ngành kỹ nghệ đang giao dịch trên Amex.
Dow Jones World Stock Index của Mỹ: chỉ số này là chỉ số bình quân giá trị của 2.600 công ty trên thế giới đại diện cho 80% trị giá trị thường chứng khoán quốc tế. Hiện tại, các công ty là đối tượng tính chỉ số này tập trung ở 25 nước thuộc các khu vực: Bắc Mỹ, Châu Âu và vùng Châu Á, Thái Bình Dương. Ngày gốc là ngày 31/12/1991 với trị giá gốc là 100. Chỉ số này đươch tính cho từng nhóm ngành, có phân theo vùng, quốc gia. Chỉ số đối với từng nước tính theo đồng nội tệ, và USD, Pound của Anh, Mark của Đức, Yên của Nhật. Chỉ số cho vùng và thế giới được tính theo 4 loại ngoại tệ trên.
NASDAQ- 100 Index của Mỹ: Chỉ số được tính từ năm 1985 cho 100 công ty phi tài chính lớn nhất được niêm yết tại thị trường chứng khoán NASDAQ. Chỉ số tính theo phương pháp bình quân gia quyền giá trị. Tất cả công ty tham gia chỉ số có mức vốn thị trường tối thiểu là 400 triệu USD vào tháng 10/1993 và được chọn theo tiêu thức trị giá giao dịch và tiêu biểu trên thị trường. Tháng 2 năm 1994 trị giá chỉ số giảm một nửa do chứng quyền (right) được đưa vào giao dihcj tại Chicago Board Option Exchange.
Rusell Indexes của Mỹ: Các chỉ số này do công ty Frank Rusell của Tacoma- Washington tính bằng phương pháp bình quân gia quyền giá trị. Rusell 3.000 Index bao gồm 3.000 cổ phiếu có giá trị thị trường lớn nhất. Ngoài ra có Rusell 1.000, Rusell 2.000, Rusell top 200; Rusell 2.500,….
Chỉ số S&P 500 (Standard & poors) của Mỹ: Đây là chỉ số giá bình quân giá trị, tổng hợp của 500 loại cổ phiếu. Nó bao gồm các cổ phiếu được niêm yết trên NYSE, một số thuộc nhóm cổ phần của Amex & NASDAQ. Chỉ số này bao gồm 381 cổ phiếu thuộc ngành công nghiệp, 47 cổ phiếu thuộc các ngành dịch vụ công cộng, 56 cổ phiếu thuộc ngành tài chính và 16 cổ phiếu thuộc ngành vận tải và đại diện cho 74% trị giá trị trường của tất cả các cổ phiếu được giao dịch trên NYSE. Ngoài ra, còn có chỉ số S&P 100, tính trên cơ sở S&P 500 và cách tính cũng tương tự như S&P 500.
Value Line Composite Average của Mỹ: Đây là chỉ số tổng hợp quyền số như nhau, bao gồm 1.700 cổ phiếu của NYSE và AMEX và trên thi trường OTC. Trị giá cơ sở là 100, ngày cơ sở là ngày 30/6/1961. Sự thay đổi chỉ số giá được tính theo điểm. Chỉ số này cũng tính cho 3 nhóm ngành: công nghiệp; vận tải; dịch vụ công cộng.
Wilshire 5.000 Equity Index: Đây là chỉ số có phạm vi rộng nhất. Chỉ số này tính theo quyền số giá trị. Nó bao gồm hơn 6.000 cổ phiếu giao dịch ở NYSE, AMEX, hệ thống thị trường quốc gia NASDAQ. Ngày cơ sở là ngày 31/12/1980.
Các chỉ số chứng khoán của Anh
Chỉ số FT-30: FT-30 là chỉ số giá của 30 cổ phiếu công nghiệp hàng đầu của thị trường chứng khoán LonDon. Chỉ số này được công bố theo từng giờ kể từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều và vào lúc đóng cửa sở giao dịch chứng khoán LonDon. Thời gian gốc là năm 1935 với giá trị gốc là 100
Chỉ số FT-SE 100: Là chỉ số của 100 cổ phiếu hàng đầu tại sở giao dịch chứng khoán LonDon. Ngày gốc là ngày 3/1/1984, với giá trị gốc là 1.000
Các chỉ số giá cổ phiếu của Hàn Quốc
Sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc đã đưa ra chỉ số giá cổ phiếu Hàn Quốc bắt đầu từ năm 1972 nhằm đưa ra một thước đo toàn diện cho xu thế của thị trường. Đây là chỉ số bình quân gia quyền được tính dựa trên một số cổ phiếu tiêu biểu đại diện cho toàn bộ thị trường. Ngày cơ sở của chỉ số này là ngày 4/1/1972 với trị giá cơ sở là 100 trị số cơ sở được tính dựa trên cổ phiếu của 35 công ty với trị giá nhưng đến ngày 4/1/1979 số công ty niêm yết đã lên đến con số 153, vì vậy, mà ngày cơ sở của chỉ số này đã được điều chỉnh sang ngày 4/1 1975.
Chỉ số KOSPI tổng hợp: Chỉ số giá cổ phiếu tổng hợp của Hàn Quốc được áp dụng từ đầu năm 1983. Chỉ số này được tính dựa trên tổng giá trị thị trường và ngày cơ sở của chỉ số này là ngày 4/1/1980 với giá trị chỉ số cơ sở là 100
Các chỉ số giá cổ phiếu của Nhật Bản
Chỉ số Nikkei 225: Chỉ số Nikkei là chỉ số tổng hợp cổ phiếu với quyền số giá cả của 225 cổ phiếu thuộc sở giao dịch chứng khoán Tokyo và 250 cổ phiếu thuộc sở giao dịch Osaka. Chỉ số này do thời báo kinh tế Nhật Bản tính toán và công bố (thời báo Nikkei). Chỉ số này còn được gọi là chỉ số Nikkei-Dow và phương pháp tính của nó như phương pháp tính các chỉ số DowJone
Chỉ số TOPIX: Chỉ số này tính cho tất cả chứng khoán niêm yết quan trọng của thị trường chứng khoán Tokyo. Thời điểm gốc là ngày 4/1/1968 với giá trị gốc là 100
Các chỉ số giá cổ phiếu khác
Chỉ số CAC ( Pháp): Tính cho 240 cổ phiếu hàng đầu tại sở giao dịch chứng khoán Paris. Ngày gốc là ngày 31/12/1981 với giá trị gốc là 100.
Chỉ số DAX (Đức): Tính cho 30 cổ phiếu hàng đầu của Đức. Ngày gốc là ngày 31/12/1987 với giá trị gốc là 1.000.
Chỉ số tổng hợp chứng khoán Malaysia (KLSE): Chỉ số tổng hợp của sở giao dịch chứng khoán Kuala Lumpur được đưa vào sử dụng từ ngày 04/4/1983 với 83 cổ phiếu, các cổ phiếu được lựa chọn cho các khu vực khác nhau của thị trường. Sau đó số cổ phiếu đại diện tăng lên tới 100. Ngày nay, Sở giao dịch chứng khoán Kuala Lumpur cũng thực hiện việc tính các chỉ số cho các khu vực chính được giao dịch: hàng tiêu dùng, công nghiệp thương mại, dịch vụ, tài chính, bất động sản, khai khoáng và trồng trọt.
Thực trạng hệ thống thông tin thị trường chứng khoán Việt Nam
Quá trình hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Tuy nhiên đến nay thị trường chứng khoán vẫn chưa phát triển và hoạt động ổn định, bền vững. Các vấn đề như tính thanh khoản thấp, chất lượng hàng hoá còn nghèo nàn, ít chủng loại,số lượng chưa nhiều…Bên cạnh đó, vấn đề công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm yết cũng đang làm đau đầu các nhà quản lý thông tin. Để thị trường chứng khoán hoạt động thông suốt, trôi chảy, lành mạnh và hiệu quả, thì minh bạch thông tin là một trong những yêu cầu quan trọng nhất. Nhưng ở Việt Nam, hiện tượng giao dịch nội gián, công bố thông tin không xác thực, thông tin bất cân xứng trong chứng khoán, tung tin đồn, gian lận sổ sách, đầu cơ, lũng đoạn thị trường….ngày càng trở nên phổ biến nhưng lại chưa bị xử lý đúng mức. Vì vậy TTCK hoạt động kém, rủi ro cao. Và chính vì lẽ đó mà sau gần mười năm hoạt động thị trường đã có những diễn biến hết sức bất thường.
Vai trò của thông tin trên thị trường chứng khoán
Một là : Nguồn thông tin trên thị trường chứng khoán là cơ sở để quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK, nhìn nhận những phản ánh của thị trường với cơ chế, chính sách, pháp luật hiện hành về chứng khoán và TTCK
Hai là : thông tin đưa ra còn là cơ sở để đáng giá tính hợp pháp hay không hợp pháp của chủ thể tham gia vào thị trường. Từ đó giúp Nhà nước ngăn chặn những hành vi bất hợp pháp diễn ra trên thị trường.
Ba là : Trong đầu tư chứng khoán, rủi ro thông tin được coi là rủi ro lớn nhất và cũng là nguồn cội của mọi rủi ro, đó chính là rủi ro từ sự dại dột và những sai lầm do thiếu thông tin hay tiếp cận thông tin sai lệch, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích thông tin và những phản ứng nhạy bén từ thị trường. Do vậy, việc tìm kiếm được nguồn thông tin đáng tin cậy vẫn phải được coi là hành trang vững chắc nhất trong việc đầu tư kinh doanh chứng khoán. Để có được nguồn thông tin tin cậy, nhà đầu tư cần lưu ý đến nguồn gốc của thông tin được công bố.
Hệ thống thông tin và chỉ số giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Ở Việt Nam, thong tin thị trường chứng khoán được quy định trong quyết định 47/2001/QĐ-UBCK1 ngày 19 tháng 6 năm 2001 của Chủ tịch UBCK Nhà nước bao gồm các thông tin chủ yếu sau:
Thông tin về giao dịch chứng khoán.
Thông tin về chỉ số giá chứng khoán.
Thông tin về quản lý thị trường chứng khoán.
Thông tin về tình hình thị trường chứng khoán.
Thông tin về nhà đầu tư.
Thông tin về quản lý hoạt động phát hành chứng khoán.
Thông tin về công tác thanh tra giám sát hoạt động thị trường chứng khoán và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thông tin về công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán.
Thông tin về sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài.
Thông tin liên quan đén tình hình kinh tế xã hội và hoạt động quản lí nhà nước của các bộ ngành liên quan tác động tới hoạt động chứng khoán.
Thông tin về hoạt động của thị trường chứng khoán ở các nước trong khu vực và trên thế giới.
Ở Việt Nam trong giai đoạn đầu chỉ số VN Index là chỉ số duy nhất cho đại diện các cổ phiếu được niêm yết trên thị trường giao dịch chứng khoán. Hiện nay có thêm chỉ số HNX của sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Vấn đề công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Khung Pháp luật
- LUẬT CHỨNG KHOÁN 2006: Chương VIII – Công bố thông tin (8
Điều).
- THÔNG TƯ 38/2007/TT - BTC hướng dẫn về công bố thông tin trên
TTCK (thay thế Thông tư 57/2004/TT - BTC): gồm 11 Chương.
- THÔNG TƯ số 09/2010/TT – BTC hướng dẫn về công bố thông tin trên
TTCK (bổ sung Thông tư 38/2007/TT – BTC) áp dụng từ 01.03.2010.
- Quy chế công bố thông tin của các trung tâm giao dịch chứng khoán.
Yêu cầu thực hiện công bố thông tin
- Việc công bố thông tin phải đầy đủ, chính xác và kịp thời theo quy định
của pháp Luật.
- Việc công bố thông tin phải do Giám đốc hoặc Tổng giám đốc hoặc
người được ủy quyền công bố thông tin thực hiện. Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin do người được ủy
quyền công bố thông tin công bố.
Trường hợp có bất kỳ người nào công bố thông tin làm ảnh hưởng đến
giá chứng khoán thì người được ủy quyền công bố thông tin phải xác nhận
hoặc đính chính thông tin đó trong thời hạn hai mươi bốn (24) giờ, kể từ khi
thông tin trên được công bố.
- Việc công bố thông tin phải được thực hiện đồng thời với việc báo cáo
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sàn giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm
giao dịch chứng khoán về nội dung thông tin công bố, cụ thể như sau
+ Công ty đại chúng, tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra
công chúng, Công ty chứng khoán, công ty quản l. quỹ, Sàn giao dịch chứng
khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán khi thực hiện công bố thông tin phải
đồng thời báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
+ Tổ chức niêm yết, công ty chứng khoán thành viên, Công ty đầu tư
chứng khoán đại chúng; Công ty quản l. quỹ có quản l. quỹ đại chúng/công
ty đầu tư chứng khoán đại chúng khi thực hiện công bố thông tin phải đồng
thời báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sàn giao dịch chứng khoán hoặc
Trung tâm giao dịch chứng khoán.
- Việc công bố thông tin phải được thực hiện đồng thời trên các phương
tiện thông tin đại chúng.
- Sàn giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán cung cấp
thông tin về tổ chức niêm yết, công ty quản l. quỹ có quản l. quỹ đại chúng/
công ty đầu tư chứng khoán đại chúng; quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng
khoán đại chúng cho các công ty chứng khoán thành viên. Các công ty chứng
khoán thành viên có trách nhiệm cung cấp ngay các thông tin trên một cách
đầy đủ cho nhà đầu tư.
Phương tiện và hình thức công bố thông tin
Phương tiện
- Tổ chức thuộc đối tượng công bố thông tin: Báo cáo thường niên, trang
thông tin điện tử và các ấn phẩm khác.
- Các phương tiện công bố thông tin của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
bao gồm: báo cáo thường niên, trang thông tin điện tử và các ấn phẩm khác
của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
- Các phương tiện công bố thông tin của Sàn giao dịch chứng khoán, Trung
tâm giao dịch chứng khoán bao gồm: bản tin thị trường chứng khoán, trang
thông tin điện tử của Sàn giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng
khoán, bảng hiển thị điện tử tại Sàn giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao
dịch chứng khoán, các trạm đầu cuối tại sàn giao dịch chứng khoán, Trung
tâm giao dịch chứng khoán.
- Phương tiện thông tin đại chúng: báo, đài, truyền hình.....
Hình thức
- Văn bản: bản gốc có dấu và chữ k. hợp pháp và dữ liệu điện tử.
- Các đối tượng CBTT phải lập website và phải thường xuyên cập nhật
việc CBTT trên website đó. Phải thông báo và công khai trang website.
Người được ủy quyền công bố thông tin
Tổ chức CBTT phải đăng k. người được uỷ quyền thực hiện CBTT theo
Mẫu CBTT-01 kèm theo Thông tư 38. Trường hợp thay đổi người được uỷ
quyền CBTT phải thông báo bằng văn bản cho UBCKNN, SGDCK, TTGDCK
ít nhất 5 ngày làm việc trước khi có sự thay đổi.
Bảo quản và lưu giữ thông tin
BCTC năm, BC thường niên của tổ chức CBTT phải được công bố công
khai trên các ấn phẩm, website của tổ chức và lưu trữ ít nhất 10 năm tại trụ
sở chính để nhà đầu tư tham khảo (tại Thông tư 57, thời hạn lưu giữ chỉ là 2
năm)
Đối tượng phải công bố thông tin
- Công ty đại chúng.
- Tổ chức phát hành chào bán chứng khoán ra công chúng.
- Tổ chức niêm yết.
- Công ty chứng khoán.
- Công ty quản lí quỹ.
- Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng.
- SGDCK, TTGDCK.
- Các tổ chức và cá nhân liên quan.
Công ty đại chúng
Công bố thông tin định kỳ
- Nội dung:
+ Báo cáo tài chính năm có kiểm toán (và Báo cáo tài chính hợp nhất trường hợp công ty đại chúng là công
ty mẹ). Trường hợp Cty đặc thù thù do Bộ tài chính quy định riêng.
+ Báo cáo thường niên.
- Thời hạn: Trong vòng 10 ngày, kể từ ngày có Báo cáo tài chính năm được kiểm toán.
- Phương tiện :
+ Các ấn phẩm, website của công ty đại chúng, phương tiện công bố thông tin của UB Chứng khoán nhà nước,
phương tiện đại chúng (nếu cần).
+ Báo cáo tài chính năm tóm tắt: công bố trên 3 số báo liên tiếp của 1 tờ báo Trung
ương và 1 tờ báo địa phương hoặc phương tiện công bố thông tin của UB Chứng khoán nhà nước.
Công bố thông tin bất thường
Trong thời hạn 24 giờ:
- Tài khoản công ty bị phong toả hoặc hoạt động trở lại.
- Tạm ngừng kinh doanh.
- Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
- Thông qua các QĐ của ĐHCĐ theo Điều 104 Luật DN.
- QĐ của HĐQT v/v mua bán cổ phiếu quỹ; ngày thực hiện quyền của
người sở hữu trái phiếu chuyển đổi; chào bán chứng khoán (khoản 2 Điều
108 Luật DN); kết quả các đợt phát hành riêng lẻ.
- QĐ khởi tố thành viên HĐQT, Ban GĐ, Kế toán trưởng; quyết định của
Toà án liên quan đến hoạt động của công ty; quyết định vi phạm pháp luật về
thuế.
Trong thời hạn 72 giờ:
- QĐ vay hoặc phát hành trái phiếu có giá trị từ 30% vốn thực có trở lên.
- QĐ của HĐQT về kế hoạch phát triển trung hạn, kế hoạch kinh doanh
hàng năm của công ty; QĐ thay đổi phương pháp kế toán áp dụng.
- Thông báo của Toà án thụ l. đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh
nghiệp.
Phương tiện: ấn phẩm, website của CTĐC và trang thông tin điện tử của
UBCKNN.
Công bố thông tin theo yêu cầu
Nội dung:
- Có thông tin liên quan công ti ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hợp
pháp của nhà đầu tư.
- Có thông tin liên quan công ti ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán và cần
phải xác nhận thông tin đó.
Thời hạn : trong vòng 24 giờ, kể từ khi nhận được yêu cầu của UB Chứng khoán nhà nước
Phương tiện : ấn phẩm, website của công ti, phương tiện thông tin đại chúng
hoặc phương tiện công bố thông tin của UB Chứng khoán nhà nước
Tổ chức phát hành chào bán chứng khoán ra công chúng
Công bố thông tin định kỳ (Tương tự)
Công bố thông tin bất thường
Tương tự công ti đại chúng, tuy nhiên có giảm bớt một số qui định
Tổ chức phát hành trái phiếu khi công bố thông tin bất thường phải nêu ra nguyên nhân, kế hoạch và giải pháp khắc phục
Công bố thông tin theo yêu cầu( Không quy định)
Tổ chức niêm yết
Công bố thông tin định kỳ
Tương tự công ti đại chúng
Bổ sung: Công bố báo cáo tài chính quý trong vòng 5 ngày, kể từ ngày hoàn thành Báo cáo tài chính quý (không cần kiểm toán).
Công bố thông tin bất thường
Tương tự công ti đại chúng
Bổ sung: Công bố trong vòng 24 giờ, kể từ khi bị tổn thất tài sản có giá trị
10% vốn chủ sở hữu trở lên.
Công bố thông tin theo yêu cầu
Tương tự công ti đại chúng
Giao dịch của cổ đông nội bộ (HĐQT; BGĐ; KTT; BKS)
phải báo cáo và công bố thông tin 1 ngày trước khi thực hiện giao dịch; báo cáo sau trong vòng 3 ngày sau khi thực hiện giao dịch; 3 ngày sau khi không thực hiện giao dịch (nêu ra lí do).
Công ty chứng khoán
Công bố thông tin định kỳ: tương tự công ti đại chúng
Công bố thông tin bất thường
Trong thời hạn 24 giờ:
- Quyết định khởi tố thành viên HĐQT hoặc HĐTV, Chủ tịch, GĐ (TGĐ),
Phó GĐ (Phó TGĐ), Kế toán trưởng.
- Thông qua hợp đồng sáp nhập với một công ty khác.
- Tổn thất từ 10% giá trị tài sản trở lên.
- Thay đổi thành viên HĐQT hoặc HĐTV, Chủ tịch, GĐ (TGĐ), Phó GĐ
(Phó TGĐ); Bổ nhiệm hay miễn nhiệm người điều hành quỹ đầu tư chứng
khoán.
- Thay đổi quan trọng trong hoạt động kinh doanh
Phương tiện công bố thông tin: ấn phẩm, website của công ty, và phương tiện của Ủy ban chứng khoán nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán
Công bố thông tin theo yêu cầu
Nội dung: Có thông tin ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư.
Thời hạn : trong vòng 24 giờ, kể từ khi nhận được yêu cầu của Ủy ban chứng khoán nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán
Phương tiện công bố thông tin: ấn phẩm, website của CTCK, CTQLQ, phương tiện thông tin đại chúng hoặc phương tiện công bố thông tin của Ủy ban chứng khoán nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán
Công ty quản lý quỹ
Công bố thông tin định kỳ : Về Báo cáo tài sản năm của quỹ (như Cty đại chúng); và thông tin định kỳ về quỹ.
Nội dung:
- BC tài sản của quỹ ĐC (tháng, quý, năm).
- BC thay đổi giá trị tài sản ròng của quỹ ĐC (tuần, tháng, quý, năm).
- BC tình hình và kết quả hoạt động đầu tư của quỹ ĐC (tháng, quý, năm).
Thời hạn:
- BC tuần: trong ngày làm việc đầu tiên của tuần tiếp theo.
- BC tháng: trong vòng 5 ngày kể từ ngày kết thúc tháng.
- BC quý: trong vòng 25 kể từ ngày kết thúc qu..
- BC năm: trong vòng 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm.
Phương tiện CBTT : ấn phẩm, website của công ty quản lí quỹ và phương
tiện CBTT của UBCKNN, SGDCK.
Công bố thông tin bất thường.
Trong thời hạn 24 giờ:
- Thông qua quyết định của Đại hội nhà đầu tư;
- Quyết định chào bán chứng chỉ quỹ đại chúng;
- Quỹ đại chúng được cấp Giấy chứng nhận đăng k. lập quỹ;
- Quyết định thay đổi vốn đầu tư của quỹ đại chúng;
- Bị thu hồi Giấy chứng nhận chào bán chứng chỉ quỹ đại chúng ra công
chúng;
- Bị đình chỉ, huỷ bỏ đợt chào bán chứng chỉ quỹ đại chúng;
- Sửa đổi, bổ sung Điều lệ, Bản cáo bạch quỹ đại chúng.
Phương tiện CBTT : ấn phẩm, website của công ty quản lí quỹ và phương
tiện CBTT của SGDCK.
Công bố thông tin theo yêu cầu.
Nội dung:
- Có tin đồn ảnh hưởng đến việc chào bán, giá chứng chỉ quỹ đại chúng;
- Có thay đổi bất thường về giá và khối lượng giao dịch chứng chỉ quỹ đại
chúng..
Thời hạn : trong vòng 24 giờ, kể từ khi nhận được yêu cầu của UBCKNN,
SGDCK.
Phương tiện CBTT : ấn phẩm, website của CTQLQ, phương tiện thông tin
đại chúng hoặc phương tiện CBTT của UBCKNN, SGDCK, TTGDCK.
Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng.
Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng thực hiện công bố thông tin tương
tự như quỹ đại chúng và tổ chức niêm yết
Thực trạng hệ thống thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Giao dịch nội gián
Giao dịch nội gián là khi một tổ chức hay cá nhân mua bán chứng khoán biết được thông tin nội bộ (xấu hoặc tốt) về doanh nghiệp phát hành có thể ảnh hưởng đến giá chứng khoán trong khi thông tin này chưa được công bố rộng rãi ra công chúng.hiện tượng giao dịch nội gián ngày càng phát triển tại thị trường chứng khoán Việt Nam. Điều này gây thiệt hại cho đông đảo nhà đầu tư cá nhân, những nhà đầu tư không quen biết.
Việc rò rỉ thông tin dẫn đến các giao dịch nội gián, đầu cơ là điều rất dễ xảy ra tại các trung tâm giao dịch chứng khoán Việt Nam với cách công bố thông tin hiện nay. Bởi theo qui định thì các công ty niêm yết phải chuyển các tài liệu, thông tin về Doanh Nghiệp mình đến trung tâm giao dịch chứng khoán để các trung tâm công bố. Khoảng thời gian từ lúc thông tin gửi về cho đến lúc được trung tâm giao dịch chứng khoán công bố có khi kéo dài đến 4-5 ngày. Với quãng thời gian như vậy, những người nắm được các thông tin này hoàn toàn có thể đặt những lệnh mua, bán cổ phiếu.. để kiếm lợi nhờ biết trước thông tin so với các nhà đầu tư khác. Thực chất, đấy chính là giao dịch nội gián.
Trong khi đó, nếu cho phép các công ty niêm yết công bố công khai các thông tin của doanh nghiệp mình trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các website công cộng đồng thời với việc chuyển thông tin về trung tâm giao dịch chứng khoán thì việc này hoàn toàn có thể khắc phục được.
Bất cân xứng thông tin trong thị trường chứng khoán
Định nghĩa
Thông tin không đối xứng hay còn gọi là không tin bất cân xứng là việc các bên tham gia trên thị trường cố tình che giấu thông tin. Khi đó, giá cả thị trường không phải là giá cân bằng mà thường cao hơn nhiều hoặc thâp hơn nhiều giá trị nội tại của nó. Ví dụ, khi người mua không có thông tin chính xác và đầy đủ và kịp thời thì thường không thể đưa giá cao cho chứng khoán, đẩy giá xuống thâp hơn giá trị thực của nó. Hậu quả, có thể là nhà cung cấp nãn lòng vì hàng hóa của mình bị đánh giá thấp nếu muốn tiếp tục kinh doanh thì phải hạ chi phí sản xuất và từ đó có thể dẩn đến chất lượng giảm
Các thông tin bất cân xứng này có thể xuất hiện do chính bản thân doanh nghiệp khi cố tình che giấu những thông tin xấu, thổi phồng các thông tin có lợi…doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng giữa những nhà đầu tư, doanh nghiệp sau khi phát hành cổ phiếu không chú trọng đến sản xuất kinh doanh mà tập trung vào việc làm giá trên TTCK, hoặc có thể do sự rò rỉ thông tin trong nội bộ. Hoặc có thể xảy ra do nguyên nhân bên ngoài, khi một số nhà đầu tư tạo cung ảo trên thị trường dẩn đến phản ánh sai lệch giá trị doanh nghiệp, một số kẻ xấu hay đối thủ cạnh tranh tung tin đồn thất thiệt về doanh nghiệp, các cơ quan truyền thông đưa ra những thông báo sai lệch, các trung tâm tài chính có kết quả tính toán không chính xác…
Với những thông tin bất cân xứng này nhà đầu tư rất dể đưa ra những quyết định kinh doanh sai lầm, dẩn đến thua lỗ không những vậy toàn tạo ra cung cầu ảo trên thị trường, bong bóng thị trường và tiềm ảnh nguy cơ sụp đổ thị trường.
Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng giống như bất cứ thị trường mới nổi nào thông tin bất cân xứng có ở mọi ngành, lĩnh vực.
Thứ nhất : Vì ngoài những thông tin bắt buộc phải cung cấp theo quy định của pháp luật thì các DN thường không chủ động cung cấp những thông tin liên quan đến DN khác, đặc biệt là những DN niêm yết trên thị trường phi tập trung (OTC) hầu như nhà đầu tư mù mờ về tình hình hoạt động kinh doanh cuả DN những thông tin có được thường từ những nguồn riêng, trên diển đàn hoặc tin đồn
Thứ hai: Có sự rò rỉ thông tin nội bộ chưa hoặc không được phép công khai. Sự rò rỉ thông tin xảy ra phổ biến trong công tác đấu giá cổ phiếu hiện nay. Và theo quy định của ủy ban chứng khoán thì chỉ cần cung cấp tổng số nhà đầu tư tham gia và tổng số cổ phiếu đặt mua. Trong khi những thông tin cần thiết khác như số lượng nhà đầu tư tổ chức, số tổ chức nước ngoài và khối lượng đặt mua của mỗi đối tượng lại không được công bốc cụ thể. Điều đáng nói ở đây là những thông tin này không được bảo mật chặt chẽ mà được cung cấp cho một số đối tượng có nhu cầu, những người này biết được cụ thể tổng cầu cổ phiếu trên thị trường cũng như số nhà thầu tham gia sẽ tính toán hợp lý được giá mà mình “bỏ thầu” từ đó nắm được lợi thế so với những nhà nhà đầu tư không có thông tin. Sự rò rỉ còn xảy ra ở những tuyên bố của Ủy ban chứng khoán khi tuyên bố một công ty X sẽ chia nhiều cổ tức hơn kì trước, chia cổ tức bằng cổ phiếu thường…dựa trên những quyết định của Hội đồng quản trị, thì một số người nhờ những mối quan hệ trước đó vài ngày đã biết được thông tin và tiến hành mua cổ phiếu của công ty X để chờ giá lên và hưởng lợi, đến khi những nhà đầu tư còn lại biết thì thông tin đã quá muộn.
Thứ ba : Việc cung cấp thông tin không công bằng giữa các nhà đầu tư. DN ưu tiên cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư tổ chức mà không công bố rộng rãi. Đến nay, một hiện tượng phổ biến là trong các cuộc đấu giá cổ phiếu người thắng cuộc thường là những nhà đầu tư tổ chức. loại trừ những tổ chức có kinh nghiệm đấu thầu, kĩ năng phân tích tốt cũng như vốn lớn thì không khỏi nghi ngờ những tổ chức khác có được sự hậu thuẩn của Dn với những thông tin chất lượng và kịp thời so với những nhà đầu tư cá thể
Thứ tư : hiện tượng lừa đảo. Nếu không kể đến các vụ làm giá của các đội lái thì hai chiêu lừa phổ biến trên thị trường chứng khoán là “ bán giấy ăn tiền” và “ lợi dụng tín dụng để huy động vốn rồi chiếm đoạt”.
Dạng lừa đảo đàu tiên chủ yếu diễn ra ở thị trường chưa niêm yết (OTC) nơi mà hoạt động mua bán chủ yếu dựa vào niềm tin của người mua, Đặc biệt là trong giai đoạn đầu bở ngở rất khó xác định chứng quyền trong tay là thật hay giả. Những vụ “ bán giấy ăn tiền này” xảy ra rầm rộ trong những năm 2006-2007 thời kỳ cực thịnh của thị trường OTC, nhiều công ty mà đặc biệt là những ngân hàng được thành lập, giá cả không ngừng biến động.
Trong dạng lừa đảo thứ hai, một số người lợi dụng lòng tin của nhà đầu tư để huy động vốn rồi chiếm đoạt. Điểm chung trong các vụ lừa này là nhân vật chính thường tự giới thiệu mình làm việc ở những vị trí uy tín hay là nhân vật có máu mặt trong giới kinh doanh tài chính. Huy động vốn để đầu tư, chia lời theo thỏa thuận là cách làm ăn phổ biến trên thị trường chứng khoán, phần lớn đều làm theo thỏa thuận nhưng cũng cõ trường hợp lợi dụng để chiếm đoạt vốn.
Điểm chung của hai hình thức lừa đảo trên là đánh vào sự tham lam, cả tin và thiếu hiểu biết của nhà đầu tư. Vì lợi trước mắt mà không thấy được những thủ thuật lừa đảo kín đáo.
Thứ năm : Tung tin đồn thất thiệt. nhiều tin đồn ảnh hưởng xấu đến uy tín của công ty niêm yết thường được đưa lên các diễn đàn chứng khoán, các sàn giao dịch, hoặc truyền miệng. Do nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm phân tích, kiểm chứng thông tin, đồng thời hệ thống thông tin của một số công ty còn yếu kém, chậm chạm dẩn đến có sự lệch lạc trong thông tin làm nhà đầu tư hoang mang, lo lắng ảnh hưởng đến làm giá cổ phiếu trên thị trường giảm.
Thứ sáu: Các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch, thiếu chính xác. Hiện tượng này không xảy ra nhiều nhưng cũng làm cho những nhà đầu tư chuyên nghiệp không máy tin tưởng vào các thông tin mà báo chí đưa ra.
Trên thị trường chứng khoán hiện tượng bất cân xứng xảy ra khi Doanh nghiệp che giấu các thông tin bất lợi, thổi phồng thông tin có lợi…, Doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng cho các nhà đầu tư; Doanh nghiệp sau khi phát hành cổ phiếu không tích cực đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà chỉ tập trung vào việc làm giá trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư không biết thông tin về cổ phiếu của các công ty khác nhau do đó có thể định giá cổ phiếu không chính xác hoặc mua phải cổ phiếu của công ty hoạt động kém, rủi ro cao. Thị trường chứng khoán không minh bạch thông tin hoặc thông tin không đầy đủ, nhà đầu tư thường có 3 khuynh hướng trả mức giá trung bình cho các loại chứng khoán khác nhau để phòng ngừa rủi ro, vì thế những công ty hoạt động kém nhưng biết cách “tiếp thị” sẽ sẵn sàng phát hành chứng khoán với mức giá trung bình mà nhà đầu tư muốn mua, trong khi những công ty hoạt động tốt đòi hỏi một mức giá cao thì có thể phát hành sẽ không thành công. Giao dịch chứng khoán trong điều kiện thị trường bất cân xứng thông tin, những người tham gia có thể đẩy thị trường đến một trạng thái lựa chọn đối nghịch, đó là việc mua chứng khoán của những công ty hoạt động kém và đẩy khỏi thị trường những chứng khoán chất lượng cao. Trong thực tế, những nhà đầu tư sẽ dần ý thức được khả năng lựa chọn đối nghịch bất lợi của mình nên sẽ không tiếp tục mua bất kỳ một loại chứng khoán nào nữa, trong khi đó những cổ phiếu tốt do bị trả giá thấp ngang bằng với giá của cổ phiếu trung bình nên cũng không bán ra nữa,… nếu những diễn biến trên xảy ra thì nhà đầu tư sẽ quay lưng với thị trường, thị trường chứng khoán sẽ mất tính thanh khoản và ngày càng bị thu hẹp, hàng hóa chỉ còn những loại chứng khoán chất lượng kém,và như vậy thị trường chứng khoán đã không làm tốt vai trò chu chuyển vốn cho nền kinh tế.
Thứ bảy: Nhiều công ty coi nhẹ việc công bố thông tin,và chất lượng thông tin không đảm bảo
Khi một số doanh nghiệp chưa làm tốt vấn đề minh bạch thông tin doanh nghiệp, dẫn đến xói mòn niềm tin của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp và thị trường chứng khoán. Rất nhiều doanh nghiệp không có chiến lược cụ thể, dài hạn cho việc công bố thông tin trong quá trình phát hành. Nhiều khi việc công bố đơn thuần nhằm mục đích đối phó với quy định phát luật.
Chất lượng thông tin nói chung vẫn chưa cao. Nhiều doanh nghiệp không có chiến lược cụ thể, dài hạn, công bố thông tin chỉ nhằm mục đích tuân thủ các tiêu chuẩn bắt buộc, không có nhiều doanh nghiệp có ý thức tự nguyện trong công bố thông tin và minh bạch hóa.Việc xét duyệt bản cáo bạch thường mang tính khách quan nhưng có rất nhiều yếu tố chủ quan trong đó. Theo quy định, sử dụng ngôn từ trong bản cáo bạch phải dễ hiểu và tránh gây hiểu lầm, nhưng thế nào là “dễ hiểu” thì còn nhiều tranh cãi. Nhiều khi cán bộ quản lý phát hành phải ngồi với bên tư vấn để tìm ra cách diễn đạt phù hợp. Bản cáo bạch của nhiều doanh nghiệp đáp ứng tối thiểu tiêu chuẩn pháp luật nhưng chưa có độ sâu về thông tin. Nhiều thông tin được công bố có thể mức độ chính xác không cao. Ví dụ trong rất nhiều bản cáo bạch có những thông tin như dự báo về kết quả kinh doanh, giá cổ phần... với phương pháp tính rất sơ sài, cách tính không chuẩn. Có trường hợp, công ty mỗi năm phát hành chứng khoán đến 2-3 lần, mỗi lần muốn phát hành lại gửi phiếu xin ý kiến cổ đông. Trong mỗi bộ hồ sơ đăng ký phát hành, Uỷ ban chứng khoán nhà nước nhận thấy chiến lược huy động vốn khác hẳn nhau, điều này chứng tỏ doanh nghiệp không có chiến lược vốn dài hạn. Đối với các công ty niêm yết, việc công bố thông tin hiện tại là tương đối tốt nhưng việc công bố thông tin của các công ty đại chúng chưa niêm yết vẫn còn nhiều vấn đề, nhiều công ty vẫn chưa có website, không gửi thông tin thường xuyên đến cơ quan quản lý.
Thứ tám: Một số nhà đầu tư làm ảo trên thị trường làm phản ánh sai lệch giá trị của doanh nghiệp. một số kẻ tung tin đồn xấu, tin đồn thất thiệt cho các doanh nghiệp, Các trung gian tài chính cung cấp, xử lý thông tin không chính xác làm cho giá cổ phiếu các doanh nghiệp thay đổi một cách chênh lệch so với giá trị thật của nó
Đóng góp cải thiện hệ thống thông tin thị trường chứng khoán Việt Nam
Kinh doanh chứng khoán, về thực chất là quá trình xử lý thông tin và ra quyết định. Vì vậy, việc xây dựng một hệ thống thông tin đầy đủ, tin cậy, dễ sử dụng và kịp thời là điều kiện tiên quyết để thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả. Thực tiễn hơn hai năm hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam đã bộc lộ rất nhiều yếu kém của hệ thống thông tin. Các nhà đầu tư không tin tưởng vào các thông tin trên thị trường vì có quá nhiều thông tin kém tin cậy, không trung thực, thiếu chính xác hoặc không cập nhật. Vì vậy cần phải học hỏi kinh nghiệm của thế giới cũng như kịp thời đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện, cải tiến hệ thống thông tin của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Hệ thống thông tin tại các sở giao dịch cần được hiện đại hóa ngay từ đầu, nhất là đối với các xử lý giao dịch trên sàn. Ngay từ khi mới bắt đầu đi vào giao dịch, thị trường chứng khoán nếu quá đơn giản trong trang thiết bị hệ thống xử lý giao dịch nhận lệnh, truyền lệnh, xử lý lệnh... thì các giao dịch rất chậm, người đầu tư thấy lãng phí thời gian nên không mặn mà ; hơn nữa, tình trạng thủ công còn nặng nề trong khi sự tiến bộ không ngừng của công nghệ thông tin trên thế giới nên vô hình trung rơi vào sự tụt hậu và lãng phí. Đối với Việt Nam, trong điều kiện thị trường chứng khoán phát triển muộn, tuy chúng ta có được lợi thế so sánh như chi phí cho hệ thống tự động hóa ngày càng có xu hướng giảm xuống, nhưng phải luôn chú ý đến vấn đề trang thiết bị phục vụ việc giao dịch tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán. Cần lập các bộ phận kỹ thuật và thông tin tại các sở chuyên đánh giá những công nghệ mới để đưa ra ứng dụng trên thị trường. Song, không chỉ vì hiện đại hóa thuần túy mà xây dựng hệ thống trang thiết bị quá cầu kỳ. Chúng ta cần chú ý đến trạng thái mở để khi khối lượng giao dịch tăng lên có thể nâng cấp, mở rộng công suất xử lý của hệ thống. Cách làm như vậy sẽ cho phép tiết kiệm được các chi phí ban đầu, đồng thời vẫn bảo đảm tính liên tục của hệ thống khi thị trường chứng khoán phát triển.
Nên có một chiến lược phát triển hệ thống thông tin từ phía Ủy ban Chứng khoán nhà nước. Bài học thực tế từ Thị trường chứng khoán Mỹ cho thấy, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Mỹ đã có chiến lược bao quát, theo sát thị trường với sự phát triển của công nghệ thông tin cùng các đạo luật chặt chẽ về quản lý thị trường, quy chế thông tin cho các thành viên thị trường. Vì vậy, hệ thống thông tin có sự thông suốt đồng bộ thông tin giữa các sở giao dịch và với toàn bộ thị trường, chất lượng thông tin đầu ra có độ tin cậy cao. Thị trường chứng khoán Trung Quốc lúc đầu được giao phó cho các sở giao dịch tự tổ chức Hệ thống thông tin của mình theo những quy chế của địa phương khác nhau nên chất lượng thông tin kém, hiệu quả hoạt động của thị trường thấp.
Cần chú ý đến vấn đề mạng truyền thông giữa các bộ phận thị trường. Thông tin trên thị trường chứng khoán cần phải thông suốt và có sự thống nhất. Nếu quan tâm đến vấn đề truyền tin đúng mức thì giữa các sở giao dịch cũng như các bộ phận thị trường thông tin đều đáp ứng được các nguyên tắc về độ tin cậy, kịp thời, chính xác, nhanh chóng và hiệu quả. Nếu mạng truyền thông không được chú trọng sẽ gây nên tình trạng lộn xộn thông tin, sai lệch thông tin.
Khuyến khích hoạt động của các hãng cung cấp thông tin chuyên nghiệp, nhất là khi Thị trường chứng khoán phát triển, có thị trường phi tập trung. Với đội ngũ các hãng thông tin chuyên nghiệp hùng hậu, nó sẽ cung cấp thông tin rất nhiều và phong phú cho các nhà đầu tư trên toàn thế giới. Khi đội ngũ thông tin chuyên nghiệp mỏng việc cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư trong nước sẽ kém, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến Thị trường chứng khoán, nhất là khi cần quan sát thị trường chứng khoán Việt Nam thông qua những kênh chuyên nghiệp cũng trở nên rất khó khăn. Vì thế điều đó sẽ trực tiếp hạn chế rất nhiều đến việc thu hút vốn của chúng ta. Do vậy, khi thị trường chứng khoán phát triển, nhất là khi chúng ta chuẩn bị để tiếp nhận nguồn vốn lớn của các nhà đầu tư nước ngoài thì càng phải khuyến khích các hãng cung cấp thông tin chuyên nghiệp có những đầu tư về thông tin chứng khoán. Ngoài ra các nhà đầu tư cũng chuyên nghiệp hơn trước và quan tâm nhiều hơn đến thông tin và dữ liệu tài chính, khi quy mô của thị trường tăng lên thì lượng thông tin cần xử lý cũng tăng lên gấp bội. Các nhà đầu tư, các tổ chức sẽ không thể tra cứu thông tin cũng như xử lý thông tin nhanh chóng và hiệu quả bằng các công cụ thủ công, vì như thế sẽ dẫn đến việc họ bỏ sót thông tin, xử lý thông tin không kịp thời và sai sót. Vì thế, chúng ta phải xây dựng các dịch vụ thông tin để cung cấp cho các nhà đầu tư một kênh thông tin tài chính-chứng khoán hữu hiệu cũng như các phương tiện khai thác thông tin tốt nhất, giúp họ đầu tư thành công
Bên cạnh các dịch vụ nâng cao dành cho các tổ chức như dịch vụ cung cấp dữ liệu tự động, dịch vụ cung cấp báo cáo đặc thù theo yêu cầu hay hệ thống máy tính và phần mềm đa tiện ích được thiết kế chuyên dụng nhằm cung cấp dịch vụ cho các tổ chức và nhà đâu tư chuyên nghiệp, chúng ta phải cung cấp các dịch vụ dành cho nhà đầu tư cá nhân. Theo đó, ngoài thông tin về diễn biến thị trường tại các Sở giao dịch, các báo cáo tài chính số hóa của các công ty niêm yết và bộ chỉ số tài chính đầy đủ, nhà đầu tư nên được cung cấp thêm nhiều công cụ hỗ trợ đầu tư chứng khoán như danh mục đầu tư, lọc cổ phiếu, phân tích kỹ thuật, theo dõi thị trường bằng bảng giá đa tiện ích, bản đồ thị trường, dự đoán index, dịch vụ cảnh báo thông tin, xem thông tin cổ phiếu trên điện thoại di động….
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần xây dựng các biện pháp mạnh hơn, hiệu quả hơn để xử lý các thông tin thất thiệt trên thị trường chứng khoán gây ảnh hưởng tâm lý nhà đầu tư và thị trường. xử lý nghiêm các vi phạm liên quan đến công bố thông tin của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần ban hành các quy chế công bố thông tin mới với nhiều quy định chặt chẽ hơn và tiếp cận gần hơn với các chuẩn mực quốc tế
Tài liệu tham khảo:
wGiáo trình Thị trường chứng khoán- 2010- PGS.TS Bùi Kim Yến
w
w
w
w
w
w
w
w
w
w
w
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận Hệ thống thông tin của thị trường chứng khoán, thực trạng ở Việt Nam.doc