Tiểu luận Khủng hoảng tiền tệ Mexico và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

1. Nguyên nhân chủ yếu của cuộc khủng hoảng tiền tệ Mexico 1994 là do vấn đề về quản lý kinh tế vĩ mô đã neo tỷ giá cố định trong một thời gian dài và để đồng tiền của nước mình được định giá quá cao so với giá trị thực của nó. Ngoài ra, việc ổn định chính trị cũng là một trong các yếu tố quan trọng tác động đến việc đồng tiền của một quốc gia có ổn định được hay không 2. Bài học kinh nghiệm được rút ra sau khi khủng hoảng tiền tệ Mexico 1994 kết thúc được đưa ra cho cả Chính phủ bài học cần phải quản lý kinh tế vĩ mô trên cở sở tất cả các mặt của nó trong đó cần đặc biệt chú trọng đến cán cân thương mại và vấn đề vể tỷ giá để có những biện pháp hợp lý để chủ động ứng phó với khủng hoảng tài chính tương tự có thể xảy ra.

pdf37 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5525 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khủng hoảng tiền tệ Mexico và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại rằng điều này có thể gây tổn thương cho khu vực ngân hàng còn non trẻ của đất nước và sợ rằng lãi suất cao có thể gây ra suy thoái kinh tế vào một năm có bầu cử tổng thống, nên chính phủ đã một mặt dùng dự trữ ngoại hối để chống lại xu hướng tăng lãi suất, một mặt tiến hành đổi các trái phiếu chính phủ từ định danh bằng peso sang định danh bằng dollar.  Một số học giả kinh tế đã cảnh báo về việc đồng peso được định giá quá cao so với dollar. Nhưng đồng thời cũng có ý kiến phản đối việc điều chỉnh tỷ giá vì lý do niềm tin của các nhà đầu tư chưa đủ mạnh để có thể không bị hoảng loạn khi tỷ giá thay đổi mạnh. Chính phủ Mexico chọn biện pháp vừa dùng dữ trữ ngoại hối để giữ ổn định tỷ giá, vừa từng bước nhỏ điều chỉnh tỷ giá.  Tháng 8, tổng thống Ernesto Zedillo nhậm chức phải đương đầu với nhiều khó khăn trong lĩnh vực kinh tế.Tuy nhiên ông vẫn duy trì các chính sách tài chính, tiền tệ như trước. 12  Cuối tháng 9, Tổng thư ký của đảng Institutional Revolution, José Francisco Ruiz Massieu bị ám sát. Cộng đồng thế giới cho rằng vụ ám sát này đã càn chứng tỏ tình hình chính trị tại Mexico rất bất ổn.Các nhà đầu tư thêm bất an.Một số các nhà đầu tư nước ngoài cùng các quỹ đã bắt đầu rút vốn khỏi Mexico.  Giữa tháng 10, Cục dữ trữ Liên bang Mỹ tuyên bố mặc dù lo ngại về mức dự trữ ngoại hối ít ỏi của Mexico, song Mexico không nên mong đợi chi viện của nước ngoài. Tâm lý của các nhà đầu tư càng trở nên bất ổn. Cũng trong thời gian đó, sau khi một số công ty lớn của Mexico công khai tình trạng lợi nhuận của mình giảm sút. Thị trường chứng khoán Mexico chao đảo. Áp lực mất giá peso càng tăng lên.  Tổng thống mới nhậm chức không muốn phá giá đồng peso trong suốt nhiệm kỳ của mình trừ khi việc phá giá này là không thể tránh được. Sự cố gắng duy trì đồng peso được định giá cao đã gây ra cho nền kinh tế Mexico nhiều vấn đề như nó đã không khuyến khích nước ngoài tiêu dùng hàng hóa của Mexico , trong khi người Mexico lại thích tiêu dùng các sản phẩm của nước ngoài. Điều này dẫn đến thâm hụt thương mại ngày càng trầm trọng. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư ở Mexico cũng nhận sự mất giá của đồng Peso nên đã bắt đầu chuyển việc nắm giữ các tài sản bằng đồng peso sang nắm giữ các tài sản bằng đồng dollar. Để giữ tỷ giá của đồng nội tệ, có một cách đó là dùng tiền nước ngoài để mua lại đồng nội tệ. Và hàng tỷ dollar trong quỹ dự trữ ngoại hối của Mexico đã được tung ra nhằm giữ giá đồng peso nhưng đã không thành công.  Cuối tháng 10, thống đốc ngân hàng trung ương Mexico công khai rằng dữ trữ ngoại hối của Mexico chỉ còn 17,12 tỷ dollar.  Ngày 20 tháng 12 năm 1994, trước áp lực phá giá đồng peso , tổng thống Mexicon Ernesto Zedillo đã phải phá giá đồng peso thêm 15% . Bên cạnh đó, chính phủ cũng đã can thiệp nhằm giảm tốc độ mất giá, song không có hiệu quả mà trái lại 13 làm cho quỹ dự trữ ngoại hối của Mexico ngày càng cạn kiệt. Đến ngày 22/12, chính phủ Mexico đã phải quyết định tuyên bố thả nổi đồng peso.  Quyết định này đã làm các nhà đầu tư mất hết lòng tin vào khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn (các khoản nợ nước ngoài nếu tính theo peso đã lớn lên gấp nhiều lần khi tỷ giá giữa peso và dollar tăng lên). Vì thế, các nhà đầu tư bán tháo các tài sản bằng đồng peso. Điều này làm cho đồng peso càng mất giá hơn nữa. Bên cạnh đó ,các khoản nợ nước ngoài đột nhiên tăng lên đã khiến bảng cân đối tài sản của các xí nghiệp và ngân hàng của Mexico xấu đi. Hậu quả là nền kinh tế Mexico rơi vào khủng hoảng thực sự 14 CHƯƠNG 2: NGUYÊN NHÂN CUỘC KHỦNG HOẢNG MEXICO 1994 Khủng hoảng tiền tệ ở Mexico bắt nguồn từ sự tác động lẫn nhau của các yếu tố kinh tế và chính trị. Trong suốt thời gian nắm quyền chính phủ của Salinas đã thực hiện việc cải tổ mở cửa nền kinh tế. Cùng với việc neo tỷ giá với đồng đôla Mỹ, Mexico đã thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài khổng lồ, và chính nguồn vốn này đã tài trợ cho việc nhập khẩu, làm cho tình hình thâm hụt cán cân vãng lai của Mexico càng trở nên tồi tệ hơn. Đến đầu năm 1994, khi một loạt các vụ scandal chính trị diễn ra đã làm cho các nhà đầu tư mất niềm tin vào sự ổn định của nền kinh tế nước này. Dự trữ ngoại hối của nước này giảm xuống nhanh chóng. Thời điểm đó, chính phủ Mexico đã nỗ lực hết sức để ngăn chặn sự suy giảm nghiêm trọng của dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, những chính sách kinh tế vĩ mô được áp dụng trong thời gian trước thềm cuộc bầu cử tổng thống lại không tương thích với chính sách tỷ giá và hơn thế nữa làm cho tình hình thâm hụt cán cân thương mại ngày càng xấu đi. Sau khi cuộc bầu cử diễn ra, một loạt các cú sốc về chính trị đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt rút vốn, dự trữ ngoại hối rơi xuống mức mà NHNN Mexico không đủ để can thiệp nhằm bình ổn tỷ giá. 2.1 Sự yếu kém nội tại của nền kinh tế Quá trình cải cách, mở cửa nền kinh tế của Mexico đã tạo nên một loạt thách thức mới cho chính phủ Salinas. Trong đó, sự gia tăng thâm hụt cán cân thương mại trở nên nổi cộm hơn bao giờ hết, đi cùng với đó là việc giảm tỷ lệ tiết kiệm của khu vực tư nhân. Việc quốc hữu hóa cũng khiến cho hệ thống ngân hàng của Mexico trở nên mong manh, mang đến sự hạn chế cho quá trình sử dụng chính sách tiền tệ để hỗ trợ đồng Peso và để giảm thâm hụt tài khoản vãng lai. 2.1.1 Thâm hụt cán cân thương mại kéo dài Chính phủ Salinas đã tiến hành kích thích tăng trưởng kinh tế và tăng sức cạnh tranh bằng cách khuyến khích thương mại và đầu tư quốc tế. Xuất khẩu hàng hóa của Mexico này đã tăng gần gấp đôi, từ $31 triệu trong năm 1986 đến $61 triệu trong năm 1994. Mexico cũng đã thu hút được những khoản vốn đầu tư nước ngoài rất quan trọng. Theo ngân hàng Trung ương Mexico, lượng vốn đầu tư nước ngoài thu hút được là 15 $102,8 triệu, trong đó $30,2 triệu là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mức độ đầu tư lớn này đã tạo nên sự tích lũy vốn đầu tư đáng kể trong nền kinh tế Mexico. Trong thời gian này dự trữ ngoại tệ tăng từ $6,4 triệu lên $24,5 triệu. Tuy nhiên, việc cải cách này cũng đòi hỏi sự mở cửa thị trường đối với các sản phẩm nước ngoài, trong năm 1990, tổng kim ngạch nhập khẩu của Mexico đã vượt quá kim ngạch xuất khẩu. Từ năm 1990 đến 1994, thâm hụt thương mại của Mexico tăng từ $1 triệu lên $18,5 triệu. Có thể nói, chính dòng vốn đầu tư nước ngoài đã làm tăng tiêu dùng tư nhân đối với các mặt hàng nhập khẩu. Do đó, thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai của Mexico đã tăng từ 1,4% GDP trong năm 1988 đến 7,7% GDP trong năm 1994. Bảng 1: Thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai của Mexico từ năm 1988-1994 Nguồn: Ngân hàng Trung ương Mexico 2.1.2 Tiết kiệm tư nhân giảm sút Khi các cải cách kinh tế diễn ra đầu những năm 90, người dân Mexico bắt đầu chuyển nhiều hơn thu nhập của họ từ tiết kiệm sang tiêu dùng. Theo dữ liệu của Ngân hàng Trung ương Mexico, tỷ lệ tiết kiệm của khu vực tư nhân năm 1989 vào khoảng 16% thì đến năm 1992 đã giảm xuống dưới 9% và đến năm 1994 chỉ tăng lên vào khoảng 12%. Lý giải cho tình trạng chuyển từ tiết kiệm sang tiêu dùng này là do nhu % so với GDP Tỷ USD % so với GDP Tỷ USD 16 cầu bị dồn nén sau nhiều năm khổ cực trong hầu hết thập kỷ 80 và sự hấp dẫn của những sản phẩm ngoại có giá thành rẻ hơn, xuất hiện ở Mexico khi nước này mở cửa thị trường. Sự giảm sút của tiết kiệm trong nước cũng được phản ánh thông qua nhu cầu nhập khẩu tăng lên. Điều này đã gây thêm áp lực lên tình trạng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Hơn nữa, nhập khẩu chủ yếu hướng vào tiêu dùng thay vì đầu tư, khiến cho mức thâm hụt tài khoản vãng lai trở nên kém bền vững hơn do ít có tiền đầu tư dành cho phát triển lâu dài hơn. Bảng 2: Tỷ lệ tiết kiệm/GDP Nguồn: Ngân hàng Trung ương Mexico 2.1.3 Sự lên giá của đồng Peso Như đã đề cập ở trên, trong giai đoạn từ 1988 đến 1994, chính phủ Mexico đã thực hiện neo tỷ giá của đồng peso với đôla Mỹ. Và việc neo tỷ giá này đã góp phần bình ổn nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài và kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, việc neo tỷ giá trong dài hạn sẽ dẫn đến việc lên giá của đồng peso, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu và làm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Một trong những lý do của việc đánh giá quá cao giá trị đồng peso chính là sự mất giá danh nghĩa được chính phủ Mexico cho phép trong giai đoạn này đã không đạt tới mức chênh lệch lạm phát giữa Mỹ và Mexico. Mặc dù tỷ lệ lạm phát của Mexico có giảm trong những năm này nhưng nó vẫn cao hơn tỷ lệ lạm phát của Mỹ. Do đó, tỷ giá đồng peso đối với đồng Tỷ lệ % Năm 17 đô la đã dần tăng trên thực tế dù về danh nghĩa đồng peso đã mất giá. Với đồng peso được định giá quá cao, người dân Mexico có nhu cầu nhập khẩu nhiều hơn lượng mà họ có thể chi trả. Trong khi đó, xuất khẩu lại bị tăng trưởng hạn chế do sự định giá cao này. Vì vậy, sự tăng giá trị không ngừng và sự định giá quá cao đối với đồng peso trong giai đoạn này đã dẫn đến tình trạng trầm trọng hơn của mức thâm hụt tài khoản hiện tại. Bảng 3: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa peso/đôla Mỹ từ 1988-1994 Bảng 4: Tỷ giá hối đoái thực peso/đôla Mỹ từ 1998-1994 Nguồn: Ngân hàng Trung ương Mexico Vào giữa năm 1994, hai nhà kinh tế đã cho rằng Mexico cần phải hành động để điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm bù đắp cho việc định giá quá cao đồng peso. Một lượng 18 phá giá giá hối đoái 20% có thể giảm thâm hụt tài khoản hiện tại xuống mức dễ quản lý hơn. Tuy nhiên, theo các quan chức bộ tài chính, quan điểm này không được nhiều nhà kinh tế khu vực tư nhân ủng hộ vì họ cho rằng chỉ cần có một sự điều chỉnh nhỏ về tỷ giá hối đoái. Các quan chức tài chính của Mexico giải thích họ không bị thuyết phục bởi việc đồng peso bị định giá quá cao vào thời điểm đó. Họ lấy dẫn chứng là tình hình xuất khẩu mạnh mẽ của Mexico và sự gia tăng năng suất. Vì thế, chính phủ Mexico đã không sẵn sàng cân nhắc đến việc kêu gọi phá giá tiền tệ. 2.1.4 Hệ thống ngân hàng còn sơ khai Kể từ sau cuộc quốc hữu hóa một loạt các ngân hàng vào năm 1982, hệ thống ngân hàng Mexico đã bộc lộ rất nhiều các yếu kém. Điều đầu tiên phải kể đến là việc quốc hữu hóa một số các ngân hàng đã làm giảm tính cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Hơn nữa, các ngân hàng Mexico chưa có được hệ thống các tiêu chí đánh giá độ tín nhiệm của khách hàng khi cung cấp các khoản vay. Đặc biệt khi cuộc bùng nổ tín dụng tiêu dùng kể từ sau 1989, vấn đề về đánh giá độ tín nhiệm này đã dẫn việc chồng chất các khoản tín dụng tiêu dùng quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng liên tục tăng từ tháng 12/1991 đến tháng 3/1994 từ mức 3,5% lên 8,5% (số liệu IMF). Chính sự gia tăng các khoản nợ quá hạn này đã làm cho tình hình bảng cân đối kế toán của các ngân hàng trở nên ngày càng tồi tệ hơn. Và một hệ thống ngân hàng bộc lộ nhiều điểm yếu kém như vậy chính là một yếu tố cản trở việc thực thi chính sách tiền tệ của NHTW một cách hiệu quả, nhằm mục tiêu giảm thâm hụt thương mại. 2.2 Bất ổn chính trị đầu năm 1994 gây nên lo lắng về sự ổn định của Mexico Trong khi toàn bộ nền kinh tế Mexico đang trải qua quá trình tái thiết lập bắt đầu từ cuối những năm 80 thì hệ thống chính trị tại quốc gia này không hề có sự chuyển biến. Tuy nhiên vào năm 1994, khi cuộc bầu cử tổng thống diễn ra thì chính phủ vấp phải sức ép lớn từ các phe đối lập trong việc thay đổi một số yếu tố liên quan giữa đảng cầm quyền và các đảng khác, nhằm thay đổi hệ thống bầu cử tại Mexico để đem lại một cuộc bầu cử thực sự công bằng. Đầu năm 1994 chiến tranh du kích nổi dậy tại các bang miền nam thuộc Chiapas bày tỏ sự bất bình của những người dân nông thôn nhằm yêu 19 cầu thực hiện một cuộc cải tổ cả hệ thống chính trị và xã hội. Với việc diễn ra cuộc nổi dậy của những người Chiapas, và 2 vụ bắt cóc quy mô lớn xảy ra chỉ trong vài tháng đầu năm 1994 đã dấy lên sự băn khoăn lo lắng cao độ của các nhà đầu tư về tình hình chính trị và sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế Mexico. 2.2.1 Sự điều hành cuộc bầu cử của Đảng cách mạng thể chế tại Mexico gây phản đối của các Đảng đối lập Một làn sóng ý kiến về cuộc bầu cử tổng thống tại Mexico lan rộng, hầu hết đều tập trung vào Đảng CM thể chế, một đảng nắm quyền tại Mexico đã hơn 60 năm, liệu có thể tiến hành một cuộc bầu cử thực sự công bằng. Các đảng đối lập cho rằng họ phải chịu quá nhiều tổn thất do sự lừa đảo sau khi tổng thống Salinas lên nắm quyền vào năm 1988, năm mà Đảng CM thể chế giành chiến thắng với số phiếu rất sít sao. 2.2.2 . Cuộc nổi loạn Chiapas gây tổn hại lớn tới hình ảnh của Mexico Vào ngày 1/1/1994, cuộc chiến tranh du kích có trang bị vũ khí của đội quân giải phóng mang tên Zapatista (EZLN) diễn ra và chiếm được vài thành phố tại bang miền Nam thuộc Chiapas của Mexico. Đội quân này yêu cầu một nền dân chủ thực sự và sự quan tâm cần thiết tới các vấn đề tồn tại của những người nông dân địa phương. Cuộc tấn công xảy ra đúng vào thời điểm mà hiệp định NAFTA đi vào có hiệu lực. Điều này đã giáng một đòn mạnh tới hình ảnh của Mexico, một quốc gia đang tiến hành hiện đại hóa với sự ổn định và hầu như không hề có xung đột và đang tìm kiếm con đường tham gia vào nền kinh tế thế giới bằng việc cải tổ nền kinh tế quốc gia và tham gia vào hiệp định NAFTA. Tuy nhiên chính phủ Mexico đã đáp lại bằng việc cử một đội quân liên bang tới Chiapas đàn áp cuộc nổi dậy trong khi vẫn tìm mọi cách đàm phán để đưa ra một thỏa thuận về cuộc xung đột này. Vào giữa tháng 1, Quốc hội Mexico thông qua luật về ân xá cho bất kì ai liên quan đến những hành động bạo lực tới thời điểm đó. Tổng thống Salinas ngay lập tức thay thế Bộ trưởng Bộ nội vụ, nguyên là thống đốc Chiapas bằng ông Jorge Carpizo, một nhân vật được xem là luôn bảo vệ cho quyền con người. Trước các động thái hòa giải, tổ chức EZLN ngay lập tức đưa ra sự đồng ý về các điều kiện với 20 chính phủ. Cả hai bên đều đồng ý ngừng chiến nhưng tình hình vẫn rất căng thẳng suốt thời gian sau đó. Vào 27/1/1994, hiệp ước về hòa bình công bằng và dân chủ được kí kết giữa chính phủ và 8 Đảng chính trị khác, nhằm nỗ lực giải quyết các vấn đề chính trị lớn hơn, bao gồm cả cải tổ lại chế độ bầu cử. Nhiệm vụ chủ yếu của quá trình cải tổ này đó là tạo ra một hệ thống quyền lực bầu cử độc lập và phân bổ đều tới tất cả các Đảng. Mỗi đảng được tiếp cận tới công chúng một cách công bằng và hợp lí hơn, và ngăn cấm việc sử dụng các nguồn lực công cộng để hỗ trợ cho quá trình tranh cử của bất kì đảng nào. 2.2.3 . Sự gia tăng lo lắng với những vụ bắt cóc quy mô lớn Sự lo lắng của các nhà đầu tư về tình hình bất ổn chính trị tại Mexico ngày càng gia tăng trong thời gian này do việc xảy ra vụ cóc 2 doanh nhân lớn. 14/3/1994, chủ tập đoàn ngân hàng lớn nhất Mexico (Banamex-Accival) bị bắt cóc và số tiền chuộc không được tiết lộ. Ngay sau tai nạn này thị trường chứng khoán Mexico giảm 81 điểm và có thông tin cho rằng vụ bắt cóc này có liên quan tới cuộc nổi dậy tại Chiapas và tổ chức nổi dậy đang thực hiện các động thái chính trị tiếp theo. Vị doanh nhân lớn này được trả về vào 28/6/1994 với số tiền chuộc vô cùng lớn. Vào 25/4/1994, một vị doanh nhân giàu có khác bị bắt cóc ngay tại thủ đô Mexico, buộc tổng thống Salinas phải lên tiếng trấn an dư luận và các nhà đầu tư bằng việc sẽ thành lập một ủy ban mới để kiểm soát sự an toàn của dân chúng. Và cuối cùng thì vị doanh nhân này cũng được phóng thích vào 5/8/1994. 2.2.4 Một loạt các sự kiện kinh tế - chính trị gây nên sự tháo vốn ồ ạt khỏi Mexico Thâm hụt cán cân vãng lai lớn đẩy nền kinh tế Mexico vào tình trạng mất cân đối khiến các nhà đầu tư lo lắng và buộc phải rút vốn về nước nhằm tránh rủi ro khủng hoảng. Cùng lúc đó thì một loạt các sự kiện chính trị vào đầu năm 1994 gây nên sự nghi ngờ về tính bất ổn của Mexico không chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn. Sự lo lắng lên tới đỉnh điểm khi ứng cử viên tổng thống của Đảng CM thể chế bị ám sát khi đang thực hiện vận động tranh cử tại Tijuana vào 23/3/1994. Ngay sau đó, Mexico phải chịu mất một lượng dự trữ ngoại hối rất lớn do Chính phủ sử dụng dự trữ ngoại hối để thực 21 hiện chiến dịch bình ổn tỷ giá trong thời gian ngắn nhằm đối phó với khủng hoảng và song song tìm kiếm các sự hỗ trợ từ phía các thành viên NAFTA. Chiến dịch này tuy thành công nhưng chỉ đem lại sự ổn định tạm thời cho nền kinh tế Mexico chứ không giải quyết được các bất ổn về chính trị trong nội tại quốc gia này. 2.2.5 Thị trường tài chính phản ứng bất lợi do vụ ám sát ứng cử viên tổng thống Colosio Việc ám sát một ứng cử viên tổng thống Colos io – một nhân vật tầm cỡ trong bộ máy chính phủ Mexico là chưa từng xảy ra trong lịch sử Mexico thời gian gần đây. Với cương vị là ứng cử viên của Đảng CM thể chế, Colos io luôn đứng đầu trong cuộc chạy đua vào chiếc ghế tổng thống và gần như nắm chắc phần thắng. Thị trường tài chính ngay lập tức phản ứng lại sau những vụ việc này. 24/3/1994, trước những lo lắng về sự mất giá của đồng Peso và giảm điểm liên tục của thị trường chứng khoán, Tổng thống Salinas buộc phải lên tiếng để trấn an dư luận. Các Ngân hàng, trung tâm ngoại hối, thị trường chứng khoán buộc phải đóng cửa trong ngày hôm đó. Và trong cùng ngày thì Cục dự trữ liên bang và kho bạc tuyên bố rằng họ luôn có sẵn một lượng lớn các tài sản trao đổi dự trữ. Tuy nhiên thì thị trường chứng khoán vẫn giảm 22 điểm vào ngày hôm sau và đã có một lượng vốn lớn bị rút ra khỏi Mexico, đồng thời chính phủ cũng mất một khoản dự trữ ngoại hối lớn. Đến 22/4/1994, gần 1 tháng sau vụ ám sát ứng cử viên tổng thống Colosio dự trữ ngoại hối của Mexico giảm xuống chỉ còn 10,8 tỷ USD. 2.3 Những mâu thuẫn trong các chính sách vĩ mô của Mexico Chính phủ Mexico không hề nhận ra điểm yếu cơ bản của nền kinh tế chính là sự mất cân bằng cán cân vãng lai với những biện pháp được thông qua sau vụ ám sát ứng cử viên tổng thống Colosio. Trong suốt thời kì trước cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 8, giới cầm quyền Mexico luôn cố để giữ đà tăng trưởng kinh tế bằng cách đẩy thêm áp lực lên sự thâm hụt của cán cân vãng lai. Và sự mâu thuẫn giữa các chính sách tiền tệ, tài chính và tỷ giá được đẩy lên ngày một rõ ràng. 2.3.1 Những nỗ lực của chính phủ nhằm đẩy mạnh kinh tế trước kì bầu cử tổng thống 22 Vào giữa năm 1994 khi kinh tế Mexico bước vào giai đoạn tăng trưởng, các Ngân hàng phát triển của Chính phủ phát hành ra thị trường các khoản tín dụng nhằm khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Đây chính là bằng chứng cho thấy thâm hụt cán cân vãng lai của Mexico đã tăng hơn so với năm 1993 trừ phi Chính phủ đã có những động thái nhằm giảm chi tiêu. Tuy nhiên theo chính quyền Mexico thì chính phủ khó có thể áp dụng biện pháp nào để vực lại nền kinh tế đang lâm vào khủng hoảng sau vụ việc của Zedillo chỉ 3 tháng trước cuộc bầu cử tổng thống. Hơn thế nữa tuyên bố của bộ tài chính và ngân hàng Mexico đã được đưa ra trước đó lại cho rằng với 1 kết quả thành công sau cuộc bầu cử tổng thống thì chính phủ Mexico rất tự tin để khơi lại dòng vốn chảy vào Mexico và cơ cấu lại thâm hụt cán cân vãng lai. Trong thời kỳ trước cuộc bầu cử diễn ra, giới cầm quyền Mexico đã thực hiện rất nhiều các chính sách tỷ giá, tài chính, tiền tệ nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên xét về tỷ giá thì không có động thái nào được đưa ra để kìm hãm lại sự tăng giá của đồng Peso. Trong khi đó, chính sách tiền tệ lại trở nên bành trướng và thông qua các phương tiện tài chính trung gian của Chính phủ - các ngân hàng phát triển hay các quỹ tín thác - để bơm thêm tín dụng vào nền kinh tế. Chính sách tiền tệ điều tiết sự mở rộng của nền kinh tế bằng cách giữ cho lãi suất thấp. Nhưng mặc dù lãi suất có tăng nhưng cũng không phải là lớn để Ngân hàng Mexico phải bảo vệ đồng Peso. Những chính sách này trở nên mâu thuẫn cùng với việc thâm hụt cán cân vãng lai gia tăng và các hành động trì hoãn trong việc định giá quá cao tiền tệ. 2.3.2 Không có sự điểu chỉnh trong chính sách tỷ giá Theo rất nhiều các nhà phân tích thì trong năm 1994 giới cầm quyền Mexico đã có thể giảm thâm hụt cán cân vãng lai bằng cách điều chỉnh tỷ giá. Các nhà phân tích cho rằng dù năng lực sản xuất có tăng nhưng Mexico đã mất khả năng cạnh tranh do việc định giá quá cao đồng tiền. Hơn thế nữa ngân hàng và bộ tài chính Mexico còn cho rằng chính do sản lượng xuất khẩu của Mexico vào năm 1994 nên việc các nhà phân tích đưa ra ý kiến về sự định giá quá cao đồng Peso là phóng đại sự thật. Hậu quả là đến 23 cuối năm 1994, động thái duy nhất của chính quyền Mexico là cho phép đồng Peso phá giá so với đồng USD với biên độ tối đa cho phép trong hệ thống tỷ giá đã thiết lập. 2.3.3 Chính sách tiền tệ khuyến khích sự mở rộng của nền kinh tế Một số nhà phân tích kinh tế khác cho rằng Mexico có thể theo đuổi 1 chính sách tài chính thắt chắt nhằm giảm thâm hụt cán cân thương mại vào năm 1994. Chính phủ có thể giảm chi tiêu, giảm các nhu cầu nội địa cũng như nhập khẩu để giảm bớt áp lực lên đồng Peso bằng cách tăng thuế, tăng tiết kiệm nội địa, giảm chi tiêu chính phủ. Mexico dù sao cũng đã từng trải qua nhiều năm khó khăn cắt giảm ngân sách, từ việc thâm hụt ngân sách liên bang tương đương 9,3% GDP vào năm 1988 cho tới thặng dư 0,7% vào năm 1993. Hơn thế nữa tổng nợ công của Mexico giảm từ gần 50% vào năm 1988 xuống còn 25% vào năm 1993. Để có được kết quả này, chính phủ Mexico cho rằng sẽ vô cùng khó khăn để theo đuổi thặng dư tài chính và chấp nhận 1 tỷ lệ thất nghiệp cao và tăng trưởng kinh tế thấp. Họ còn cho rằng những động thái như vậy sẽ tác động xấu tới tăng trưởng kinh tế và việc thay đổi theo chính sách này sẽ khó co khả năng hoàn thành trong năm bầu cử. Vậy là thay vì thực hiện một chính sách tài chính kiểm soát chặt hơn thì chính phủ Mexico lại tăng chi tiêu vào năm 1994. Các con số chi tiêu ở khu vực công cho thấy chính phủ chi tiêu để khuyến khích tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là khu vực năng lượng và xây dựng. Tổng chi ngân sach tăng 11,6% và theo Ngân hàng Mexico thì chi tiêu cho khu vực công phi tài chính chiếm 11% GDP. 2.3.4 Chính sách tiền tệ điều tiết tăng trưởng kinh tế Với mục đích giảm thâm hụt cán cân vào năm 1994, chính quyền Mexico đã có thể theo đuổi 1 chính sách tài chính thắt chặt có kiểm soát hơn như các nhà phân tích đưa ra. Ngân hàng Mexico công bố rằng họ theo đuổi chính sách tiền tệ không rộng mở và bằng chứng họ đưa ra là: (1) tăng trưởng trung bình khi so sánh với tăng trưởng GDP danh nghĩa, (2) lạm phát ở mức thấp so với tăng trưởng kinh tế, (3) tỷ lệ lãi suất cao trong hầu như cả năm và (4) ổn định dự trữ từ tháng 4 đến tháng 11. Thêm vào đó họ còn cho rằng chính sách tiền tệ là hoàn toàn ăn khớp với việc hỗ trợ chế độ tỷ giá và phù 24 hợp với sự ổn định chỉ số giá cả. Chính quyền khằng định rằng lạm phát năm 1994 chỉ là 7,4%, thấp nhất trong vòng 22 năm. Tuy nhiên 1 vài nhà phân tích thì cho rằng chính sách tiền tệ của Mexico 1994 đã điều tiết sự mở rộng kinh tế và không hoàn toàn phù hợp với chính sách tỷ giá của chính phủ. Như đã nêu ra ở trên, chính quyền Mexico thành công trong việc ổn định dự trự ngoại hối từ cuối tháng 4 cho tới giữa tháng 11 năm 1994. Tuy nhiên không thể coi là hiệu quả bởi chính sách tiền tệ thắt chặt mà nền kinh tế lại đòi hỏi 1 lãi suất đủ cao để thu hút và giữ chân các nhà đầu tư. Sau vụ ám sát ứng cử viên tổng thống, lãi suất tăng từ 9% lên 20% nhưng đến cuối tháng 4, lãi suất giảm chỉ nằm trong khoảng từ 15% đên 20% và giữ cho tới tháng 11. Và thay vì nâng lãi suất thì chính phủ lại thu hút các nhà đầu tư bằng cách đổi các khoản chứng khoán được định giá bằng đồng Peso sang USD. Và kết quả là lượng đầu tư vào tín phiếu kho bạc Mexico mệnh giá USD tăng từ 6,4% lên 70,2 % trên tổng đầu tư nước ngoài vào chứng khoán từ tháng 1 đến thang 11. Và lượng đầu tư vào tín phiếu mệnh giá Peso giảm từ 70,3% xuống còn 24,4%. Bằng việc chuyển đổi này, chính phủ Mexico đã tránh được việc trả lãi suất cao cho các nhà đầu tư và nhu cầu nắm giữ tài sản bằng đồng Peso. Tuy nhiên thì động thái lại không hề giảm thiểu được thâm hụt cán cân. Hơn thế nữa việc tăng số lượng các tín phiếu mệnh giá USD khiến nền kinh tế Mexico dễ bị tác động hơn bởi khủng hoảng tài chính bởi các nhà đầu tư đầu tư vào loại danh mục chứng khoán này vô cùng nhạy cảm với sự thay đổi rủi ro và lãi suất. Bởi loại chứng khoán này có thời hạn ngắn, có nghĩa nhà đầu tư nắm giữ không thể chuyển đổi sang dạng khác nếu nhận thấy rủi ro vỡ nợ của chính phủ gia tăng hay lợi nhuận cao hơn nếu chuyển đầu tư sang dạng khác. 2.3.5 . Sự ngập ngừng của chính phủ trong việc đối phó với khủng hoảng Tháng 4 năm 1994, 3 quốc gia Mỹ, Canada và Mexico đã lập ra Hội đồng cố vấn tài chính Bắc Mỹ bao gồm các thành viên là bộ trưởng bộ tài chính và NHTW của ba nước. Các thành viên của hội đồng này đã thông qua việc cấp khoản tín dụng ngắn hạn giúp Mexico vượt qua khủng hoảng, trong đó Mỹ sẽ tài trợ 6 tỷ USD, Canada tài trợ 1 tỷ đô la Canada. Đồng thời, NHTW Mexico đã quyết định nâng lãi suất của tín phiếu kho 25 bạc bằng đồng peso từ 9%/năm lên 18%/năm nhằm thu hút các nhà đầu tư, ngăn chặn sự rút vốn ồ ạt. Tuy nhiên, việc tăng lãi suất vẫn không làm cho tín phiếu kho bạc Mexico trở nên hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư. Họ kỳ vọng rằng trong tương lai đồng peso sẽ mất giá mạnh nên họ yêu cầu các tín phiếu kho bạc mới phát hành đem lại mức lại suất cao hơn. Trước tình hình đó, chính phủ Mexico có 3 lựa chọn: - Thứ nhất là: tăng lãi suất tín phiếu kho bạc - Thứ hai là: giảm chi tiêu công  giảm cầu về hàng hóa giảm nhập khẩu - Thứ ba là: phá giá đồng nội tệ Xét trên hoàn cảnh của chính phủ Mexico lúc đó, khi mà cuộc bầu cử tổng thống đang chuẩn bị diễn ra, nếu như tăng lãi suất hay giảm chi tiêu công sẽ gây ra ảnh hưởng xấu tới tăng trưởng kinh tế, làm mất niềm tin của nguời dân vào chính phủ. Và lựa chọn thứ 3, phá giá nội tệ cũng không khả thi. Lý do là vì nếu phá giá đồng peso sẽ phát tín hiệu cho các nàh đầu tư rằng peso không phải là một đồng tiền có giá trị ổn định, từ đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, việc duy trì một tỷ giá ổn định là nhân tố quan trọng quyết định sự ổn định về kinh tế xã hội trong dài hạn. Đồng thời, tỷ giá được giữ ổn định thì mới kiềm chế được lạm phát. Tuy nhiên, Chính phủ Mexico đã không áp dụng một giải pháp nào trong 3 giải pháp trên. Mùa xuân 1994, Mexico đã quyết định sử dụng một công cụ tài chính gọi là tesobono (một loại trái phiếu chính phủ nhưng được bảo hiểm do nó được đảm bảo bởi chỉ số dola-index., do đó các nhà đầu tư có thể chuyển rủi ro hối đoái sang cho chính phủ). Loại chứng khoán này đã thu hút được đông đảo các nhà đầu tư nước ngoài. Đây có thể là một dấu hiệu tốt vì như vậy chính phủ đã ngăn chặn được sự tháo vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong ngắn hạn. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nắm giữ các chứng khoán ngắn hạn này lại hết sức nhạy cảm với các biến động của lãi suất và rủi ro. Do đó, họ sẽ rất dễ bán các chứng khoán này khi rủi ro chính chị ở Mexico ra tăng hoặc là khi có sự chênh lệch giữa lãi suất ở một quốc gia khác so với ở Mexico. Trên thực tế, sau khi thực hiện việc phát hành lại chứng khoán Tesobono này, quỹ dự trữ ngoại hối của 26 Mexico đã ổn định trở lại mức 17 tỷ đô la Mỹ trong suốt khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 8, thời điểm kết thúc cuộc bầu cử tổng thống. Tuy nhiên, sau đó do lãi suất đồng peso giảm nên đã tác động làm cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài càng khó khăn hơn. Trong suốt quý 3 năm 1994, các dấu hiệu cho thấy sự không đồng bộ và bất hợp lý giữa các chính sách vĩ mô của chính phủ ngày càng trở nên rõ ràng hơn. Thâm hụt thương mại tiếp tục gia tăng trong suốt năm 1994. Có thể lý giải điều này là do sự mở rộng của chính sách tài khóa làm cho tăng nhu cầu nhập khẩu. Thêm vào đó, việc đồng peso bị định giá cao cũng đã làm cho nhập khẩu ra tăng. Bảng 5: Dự trữ ngoại hối của Mexico từ 7/1993 đến 12/1994 Được tài trợ bởi việc phát hành trái phiếu Tesobonos , quỹ dự trữ ngoại hối của Mexico đã được bình ổn trở lại. Tuy nhiên, đến giữa tháng 11/1994, chính phủ đã phải trích ngoại tệ từ quỹ ra để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của thị trường. Thêm vào đó, 15/11/1994, Cục dự trữ liên bang Mỹ quyết định nâng lãi suất cơ bản lên thêm 0.75% để làm tăng thêm tính hấp dẫn của trái phiếu chính phủ Mỹ đối với các nhà đầu tư. Sau đó vào cuối tháng 11 và đầu tháng 12, vụ xung đột vũ trang và vụ ám sát ứng cử viên hàng đầu của chức Tổng thống đã làm cho các nhà đầu tư e ngại về sự ổn định chính trị của quốc gia này. Thêm vào đó, 9/12/1994, chính quyền mới nhậm chức tuyên bố mức thâm hụt thương mại trong năm 1995 sẽ có thể cao hơn năm 1994 đã làm cho các nhà đầu tư càng 27 kém mặn mà với việc đầu tư vào Mexico. Hệ quả là hàng loạt các trái phiếu được bán ra trước khi đáo hạn, và quỹ dự trữ ngoai hối rơi xuống mức 10 triệu đô la Mỹ. trong khi đó, mức dư nợ của chính phủ Mexico đối với các trái phiếu Tesobonos lên tới 30 tỷ USD và tất cả sẽ đáo hạn vào năm 1995. Bất chấp tất cả những thực trạng trên, chính phủ Mexico vẫn tìm mọi cách để đảm bảo với các nhà đầu tư rằng nước này sẽ không phá giá tiền tệ. Ngày 20/12/1994, chính phủ nước này đã quyết định nới rộng biên độ giao động tỷ giá nhằm làm giảm bớt áp lực tỷ giá. Tuy nhiên, họ lại không đưa ra bất cứ môt chính sách tài chính tiền tệ nào khác chẳng hạn như nâng lãi suất. Và chính sự việc này đã làm cho dự trữ ngoại hối tiếp tục giảm đi 4 tỷ USD. Kết quả là, Mexico không còn đủ khả năng để can thiệp nhằm bình ổn tỷ giá. Họ buộc phải thả nổi tỷ giá vào 22/12/1994. 28 CHƯƠNG 3:BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ SAU KHỦNG HOẢNG CỦA MEXICO VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 3.1 Các biện pháp đối phó sau khủng hoảng của Mexico Nền tài chính thế giới đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính ở Mexico bắt đầu vào ngày 20/12/1994 khi nước này tuyên bố phá giá đồng Peso 40% so với USD. (Nếu trước ngày phá giá 1 USD bằng 3,46 Peso thì sau ngày phá giá 1 USD bằng 6 Peso, thậm chí có lúc 1 USD bằng 8 Peso). Nợ nước ngoài của Mexico vượt quá 200 tỷ USD, lạm phát ít nhất lên tới 60%, thất nghiệp từ 3,6% tăng lên xấp xỉ 10%. Tốc độ tăng trưởng năm 1995 là âm 6,2%. Khi đó chính quyền Mexico phải kêu gọi cộng đồng quốc tế giúp đỡ Mexico thoát khỏi cuộc khủng hoảng. Thách thức đối với chính sách kinh tế không chỉ để giảm thâm hụt tài khoản hiện tại bên ngoài mà còn để có biện pháp để ngăn chặn sự sụp đổ của ngành tài chính và sản xuất trong nước. Vì vậy, ngoài việc điều chỉnh tiền tệ tài chính, thông qua một tỷ giá hối đoái thả nổi, và những tiến bộ trong cải cách cơ cấu và tự do hoá thị trường, các nhà chức trách Mexico thương lượng một gói tài chính khẩn cấp với chính phủ Hoa Kỳ, IMF, Ngân hàng Thế giới, để tránh đình chỉ thanh toán các nghĩa vụ của bên ngoài đất nước. Gói tài chính này không những cần thiết để ngăn chặn cuộc khủng hoảng tại Mexico mà còn tránh cho khủng hoảng tràn qua các nước khác. Tuy nhiên cùng với việc chấp nhận gói tài chính cứu trợ khẩn cấp có điều kiện của IMF - Quỹ tiền tệ quốc tế và áp dụng các biện pháp giảm chi tiêu ngân sách, thắt chặt chính sách tiền tệ và đẩy nhanh cải cách cơ cấu kinh tế, từ giữa năm 1996 nền kinh tế Mêxicô đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và bắt đầu phục hồi. 3.1.1 Gói tài chính cứu trợ khẩn cấp Một thành phần quan trọng của các biện pháp ngắn hạn là giải cứu tài chính của các tổ chức đa phương, chính phủ Mỹ và Canada trong hai tháng đầu năm 1995. Nguồn lực của gói tài chính này gồm 20 tỷ USD của chính phủ Mỹ trong các hình thức trao đổi hoặc tín dụng trung và dài hạn được đảm bảo bởi quỹ Ổn định ngoại hối, 29 17,8 tỷ USD của IMF. Phần còn lại là của nguồn lực được cung cấp bởi chính phủ Canada, Ngân hàng thế giới. Chính phủ Mexico dùng quỹ này cho 2 mục đích cơ bản:  Tái tài trợ thương mại của các ngân hàng nước ngoài cho các khoản nợ: đầu năm 1993, mức độ thâm hụt tương đương 6,5% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Sự thâm hụt này chủ yếu được bù đắp bằng vay nợ ngắn hạn của nước ngoài. Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã kiến nghị chính phủ Mexico có các biện pháp giảm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, mức độ thâm hụt tiếp tục gia tăng trong năm 1994, lên tới 8% GDP. Biên pháp này cứu giúp được chính phủ từng vay mượn ngắn hạn quá nhiều (dưới hình thức các trái phiếu kho bạc) ra khỏi tình trạng phá sản.  Tăng dự trữ ngoại hối: trong năm 1994 xảy ra môt số sự việc trong chính phủ Mexico. Bắt đầu của cuộc nổi dậy Chiapas để phản ứng lại sự hình thành và hoạt động của tổ chức NAFTA đã khiến các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại đầu tư vào một thị trường bất ổn về chính trị như Mexico, kèm theo đó là những mâu thuẫn trong chính phủ dẫn đến quỹ dự trữ ngoại hối giảm 30 tỷ USD trong tháng 2 – 1994 xuống đến 17 tỷ USD trong tháng 4 và khoảng gần 12 tỷ USD trong đầu tháng 12. 3.1.2 Thay đổi trong chính sách tài khóa Nguồn tín dụng quốc tế đã đi kèm với điều kiện buộc Mexico phải chấp nhận một kế hoạch quản lý tài chính: kiểm soát tiền lương, tiết kiệm, và các chi tiêu công cộng và phải giảm mức thâm hụt tài khoản vãng lai. Ngoài các chế độ cải cách thương mại – tài chính, các nhà chức trách đã nghiêm túc lại trong việc thay đổi các chính sách của nền kinh tế. Giảm bớt vai trò của nhà nước, nâng cao vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế. Phạm vi cải cách bao gồm tư nhân hóa, loại bỏ những quy định, thay đổi sắp xếp các vùng nông thôn giảm đáng kể vai trò của nhà nước trong các hoạt động kinh tế. Để kiềm chế lạm phát, chính phủ đã ký một thỏa thuận với công đoàn và khu vực tư nhân trong tháng 1 – 1995. Giá cả được quản lý hạn chế tăng giá để điều chỉ bởi chí phí cao hơn nhập khẩu đầu vào. Thắt chặt chính sách tiền tệ và tài chính nhằm giảm thặng dư ngân sách. Do ban đầu ngân sách dự kiến cho năm 1995 được phê 30 duyệt vào tháng 12- 1994 trước thời kỳ khủng hoảng là 2,2% GDP, sau đó ngân sách điều chỉnh dự kiến thâm hụt lên mức 3,4% GDP trong năm 1995. Ngoài các chế độ cải cách thương mại – tài chính, các nhà chức trách đã nghiêm túc lại trong việc thay đổi các chính sách của nền kinh tế. Giảm bớt vai trò của nhà nước, nâng cao vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế. Phạm vi cải cách bao gồm tư nhân hóa, loại bỏ những quy định, thay đổi sắp xếp các vùng nông thôn giảm đáng kể vai trò của nhà nước trong các hoạt động kinh tế. 3.1.3 Thay đổi chính sách tiền tệ  Tỷ giá hối đoái thả nổi Giải pháp phá giá đồng nội tệ cũng đã giúp cân đối được thị trường nội địa, tăng thu từ thuế, gia tăng sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu, kìm hãm đà tăng giá cả hàng hóa và trở thành công thức tiêu biểu cho việc cắt giảm chi tiêu công. Tuy nhiên, mặt tiêu cực của nó là khiến gia tăng tỷ lệ lạm phát, giảm mức lương thực tế của người lao động (trong hai năm từ 1994-1996, mức lương đã giảm tới 20%). Song đó chỉ là những hiệu ứng phụ tạm thời bởi sau đợt suy thoái nghiêm trọng vào năm 1995 với GDP mất 6.2%, kinh tế Mexico đã hồi phục nhanh chóng và tăng trưởng lần lượt là 5% và 7% vào các năm 1996, 1997. Ngân khố quốc gia trở lại cân bằng, dự trữ ngoại tệ tăng nhanh, cán cân thanh toán vãng lai được cải thiện, thâm hụt rơi xuống mức có thể kiểm soát được (1.6% GDP). Và quan trọng nhất là chính phủ nước này đã tránh được một đợt tái cấu trúc nợ quốc gia tưởng chừng khó tránh khỏi trước đó nhờ sự trợ giúp của IMF và Mỹ.  Cho phép ngân hàng Trung Ương tận dụng sự linh hoạt của đồng tiền thả nổi Để điều chỉnh chính sách tiền tệ đáp ứng được nhu cầu trong nước. Đồng thời phải tiến hành cải tổ hệ thống tài chính ngân hàng, cải tiến chế độ giám sát hoạt động của ngân hàng nhằm chấm dứt thời gian cho vay không tính đến hiệu quả, không tính đến khả năng thu hồi vốn hoặc cho vay quá mức vào khu vực bất động sản vì đấy là nguyên nhân chủ yếu làm cho nợ khó đòi tăng nhanh và dẫn đến phá sản. 31  Tạm thời giữ lãi suất cao để kiềm chế lạm phát và giảm nhập khẩu. Chính phủ phải thực hiện một chiến dịch nhằm chống lại kim ngạch nhập khẩu tăng quá cao và bội chi ngân sách quá lớn như cắt giảm chi tiêu cho những dự án lớn phải nhập khẩu nhiều hoặc thậm chí tạm hoãn thi hành một số dự án khổng lồ có mức đầu tư quá lớn. Thúc đẩy xuất khẩu đồng thời tích cực thực hiện dự án vay tín dụng từ các tổ chức quốc tế để đáp ứng đầy đủ việc chi trả các khoản nợ nước ngoài đến hạn nhằm góp phần khôi phục lòng tin cho dân chúng. Ngoài ra để kiềm chế lạm phát, chính phủ đã ký một thỏa thuận với công đoàn và khu vực tư nhân trong tháng 1- 1995. Hàng hóa được quản lý hạn chế tăng giá. Thắt chặt chính sách tiền tệ và tài chính nhằm giảm thặng dư ngân sách. Do ban đầu ngân sách dự kiến cho năm 1995 được phê duyệt vào tháng 12- 1994 trước thời kỳ khủng hoảng là 2,2% GDP, sau đó ngân sách điều chỉnh dự kiến thâm hụt lên mức 3,4% GDP trong năm 1995. Dựa vào những biện pháp này cuộc khủng hoảng tài chính ở Mexico tưởng chừng không thể khắc phục được, vậy mà chỉ sau chưa đầy ba năm, cùng với các tín hiệu của thị trường tiêu thụ, tốc độ tăng trưởng của quí II năm 1997 đạt 8,8% (năm 1996 đạt 5,1%). 3.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Sau cuộc khủng hoảng nợ năm 1982, Mexico đã tiến hành một loạt cải cách giúp khôi phục nền kinh tế. Quá trình chuyển đổi cơ cấu và ổn định nền kinh tế vĩ mô ở Mexico bắt đầu đạt những thành tựu nổi bật vào những năm 1986, khiến cho các luồng vốn vào nước này tăng trưởng một cách nhanh chóng. Kinh tế tăng trưởng trở lại trong khi peso Mexico lại được neo vào dollar Mỹ đã dẫn tới hiện tượng Peso lên giá so với dollar. Đầu thập niên 1990, hiện tượng này diễn tiến nhanh chóng. Hậu quả là xuất khẩu của Mexico chịu ảnh hưởng bất lợi trong khi nhập khẩu được thúc đẩy. Điều này dẫn tới Mexico trở nên bị thâm hụt cán cân tài khỏan vãng la. Đầu năm 1993, mức độ thâm hụt tương đương 6,5% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Sự thâm hụt này chủ yếu được bù đắp bằng vay nợ ngắn hạn của nước ngoài. Một thời gian dài, lãi suất của Mexico cao hơn lãi suất của Mỹ. Kinh tế tăng trưởng mạnh, tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định, lãi 32 suất trong nước cao là những nhân tố thúc đẩy dòng vốn tư nhân nước ngoài đổ vào nền kinh tế Mexico. Riêng thời gian từ 1990 đến 1993, Mexico đã thu hút được 93 tỷ Dollar đầu tư nước ngoài, chiếm một nửa tổng đầu tư nước ngoài vào Mỹ Latin. Qũy tiền tệ Quốc tế đã kiến nghị chính phủ Mexico có các biện pháp giảm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, mức độ thâm hụt tiếp tục gia tăng trong năm 1994, lên tới 8% GDP. Bên cạnh đó, năm 1994 đã xảy ra hiện tượng lãi suất quốc tế tăng lên kích thích các nhà đầu tư điều chỉnh danh mục đầu tư của mình theo hướng giảm đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển. Nền kinh tế Mexico tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư, dẫn đến tình trạng rút vốn ồ ạt ra khỏi thị trường Thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng có nhiều nét tương đồng với Mexico vào những năm xảy ra khủng hoảng. Kể từ 2002, ở Việt Nam đã xuất hiện thâm hụt thương mại gia tăng mang tính chất hệ thống, đến nay đã đạt đến mức cao trong lịch sử. Thâm hụt thương mại mang tính cơ cấu là gánh nặng lớn đối với Cán cân Thanh toán (BOP) của quốc gia, và kết quả là cán cân vãng lai đã rơi vào tình trạng thâm hụt trong những năm gần đây. Bên cạnh thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách Nhà nước (NSNN) kéo dài trong nhiều năm cũng làm tăng thêm những rủi ro cho nền kinh tế, cả rủi ro tăng trưởng và mất ổn định kinh tế vĩ mô Bên cạnh đó, hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam còn yếu kém. Đó là sự thiếu phối hợp điều tiết giữa các cơ quan chức năng trong việc xử lý các vấn đề tài chính. Ngoài ra, cơ chế cảnh báo và giám sát hệ thống sớm cũng là một điểm yếu của hệ thống điều tiết hiện nay. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc quản lý các công ty tài chính có vốn nước ngoài và giám sát dòng vốn đầu tư trực tiếp. Ngoài ra thì đó còn là sự yếu kém trong quá trình theo dõi và giám sát, bao gồm tính thiếu minh bạch và chất lượng các báo cáo. Sự phát triển, đổi mới của hệ thống tài chính tạo ra những sản phẩm lai ghép, do đó, công tác giám sát cũng gặp khó khăn hơn. Sự không tương thích giữa các tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn thế giới trong việc giám sát dựa trên rủi ro đã góp phần làm bộc lộ tính yếu kém của công tác điều tiết và giám sát. Điều này khiến cho các nhà đầu tư gặp khó khăn khi tìm kiếm cơ hội đầu tư, và gây tâm lý hoang mang, không tin 33 tưởng, dễ dẫn đến tình trạng rút vốn ào ạt ra khỏi thị trường. Tác động thứ hai của sự yếu kém trong công tác điều tiết và giám sát là tạo ra các cơ hội cho sự đầu cơ ồ ạt, làm bóp méo thông tin thị trường 3.2.1 Cán cân vãng lai Nguyên nhân nội tại của khủng hoảng tiền tệ Mexico 1994 là việc Mexico đã duy trì 1 tỷ giá cố định trong thời gian quá dài dẫn tới hiện tượng Peso lên giá so với dollar. Hậu quả là xuất khẩu của Mexico chịu ảnh hưởng bất lợi. Điều này dẫn tới Mexico trở nên bị thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Đối với Việt Nam, thâm hụt cán cân vãng lai là vấn đề thâm niên. Mặc dù thâm hụt có thể được bù đắp đầy đủ bởi FDI, ODA và tiền chuyển về của Việt Kiều, nhưng mức thâm hụt này là khá lớn. Đã đến lúc Việt Nam phải tái cấu trúc nền kinh tế để giải quyết vấn đề nhập siêu và có tốc độ tăng trưởng bền vững hơn. Nên Việt Nam phải tăng cường tính hiệu quả của các dự án đầu tư sử dụng ngoại tệ để có thể tạo ra thu nhập ngoại tệ và tiết kiệm ngoại tệ. Đặc biệt là các dự án FDI hướng về xuất khẩu thường hiệu quả, và có thể giúp hình thành “cụm” các nhà cung cấp nội địa, từ đó nâng cao hơn nữa lợi thế cạnh tranh thúc đẩy ngoại thương phát triển. 3.2.2 Cân đối kinh tế vĩ mô Khủng hoảng tiền tệ cũng nhắc nhở Việt Nam về việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và tăng cường thắt chặt hoạt động tài khóa để giảm bớt nợ công không thật sự cần thiết. Việc vay mượn luồng vốn từ nước ngoài hoặc từ các tổ chức để phát triển kinh tế thiếu kiểm soát sẽ dẫn đến bùng nổ kinh tế ảo và xảy ra lạm phát. Việt Nam cần áp dụng thêm kỷ luật tài khóa nhất là trong bối cảnh thất thu kép càng ngày càng lớn cho các cán cân tài khóa và ngoại thương. 3.2.3 Chế độ tỷ giá Đặc điểm chung của nền kinh tế Mexico và các nền kinh tế châu Á trong đó có Việt Nam là việc sử dụng tỷ giá cố định. Việc neo tỷ giá này rất khó chống lại các cuộc đầu cơ tỷ giá, đặc biệt là đối với những nước có hệ thống tài chính yếu. Việc tăng lãi 34 suất nhằm chống đỡ cho tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng tiêu cực tới hệ thống tài chính, thậm chí có thể gây ra một cuộc khủng hoảng trong khu vực. Hơn nữa, việc neo tỷ giá cố định có thể gây ra biến dạng trong hệ thống tài chính. Việc cố định tỷ giá được coi là sự bảo đảm ngầm rằng sẽ không có gì thay đổi trong giá trị của tiền tệ sẽ khuyến khích cho các nhà đầu tư vay ngoại tệ và kinh doanh các ngành tài chính chịu rủi ro tỷ giá cao. Tại Mexico, việc đánh giá tỷ giá thực, tốc độ phát triển của nợ ngắn hạn bên ngoài và việc thâm hụt tài khoản vãng lai cùng với sự yếu kém của hệ thống tài chính đã tạo áp lực mạnh mẽ lên thị trường ngoại hối. Áp lực này đã khiến cho Mexico phải bỏ tỷ giá cố định và chấp nhận tỷ giá thả nổi. Tương tự như vậy, khi thị trường bắt đầu đặt câu hỏi về tính bền vững của tỷ giá hối đoái ở Việt Nam, áp lực đầu cơ tăng lên khi nhận thấy nợ nước ngoài tăng, thâm hụt cán cân vãng lai lớn. Bên cạnh đó, việc yếu kém trong việc giám sát hoạt động tài chính cũng như những khó khăn trong môi trường chính trị cũng khiến cho việc đầu cơ gia tăng mạnh mẽ trên thị trường hối đoái 3.2.4 Yếu kém trong quản lý và hiện tượng đầu cơ Nổi bật là bài học về nguy cơ khủng hoảng bắt nguồn từ quản lý yếu kém và hiện tượng đầu cơ. Bài học này đặc biệt có ý nghĩa đối với nước đang phát triển như Việt Nam, nơi mà nền kinh tế đã và đang hội nhập đáng kể với thế giới trong thập niên vừa qua. Hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, các nước đang phát triển như Việt Nam nỗ lực thu hút ngày càng lớn vốn đầu tư từ các nước đã phát triển. Trong các hình thức đầu tư nước ngoài, đầu tư tài chính (đầu tư vào các sản phẩm tài chính thuần túy) đang chiếm tỷ lệ ngày càng lớn, do sự phát triển nhanh của thị trường chứng khoán Việt Nam trong những năm gần đây. Lợi ích cụ thể của đầu tư tài chính được lí giải thông qua tác động “đòn bẩy” hay “cấp số nhân”, nhằm bù vào thâm hụt trong dự trữ và thương mại của các nền kinh tế đang phát triển. Tuy nhiên, việc sử dụng những tác động này, nếu thất bại, sẽ dẫn đến tăng trưởng bong bóng của nền kinh tế và hậu quả là dẫn tới khủng hoảng 35 Cụ thể là, phần lớn các nhà quan sát cho rằng những yếu kém trong quản lý thị trường vốn và các khoản vay ngân hàng là nguyên nhân dẫn tới bùng nổ về tín dụng. Vì vậy, bài học cho Việt Nam là phải xây dựng được một hệ thống quản lý đủ tinh vi để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực trên, đảm bảo sự phát triển ổn định của hệ thống tài chính. Điều này không có nghĩa hạn chế đầu tư nước ngoài mà để quản lý tốt hơn các nguồn vay bên ngoài, đặc biệt là các nguồn vay chưa phân tán rủi ro, nhằm giảm thiểu những khoản nợ không có khả năng thu hồi trong tương lai . Do đặc trưng của hình thức đầu tư tài chính là nhà đầu tư có thể rút vốn dễ dàng, vào giữa năm 1994, các nhà đầu tư nước ngoài đã rút vốn ồ ạt của họ từ Mexico và trực tiếp gây ra khủng hoảng tài chính ở nước này. Vì vậy, Việt Nam hiện nay cần tiến tới xây dựng một hạ tầng tài chính đủ vững vàng để ổn định trước những thay đổi trong nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và biến động trên thị trường tài chính thế giới. Bênn cạnh đó, các nhà quản lý tài chính cần có những qui định phù hợp để buộc những nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư lớn tham gia giải quyết hậu quả (trong trường hợp xảy ra khủng hoảng). Vì, thực tế từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mexico (cũng như các cuộc khủng hoảng tài chính trước đó) cho thấy những nhà đầu tư này thường tìm cách tháo chạy với rất ít trách nhiệm đối với nước nhận vốn đầu tư, mặc dù, chính sự rút vốn bất ngờ và ồ ạt của họ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng ở các nước này. 3.2.5 . Minh bạch hóa mọi thông tin tài chính tiền tệ Một điểm đáng lưu ý nữa là đã có không ít những nhà kinh tế và tài chính đánh giá rằng chính sự “hoang mang” của các nhà đầu tư đã dẫn tới sự rút vốn ồ ạt từ nền kinh tế Mexico vào năm 1994 và gây nên sự sụp đổ trong hệ thống tài chính ở nước này. Hiện tượng này bắt nguồn từ sự thiếu minh bạch trong các hoạt động tài chính và được xem là ngày càng trở nên phổ biến trong nền kinh tế hiện đại. Kết quả là thâm hụt ngân sách và nợ công chúng lớn trong khủng hoảng tiền tệ ở Mexico năm 1994. Vì vậy, việc minh bạch hóa thông tin là rất cần thiết, không chỉ để bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư mà còn để tránh hiện tượng đầu cơ, do đó, đảm bảo sự ổn định của các nguồn đầu tư này cũng như bảo vệ quyền lợi của đại chúng. 36 Đối với Việt Nam, minh bạch hóa thông tin cần được thực hiện thông qua việc khuyến khích phân đoạn thị trường, cụ thể là sự hình thành của các trung gian tài chính độc lập để đánh giá một cách khách quan hoạt động của các chủ thể tài chính, đặc biệt là các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, những thị trường không chính thức (như OTC) cần được quản lý chặt chẽ hơn để tránh hiện tượng đầu cơ do thiếu thông tin hoặc đưa ra những thông tin sai lệch từ đó tránh gây “hoang mang” và nản lòng các nhà đầu tư. Tuy nhiên, một nét khác biệt đặc thù của nền kinh tế Việt Nam (so với nhiều nền kinh tế khác trong khu vực) làm cho việc thực hiện minh bạch hóa các thông tin tài chính trở nên khó khăn là do hầu hết các giao dịch được thực hiện bằng tiền mặt (do nhiều lý do nhưng chủ yếu vẫn là do thói quen lâu đời của người dân). Điều này đã và đang làm sai lệch các dấu hiệu của thị trường, từ đó gây khó khăn cho chính sách quản lý. Vì vậy, để giảm dần nền kinh tế tiền mặt này không chỉ cần những biện pháp tuyên truyền mà quan trọng hơn nữa là những ràng buộc về tính pháp lý của các giao dịch thông qua hình thức chuyển khoản. 37 KẾT LUẬN Khủng hoảng tiền tệ là một trong những hình thái khủng hoảng nghiêm trọng nhất đối với nền kinh tế thế giới nói chung và với mỗi quốc gia nói riêng. Nó làm suy yếu nền kinh tế, gây ra những hậu quả nặng nề về nhiều mặt với nhiều ngành nghề đặc biệt là các ngành tài chính ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm. Qua bài tiểu luận này, nhóm nghiên cứu đã rút ra được một số kết luận sau 1. Nguyên nhân chủ yếu của cuộc khủng hoảng tiền tệ Mexico 1994 là do vấn đề về quản lý kinh tế vĩ mô đã neo tỷ giá cố định trong một thời gian dài và để đồng tiền của nước mình được định giá quá cao so với giá trị thực của nó. Ngoài ra, việc ổn định chính trị cũng là một trong các yếu tố quan trọng tác động đến việc đồng tiền của một quốc gia có ổn định được hay không 2. Bài học kinh nghiệm được rút ra sau khi khủng hoảng tiền tệ Mexico 1994 kết thúc được đưa ra cho cả Chính phủ bài học cần phải quản lý kinh tế vĩ mô trên cở sở tất cả các mặt của nó trong đó cần đặc biệt chú trọng đến cán cân thương mại và vấn đề vể tỷ giá để có những biện pháp hợp lý để chủ động ứng phó với khủng hoảng tài chính tương tự có thể xảy ra. 38 DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Mexico Financial Cirsis, (1996), Report to the chairman, Committee on Banking and Financial Services House of Representatives 2. The Mexcian Peso Crisis: The Forseeable and the Surprise, (6/1995), Nora Lustic Senior Fellow Brookings Ins titution 3. Fiscal Implication of Mexico’s 1994 Banking Crisis and Buyout, Grabriela Nava- Campos Northwestern University 4. The Mexican Peso Crisis, (1995), Joseph A.Whitt 5. Fiscal Decentralization in Mexico: The Baiout problem, (4/2002), Inter American Development Bank

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_8_tcqt_3131.pdf
Luận văn liên quan