Đã có 7/11 xã thí điểm đạt được 10 tiêu chí trở lên; trong đó có 3 xã đạt 14/19 tiêu chí trở lên. Có 3 xã đạt từ 8-10 tiêu chí. Riêng xã Thanh Chăn (Điện Biên) tuy là xã khó khăn nhất, nhưng đã đạt 7/19 tiêu chí.
Về xây dựng cơ sở hạ tầng, đây là việc thu hút sự quan tâm nhiều nhất của cán bộ và người dân. Sau gần 2 năm triển khai, đã có khoảng 2/3 số các công trình hạ tầng (theo tiêu chí) được triển khai. Đến nay đã hoàn thành cơ bản gần 300 hạng mục công trình, trong đó nhiều nhất là giao thông, thủy lợi, nước sạch (chiếm khoảng 40% tổng kinh phí); tiếp đến là chuẩn hóa lớp học, trạm y tế, vệ sinh môi trường nông thôn (chiếm khoảng 30% kinh phí).
36 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3010 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận kinh nghiệm phát triển nông thôn của Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có văn kiện quy định cụ thể hơn về hệ thống chính sách với vấn đề tam nông. Tuy chính sách tam nông được cụ thể hóa từ năm 1997 nhưng trên thực tế vấn đề tam nông đã tồn tại và phát triển từ năm 1949, khi nhà nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời.
Cải cách ở nông thôn diễn ra sôi nổi từ khi thực hiện chính sách khoán hộ. Tuy nhiên, chính sách này đã bộc lộ nhiều bất cập, “cơ chế khoán” dẫn đến người dân phải đóng góp quá nhiều. Đến năm 1997, nhiều địa phương có hiện tượng phổ biến lao động nông nghiệp bỏ đồng ruộng đi ra thành thị. Trung ương đã có những chính sách mới để góp phần giảm nhẹ đóng góp cho nông dân và ổn định tình hình.
Nông thôn mới xã hội chủ nghĩa” là một khái niệm được Trung ương Đảng cộng sản và Quốc vụ viện (Chính phủ) Trung Quốc nêu rõ trong “bản tài liệu số 1” được công bố tháng 3.2006. Đây cũng là nhiệm vụ chính của kế hoạch năm năm 2006 – 2010 của Trung Quốc với phương châm “cho nhiều, lấy ít, nuôi sống
Nhà nước Trung Quốc có những giải pháp cụ thể nào?
Nhà nước Trung Quốc đã đầu tư, hỗ trợ cho tam nông với tổng số tiền hơn 700 triệu NDT. Mặc dù có thay đổi diện mạo, cũng như mức sống nhưng so với đời sống nông dân Anh, Mỹ thì vẫn còn thấp. Chính phủ đã đề ra chiến lược đến năm 2020, thu nhập của nông dân Trung Quốc sẽ tăng gấp hai lần so với năm 2008 (năm 2008, thu nhập bình quân là 5.000 NDT/người/năm). Ngoài ra, đến năm 2020 sẽ bình đẳng về y tế, giáo dục, dưỡng lão trên phạm vi toàn quốc.
Hiện nay, đối với vấn đề tam nông, nhà nước ít khi dùng chỉ thị mà chuyển sang thương lượng dân chủ để nông thôn phát triển tuỳ theo khả năng và đặc điểm riêng, nhà nước chỉ hỗ trợ bằng các dự án. Trong kế hoạch năm năm, có đề ra bảy nhiệm vụ chính để tăng lợi nhuận cho nông dân và 32 biện pháp có lợi cho nông dân để phát triển nông nghiệp hiện đại. hơn vào nông nghiệp, ngân sách cho phát triển nô
Có thể điểm qua một số nội dung chính của các giải pháp đó là: nhà nước đầu tư nhiều ng thôn tăng lên. Sự phân phối thu nhập quốc dân sẽ được điều chỉnh để cho việc tiêu thụ thuế, đầu tư ngân sách, tài sản cố định và tín dụng sẽ tăng cho nông nghiệp và nông thôn. Phần lớn trái phiếu, vốn ngân sách sẽ đi về phát triển nông thôn. Đặc biệt, đầu tư để cải tiến sản xuất và điều kiện sống sẽ trở thành một luồng ổn định để tăng vốn cho xây dựng. Phí thu từ sử dụng đất sẽ được dùng chủ yếu vào các dự án phát triển đất nông nghiệp nhỏ và bảo vệ tài nguyên nước. Chính phủ sẽ ưu tiên xây dựng các cơ sở hạ tầng cấp thiết cho đời sống nông dân. Nếu giải quyết những vấn đề này triệt để thì chất lượng sống giữa nông thôn và thành thị không khác nhau là mấy…
Nội dung
Về cơ sở hạ tầng. Thuế vào việc sử dụng đất canh tác sẽ tăng lên và nhiều thứ thuế mới sẽ được áp dụng trong phát triển nông thôn. Sẽ có các quy định để bảo đảm và điều tiết thu nhập thuế đất cho việc phát triển đất nông nghiệp. Phí thu từ sử dụng đất sẽ được dùng chủ yếu vào các dự án phát triển đất nông nghiệp nhỏ và bảo vệ nước.
Chính phủ sẽ ưu tiên xây dựng các hạ tầng cơ sở cần cấp thiết cho đời sống nông dân. Chương trình nước sạch sẽ được thực hiện nhanh hơn, trước hết ở các vùng nước bị ô nhiễm. Năng lượng sạch sẽ được áp dụng rộng rãi. Mạng lưới điện nông thôn sẽ được nâng cấp. Xây dựng đường nông thôn sẽ được xúc tiến.
Về chính sách. Hệ thống hỗ trợ nông nghiệp và nông dân sẽ được bảo đảm và củng cố bằng cách tăng hỗ trợ trực tiếp. Hỗ trợ trực tiếp cho sản xuất lương thực ở các vùng trồng lương thực sẽ được tăng lên 50 % của quỹ rủi ro lương thực vì đây là công cụ quan trọng nhất để giữ giá lương thực. Ngoài ra còn hỗ trợ cho việc mua hạt giống chất lượng cao và máy nông nghiệp. Cần xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh cung cấp vật tư và bảo vệ thị trường để bảo đảm quyền lợi cho nông dân sản xuất lương thực. Cần có biện pháp để liên tục có thể làm tăng thu nhập của nông dân vì đây là cơ sở kinh tế của nông thôn mới. Việc chuyển lao động nông thôn cũng được chú ý. Phải dỡ bỏ các rào cản của việc di cư của lao động nông nghiệp đến thị trường lao đông đô thị. Dần dần xây dựng bảo hiểm xã hội cho lao động di cư. Bảo hiểm lao động phải bao gồm cả lao động di cư. Phải nghiên cứu bảo hiểm xã hôi cho lao động di cư.
Về giáo dục nông thôn. Chính phủ sẽ cố gắng để áp dụng giáo dục bắt buộc 9 năm cho học sinh nông thôn và giảm dần gánh nặng giáo dục. Học sinh ở miền tây được miễn học phí. Từ năm 2006. Con em các gia đình nghèo sẽ được phát sách giao khoa miễn phí và được phụ cấp ăn ở. Từ 2008 sẽ mở rộng ra cho tất cả các vùng nông thôn. Nhà nước sẽ đầu tư nâng cấp các trường nông thôn. Nông dân phải được đào tạo để nâng cao trình độ kỹ thuật và quản lý kinh tế. Phải tiếp tục đào tạo nông dân ở nông thôn và cả nông dân di cư ra đô thị. Một cơ chế đào tạo hướng thị trường sẽ được xây dựng.
Về bảo hiểm xã hội . Chính phủ sẽ xây dung hợp tác xã chăm sóc y tế với sự hỗ trợ của ngân sách và sẽ mở rộng năm 2008. Nhà nước sẽ đầu tư nâng cấp cơ sử hạ tầng y tế ở nông thôn. Bảo hiểm xã hội ở nông thôn sẽ được phát triển dần. Chương trình kế hoạch hoá gia đình sẽ được phát triển. Sẽ tăng trợ cấp khó khăn cho nông thôn.
Về cải cách tài chính. Khoảng 10 biện pháp cải cách tài chính được nêu ra. Phải xây dựng các thể chế tài chính cộng đồng, có kiểm soát bhặt chẽ. Các tổ chức tài chính phải dành một tỷ lệ vốn mới cho kinh tế nông thôn. Sẽ thí nghiệm bảo hiểm nông thôn. Phải mở rộng tín dụng có thế chấp cho hộ nông dân và doanh nghiệp.
Về chức năng chính phủ. Chính quyền cấp xã sẽ được phát triển để tạo điều kiện cho việc đầu tư, sản xuất. Cải tiến chế độ thuế ở nông thôn. Đặt tài chính của các huyện dưới sự kiểm soát của chính quyền huyện.
Về môi trường. Cần chú ý hơn vào quy hoạch làng và khu dân cư. Hiện nay có nhu cầu phải quy hoạch lại nông thôn để xây dựng một xã hội khá giả. Phải bảo vệ đất xây dựng ở nông thôn. Nhà nước sẽ giúp nông dân miễn phí trong việc bố trí lại nhà cửa.
Bảo đảm quyền lợi cho nông dân ra đô thị làm thuê. Hiện nay ở nông thôn TQ có 320 triệu lao động nông nghiệp, trồng trọt cần 150 tiệu, các ngành nông nghiệp khác cần 20 triệu, còn thừa 150 triệu. Tiền do lao động làm thuê ở đô thị rất quan trọng đối với thu nhập ở nông thôn. Chính phủ đã giao cho các bộ giải quyết các vấn đề hợp đồng lao động, mức lương, môi trường lao động, giáo dục của con em họ, bảo hiẻm y tế cho lao động ra đô thị.
Để thực hiện nhiệm vụ này, phải chú ý đến cả tình hình hiện tại lẫn lợi ích lâu dài, đặt kế hoạch toàn bộ một cách khoa học, củng cố lãnh đạo và thực hiện. Nhấn mạnh hiện nay và trong tương lai gần sự giải phóng và phát triển năng suất, nắm vững các nhân tố chìa khoá hạn chế phát triển nông nghiệp và nông thôn và dùng các biện pháp để củng cố hạ tầng cơ sở nông thôn, tăng nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật, thay đổi phương thức tăng trưởng nông nghiệp và cải tiến khả năng sản xuất hạt lương thực và đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hiện đại. Phải nhấn mạnh nhiệm vụ trung tâm là tăng thu nhập nông dân, phát triển tăng trưởng nông nghiệp đến tiềm năng cao nhất, mở nhiều các luồng để chuyển lao động dư thừa ở nông thôn và tạo thành một cơ chế lâu dài. Phải đẩy mạnh dân chủ cơ sở và việc tự quản trong làng. Chúng ta phải hoàn thành hệ thống kế toán mở, phổ biến luật giáo dục và bảo đảm cho quần chúng nâng cao quyền làm chủ đất nước. Chúng ta phải phát triển văn hoá và đạo đức XHCN, thúc đẩy việc phát triển giáo dục, khoa học, văn hoá và y tế ở nông thôn, ủng hộ cách sống lành mạnh và văn minh và gây dựng kiểu nông dân mới. Phải tăng cường quản lý xã hội và dịch vụ công cọng ở nông thôn, đặc biệt giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của nông dân, cải tiến sản xuất và điều kiện sống và giải quyết các khó khăn để xây dung. Phải nhấn mạnh nền kinh tế thị trường XHCN, ổn định và hoàn thành hệ thống các hoạt động cơ bản và thúc đẩy các cải cách ở nông thôn bằng cách tôn trọng các sự sáng tạo của nông dân để cải tiến sức sống của phát triển nông nghiệp và nông thôn. Phải thử sử dụng nhiệt tình và tính cần cù của nông dân, sự hỗ trợ của nhà nước và sự tham gia của các lực lượng xã hội để cải tiến bộ mặt của nông thôn. Phải sử dụng chức năng lãnh đạo của tổ chức Đảng cơ sở để cung cấp sự bảo đảm về chính trị cho việc xây dung nông thôn XHCN mới.
Đảng và chính phủ TQ đã đặt ra một vấn đề rất quan trọng là muốn giải quyết một cách cơ bản vần đề Tam nông phải thay đổi quan niệm trị lý (governance) và chiến lược quốc gia để phối hợp sự phát triển kinh tế và xã hội. Việc cải cách thuế và một số chính sách chỉ là những biện pháp tình thế không có tác dụng lâu dài. Động cơ đàng sau phát triển nông nghiệp và việc kích thích sáng kiến của nông dân phải xuất phát từ cải cách và tăng thu nhập của nông dân phải là kết quả của cải cách. Nông nghiệp và phát triển nông thôn TQ đang ở trong một thời kỳ khó khăn và sản xuất lương thực và thu nhập của nông dân chưa có một cơ sở vững chắc. Mặc dù cải cách đã đạt được những thành tích to lớn nhưng những rào cản về thể chế cản trở việc phát triển nông nghiệp và nông thôn chưa được dỡ bỏ. Để củng cố và giữ vững tình hình tốt ở nông thôn phải đẩy sâu cải cách và phát huy nhiều sáng kiến trong thực tế và cơ chế.
Việc cải cách thuế nông thôn
TQ bắt đầu thực hiện cải cách thuế nông thôn từ năm 2000. Từ nhiều loại thuế và phí đã quy định ở nông thôn chỉ còn ba loại thuế và phí: thuế nông nghiệp, phí hành chính và phí thực hiện các công việc chung. Tiếp theo năm 2004 đã có một quyết định thực hiện việc giảm thuế nông nghiệp và thí điểm bỏ thuế nông nghiệp ở các vùng sản xuất lương thực chủ yếu. (vùng Đông bắc và 10 tỉnh khác). Việc thiếu hụt ngân sách địa phương do việc giảm bỏ thuế được trung ương bù. Kết quả là cuối năm 1994, 22 tỉnh gỡ loại bỏ thuế nông nghiệp cho 150 triệu nông dân và ở các vùng khác đã giảm thuế ở các mức khác nhau; 26,8 ngàn tỷ nguyên được giảm cho nông dân và 3,3 ngàn tỷ được giảm từ các nông sản đặc biệt trừ thuốc lá, tổng cộng đã vượt 30 ngàn tỷ. Cải cách thuế đã giảm bình quân 30 % gánh nặng cho nông dân.
Các cải cách phụ kèm theo cải cách thuế.
Cải cách từng bước chính quyền cấp thị và xã .Các thị và xã cần phải được xác định lại tuỳ theo quy mô và phát triển kinh tế. Tổ chức của chính quyền cần được quy định lại để giảm biên chế và chi tiêu. Mục đích của cải cách cấp cơ sở còn là tăng cường việc cung cấp dịch vụ công cho nhân dân.
Trong quá trình cải cách đã có nhiều lần thay đổi tổ chức bộ máy chính quyền cơ sở, xu hướng chung là biên chế ngày càng tăng. Năm 2002 số công chức ở cấp huyện và thị là 19,07 triệu, chiếm 64,5 % của cả nước ( 57,9 % ở cấp huyện và 6,6 % ở cấp thị).
Ngay từ khi bắt đầu triển khai thực hiện chính sách tam nông , nông thôn Trung Quốc đã và đang có sự đổi mới sâu sắc và biến đổi mới mẻ. Tính đến 14-3-2006, chính sách cải cách nông thôn đã được Quốc hội thông qua, theo đó tăng 14,2% chi tiêu để tăng cường phát triển khu vực nông thôn. Điều này có nghĩa chính phủ đã chi 42 tỉ USD để xây dựng các vùng "nông thôn xã hội chủ nghĩa" và cải thiện tình cảnh nghèo khổ của 745 triệu nông dân ở các miền quê. Kể từ tháng 1/2007, Chính phủ Trung Quốc bắt đầu tiến hành một loạt biện pháp nhằm triển khai công cuộc xây dựng nông thôn XHCN mới. Trong đó nông dân là chủ đề then chốt của "Tam nông". Chỉ riêng đối với chính sách này ngân sách Trung ương dành hỗ trợ các dự án “Tam nông ” không ngừng tăng, năm nay đạt 3917 tỷ NDT (tương đương 861.7 nghìn tỷ đồng). Cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn (NNNT) không ngừng cải thiện, các hạng mục xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa đã đạt được những bước đột phá quan trọng.
Theo thống kê, từ tháng 1/2007, Trung Quốc đã bắt đầu tiến hành một loạt biện pháp nhằm triển khai công cuộc xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa nhằm nhanh chóng cải thiện môi trường sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn, cũng như thay đổi phương thức sản xuất nông nghiệp lạc hậu truyền thống bằng phương thức sản xuất hiện đại và hiệu quả cao. Chính phủ Trung Quốc đã và đang khuyến khích nông dân và chính quyền địa phương đầu tư vào nông nghiệp. Đồng thời có các chính sách ưu đãi cho đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, cải tiến hiệu quả vốn nước ngoài trong nông nghiệp, tăng cường tái sử dụng tài nguyên, quy định việc khai thác các nguồn tài nguyên chưa tái chế, giảm thiểu thất thoát trong sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh chương trình giảm nghèo. Ngoài ra, còn tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng ở nông thôn, đầu tư các khoản cho vay tín dụng vào sản xuất nông nghiệp . Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào cho rằng: “để triển khai chính sách phát triển nông thôn phải nắm chắc sản xuất nông nghiệp bởi vấn đề lương thực liên quan tới quốc kế dân sinh, liên quan tới phát triển kinh tế, cũng như ổn định xã hội”. Do đó, các cấp, các ngành cần phải thực hiện tốt những chủ trương, chính sách của Trung ương nhằm khuyến khích người nông dân phát triển sản xuất lương thực. Bên cạnh đó cũng cần phổ biến những giống lúa mới, cây trồng tốt, canh tác tiên tiến tới từng người dân. Tiếp đến là ban hành các biện pháp kiểm soát giá cả đầu vào, đặc biệt là phân bón, buộc chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm về việc thỏa mãn yêu cầu đầu vào của nông nghiệp và duy trì giá đầu vào ổn định. Sau đó là đưa khoa học công nghệ vào nông nghiệp, xây dựng và phát triển mạnh các học viện nghiên cứu về nông nghiệp. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào khẳng định, không thể buông lỏng việc đẩy mạnh phát triển nông thôn, phải kiên định con đường hiện đại hoá nông nghiệp mang đặc sắc Trung Quốc.
Những thành tựu của Trung Quốc trong lĩnh vực "Tam nông" vừa được Liên hợp quốc đánh giá cao - công tác xoá đói, giảm nghèo của Trung Quốc đã góp phần cho việc thực hiện mục tiêu Thiên niên kỷ mà Liên hợp quốc đã đề ra. Liên hợp quốc cho rằng, nếu không có sự đóng góp tích cực của Trung Quốc thì thế giới sẽ không thể thực hiện được mục tiêu xoá đói, giảm nghèo bởi đây là vấn đề quan trọng nhất trong mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Cũng trong chuyến công tác tại Hà Nam, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã tới thăm một trường chuyên dạy các em câm điếc ở thành phố Trịnh Châu. Ông còn dự một tiết lên lớp của những học sinh đặc biệt này để tìm hiểu thực tế công việc của các thầy cô, cũng như các cháu học sinh. Tình hình học tập cũng như đời sống của các cháu học sinh vùng nông thôn ở Hà Nam được ông Hồ Cẩm Đào đặc biệt quan tâm trong chuyến công tác lần này. Giới chuyên môn cho rằng, trong quá trình thực hiện chính sách phát triển nông thôn, việc áp dụng chính sách miễn toàn bộ học phí cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 9 trên phạm vi cả nước từ năm học 2008 cũng được coi là một trong những biện pháp giúp người nông dân thoát nghèo, đổi mới cuộc sống. Với chính sách này, học sinh từ lớp 1 đến lớp 9 được miễn tất cả các khoản đóng góp, chi phí như học phí, nội trú, điện, nước, đồng phục... Số học sinh là con em gia đình lao động nhập cư có thu nhập thấp được cấp sách giáo khoa miễn phí, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn khi ở nội trú được hưởng chính sách trợ cấp sinh hoạt phí hàng tháng. Ngoài ra chính sách được sinh viên Trung Quốc xuất thân từ nông thôn quan tâm nhất hiện nay là giúp những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn chi trả khoản vay khi còn theo học đại học nếu họ nhận công tác tại những vùng sâu, vùng xa và kém phát triển. Đây được coi là chính sách vừa khuyến khích, động viên, giúp đỡ những sinh viên nghèo, vừa tạo công ăn việc làm cho số sinh viên ra trường. Những chính sách này không chỉ tạo điều kiện cho tang cường công tác đào tạo mà còn có tác dụng xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế nông thôn.
Theo chủ trương của chính sách, không chỉ tập trung vào xóa đói giảm nghèo ở nông thôn mà còn cần chú ý vào nhiều vấn đề khác trong kinh tế nông thôn và nông dân nông thôn như : cơ chế việc làm, điều tiết lao động nông nhàn, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, phát triển đô thị nông thôn, cải cách chế độ hộ tịch, phát triển văn hóa giáo dục ở nông thôn, không ngừng nâng cao trình độ cho nông dân. Ngoài ra, còn đẩy nhanh đổi mới nông thôn, rút ngắn khoảng cách về giáo dục, y tế và an sinh xã hội giữa nông thôn và thành thị. Có chính sách phù hợp nhằm thu hút trí thức trẻ về nông thôn, đồng thời chuyển dịch cơ cấu lao động một cách hài hòa.
Sức khỏe của người nông dân cũng được chú trọng thông qua chương trình “hợp tác khám chữa bệnh”. Mô hình này chủ yếu áp dụng cho những người nông dân ở nông thôn, điều kiện cuộc sống khó khăn và cũng đã đem lại hiệu quả rõ rệt ngay trong những ngày đầu thực hiện chính sách. Tính đến cuối tháng 6 /2007, toàn quốc có 720 triệu nông dân tham gia mô hình nông thôn hợp tác khám chữa bệnh, tình trạng nông dân “khám bệnh khó khăn, thuốc chữa bệnh đắt” dần được giải quyết.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào từng nhấn mạnh, việc điều tiết vĩ mô, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân - "Tam nông" có một ý nghĩa vô cùng trọng đại đối với công cuộc cải cách mở cửa, hướng ra thế giới của Trung Quốc. Với diện tích rộng 9,6 triệu km2, chiếm gần 25% diện tích châu Á và gần 1/14 diện tích thế giới, cùng hơn 1,3 tỷ dân, do đó sự thành bại của vấn đề "Tam nông", quốc gia có tỷ lệ nông dân lớn nhất thế giới (gần 800 triệu người) luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Chính phủ.
Một số chính sách đã được triển khai và mang lại kết quả đáng kể:
- Xoá bỏ thuế nông nghiệp, chấm dứt lịch sử người nông dân làm ruộng mà phải nộp thuế. Sản lượng lương thực tăng liên tục trong 4 năm liền, đến năm 2007 đạt trên 500 triệu tấn. Với việc xoá bỏ thuế nông nghiệp, gồm cả thuế chăn nuôi, thuế đặc sản, mỗi năm đã giảm nhẹ gánh nặng đóng góp cho nông dân 133,5 tỷ nhân dân tệ (NDT).
- Toàn diện thực hiện giáo dục nghĩa vụ (9 năm) miễn phí: Không phải nộp học phí, không phải mua sách giáo khoa. 150 triệu học sinh của những gia đình khó khăn được trợ cấp sinh hoạt phí toàn phần hoặc một phần. Cơ bản giải quyết được nạn tráng niên bị mù chữ tại miền Tây.
- Thành lập được bước đầu hệ thống y tế công và hệ thống dịch vụ khám chữa bệnh cơ bản khắp nông thôn. Cải tạo và xây dựng mới 188.000 trạm y tế hương, trấn, trang bị thêm thiết bị y tế cho 117.000 trạm y tế hương, trấn… Điều kiện khám chữa bệnh ở nông thôn được cải thiện rõ rệt. Chế độ hợp tác chữa bệnh kiểu mới ở nông thôn được xác lập, đã mở rộng tới 87% huyện với 730 triệu nông dân tham gia.
- Hệ thống dịch vụ văn hoá công nông thôn bước đầu hoàn thiện.
- Hỗ trợ việc học nghề cho các tầng lớp thu nhập thấp trong toàn xã hội 66,6 tỷ NDT trong 5 năm tài chính của chính quyền trung ương, trong đó, phần đáng kể dành cho nông dân. Trung bình mỗi năm giúp 8 triệu lao động nông thôn có việc làm.
- Thành lập chế độ bảo đảm mức sinh hoạt thấp nhất ở nông thôn từ năm 2007. Hơn 35,5 triệu nông dân được đưa vào phạm vi bảo hiểm này.
- Cấp cho “tam nông” 1.600 tỷ NDT trong 5 năm tài chính của chính quyền trung ương, trong đó dùng cho xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn là gần 300 tỷ NDT. Xây mới và cải tạo 1,3 triệu km đường nông thôn, giải quyết cho 97,48 triệu cư dân nông thôn gặp khó khăn trong việc cung cấp nước uống và nước uống không an toàn. Tuy vậy, năm 2008 vẫn còn phải giải quyết vấn đề nước uống an toàn cho 32 triệu nông dân. Cải tạo hơn 22.000 trường tiểu học và trung học nông thôn không an toàn. Từ những chính sách đó, tam nông Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Thành tựu “tam nông” ở Trung Quốc
Ở Trung Quốc, chính sách “Tam nông” bước vào giai đoạn phát triển nhất trong lịch sử, sản xuất lương thực tăng hàng năm, thu nhập của nông dân tăng, nông thôn phát triển toàn diện. Ngân sách Trung ương dành hỗ trợ các dự án “Tam nông” không ngừng tăng, năm nay đạt 3917 tỷ NDT. Cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn (NNNT) không ngừng cải thiện, các hạng mục xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa đã đạt được những bước đột phá quan trọng.
Sáu tháng đầu năm nay, thu nhập bình quân của nông dân đạt 2.111 NDT (tương đương 4,640.000 VNĐ) tăng 13.3% so với cùng kỳ năm ngoái, tăng nhanh nhất trong những năm từ 1995 đến nay. Ba năm liên tiếp mức tăng trưởng thu nhập của nông dân đạt trên 6%. So với cùng thời kỳ, kết cấu sản xuất nông nghiệp không ngừng tối ưu hoá các cây có hiệu quả kinh tế cao như bông, đường, dầu, hoa quả... phát triển ổn định, tốc độ phát triển ngành chăn nuôi, ngư nghiệp tăng rõ rệt.
Thực tế ngân sách Trung ương dành hỗ trợ các dự án “Tam nông” không ngừng tăng, năm nay đạt 3917 tỷ NDT. Cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn không ngừng cải thiện, các hạng mục xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa đã đạt được các bước đột phá như:
- Sản nghiệp hoá nông nghiệp đạt được những bước tiến mới, bùng nổ phát triển tổ chức hợp tác nông dân chuyên sâu, thúc đẩy phát triển theo cách “nhất thôn nhất phẩm” (mỗi thôn một sản phẩm). Đến cuối năm 2006, toàn quốc có khoảng 154.842 doanh nghiệp kinh doanh nông sản, kéo theo sự phát triển của 90.980.000 hộ sản xuất. Các tổ chức sản nghiệp hoá kéo theo sự phát triển của 1300.000.000 mẫu diện tích trồng cây các loại, 95.700.000 mẫu chăn nuôi thuỷ hải sản và chăn nuôi 14.600.000.000 vật nuôi. Cả nước có 150.000 tổ chức hợp tác kinh tế nông nghiệp chuyên nghiệp.
- An toàn chất lượng nông sản không ngừng được nâng cao. Tư tưởng tiêu chuẩn hoá ngành nông nghiệp hiện đại đã đi vào tiềm thức của người dân lao động. Trước mắt đã xây dựng được 4139 khu nông nghiệp tiêu chuẩn hoá cấp tỉnh và quốc gia, từ các khu mẫu mở rộng diện tích đạt trên 500.000.000 mẫu, cố gắng tăng tính ổn định có hiệu quả chiếm hữu thị trường thương hiệu sản phẩm.
- Môi trường nông dân vào thành phố kiếm việc không ngừng được cải thiện, thu nhập của lực lượng lao động nông thôn khi ra ngoài làm tiếp tục tăng. Năm 2006, bình quân thu nhập mỗi tháng của người lao động nông thôn ra thành phố kiếm việc là 958 nhân dân tệ (2.100.000 đồng), tăng 103 NDT (230.000 đồng), tăng trưởng 121% so với năm ngoái.
- Cho đến cuối tháng 6 năm 2009, toàn quốc có 720 triệu nông dân tham gia mô hình nông thôn hợp tác khám chữa bệnh, tình trạng nông dân “khám bệnh khó khăn, thuốc chữa bệnh đắt” dần được giải quyết; chế độ bảo đảm mức sống thấp nhất của nông thôn thôn đã được làm cho 20.680 ngàn người; nghĩa vụ giáo dục “lưỡng miễn nhất bổ” (chính sách của Chính phủ Trung Quốc đối với các học sinh gia đình kinh tế khó khăn cung cấp miễn phí sách vở, miễn các khoản tạp phí, trợ cấp tiền sinh hoạt phí cho các sinh viên ở nội trú), năm nay chính phủ đã chung sức gánh vác trách nhiệm cho 1.500 triệu gia đình có con đang học tiểu học, trung học.
Giải quyết được vấn đề lương thực cho 1,3 tỉ dân của mình bao giờ cũng là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của lãnh đạo nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. 30 năm thực hiện đường lối cải cách và mở cửa trên mặt trận nông nghiệp, Trung Quốc đã tăng nhanh sản lượng lương thực, từ 305 triệu tấn năm 1978 lên 502 triệu tấn năm 2007; bình quân đầu người từ 318,7kg lên 381kg, thịt từ 9,1kg lên 52kg, thủy sản từ 5,5kg lên 36kg. Trung Quốc chiếm 9% đất canh tác mà nuôi sống gần 21% số dân thế giới là thành tích vĩ đại. Trong thời gian ấy, thu nhập ròng bình quân đầu người nông dân từ 134 NDT lên 4.140 NDT; tỷ lệ người nghèo ở nông thôn giảm từ 250 triệu năm 1978 xuống còn 14,79 triệu người năm 2007.
Phải khẳng định, sau khi thấy được vấn đề, Đảng Cộng sản và Chính phủ Trung Quốc đã có những chính sách và biện pháp tích cực để giải quyết và Trung Quốc đã thu được một số kết quả bước đầu rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, khó khăn, phức tạp vẫn còn không ít. Xin nêu mấy ví dụ: Chủ yếu là phải giải quyết vấn đề ngành nghề hoá nông nghiệp, trong đó, hoạt động của dây chuyền “sản xuất - cung cấp - tiêu thụ” chiếm vai trò rất quan trọng. Hơn nữa, hiện nay, nông nghiệp Trung Quốc vẫn ở trong tình trạng tự cung tự túc, chưa hình thành kinh tế qui mô. Đột xuất là cải cách chế độ hộ tịch trong vấn đề nông thôn (chế độ hiện hành đã gây ra sự chênh lệch tương đối lớn trong phát triển kinh tế và trình độ văn hóa giữa thành thị và nông thôn). Nhưng sau khi cuộc cải cách giải phóng được sức lao động thừa đến từ nông thôn thì việc sắp xếp hướng dẫn hợp lý lại là vấn đề nan giải. Trong vấn đề nông dân có hai điều: tố chất và giảm nhẹ đóng góp. Tố chất văn hoá còn thấp. Một số địa phương cá biệt vẫn chưa nghiêm túc giảm nhẹ đóng góp cho nông dân, việc khám, chữa bệnh còn gặp khó khăn. Phần lớn nông dân vào thành phố làm thuê không biết cuối đời giải quyết hậu sự như thế nào.
1. Các kinh nghiệm phát triển nông thôn của Trung Quốc
1.1.Xây dựng chính sách phát triển nông thôn mới ở Trung quốc
- Lý luận quan điểm thi hành và chính sách “Tam nông” của ĐCS Trung Quốc sau khi đi vào thế kỷ mới:
Hội nghị toàn thể lần thứ 3 khoá 17 của TW ĐCS Trung Quốc (2008): “đi sâu quán triệt thực hiện phát triển quan điểm khoa học, coi việc xây dựng nông thôn mới XHCN là nhiệm vụ chiến lược, đem con đường hiện đại hoá nông nghiệp đặc sắc của Trung Quốc thành phương hướng cơ bản, đem cơ cấu mới - nhất thể hoá của việc hình thành kinh tế xã hội nông thôn thành thị là yêu cầu cơ bản. Duy trì công nghiệp nuôi dưỡng nông nghiệp, thành thị ủng hộ nông thôn, theo phương châm cho nhiều lấy ít, cơ chế và thể chế sáng tạo mới, tăng cường cơ sở nông nghiệp, tăng thu nhập cho nông dân, bảo đảm quyền lợi và lợi ích của nông dân, thúc đẩy nông thôn hài hoà, huy động đầy đủ tính tích cực của đông đảo nông dân, tính chủ động, tính sáng tạo, đẩy kinh tế xã hội nông thôn phát triển vừa nhanh vừa tốt”
- Đề xuất “Xây dựng nông thôn mới XHCN”:
“ Xây dựng nông thôn mới” không phải là đề xuất mới, nhưng trước đây vào những năm 50, 60 của thế kỷ trước thì chỉ là biểu hiện chung
“Xây dựng nông thôn mới” bây giờ có bối cảnh mới hoàn toàn:
- Trung Quốc đang ở vào giai đoạn quá độ từ “Khá giả tổng thể” đi lên “khá giả toàn diện” mấu chốt để giải quyết được xã hội khá giả toàn diện là giải quyết vấn đề “Tam nông”
- Tình hình thay đổi của Trung Quốc rất lớn, nhất là thực hiện tổng hợp quốc gia và nguồn lực tài chính của chính phủ được tăng cường. Trên tổng thể Trung Quốc đã đi vào giai đoạn phát triển lấy công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp, thành thị kéo nông thôn, có khả năng điều chỉnh cơ cấu thu nhập và phân phối quốc dân, giải quyết tốt vấn đề ‘Tam nông”.
Vấn đề Tam nông của Trung Quốc sau thời kỳ giữa của năm 90 thế kỷ 20
Vấn đề “Tam nông”: tức là vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là tên chung của hàng loạt vấn đề kinh tế xã hội mà tự nó sinh ra.
Vấn đề “nông nghiệp”: trình độ sản nghiệp hoá nông nghiệp thấp, vị trí cơ sở của nông nghiệp vẫn không ổn định.
Vấn đề “nông thôn”: bộ mặt nông thôn nghèo nàn lạc hậu, kinh tế không phát triển, thiết bị cơ sở lạc hậu, mức độ phục vụ (dịch vụ công cộng) thấp.
Vấn đề “nông dân”: là vấn đề cốt lõi trong vấn đề tam nông biểu hiện là thu nhập của nông dân thấp, tăng thu khó, khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị rất lớn. Thực chất biểu hiện là quyền lợi của nông dân không được bảo đảm.
1.2. Các chính sách tam nông trong phát triển nông thôn Trung quốc trong thời gian gần đây
Chính sách tam nông:
Tăng thu nhập nguời dân;
Tiêu thụ hành hóa nông sản;
Ổn định xã hội nông thôn.
Do vậy quan điểm chính sách phát triển nông thôn được xác định như sau.
- Ủng hộ tích cực với chính sách phát triển nông thôn, khống chế ổn định giá cả nông sản, thực phẩm, hỗ trợ nông nghiệp. Quan điểm công nghiệp và đô thị hỗ trợ phát triển nông thôn. Tăng cường đầu tư cho nông thôn.
- Quan tâm tầng lớp nông dân ra thành thị làm việc (công nhân, nông dân). Đảm bảo xã hội, giáo dục để cân bằng đãi ngộ, ổn định cuộc sống.
- Vấn đề xã hội: Xóa chế độ hộ khẩu nông thôn, tạo điều kiện cho nông dân di cư và sinh sống tại đô thị.
- Đảm bảo công bằng, an sinh xã hội cho người già yếu, tàn tật ở nông thôn. Bảo vệ tầng lớp dễ tổn thương nhất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập. Trên quan điểm này, chính phủ Trung quốc đã đầu tư lớn vào nông thôn về xã hội, y tế, đối tượng người giả, người không có sức lao động trong thời gian gần đây. Quan điểm chỉ đạo phát triển xã hội hài hòa, trên cơ sở giữa nông thôn và đô thị.
a) Chính sách đất đai
Chính sách đất đai và đô thị hóa: Nhiều địa phương đã bán đất cho doanh nghiệp để lấy tiền, chính sách đất đai dễ dãi để thu hút đầu tư. Nhà nước mua rẻ đất đai của người dân sau đó cho doanh nghiệp thuê và bán với giá cao. Nhưng nhiều nơi, xác định giá không minh bạch, lợi tức này lại rơi vào doanh nghiệp chứ không phải nhà nước và cả nông dân.
Để lập lại trật tự cho vấn đề này, Chính phủ Trung quốc đưa ra các biện pháp:
- Vạch ra đường đỏ về đất đai đến năm 2020: Chính chủ xác định 180 triệu mẫu (15 mẫu=01 ha) cố định không thay đổi. Đưa ra luật bảo hộ đất đai canh tác cơ bản. Khi đã là đất canh tác cơ bản, không được chuyển đổi mục đích sử dụng. Hiện nay, các dự án đầu tư phải được thống nhất với người dân rồi mới triển khai dự án. Phải có chữ kí của người dân thì mới được triển khai.
Nhà nước phân loại đất làm hai loại để quản lí:
- Đất công ích: đất dùng làm các công trình phúc lợi sẽ do nhà nước định giá;
- Đất thương mại: Giá đất sẽ tùy thuộc vào giá thị trường, sẽ do người dân và doanh nghiệp đàm phán. Nhà nước sẽ không tham gia vào việc định giá này.
Về mặt chính sách qui định, nếu người dân không đồng ý chính quyền địa phương sẽ là trung gian đàm phàn. Trên thực tế chính quyền thường đứng về phía nhà đầu tư, nhiều địa phương đã cưỡng chế. Điều này đã tạo ra bức xúc của người dân, nhiều biểu tình ở Trung khánh đòi bối thường, xử lí cán bộ xâm phạm quyền lợi của người dân. Trên nguyên tắc, nếu là đất công ích, nhà nước có quyền cưỡng chế. Nhưng đất thương mại thì người dân có quyền không đồng ý, song do quyền sở hữu đất lại thuộc Ủy ban thôn. Chính vì điều này đã làm quyền người dân không đảm bảo, vì chỉ có Ủy ban thôn mới có quyền đàm phán với nhà đầu tư. Ủy ban thôn lại chịu nhiều áp lực, các nhà nghiên cứu Trung quốc cho rằng chính sách đất đai tại nhiều địa phương với nông dân mang tính chất vừa dỗ vừa lừa. Trung quốc đã đưa ra Luật trái quyền: địa phương có thể lấy lại đất, đền bù. Nhưng để đảm bảo quyền của người dân: nhà nước đưa ra luật vật quyền: người dân không đồng ý, thì không được lấy đất của họ.
- Cải cách sở hữu: Hiện nay ở Trung quốc sở hữu đất đai là nhà nước, tại nông thôn, quyền sở hữu rất khác nhau. Tại cấp thôn, UBND thôn, là đại diện quyền sở hữu của người dân trong thôn. Quyền sử dụng đất của người dân, được xác định mang tính chất rất ổn định, gần như quyền tư hữu. Đất sử dụng 30 năm, có thể kéo dài 70 năm. Người dân có quyền chuyền quyền sử dụng đất cho người khác, Ủy ban thôn chứng thực cho giao dịch này.
Người dân mong muốn chính sách đất đai vĩnh cửu, vĩnh viễn. Mặc dù vậy do mâu thuẫn giữa tư hữu hóa và nghèo đói, bảo vệ tài nguyên. Quá trình sử dụng đất đai chưa thực sự ổn định, đang phát triển, do vậy trong thời gian tới Trung quốc sẽ chưa thay đổi quan điểm quản lí đất đai. Dựa trên quan điểm:
Tăng người nhưng không tăng đất;
Giảm người nhưng không giảm đất.
Hiện nay tại Trung quốc cũng đang tranh luận có chia lại đất hay không, hay cứ để như vậy. Một số nơi có thử nghiệm: 80 % đất chia lại, 20 % để lại làm đất tập thể. Thời gian sử dụng đất: Đồng bằng 50 năm, Miền núi 70 năm.
Một số mô hình thử nghiệm chính sách tại Trung quốc
- Kinh nghiệm thành phố Nam hải, thành phố Phật sơn tỉnh Quảng đông: Thành phố Nam hải, là vùng có sản nghiệp phát triển, mạnh về nông nghiệp và phi nông nghiệp. Nông dân sống không dựa vào nông nghiệp để phát triển kinh tế.
Chính sách thử nghiệm tập trung vào:
+ Cổ phần hóa đất đai, khoán, thầu: Lượng hóa diện tích đất đai mà nông dân nhận khoán để tính ra các cổ phần để góp vào các họat động kinh tế;
+ Nông dân trở thành cổ đông và được chia lợi nhuận;
+ Đất đai này được đưa ra cho đấu thầu với doanh nghiệp địa phương và bên ngoài;
+Thu nhập của nông dân trên cơ sở phân chia lợi nhuận giữa doanh nghiệp và nông dân.
- Kinh nghiệm huyện Châu Độ tỉnh Sơn đông: Huyện Châu Độ có số dân đông, nguời dân cơ cơ hội sản xuất phi nông nghiệp.
Tại vùng này đã thử nghiệm loại chính sách hai điền:
+ Kết hợp việc khoán thầu, tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng đất. Chia đất cho các hộ nông dân trên cơ sở công năng (chức năng của đất đai). Chia ruộng ra làm nhiều loại: ruộng nhân khẩu theo bình quân ruộng gia đình và ruông khoán để giao cho dân. Ruộng khoán: nông dân chịu thuế khóan, ngoài ra không còn có thuế khác, đất được khai thác trên cơ sở khoán thầu. Nông dân dựa trên khả năng của mình để thầu sử dụng đất đai.Việc khoán thầu đã sử dụng hiệu quả đất đai. Thu nhập của cấp địa phương tăng. Nhưng hình thức khoán này đã lan ra các vùng nghèo, đã làm tăng them gánh nặng cho dân, một số địa phương dừng lại, do vậy TW đã khuyến cáo không cổ vũ loại chính sách này.
- Kinh nghiệm cải cách đất đai Giang tô: Khu vực này đã xây dựng các khu vực thí điểm về chăn nuôi tập trung.
Có hai loại hình:
+ Phát triển trên cơ sở hộ gia đình: xây dựng các nông trường, chăn nuôi gia đình. Tự nông dân phải lo lỗ lãi theo khả năng kinh doanh của mình. Việc kinh doanh hộ gia đình trên cơ sở giữ nguyên chế độ khoán thầu, trách nhiệm cá nhân, rõ rang, minh bạch, chủ động. Mặc dù vậy chính sách này chỉ thuận lợi cho các hộ khá giả;
+ Loại hình kinh doanh tập thể: xây dựng các nông trường tập trung, thống nhất đất đai, lấy công nghiệp bù đắp cho nông nghiệp, nhấn mạnh vào tính ứng phó và tính ổn định. Mô hình này không minh bạch về trách nhiệm và phân chia lợi nhuận.
b) Chính sách tín dụng tại nông thôn Trung quốc
Hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại nông thôn (thủ tục vay và lãi suất), đặc biệt xác định danh sách các doanh nghiệp đầu rồng tại từng vùng để hỗ trợ.
Hỗ trợ phát triển hệ thống tín dụng nhỏ kiểu Gramy Bank Băng la dét cho các vùng khó khăn.
Hỗ trợ, cổ vũ các địa phương phát triển các quĩ phát triển xã hội, lãi xuất được để lịa địa phương.
Cho phép các ngân hàng tư nhân, hộ kinh doanh tín dụng thành lập và phát triển: Việc này đã chính thức hóa kinh doanh tiền tệ, giảm cho vay nặng lãi ở nông thôn. Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh tiền tệ, nếu có hơn 10 vạn NDT, xin phép sẽ cho đang kí kinh doanh tín dụng. Những hộ này không được phép huy động vốn. Cổ vũ các tổ chức xã hội, cá nhân thành lập các quĩ cho vay.
c) Chính sách về phát triển các tổ chức dân sự, hiệp hội, HTX tại Trung quốc
Toàn bộ Trung quốc có 150 nghìn HTX nông nghiệp, chủ yếu nằm ở Miền đông và Miền trung. Số lượng HTX này rất thấp so với qui mô của nền kinh tế Trung quốc. Nhà nước khuyến khích thành lập các hội kinh tế. Kiên quyết không khuyến khích tồn tại và thành lập các HTX như thời bao cấp. Mặc dù có sự khuyến khích phát triển, nhưng các HTX chủ yếu vẫn nằm trong tay một số người, ông chủ, các HTX gần như doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trung quốc thúc đẩy phát triển mạnh các HTX chuyên ngành theo ngành hàng, phát triển các hiệp hội ngành nghề theo ngành, tăng cường liên kết dọc.
Chính sách hỗ trợ liên kết nông dân-doanh nghiệp: nhà nước cổ vũ, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu rồng liên kết với nông dân để phát triển.
d) Chính sách xóa đói giảm nghèo
- Giai đoạn những năm 80: xóa đói giảm nghèo mang nặng tính chất cứu tế, ban cho
- Giai đoạn cuối thế kỉ 20: Tập trung giúp đỡ các vùng nghèo ít có khả năng phát triển kinh tế về đào tạo, đưa nghề mới vào, dịch chuyển người nghèo ở vùng ít tài nguyên sang vùng khác giàu tài nguyên hơn. Kết quả có tác động khả quan, giúp giải quyết 200 triệu hộ nghèo đói. Hiện nay còn vài chục triệu người rất khó khăn ở các vùng núi, nghèo đất đai, không thể phát triển kinh tế được. Nhưng việc di dân cũng thực hiện rất khó khăn do người thiểu số, không chịu di chuyển định cư nơi khác do lí do về tập quán. Quan điểm của nhà nước là không thực hiện việc cưỡng bức di cư.
- Từ năm 2007, chính phủ Trung quốc đưa ra chính sách hỗ trợ người nghèo nhằm đảm bảo cuộc sống cơ bản của người dân. Nếu thu nhập của nông dân dưới mức tiêu chuẩn, nhà nước sẽ hỗ trợ cuộc sống để đảm bảo đủ mức tiêu chuẩn. Tiền cho việc này sẽ lấy từ ngân sách địa phương và trung ương.
- Hỗ trợ các gia đình thực hiện nghiêm túc sinh đẻ có kế hoạch, hỗ trợ người già trong nông thôn (tiền dưỡng lão khoảng 6000 NDT/năm sau 60 tuổi).
- Thực hiện chương trình bảo vệ rừng: trả tiền công cho dân, từ 20-30 kg lương thực/ha để họ bảo vệ rừng.
- Mô hình đảm bảo y tế: Từ những năm 60 đã thực hiện mô hình y tế hợp tác, sau đó dừng lại hiện nay lại tiếp tục phát triển. Mô hình này được thực hiện tại địa phương, ví dụ mức bảo hiểm y tế là 40 NDT, trong đó chính phủ 30 NDT, người dân bỏ 10 NDT, địa phương bỏ 10 NDT.
e) Chính sách miễn giảm thuế
Do đặc thù Trung quốc mang tính lịch sử, đất nước Trung quốc chủ yếu sống bằng nền nông nghiệp và nông dân, vì vậy người dân đóng góp quá nhiều. Trước khi miễn giảm, thuế nông nghiệp khoảng 30 tỷ NDT, các loại thế khác 100 tỷ NDT. Khi thu thuế nông nghiệp, địa phương giữa một phần, phần còn lại Trung ương thu. Hiện nay tất cả các loại thuế này đã được miễn không thu nữa. Việc miễn giảm thuể đã đặt chính quyền cơ sở tại nhiều nơi gặp khó khăn trong đảm trách dịch vụ công và phát triển nông thôn. Đặc biệt tại vùng nghèo, vùng khó khăn. Do đó Trung quốc đã có sự cải cách phân bổ đầu tư, phân chia thuế giữa TW và địa phương, theo hướng tăng cường ngân sách cho cấp địa phương quyết định.
f) Chính sách môi trường
Đại hội 17 Đảng CS Trung quốc, TBT Hồ Cầm Đào đã đề cập cần cải thiện tình hình môi trường nông thôn. Ban đầu Trung quốc không ý thức được vấn đề, hiện nay TW đã đưa ra các yêu cầu nghiêm ngặt. Nếu các cơ sở sản xuất không đạt yêu cầu về môi trường, sẽ đóng cửa không cho sản xuất.
Bồi thường khu vực sinh thái: Nhà nước khoanh vùng bảo hộ sinh thái, trên cơ sở đó nhà nước tiến hành đánh thuế, bỏ tiền ra để cải tạo môi trường.
g) Mô hình nông thôn mới
Tại các khu vực thử nghiệm, các mô hình nông thôn mới được chú trọng xây dựng theo các mức độ, qui mô khác nhau. Những mô hình này mang tính đa dạng tùy theo cấp vùng, không có bộ tiêu chí chuẩn áp đặt cho mọi nơi. Để định hướng cho nội dung này, cuối năm 2004, TW Trung quốc đưa ra mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
Sản xuất và phát triển
Sinh họat và giàu có
Văn minh nông thôn
Nông thôn, nông nghiệp sạch sẽ: đường, trường, phong cảnh nông thôn...
Quản lí dân chủ
1.3. Một số biện pháp giải quyết vấn đề “Tam nông”
a. Điều chỉnh cơ cấu sản nghiệp nông nghiệp phát triển nông nghiệp cao sản, chất lượng tốt, hiệu quả cao. Năm 1992 đề xuất thực hiện đồng thời giải quyết các vấn đề khó khăn: nông sản phẩm khó bán, nông nghiệp tăng sản lượng nhưng không tăng thu nhập, yêu cầu của thị trường không đựợc thoả mãn.
b. Cải cách thuế và các loại phí trong nông thôn: Giảm nhẹ gánh nặng cho nông dân, thực hiện chính sách “lấy ít” của tam nông, tăng thu nhập cho người nông dân, thu hẹp sự khác biệt giữa thành thị và nông dân. Năm 2000 bắt đầu tiến hành thí điểm bộ phận cấp tỉnh, 2003 thực hiện trong cả nước. Biện pháp chủ yếu là “3 thủ tiêu, 2 điều chỉnh, 1 cải cách”:
- Bỏ thu phí có tính chất hành chính như ngân sách giáo dục nông thôn, góp vốn,…
- Bỏ thuế sát sinh và các thu phí khác
- Bỏ công lao động tích luỹ và công nghĩa vụ đã thống nhất quy định
- Điều chỉnh chính sách thuế nông nghiệp và chính sách thuế đặc sản nông nghiệp
- Sửa đổi biện pháp trưng thu của thôn
c. Thúc đẩy kinh doanh sản nghiệp hàng nông nghiệp. Biện pháp này được đề xuất và thực hiện năm 1995. Mục đích nhằm giải quyết các vấn đề khó khăn đó là: kinh doanh quy mô nhỏ và phân tán trong nông nghiệp; Sản xuất tách rời thị trường; Hệ thống dịch vụ phục vụ xã hội/dịch vụ công không hoàn thiện; Nâng cao trình độ tổ chức của nông dân, đưa nông dân tiếp cận với thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh nông nghiệp và tăng thu nhập cho nông dân.
d. Thúc đẩy, điều chỉnh mang tính chiến lược về kết cấu sản nghiệp nông nghiệp: năm 1998 đề xuất thực hiện là một thách thức trước mắt đối với Trung Quốc khi gia nhập WTO và phát triển nông nghiệp sau khi đi vào giai đoạn mới.
Đánh giá quá trình thực hiện chính sách "tam nông" ở Việt Nam
1.1 Chính sách về đất đai
Ở Việt Nam
Nhà nước đã đưa ra những chính sách về đất đai rất ưu đãi cho phát triển "nông nghiệp, nông thôn và nông dân":
Trao quyền sử dụng đất cho người dân: người dân có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê, cho thuê lại, góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất đối với đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và đất ở.
Khuyến khích khu vực nông thôn thực hiện phong trào "dồn điền, đổi thửa" để khắc phục tình trang manh mún.
Nhà nước đẩy nhanh tiến độ giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận để các chủ trang trại yên tâm sản xuất; ưu tiên cho thuê đất đối với đất chưa giao, chưa cho thuê ở địa phương để phát trển trang trại, khuyến khích khai hoang, phục hóa để phát triển mở rộng trang trại.
Các trang trại chăn nuôi tập trung được hưởng chế độ ưu đãi về sử dụng đất như đối với các khu công nghiệp....
Tuy nhiên, Việt Nam đang phấn đấu đến năm 2020 cơ bản tro thành một nước công nghiêp. Đi cùng vấn đề này là cắt giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp, nâng dần tỷ trọng ngành CN-DV và điều đó đã dẫn tới tình trạng là ngành nông nghiệp đang mất dần diện tích để sản xuất. Vậy có một câu hỏi đặt ra là: "mất đất nông nghiệp thì lấy gì xây dựng nông thôn mới???".Gần 80% diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi thuộc đất “bờ xôi, ruộng mật” với cơ sở hạ tầng, thủy lợi thuận tiện, cho 2 vụ lúa một năm, kéo theo, bình quân 500.000 tấn lúa đã bị mất đi mỗi năm. Bên cạnh đó, cũng chỉ trong 5 năm (2002-2007), việc thu hồi đất nông nghiệp đã làm ảnh hưởng đến khoảng 2,5 triệu lao động. Theo con số thống kê của Bộ NN&PTNT, 5 năm qua, diện tích đất nông nghiệp thu hồi trên toàn quốc lên tới hơn 154.000ha, điều này đồng nghĩa với việc diện tích đất trồng lúa giảm 7,6%, và thực tế, con số này còn tăng lên nữa trong thời gian tới.
Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Chính sách đất đai của Trung quốc đã vạch ra đường đỏ về đất đai đến năm 2020: Chính chủ xác định 180 triệu mẫu (15 mẫu=01 ha) cố định không thay đổi. Đưa ra luật bảo hộ đất đai canh tác cơ bản. Khi đã là đất canh tác cơ bản, không được chuyển đổi mục đích sử dụng. Hiện nay, các dự án đầu tư phải được thống nhất với người dân rồi mới triển khai dự án. Phải có chữ kí của người dân thì mới được triển khai.
Quan điểm quản lý đất đai của Trung Quốc:
Tăng người nhưng không tăng đất;
Giảm người nhưng không giảm đất.
Bài học cho Việt Nam:
Phải xây dựng một chiến lược phát triển cụ thể và thống nhất giữa các nhóm ngành kinh tế, phát triển hài hoà, xác định đúng mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong quá trình CNH đất nước.
Việc trao quyền sử dụng đất cho người dân sẽ dẫn tới tình trạng là khi giá đất lên, đất trồng trọt và cả đất ở thường bị mang đi bán. Do đó Nhà nước phải đưa ra biện pháp và chế tài quản lý cho phù hợp hơn.
1.2 Chính sách tín dụng tại nông thôn.
Ở Việt Nam
Tín dụng nông nghiệp, nông thôn (NN-NT) đang có vai trò hết sức quan trọng trong phát triển KT-XH khu vực nông thôn. Thực tế thời gian qua, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã khơi thông nguồn vốn vào NN-NT, góp phần thực hiện xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống người dân.Sau 10 năm thực hiện Quyết định 67/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng NN-NT, dư nợ đã tăng khoảng 9 lần, đạt hơn 300 nghìn tỷ đồng; tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân 21,78%. Dù vậy, cho vayNN-NT vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, mới chiếm 16,7% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế.(2010)
Chính phủ có chính sách khuyến khích, hỗ trợ việc cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, chính sách xử lý rủi ro phát sinh trên diện rộng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và các chính sách cụ thể khác trong từng thời kỳ.
Cá nhân, hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có thể được xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản tối đa đến 50 triệu đồng.
Cũng với hình thức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, các hộ kinh doanh, sản xuất ngành nghề hoặc làm dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn được xem xét cho vay tối đa đến 200 triệu đồng; hợp tác xã, chủ trang trại được xem xét cho vay tối đa đến 500 triệu đồng.
Thành lập các tổ chức tài chính quy mô nhỏ; các ngân hàng, tổ chức tài chính được Chính phủ để thực hiện việc cho vay theo chính sách của Nhà nước) và các tổ chức, cá nhân được vay vốn theo quy định để phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Những khoản cho vay đối với nông nghiệp, nông thôn của các TCTD do Chính phủ hoặc các tổ chức cá nhân khác ủy thác thì mức lãi suất được thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc theo thỏa thuận với bên ủy thác.
Tuy nhiên, để tiếp cận nguồn vốn ý nghĩa này, người dân nhiều địa phương vẫn kêu "khát" vốn và phàn nàn về thủ tục rườm rà, làm khó hoặc không cần thiết cho người đi vay và còn nhiều hạn chế:
Nguồn vốn cho vay NN-NT hiện chủ yếu vẫn là ngắn hạn (chiếm 60%), người dân khó đầu tư sản xuất lớn, sản xuất nông nghiệp hàng hóa.
Rõ ràng không quy định thế chấp tài sản nhưng vẫn buộc người dân nộp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Với nhóm các HTX và chủ trang trại, dù được vaytối đa 500 triệu đồng, song tiêu chí như thế nào để xác định chủ trang trại đủ điều kiện cũng như cấp nào chứng nhận các điều kiện này thì vẫn chưa được hướng dẫn. v..v...
Kinh nghiệm của Trung Quốc
???????
Bài học
Cần phải có cơ chế khuyến khích các ngân hàng có mức cho vay NN-NT 60% trở lên sẽ được hưởng ưu đãi; chỉ đạo chi nhánh Ngân hàng Nhà nước các địa phương tiến hành khảo sát ngay thực trạng tổng nhu cầu vốn vay trong NN-NT, trên cơ sở này chia thành từng giai đoạn, từng bước đáp ứng nhu cầu vốn bền vững, hiệu quả.
Từng bước tháo gỡ vướng mắc trong cơ chế, chính sách cho vay; tăng cường tín dụng chonông dân vay trung và dài hạn; có giải pháp duy trì mức tăng trưởng kinh tế nông nghiệp.
1.3 Chính sách xoá đói giảm nghèo
Ở Việt Nam
Những năm qua, cùng với các chính sách phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo đã được triển khai và giành được những kết quả rất quan trọng, thành tựu xóa đói giảm nghèo đã góp phần tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội.
Đây là một chương trình quan trọng nằm trong chương trình thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc. Đảng, Nhà nước ta đã ban hành chính sách giảm nghèo kịp thời, đúng thực tiễn. Năm 2010, Chương trình 135 giai đoạn 2 kết thúc, các mục tiêu cơ bản đãđạt được: giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 30% và tăng thu nhập lên 3,5 triệu đồng/hộ/năm góp phần tạo nên diện mạo mới về kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. Những kết quả đó được Chính phủ và cộng đồng quốc tế ghi nhận của môhình giảm nghèo ở Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tế kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa của nước ta hiện còn rất nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển hàng hoá, công nghiệp. Tỷ lệ đường giao thông nông thôn được nhựa hoá, bê tông xi măng chưa cao, mới đạt 19%, bằng hơn 60% chỉ tiêu đặt ra trong chiến lược toàn diện về xoá đói giảm nghèo.
Kinh nghiệm của Trung Quốc
Giai đoạn những năm 80: xóa đói giảm nghèo mang nặng tính chất cứu tế, ban cho.
Giai đoạn cuối thế kỉ 20: Tập trung giúp đỡ các vùng nghèo ít có khả năng phát triển kinh tế về đào tạo, đưa nghề mới vào, dịch chuyển người nghèo ở vùng ít tài nguyên sang vùng khác giàu tài nguyên hơn.
Chính phủ Trung quốc đưa ra chính sách hỗ trợ người nghèo nhằm đảm bảo cuộc sống cơ bản của người dân. Nếu thu nhập của nông dân dưới mức tiêu chuẩn, nhà nước sẽ hỗ trợ cuộc sống để đảm bảo đủ mức tiêu chuẩn. Tiền cho việc này sẽ lấy từ ngân sách địa phương và trung ương.
Mô hình đảm bảo y tế: Từ những năm 60 đã thực hiện mô hình y tế hợp tác, sau đó dừng lại hiện nay lại tiếp tục phát triển. Mô hình này được thực hiện tại địa phương, ví dụ mức bảo hiểm y tế là 50 NDT, trong đó chính phủ 30 NDT, người dân bỏ 10 NDT, địa phương bỏ 10 NDT.
Bài học
??????
1.4 Mô hình nông thôn mới
Ở Việt Nam
Chương trình xây dựng thí điểm mô hình NTM trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa được triển khai thực hiện theo Kết luận số 32-KL/TW ngày 20/11/2008 của Bộ Chính trị và Thông báo kết luận số 238-TP/TW ngày 7/4/2009 của Ban Bí thư về Đề án “Xây dựng thí điểm mô hình NTM”, nhằm tổ chức thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7, BCH Trung ương Đảng (khóa X) về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn”.
Đến hết năm 2010, sau gần 2 năm thực hiện thí điểm tại 11 xã trên cả nước, Chương trình NTM đã thành công bước đầu và đạt được một số kết quả quan trọng;
Đã có 7/11 xã thí điểm đạt được 10 tiêu chí trở lên; trong đó có 3 xã đạt 14/19 tiêu chí trở lên. Có 3 xã đạt từ 8-10 tiêu chí. Riêng xã Thanh Chăn (Điện Biên) tuy là xã khó khăn nhất, nhưng đã đạt 7/19 tiêu chí.
Về xây dựng cơ sở hạ tầng, đây là việc thu hút sự quan tâm nhiều nhất của cán bộ và người dân. Sau gần 2 năm triển khai, đã có khoảng 2/3 số các công trình hạ tầng (theo tiêu chí) được triển khai. Đến nay đã hoàn thành cơ bản gần 300 hạng mục công trình, trong đó nhiều nhất là giao thông, thủy lợi, nước sạch… (chiếm khoảng 40% tổng kinh phí); tiếp đến là chuẩn hóa lớp học, trạm y tế, vệ sinh môi trường nông thôn (chiếm khoảng 30% kinh phí).
Mỗi xã đã có ít nhất 3-5 dự án, điểm trình diễn về sản xuất. Bên cạnh đó, vốn và nguồn vốn để thực hiện Chương trình thời qua tiếp tục được tăng cường và ngày càng đa dạng hơn, nhất là nguồn vốn lồng ghép, vốn tín dụng và người dân tham gia. Qua tổng hợp từ báo cáo của 11 xã, đến tháng 12/2010 lũy kế vốn thực hiện đạt hơn 940 tỷ đồng (tăng gần 3,7 lần so với năm 2009). Trong đó, tỷ lệ vốn hỗ trợ của Trung ương 12,04%, vốn ngân sách địa phương là 23,8%, vốn dân góp khoảng 17,8%, vốn doanh nghiệp khoảng 8,94% và vốn tín dụng chiếm khoảng 33,78%.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì chương trình cũng còn tồn tại một số mặt hạn chế, đó là một số mặt triển khai còn chậm như quy hoạch chi tiết một số nơi vẫn chưa hoàn thành (8/11 xã về cơ bản hoàn thành quy hoạch chi tiết), lúng túng trong quy chế huy động nguồn lực, tiếp cận nguồn vốn, giải ngân và thanh quyết toán. Việc triển khai các nội dung về quy hoạch sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân, tuyên truyền vận động nhân dân, nhất là các xã điểm chưa mạnh mẽ…
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ptnt_3035.doc