Tiểu luận Kinh tế chính trị Mác - Lênin phần kinh tế tư bản chủ nghĩa :Tích lũy tư bản chủ nghĩa

Sự chiếm hữu tư bản chủ nghĩa, tương ứng với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là sự phủ định thứ nhất đối với cái chế độ tư hữu chỉ dựa trên lao động độc lập và cá thể. Nhưng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại tự nó đẻ ra sự phủ định bản thân nó một cách tất yếu như tính tất yếu chi phối những sự biến hóa của tự nhiên. Đó là phủ định cái phủ định. Sự phủ định cái phủ định này không lập lại chế độ tư hữu của người lao động, mà là lập lại chế độ sở hữu cá nhân của người lao động, một chế độ sở hữu cá nhân xây dựng trên cơ sở những thành tựu của thời địa tư bản chủ nghĩa, trên sự hiệp tác và sự sở hữu chung về tất cả những tư liệu sản xuất, kể cả ruộng đất. Muốn biến tài sản tư hữu và phân tán, đối tượng của lao động cá nhân, thành tài sản tư bản chủ nghĩa, thì dĩ nhiên là đã phải tốn nhiều thời gian, nhiều cố gắng và gian khổ hơn là biến tài sản tư bản chủ nghĩa là tài sản thực ra đã dựa trên một phương thức sản xuất tập thể, thành tài sản xã hội. Một đằng là vấn đề một số ít kẻ tiếm đoạt tước đoạt quần chúng; một đằng lại là quần chúng tước đoạt một số ít kẻ tiếm đoạt".

pdf18 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7308 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Kinh tế chính trị Mác - Lênin phần kinh tế tư bản chủ nghĩa :Tích lũy tư bản chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Kinh tế chính trị Mác - Lênin phần kinh tế tư bản chủ nghĩa Đề bài: Tích lũy tư bản chủ nghĩa Phần nội dung Khi nói đến tích luỹ ta thấy nó gắn liền với tái sản xuất mở rộng. Do đó, xét một cách cụ thể, thì tích luỹ tư bản chẳng qua chỉ là tái sản xuất ra với quy mô ngày càng mở rộng. I. Tái sản xuất 1. Khái niệm tái sản xuất Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại và đổi mới không ngừng. C.Mác: "Dù cho hình thái xã hội của quá trình sản xuất là như thế nào chăng nữa, thì bao giờ quá trình đó cũng phải có tính chất liên tục, hay cứ từng chu kỳ một, phải không ngừng trải qua cùng những giai đoạn ấy. Xã hội không thể ngừng tiêu dùng, thì xã hội cũng không thể ngừng sản xuất. Vì vậy, xét trong mối liên hệ không ngừng và trong tiến trình của nó, mọi quá trình sản xuất xã hội đồng thời cũng là quá trình sản xuất". (Trích: C.Mác bộ "Tư bản", quyển I, tập III, tr.8). 2. Tái sản xuất giản đơn Khái niệm: Tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như cũ. Toàn bộ giá trị thặng dư đã được nhà tư bản tiêu dùng hết cho cá nhân. "Nếu như thu nhập đó chỉ được dùng làm quỹ tiêu dùng cho nhà tư bản hay nếu nó cũng được tiêu dùng theo từng chu kỳ giống như người ta đã kiếm được nó, thì trong những điều kiện khác không thay đổi, sẽ chỉ diễn ra có tái sản xuất giản đơn thôi. Và mặc dù tái sản xuất này chỉ là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô không thay đổi, nhưng sự lặp đi lặplại giản đơn ấy, hay tính chất liên tục ấy, cũng đem lại cho quá trình những nét mới hay nói cho đúng hơn, nó xóa bỏ những nét có vẻ như là đặc trưng của quá trình đó khi chỉ là một hành vi cá biệt". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, tr.9-10). Quá trình sản xuất mở đầu với việc mua sức lao động cho một thời gian nhất định, và việc mở đầu ấy thường xuyên lắp lại một khi cái thời hạn mua lao động chấm dứt, và đồng thời một thời kỳ sản xuất nhất định. Quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tái sản xuất ra của cải (tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng) dưới hình thức tư bản. Là quá trình tái sản xuất ra lao động làm thuê, và là quá trình tái sản xuất ra quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa - quan hệ bóc lột của giai cấp tư bản đối với giai cấp công nhân dưới hình thái giá trị thặng dư. "Những người công nhân thì chỉ được trả công sau khi sức lao động của người đó đã phát huy tác dụng và đã thực hiện được giá trị của bản thân nó, cũng như giá trị thặng dư năm ở trong các hàng hóa. Như thế là người công nhân đã sản xuất ra cả số giá trị thặng dư mà chúng ta tạm thời coi như là quỹ tiêu dùng của nhà tư bản, lẫn cái quỹ dùng để trả công cho chính mình, tức là tư bản khả biến, trước khi tư bản khả biến trở về tay anh ta dưới dạng tiền công, và anh ta chỉ có việc làm chứng nào anh ta còn không ngừng tái sản xuất ra tư bản khả biến ấy". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C21, tr.9-10). 3. Tái sản xuất mở rộng Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất theo quy mô lớn hơn trước, với sự tư bản lớn hơn trước. "Là một kẻ cuồng tín việc làm tăng thêm giá trị, nhà tư bản thẳng tay cưỡng bức loài người phải sản xuất để sản xuất, do đó hắn cưỡng bức họ phải phát triển những lực lượng sản xuất xã hội và tạo ra những điều kiện sản xuất vật chất, mà chỉ một mình những điều kiện này mới có thể hình thành cái cơ sở hiện thực của một hình thái xã hội mà nguyên tắc cơ bản là mọi cá nhân đều được phát triển đầy đủ và tự do". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.55). "Sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa làm cho sự tăng thêm không ngừng của số tư bản bỏ vào một xí nghiệp công nghiệp trở thành một sự tất yếu và cạnh tranh làm cho những quy luật bên trong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành những quy luật bên ngoài có tính chất cưỡng chế đối với nhà tư bản cá biệt. Cạnh tranh buộc nhà tư bản không ngừng mở rộng, tư bản để giữ được tư bản, và hắn chỉ có thể mở rộng tư bản của mình bằng cách tích luỹ ngày càng nhiều hơn mà thôi". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.55). II. Tích luỹ tư bản 1. Khái niệm Tích l ũy tư bản là sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay tư bản hóa giá trị thặng dư. "Sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản, hay chuyển hóa giá trị thặng dư trở lại thành tư bản thì gọi là tích luỹ tư bản". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.32). Tích luỹ tư bản khác về bản chất với tích luỹ nguyên thủy. Nó gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, gắn với quá trình bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê. Tích luỹ tư bản gắn liền với tái sản xuất mở rộng. Do đó xét một cách cụ thể thì tích luỹ tư bản chẳng qua chỉ là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Như vậy thực chất của tích luỹ tư bản là quá trình tăng cường bóc lột giá trị thặng dư với quy mô ngày càng lớn, tăng cường bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê. 2. Điều kiện của tích luỹ tư bản Theo C.Mác; muốn tiến hành tích luỹ để tái sản xuất mở rộng phải có hai điều kiện. - Một là: Phải có một phần sản phẩm thặng dư chuyển hóa thành tư bản. Nhưng phần sản phẩm này phải đảm bảo cho quá trình sản xuất và nuôi sống công nhân, tức là phải bao hàm cả tư liệu sản xuất lẫn tư liệu tiêu dùng. "Muốn tích luỹ, cần phải biến một sản phẩm thặng dư thành tư bản. Nhưng nếu không phải là có phép lạ thì người ta chỉ có thể biến thành tư bản những vật phẩm có thể nuôi sống công nhân, tức là những tư liệu sinh hoạt. Do đó một phần lao động thặng dư hàng năm phải dùng để sản xuất thêm một số tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt ngoài số cần thiết để hoàn lại tư bản đã ứng ra. Nói tóm lại, sở dĩ giá trị thặng dư có thể biến thành tư bản là chỉ vì sản phẩm thặng dư - mà giá trị của nó là giá trị thặng dư, đã bao gồm sẵn những yếu tố vật thể của một tư bản mới rồi". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.35). - Hai là: phải có lao động phụ thêm. Chính nhờ có lao động mới làm cho các yếu tố đó được thực sự hoạt động với tư cách là tư bản. Lao động phụ thêm có thể thực hiện được bằng hai cách: hoặc là kéo dài thời gian lao động hoặc tăng cường độ lao động của số công nhân hiện có hoặc phải tuyển thêm lao động mới. "Nhưng muốn làm cho các yếu tố đó thực sự hoạt động với tư cách là tư bản, thì giai cấp các nhà tư bản cần có thêm một số lao động. Nếu việc bóc lột những công nhân đang làm việc không thể tăng thêm bằng cách kéo dài thì giờ hay nâng cao cường độ, thì phải tuyển thêm sức lao động". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.35). 3. Những kết luận C.Mác rút ra từ việc nghiên cứu tái sản xuất mở rộng Những kết luận mà C.Mác rút ra từ việc nghiên cứu tái sản xuất giản đơn vẫn biểu hiện đầy đủ trong tái sản xuất mở rộng. Song nghiên cứu tái sản xuất mở rộng C.Mác còn rút ra một số kết luận sau: Sự phân tích trên đã chỉ rõ tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư chuyển hóa thành tư bản, là sản phẩm của chính bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. C.Mác chỉ rõ; đối với tư bản phụ thêm "đó là giá trị thặng dư được tư bản hóa. Ngay từ lúc mới ra đời, không một nguyên tử giá trị nào của nó mà lại không phải do lao động không công của người khác tạo ra". Hơn nữa tư bản tích luỹ chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản, trái lại tư bản ứng trước chiếm một tỷ lệ ngày càng nhro bé, không đáng kể, chỉ là "một giọt nước trong dòng sông ngày càng lớn của tích luỹ". Như vậy, toàn bộ sự giàu có của giai cấp tư sản đều là kết quả chiếm đoạt lao động thặng dư do lao động không công của giai cấp công nhân tạo ra. "Hơn nữa là tư bản không làm giàu theo tỷ lệ với lao động cá nhân của hắn hay tỷ lệ với sự không tiêu dùng của cá nhân hắn như người trữ của, mà làm giàu theo tỷ lệ với khối lượng sức lao động của người khác mà hắn bòn rút được và tỷ lệ với mức hy sinh mọi sự hưởng thụ trong cuộc sống mà hắn bắt công nhân phải chịu". Và "đặc biệt họ làm giàu được rất nhiều bằng cách ăn cắp của những người cha mẹ đem gửi con cho họ làm thợ học việc và phải trả tiền rất đắt cho việc dạy nghề, tuy những trẻ học nghề đó phải ăn đói. Mặt khác lợi nhuận chung bình bấy giờ còn thấp, và việc tích luỹ đòi hỏi phải tiết kiệm rất nhiều. Họ sống như những kẻ trữ của, và thậm chí cũng không dám tiêu dùng đến những lợi tức do tư bản của họ kiếm được". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.59). 4. Những nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản Quy mô của tích luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư và sự phân chia khối lượng giá trị thặng dư thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Nếu tỷ lệ đó không đổi thì quy mô tích luỹ phụ thuộc vào những nhân tố quyết định quy mô của khối lượng giá trị thặng dư. "Nếu tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản và thu nhập đã có sẵn thì rõ ràng là đại lượng của tư bản tích luỹ sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.66). a. Nâng cao trình độ bóc lột sức lao động - Nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công: C.Mác giả định rằng người công nhân nhận được tiền công đúng giá trị sức lao động của mình. Nhưng trong thực tế nhà tư bản còn cắt xén một phần tiền công để tăng tích luỹ tư bản. "Nhưng trong thực tế việc cướng ép hạ tiền công xuống thấp hơn giá trị sức lao động đóng một vai trò quá quan trọng, khiến cho chúng ta không thể không nói qua đến vấn đề ấy. Trong những giới hạn nhất định, việc đó thực tế đem biến quỹ tiêu dùng cần thiết của công nhân thành quỹ tích luỹ của tư bản". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.69). Và "nhưng nếu như công nhân có thể sống bằng không khí thì người ta không thể mua họ bằng bất cứ giá nào. Do đó, lao động không mất tiền là một giới hạn theo nghĩa toán học. Không bao giờ có thể đạt tới giới hạn đó tùy rằng bao giờ cũng có thể tiến đến gần nó. Xu hướng thường xuyên của tư bản là muốn học tiền công xuống tới điểm hư vô đó". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.69). Vậy nhà tư bản không chỉ chiếm đoạt lao động thặng dư mà còn chiếm đoạt cả một phần lao động tất yếu của công nhân, biến một phần quý tiêu dùng của công nhân thành tích luỹ tư bản. Nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động. Việc tăng cường độ lao động rõ ràng làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó làm tăng bộ phận giá trị thặng dư tư bản hóa, tức là làm tăng tích luỹ. Số lượng lao động tăng thêm mà nhà tư bản chiếm không do tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động không đòi hỏi phải tăng thêm tư bản một cách tương ứng. Hơn nữa tư bản sẽ được hoàn vốn nhanh, tránh được hao mòn vô hình, giảm được chi phí bảo quản, sớm cải tiến kỹ thuật. Để mở rộng quy mô bóc lột nhà tư bản có thể tăng thời gian sử dụng máy móc, thiết bị trong ngày, tức nâng cao hệ số sản xuất mà không cần đầu tư thêm nguyên liệu, vật liệu một cách tương ứng. Điều đó có lợi cho nhà tư bản vì khấu hao nhanh hơn, thời gian thay thế thiết bị sẽ sớm hơn. Mặt khác nhà tư bản bắt công nhân hiện đang có việc phải tăng cường độ lao động, hoặc kéo dài thời gian lao động để tăng khối lượng giá trị thặng dư. C.Mác chỉ rõ: "Số lao động phụ thêm dó ức lao động khẩn trương hơn tạo ra, có thể làm tăng thêm sản phẩm thặng dư, tức là thực thể của tích luỹ, mà không cần phải tăng thêm phần tư bản bất biến một cách tương ứng". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.75). Trong ngành công nghiệp khai khoáng, công nghiệp hầm mỏ, đối tượng lao động là tặng vật của thiên nhiên, cho nên ở đây tư bản bất biến hầu như chỉ có thiết bị; vì vậy nhà tư bản càng quan tâm sử dụng các thủ đoạn trên để tăng thêm quy mô tích luỹ mà không cần tăng thêm tư bản ứng trước. "Tư bản bất biến ở đây hầu như hoàn toàn chỉ gồm có những tư liệu lao động có thể chịu đựng được rất tốt việc tăng thêm số lượng lao động (ví dụ bằng cách đặt ca ngày và ca đêm)". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.75). Trong ngành nông nghiệp cũng vậy, khi đã có một số tư bản ứng ra nhất định, chỉ cần tăng thêm sự tác động của lao động đối với ruộng đất cũng đủ làm tăng thêm sự phì nhiêu của ruộng đất lên một cách kỳ diệu. C.Mác nhấn mạnh: "... một khi nắm được hai nguồn gốc đầu tiên tạo ra của cải là sức lao động và đất đai, thì tư bản có một số sức bành trướng cho phép nó tăng những yếu tố tích lũy của nó lên quá những giới hạn dường như được quy định bởi đại lượng của bản thân tư bản". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.76-77). b) Nâng cao năng suất lao động xã hội: - Năng suất lao động cao làm cho giá cả hàng hóa giảm. Do đó, với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể mua được tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn, mặt khác phần dành cho tiêu dùng của nhà tư bản có thể giảm để tăng tích luỹ mà không ảnh hưởng đến tiêu dùng của họ. "Sức sản xuất của lao động mà tăng lên thì khối lượng sản phẩm, biểu hiện một giá trị nhất định, và do đó biểu hiện một đại lượng giá trị thặng dư nhất định cũng tăng lên. Với một tỷ suất giá trị thặng dư không thay đổi, hay thậm chí với một tỷ suất giá trị thặng dư đang giảm xuống, thì khối lượng sản phẩm thặng dư vẫn tăng lên, miễn là tỷ suất giá trị thặng dư giảm xuống chậm hơn mức tăng của sức sản xuất của lao động. Với một tỷ lệ phân chia sản phẩm thặng dư thành thu nhập và tư bản phụ thêm không thay đổi, sự tiêu dùng của nhà tư bản vẫn có thể tăng lên mà không cần giảm tích luỹ". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.77). - Sự tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật sẽ tạo ra nhiều yếu tố phụ thêm cho tích luỹ. Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì các máy móc, thiết bị... được thay thế bằng những máy móc mới tiến bộ hơn, có hiệu quả cao hơn, năng suất lao động cao hơn, do đó quy mô tích luỹ cũng như hiệu quả tích luỹ sẽ cao hơn. Năng suất lao động cao thì lao động sống sử dụng được nhiều lao động quá khứ hơn. "Cũng vẫn là một giá trị tư bản khả biến ấy lại vận dụng được nhiều sức lao động hơn, và do đó nhiều lao động hơn. Cũng vẫn một giá trị tư bản bất biến ấy lại biểu hiện thành một lượng tư liệu sản xuất nhiều hơn, tức là nhiều tư liệu lao động, vật liệu lao động và vật liệu phụ hơn, do đó cung cấp nhiều yếu tố tạo ra sản phẩm, cũng như nhiều yếu tố tạo ra giá trị hơn hay nhiều yếu tố hấp thụ lao động hơn. Vì vậy, giá trị của tư bản phụ thêm không thay đổi hay thậm chí giảm xuống, tích luỹ cũng vẫn được đẩy nhanh". Và "mỗi một sự tiến bộ trong lĩnh vực hóa học đều không những làm tăng thêm số lượng những chất có ích và công dụng của những chất đã biết, và do đó mở rộng phạm vi đầu tư tư bản cùng với sự tăng lên của tư bản. Sự tiến bộ của hóa học cũng còn dạy cho người ta đưa những vật thải ra của quá trình sản xuất và quá trình tiêu dùng quay trở lại vòng tuần hoàn của quá trình tái sản xuất và do đó tạo ra một chất mới cho tư bản mà trước đó không cần phải chi phí tư bản". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.79). "Bẩm tính của lao động sống là bảo tồn được giá trị cũ trong khi tạo ra giá trị mới. Vì vậy cùng với sự tăng thêm hiệu lực, quy mô và giá trị của tư liệu sản xuất, tức là cùng với sự tăng tích luỹ, diễn ra cùng với sự phát triển sức sản xuất của lao động thì lao động cũng bảo tồn và duy trì vĩnh viễn một giá trị tư bản không ngừng tăng lên dưới những hình thức luôn luôn mới". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.81). Như vậy, năng suất lao động cao là biểu hiện tổng hợp tính ưu việt của nền sản xuất lớn hiện đại, là đòn bẩy mạnh mẽ nhất của tích luỹ. c) Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng - Tư bản sử dụng là toàn bộ khối lượng giá trị máy móc, thiết bị, nhà xưởng, sức vật kéo... mà trong quá trình sản xuất thường lặp đi lặp lại với toàn bộ quy mô hiện vật của chúng nhằm đạt tới một hiệu quả nhất định. - Tư bản tiêu dùng là bộ phận giá trị của những tư liệu lao động hao mòn dần trong quá trình sản xuất và được chuyển từng phần vào sản phẩm mới. Trong quá trình sản xuất, tất cả các bộ phận cấu thành của máy móc đều hoạt động. Chỉ có sự hoạt động của toàn bộ máy móc thì mới tạo ra được sản phẩm, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào sản phẩm. Vì vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy nhưng trong suốt thời gian hoạt động máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Do đó, nếu không kể đến giá trị của máy móc chuyển dần vào sản phẩm trong từng thời gian thì máy móc phục vụ không công cho nhà tư bản. "Tư bản tăng lên thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản tiêu dùng cũng tăng lên". Và: "Vì các tư liệu lao động ấy được dùng làm những cái tạo ra sản phẩm nhưng lại không nhập thêm giá trị vào sản phẩm, nghĩa là vì chúng được sử dụng toàn bộ nhưng chỉ bị tiêu dùng từng phần thôi, cho nên, như đã nhắc tới trên kia, các tư liệu đó phục vụ không công giống như: nước, hơi nước, không khí,... Những sự phục vụ không công đó của lao động quá khứ, được lao động sống làm nắm lấy và làm sống lại, đang được tích luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.82-83-84). Chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển, khối lượng tư bản ngày càng nhiều, cùng với nó khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại máy móc ngày càng tinh vi thì sự chênh lệch giữa tư bản tiêu dùng và tư bản sử dụng ngày càng lớn. Do đó, tích luỹ tư bản ngày càng cao. d) Quy mô của tư bản ứng trước Với mức độ không đổi thì khối lượng giá trị thặng dư do số lao động công nhân bị bóc lột quyết định. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn thì giá trị thặng dư bóc lột được và quy mô tích luỹ càng lớn. Như vậy, khi đại lượng tư bản ứng trước càng lớn thì quy mô sản xuất càng mở rộng, kỹ thuật sản xuất càng hiện đại, do đó các động lực thúc đẩy sản xuất giá trị thặng dư càng có tác động mạnh. "Tư bản càng tăng lên bao nhiêu nhờ những sự tích luỹ liên tiếp, thì tổng số giá trị được chia thành quỹ tiêu dùng và quỹ tích luỹ cũng càng tăng lên bấy nhiêu. Nhà tư bản có thể nhờ đó mà sống xa hoa hơn và đồng thời lại "hy sinh" được nhiều hơn. Và cuối cùng quy mô sản xuất càng mở rộng hơn cùng với khối lượng tư bản ứng trước, thì tất cả động lực thúc đẩy sản xuất lại càng tác động mạnh mẽ hơn". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.85). Tóm lại, để tăng quy mô tích luỹ tư bản, các nhà tư bản phải sử dụng nhiều nhân tố: nâng cao trình độ bóc lột sức lao động, nâng cao năng suất lao động xã hội, sử dụng triệt để công suất và hiệu quả của máy móc thiết bị, tăng quy mô của tư bản ứng trước để mở rộng sản xuất và đổi mới kỹ thuật, công nghệ. III. Quy luật chung của tích luỹ tư bản 1. Quá trình tích luỹ tư bản là quá trình cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tư bản chẳng những tăng lên về quy mô mà còn không ngừng biến đổi trong cấu tạo. Nghĩa là mối quan hệ về tỷ lệ của việc kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động sử dụng tư liệu sản xuất đó trong quá trình sản xuất. Để phản ánh các mối quan hệ này C.Mác dùng các khái niệm cấu tạo kỹ thuật, cấu tạo giá trị và cấu tạo hữu cơ của tư bản. "Những nhân tố quan trọng nhất của sự nghiên cứu là kết cấu của tư bản và những sự thay đổi của kết cấu đó trong quá trình tích lũy. Kết cấu của tư bản có thể hiểu về hai mặt. Về mặt giá trị, thì kết cấu đó là cái tỷ lệ theo đó tư bản phân ra thành tư bản bất biến, hay giá trị của tư liệu sản xuất, và tư bản khả biến, hay giá trị sức lao động, tức là tổng sốtiền công. Xét về mặt vật thể hoạt động trong quá trình sản xuất, thì mọi tư bản đều chia thành tư liệu sản xuất và sức lao động sống, kết cấu đó được quyết định bởi tỷ lệ giữa một bên là khối lượng các tư liệu sản xuất được sử dụng, với bên kia là số lượng lao động cần thiết để sử dụng các tư liệu đó. Tôi gọi cái tên là kết cấu giá trị của tư bản, cái thứ hai là kết cấu kỹ thuật của tư bản. Giữa hai cái đó có mối quan hệ qua lại chặt chẽ; mối quan hệ đó là kết cấu giá trị của tư bản là kết cấu hữu cơ của tư bản, trong chừng mực mà kết cấu giá trị ấy được quyết định bởi kết cấu kỹ thuật của tư bản và phản ánh những sự thay đổi của kết cấu kỹ thuật này". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C23, tr.92-93). 2. Quá trình tích luỹ tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng a) Tích tụ tư bản: Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư. Như vậy, tích tụ tư bản là kết quả trực tiếp của tích luỹ. Tích tụ tư bản làm cho tư bản cá biệt và tư bản xã hội đều tăng. Tích tụ tư bản biểu hiện trực tiếp quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê. "Mỗi tư bản cá biệt bao gồm trong tư bản xã hội đều đại biểu trước hết cho một sự tích tụ nào đó của những tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt của lao động vào tay một nhà tư bản, và tư bản càng tích luỹ thì sự tích tụ này càng mở rộng. Như vậy là trong khi làm tăng thêm những yếu tố tái sản xuất của cải thì đồng thời tích luỹ cũng làm tăng thêm sự tích tụ những yếu tố ấy trong tay những nhà tư bản tư nhân. Tuy nhiên, loại tích tụ này là hậu quả tất nhiên của tích luỹ, lại vận động trong những giới hạn ít nhiều chật hẹp". (Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C23, tr.92-92). Tích tụ tư bản bị một xu hướng ngược lại cản trở, đó là xu hướng phân tán của tư bản. Xu hướng này biểu hiện ở chỗ: hoặc tư bản mới tích luỹ không nhập vào tư bản cũ mà tách ra thành một tư bản mới hoạt động độc lập, hoặc một tư bản cũ bị phân chia thành nhiều tư bản nhỏ, như trong trường hợp chia gia tài... Nhưng xu hướng này lại bị xu hướng tập trung tư bản cản trở và lấn át. Tích tụ tư bản là một yếu tố tất yếu, bởi vì một mặt đó là yêu cầu của quyluật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản của cạnh tranh và của tiến bộ kỹ thuật. Mặt khác trình độ bóc lột và khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được ngày càng tăng trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản là điều kiện vật chất làm cho khả năng tư bản hóa giá trị thặng dư biến thành hiện thực tích luỹ tư bản. "Như vậy là sự vận động tích tụ không những cũng phân tán trên bấy nhiêu điểm, giống như tích luỹ mà tình trạng chia nhỏ tư bản xã hội thành vô số những tư bản độc lập với nhau lại được củng cố chính bởi vì mỗi tư bản cá biệt đều hoạt động như trung tâm tích tụ tương đối. Vì tổng số các món lợi nhuận mà tích luỹ đem tăng thêm cho các tư bản, cá biệt là chừng nào thì đều làm cho tư bản xã hội lớn lên chừng ấy, cho nên sự tích tụ tương đối mà tất cả các tư bản cá biệt biểu hiện ra một cách trung bình, không thể tăng lên nếu như không có sự đồng thời tăng lên của tư bản xã hội tức là của của cải xã hội dành cho tái sản xuất. Đó là giới hạn thứ nhất của sự tích tụ, mà sự tích tụ này chẳng qua chỉ là hậu quả tất nhiên của tích luỹ". "Cuối cùng, có những tư bản lớn, do tích luỹ dần dần mà có được, đến một lúc nào đó thì chia nhỏ ra thành nhiều tư bản cá biệt, chẳng hạn thì vào dịp chia gia tài trong những gia đình tư bản. Như vậy là sự tích tụ vừa bị cản trở bởi sự phân chia tư bản cũ. Như vậy trong sự vận động của tích luỹ xã hội, ta thấy một mặt là sự tích tụ ngày càng nhiều những yếu tố tái sản xuất của của cải vào trong tay những nhà tư bản tư nhân, mặt khác là sự phân tán và tăng thêm những trung tâm tích luỹ và tích tụ tương đối, những trung tâm ấy xô đẩy lẫn nhau ra khỏi những quỹ đạo riêng biệt của chúng". (Sách đã dẫn, tr.93) b) Tập trung tư bản Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất nhiều tư bản cá biệt sẵn có thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn. "Đến một điểm nào đó của sự tiến bộ kinh tế, thì sự chia cắt tư bản xã hội thành vô số những tư bản cá biệt như thế, hay là sự vận động xô đẩy lẫn nhau của các bộ phận cấu thành của tư bản xã hội sẽ bị cản trở bởi một sự vận động, theo chiều đối lập, của sự thu hút lẫn nhau của chúng. Đây không phải là sự tích tụ bị lẫn lộn làm một với tích luỹ nữa, mà là một quá trình khác hẳn về căn bản, tức là sự thu hút làm cho những trung tâm tích luỹ và tích tụ khác nhau hợp nhất lại với nhau, và sự tích tụ của những tư bản đã hình thành, là sự hỗn hợp một số lớn tư bản thành một số nhỏ hơn, nói tóm lại, là sự tập trung theo đúng nghĩa của nó". (Sách đã dẫn, tr.94). "Quy mô mở rộng của các xí nghiệp bao giờ cũng vẫn sẽ là điểm xuất phát cho một sự tổ chức một cách rộng lớn hơn của lao động tập thể, cho một sự phát triển một cách rộng rãi hơn của những thủ đoạn vật chất c ủa lao động, nói tóm lại là điểm xuất phát cho sự chuyển biến dần dần từ những quá trình sản xuất xã hội kết hợp và xếp đặt một cách khoa học. Nhưng hiển nhiên là tích luỹ, tức là sự tăng lên dần dần của tư bản nhờ tái sản xuất theo hình xoáy trôn ốc, chỉ là một phương pháp chậm chạp so với phương pháp tập trung là phương pháp trước nhất chỉ làm thay đổi sự bố trí về lượng của bộ phận cấu thành của tư bản xã hội. Nếu như phải nhờ đợi đến lúc những tư bản cá biệt nhờ tích luỹ mà lớn lên đủ để có thể đảm nhiệm được việc xây dựng các đường sắt chẳng hạn, thì thế giới sẽ chưa thể có được hệ thống các đường sắt. Sự tập trung tư bản thông qua các Công ty cổ phần đã làm được việc đó, có thể nói là trong chốc lát. Trong khi làm cho những tác dụng của tích luỹ trở nên rộng lớn hơn và mau chóng hơn như vậy, sự tập trung mở rộng và đẩy nhanh thêm những sự biến đổi trong cấu thành kỹ thuật của tư bản, những sự biến đổi làm tăng thêm bộ phận bất biến của tư bản bằng cách lấn sang bộ phận khả biến của nó, hay là tạo nên một số sự giảm sút trong số cần tương đối về lao động. Những tư bản lớn do tập trung tạo nên một cách mau chóng, cũng tự tái sản xuất ra bản thân như các tư bản khác, nhưng nhanh hơn và do đó, chúng lại trở thành những đòn bẩy mạnh mẽ của tích luỹ xã hội. Chính trên ý nghĩa đó mà khi nói đến sự tăng lên của tích luỹ xã hội, người ta đã ngụ ý, nói bao hàm cả những tác dụng cho tập trung tạo ra". (Sách đã dẫn, tr.96-97). (Kinh tế - chính trị Mác - Lênin (trích tác phẩm kinh điển) Nhà xuất bản Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội, 1978, tr.266). 3. Quá trình tích luỹ tư bản là quá trình hình thành đội quân thất nghiệp (nhân khẩu thừa) "... hậu quả tất nhiên của quy luật về sự giảm sút tương xứng của tư bản khả biến và về sự giảm sút tương đương trong số cầu tương đối về lao động là: tư bản khả biến tăng lên tuyệt đối theo một tỷ lệ ngày càng thấp, và cuối cùng, cái bổ sung cho quy luật đó là: sự sản sinh ra một số nhân khẩu thừa tương đối, bởi vì nhân khẩu đó không phải là kết quả của một sự tăng thực tế của nhân khẩu công nhân làm cho nhân khẩu công nhân vượt quá những giới hạn của của cải đang được tích luỹ, mà trái lại, nó là kết quả của một sự tăng lên mau chóng c ủa tư bản xã hội khiến cho tư bản này không cần đến một bộ phận lớn hay nhỏ trong số công nhân của nó. Vì số nhân khẩu thừa này chỉ tồn tại đối với những nhu cầu nhất thời của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa, nên nó có thể phình ra và co lại một cách đột ngột. Như vậy là trong khi giai cấp làm thuê tạo ra sự tích luỹ tư bản, và theo chừng mực mà nó thành công trong việc đó thì giai cấp làm thuê chính mình lại cũng tạo ra những công cụ để sa thải mình hay biến mình thành số nhân khẩu thừa tương đối. Đó là quy luật nhân khẩu". "... nhân khẩu thừa là sự biểu hiện không thể chối cãi được của một mối mâu thuẫn (cũng như sản xuất thừa và tiêu dùng thừa), là kết quả tất nhiên của tích luỹ tư bản chủ nghĩa, đồng thời là một yếu tố cần thiết trong guồng máy tư bản chủ nghĩa. Đại công nghiệp càng phát triển, thì nhu cầu về nhân công càng có những biến động tùy theo các thời kỳ khủng hoảng hay thịnh vượng trong toàn bộ nền sản xuất quốc dân hay trong mỗi ngành kinh tế riêng rẽ của nền sản xuất đó; những biến động ấy là nền sản xuất của tư bản chủ nghĩa, nền sản xuất này không thể tồn tại được nếu không có nhân khẩu thừa (tức là số nhân khẩu cao hơn mức nhu cầu trung bình về sức lao động trong chủ nghĩa tư bản) để có thể cung cấp nhân công bất cứ lúc nào cho bất cứ ngành công nghiệp nào hay xí nghiệp nào. Sự phân tích một cách khoa học đã chứng minh rằng: trong tất cả các ngành công nghiệp mà chủ nghĩa tư bản đã xâm nhập vào, đều có nhân khẩu thừa, trong nông nghiệp cũng đúng hệt như trong công nghiệp; rằng nạn nhân khẩu thừa tồn tai dưới nhiều hình thức". (Trích V.I.Lênin, toàn tập, tập 2, tr.219-220). "... Những lợi ích bảo thủ mà Man - tuýt phụng sự, đã ngăn cản không cho ông ta thấy rằng việc kéo dài quá đáng ngày lao động cộng thêm sự phát triển lạ thường của máy móc và sự bóc lột ngày càng tăng đối với lao động của phụ nữ và trẻ em, tất sẽ làm cho phần lớn giai cấp công nhân trở thành "dư thừa" một khi chiến tranh đã kết liễu và nước Anh mất quyền độc chiếm thị trường thế giới. Giải thích nạn nhân khẩu thừa ấy bằng những quy luật vĩnh viễn của thiên nhiên chứ không phải bằng những quy luật lịch sử của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, như thế tất nhiên là tiện hơn và thích hợp hơn với lợi ích của các giai cấp cầm quyền, mà Man-tuýt đã sùng bái với tư cách là mục sư chính cống). (C.Mác "Bộ Tư bản", quyển 1, tập 2, tr.287). 4. Quy luật chung của tích luỹ tư bản "Của cải xã hội càng nhiều, tư bản được sử dụng càng lớn, quy mô và năng lực tích luỹ của tư bản càng lớn và cũng do đó số lượng tuyệt đối của giai cấp công nhân và năng lực sản xuất của lao động của họ càng lớn, thì đạo quân công nghiệp trừ bị càng động. Cũng vẫn những nguyên nhân đã phát triển sức bành trướng của tư bản thì đồng thời cũng gây ra tình trạng sa thải sức lao động, và đạo quân công nghiệp trừ bị như vậy là phải tăng lên cùng với những tiềm lực của của cải. Nhưng đạo quân trừ bị càng lớn lên so với đạo quân lao động tại ngũ thì nhân khẩu thừa thường xuyên cũng càng lớn lên, mà sự cùng khổ của số nhân khẩu thừa này thì theo tỷ lệ nghịch với lao động mà họ bị bắt buộc phải làm. Sau hết cái lớp những người đi ăn xin này của giai cấp làm thuê càng tăng thêm thì lớp người bần cùng được các nhà chức trách chính thức công nhận cũng càng tăng thêm. Đó là quy tắc chung của tích luỹ tư bản chủ nghĩa... ... Nhưng tất cả những phương pháp giúp vào việc sản xuất ra giá trị thặng dư, cũng đều tạo điều kiện thuận lợi cho tích luỹ và mọi sự mở rộng của tích luỹ, đến lượt nó, đều lại làm cho những phương pháp nói trên phát triển lên. Kết quả là mặc dầu định nghịch tiền công cao hay thấp như thế nào, nhưng tư bản càng tích luỹ lại thì tình cảnh của người lao động nhất định càng tồi tệ hơn trước... Chính cái quy tắc ấy dựng lên một mối tương quan không thể tránh khỏi giữa tích luỹ tư bản và tích luỹ sự nghèo khổ, thành thử tích luỹ của cải ở một cực này có nghĩa là tích luỹ sự nghèo nàn, đau khổ, dốt nát, đần độn, trụy lạc về tinh thần, nô lệ ở cực đối lập, tức là ở ngay phía giai cấp sản xuất ra tư bản". (C.Mác "Bộ Tư bản", quyển 1, tập 3, tr.123-126). 5. Quá trình tích luỹ tư bản là quá trình bần cùng hóa giai cấp công nhân "Một ngôi nhà có thể to hay nhỏ, nhưng chừng nào những ngôi nhà xung quanh cũng đều nhỏ cả, thì ngôi nhà đó thỏa mãn được tất cả mọi yêu cầu xã hội mà người ta đề ra cho một ngôi nhà. Nhưng nếu bên cạnh ngôi nhà nhỏ lại mọc lên một tòa lâu đài, thế là ngôi nhà nhỏ đó tụt xuống hạng túp lều... Và trong quá trình văn minh, ngôi nhà đó có thể cứ lớn hơn mãi lên, nhưng nêu tòa lâu đài bên cạnh cũng lớn lên nhanh như thế nhiều thì kẻ ở ngôi nhà tương đối nhỏ sẽ ngày càng thấy không thoải mái, không được thỏa mãn, thấy chật chội trong bốn bức tường nhà mình". (C.Mác - Ph.Ăngghen: Tuyển tập, tập 1, tr.99). "Bất cứ người quan sát vô tư nào cũng đều trông thấy hoàn toàn rõ ràng tư liệu sản xuất càng tập trung lên một quy mô lớn thì những người lao động càng ở chồng chất trong một khoảng không gian chật hẹp; rằng tích lũy tư bản càng nhanh chóng thì nhà ở của công dân càng trở nên khốn nạn. Thật thế, hiển nhiên là những sự sửa sang và làm cho đẹp các thành phố. Kết quả của sự tăng thêm của của cải như phá hủy các khu phố kiến trúc xấu, xây dựng lâu đài cho các ngân hàng, kho tàng... mở rộng phố xá cho tiện sự giao thông thương mại và sự đi lại của các xe cộ sang trọng, xây dựng các con đường sắt trong nội thành... đều luôn luôn xua đuổi những người nghèo vào các xó xỉnh ngày càng bẩn thỉu và hại vệ sinh. Mặt khác mọi người đều biết rằng tiền thuê nhà lại theo tỷ lệ nghịch với phẩm chất của các nhà ấy". (C.Mác "Bộ Tư bản", quyển 1, tập 3 tr.142-143) ... "Như thế vậy chế độ lao động làm thuê, là một chế độ nô lệ, thật ra là một chế độ nô lệ càng khổ cực hơn khi sức sản xuất xã hội của lao động càng phát triển, dù cho tiền công mà công nhân nhận được cao hay hạ cũng thế". (C.Mác - Ph.Ăngghen: Tuyển tập, tập II, trang 28). 6. Xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản "Quá trình tiêu hủy của phương thức sản xuất đó (phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa) biến nhưng tư liệu sản xuất cá nhân và phân tán thành những tư liệu sản xuất tập trung về mặt xã hội, biến quyền sở hữu nhỏ bé của số đông thành quyền sở hữu to lớn của một vài người, cái việc tước đoạt nhân dân lao động một cách đau đớn, ghê sợ như thế, đấy chính là những nguồn gốc của tư bản, là sự phát sinh của tư bản. Sự phát sinh này được tiến hành bằng cả một loạt những phương pháp bạo lực, mà chúng ta chỉ mưói xét những phương pháp nổi bật nhất, dưới cái tên là những phương pháp tích luỹ nguyên thủy. Việc tước đoạt những người sản xuất trực tiếp đã được tiến hành bằng một lối phá hoại tàn nhẫn được sự kích thích của những động cơ ty tiện nhất, của những dục vọng nhỏ nhen bẩn thỉu nhất và đáng ghét nhất. Chế độ tư hữu dựa trên lao động cá nhân, cái chế độ tư hữu dựa trên lao động cá nhân, cái chế độ tư hữu có thể nói là nó gắn liền với người lao động cá thể và độc lập vào những điều kiện bên ngoài của lao động, sẽ bị thay thế bởi chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa dựa trên sự bóc lột lao động của người khác trên chế độ làm thuê. Khi quá trình biến chuyển ấy đã phân hóa xã hội cũ một cách đầy đủ và triệt để khi những người sản xuất biến thành vô sản và những điều kiện lao động của họ biến thành tư bản, và cuối cùng khi chế độ tư bản chủ nghĩa, đứng vững được chỉ là nhờ có độc lực lượng kinh tế của các sự vật, thì khi ấy, sự xã hội hóa sau này của lao động và việc biến dần ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác thành những tư liệu sản xuất do xã hội sử dụng, thành những tư liệu sản xuất chung, tóm lại là việc tước đoạt quyền tư hữu sau này, sẽ mang một hình thái mới. Bấy giờ kẻ bị tước đoạt không phải là người lao động độc lập nữa mà là nhà tư bản, người điều khiển một đoàn quân hay một tốp người làm thuê. Sự tước đoạt đó được hoàn thành bởi tác dụng của những quy luật nội tại của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, những quy luật này dẫn đến sự tập trung các tư bản. Đi song song với việc tập trung đó, với việc số đông nhà tư bản bị một số ít tước đoạt, thì cũng phát triển trên một quy mô ngày càng lớn, việc áp dụng khoa học vào kỹ thuật, việc khai thác ruộng đất một cách có kế hoạch và tập thể, việc biến các công cụ lao động thành những công cụ mạnh mẽ (mạnh mẽ, chỉ là do chỗ đem sử dụng chung), như thế tức là cũng phát triển trên một quy mô ngày càng lớn sự tiết kiệm những tư liệu sản xuất, sự kết hợp giữa tất cả các dân tộc trong hệ thống thị trường thế giới, do đó mà có tính chất quốc tế của chế độ tư bản. Con số những tên trùm tư bản chiếm đoạt và lũng đoạn tất cả những ưu lợi của thời kỳ tiến triển xã hội đó càng giảm bớt đi, thì sự nghèo đòi, áp bức, nô dịch, thoái hóa, bóc lột càng tăng lên, nhưng đồng thời sức phản kháng của giai cấp công nhân - giai cấp đang không ngừng đông đúc thêm và ngày càng được chính ngay cơ cấu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa rèn luyện, thống nhất và tổ chức lại - cũng tăng lên. Sự lũng đoạn của tư bản trở thành một trở ngại đối với các phương thức sản xuất đã lớn lên và thịnh vượng lên cùng với sự lũng đoạn đó và nhờ sự lũng đoạn đó. Sự xã hội hóa lao động và sự tập trung các phương tiện vật chất của lao động đã đi đến chỗ khiến sự xã hội hóa và tập trung đó không còn có thể nằm vừa trong cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng được nữa. Cái vỏ này phải vỡ tung ra từng mảnh. Chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa đã đến giờ tận số. Đến lượt những kẻ đi tước đoạt lại bị tước đoạt. Sự chiếm hữu tư bản chủ nghĩa, tương ứng với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là sự phủ định thứ nhất đối với cái chế độ tư hữu chỉ dựa trên lao động độc lập và cá thể. Nhưng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại tự nó đẻ ra sự phủ định bản thân nó một cách tất yếu như tính tất yếu chi phối những sự biến hóa của tự nhiên. Đó là phủ định cái phủ định. Sự phủ định cái phủ định này không lập lại chế độ tư hữu của người lao động, mà là lập lại chế độ sở hữu cá nhân của người lao động, một chế độ sở hữu cá nhân xây dựng trên cơ sở những thành tựu của thời địa tư bản chủ nghĩa, trên sự hiệp tác và sự sở hữu chung về tất cả những tư liệu sản xuất, kể cả ruộng đất. Muốn biến tài sản tư hữu và phân tán, đối tượng của lao động cá nhân, thành tài sản tư bản chủ nghĩa, thì dĩ nhiên là đã phải tốn nhiều thời gian, nhiều cố gắng và gian khổ hơn là biến tài sản tư bản chủ nghĩa là tài sản thực ra đã dựa trên một phương thức sản xuất tập thể, thành tài sản xã hội. Một đằng là vấn đề một số ít kẻ tiếm đoạt tước đoạt quần chúng; một đằng lại là quần chúng tước đoạt một số ít kẻ tiếm đoạt". (C.Mác "Bộ Tư bản", quyển 1, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960, tr.287-290).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf20_6899.pdf
Luận văn liên quan