Tiểu luận Kinh tế hợp tác

Tóm lại, hợp tác là tất yếu, không có hợp tác thì hiệu quả công việc không cao. Ngay từ khi tạo dựng hình hài hợp tác xã đầu tiên, những nhà sáng lập Liên minh những người tiên phong công bằng Rochdale (Anh Quốc, 1844) đã chọn lọc những ưu việt trong nguyên tắc hoạt động của hiệp hội tự nguyện và doanh nghiệp, biến thể chúng để tạo ra tổ chức “hợp tác xã” có những đặc trưng riêng biệt. Hợp tác xã là một tổ chức rất đặc thù, mang tính “nhị nguyên” thể hiện ở vai trò kép với hai cơ cấu cùng tồn tại song hành: khía cạnh hiệp hội được hình thành trên cơ sở các cá nhân tự nguyện, liên kết với nhau trên tinh thần tương trợ, dân chủ, minh bạch, bình đẳng, bác ái, trách nhiệm cộng đồng; và khía cạnh doanh nghiệp được thể hiện ở việc huy động vốn góp của xã viên để tổ chức hoạt động kinh doanh có hiệu quả (giá trị thặng dư) vì mục tiêu gia tăng thêm tài sản của xã viên và tích luỹ nội bộ trong hợp tác xã. Thật sai lầm khi cho rằng hợp tác xã là “cánh tay nối dài” của chính quyền và sai lầm hơn khi tin rằng hợp tác xã là “con đẻ của nhà nước”.

docx37 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4946 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Kinh tế hợp tác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hợp tác Kinh tế hợp tác Là sự kết hợp sức mạnh của các cá nhân hoặc các đơn vị để tạo nên sức mạnh lớn hơn Là một phạm trù về lợi ích kinh tế do hợp tác mang lại Một số hình thức hợp tác chủ yếu trong nông nghiệp. Có nhiều góc độ để xem xét các hình thức kinh tế hợp tác, tùy theo quan hệ các chủ thể hợp tác, tính phức tạp của sự hợp tác hay phương thức hợp tác mà ta có thể có các tên gọi của các hình thức hợp tác khác nhau. 2.2.1 Xét theo mức độ tiến hành hợp tác a, Hợp tác giản đơn Hình thức này xuất hiện khi sản xuất hàng hóa chưa phát triển, lực lượng sản xuất còn thô sơ, sản xuất chủ yếu tự cung tự cấp. Ưu điểm: hình thức này có ưu điểm là linh hoạt, phong phú, có thể tổ chức ở mọi nơi. Hình thức này có tính tương trợ và giúp đỡ nhau cao (chủ yếu xây dựng dựa trên quan hệ tình cảm) Nhược điểm: Không ổn định, không có tư cách pháp nhân, không có bộ máy quản l‎í, không có điều lệ hoạt động. Hình thức hợp tác giản đơn thể hiện ở 2 dạng sau: Dạng 1: Tổ, hội nghề nghiệp - Là tổ chức hình thành trên cơ sở tự nguyện của các chủ thể kinh tế độc lập có hình thức hoạt động kinh doanh giống nhau. Mục đích của tổ, hội nghề nghiệp nhằm cộng tác, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mỗi thành viên tham gia. Hiện nay, nông nghiệp, nông thôn nước ta đang tồn tại các loại tổ, hội nghề nghiệp như: tổ nuôi ong, tổ làm vườn, tổ nuôi cá, tổ nuôi tôm, tổ trồng rừng... - Tổ, hội hoạt động không có điều lệ, không có tư cách pháp nhân. Quan hệ giữa các thành viên chủ yếu được xây dựng trên cơ sở quan hệ tình cảm, tập quán, cộng đồng, không mang tính pháp lý. Do đó, hình thức này rất linh hoạt, dễ thành lập cũng như giải thể. Tuy nhiên, do không có tư cách pháp nhân nên nếu thành viên nào đó không giữ chữ „tín“ thì tổ, hội cũng khó có căn cứ để xử lí. - Tổ, hội không có sự trợ giúp tài chính nào của Nhà nước. Quỹ cho tổ, hội hoạt động là do các thành viên đóng góp trên cơ sở tự thỏa thuận, quy mô tự định, thường từ 5-10 người, có tổ lên tới 30 người. Hiện nay, hình thức này đang phát triển và có tác dụng tốt trong nông nghiệp, nông thôn vì nó có tác dụng rất rõ rệt nhằm giúp nhau trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, tạo sự ổn định giá cả trên thị trường. Dạng 2: Tổ, nhóm hợp tác Là loại hình kinh tế hợp tác giản đơn do các chủ thể kinh tế độc lập tự nguyện thành lập, xuất phát từ nhu cầu của các thành viên, nó hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện gia nhập, ra khỏi, quản lý dân chủ, cùng có lợi. Ở loại hình kinh tế hợp tác này, đặc trưng rất quan trọng là quan hệ hợp tác không mang tính ổn định thường xuyên, không mang tính pháp lý, không xây dựng quy chế hoạt động thành văn bản, không có tư cách pháp nhân. Quan hệ hợp tác được xây dựng trên quan hệ tình cảm, cộng đồng và thường chỉ hợp tác khi có nhu cầu nên nó mang tính thời vụ. Do đó, khi có sự tranh chấp, bất tín xảy ra, các cơ quan có thẩm quyền khó có căn cứ pháp lí để bảo vệ quyền lợi cho nó. Tuy vậy, hình thức hợp tác này vẫn phát huy tác dụng tốt trong nhiều lĩnh vực, ở mọi điều kiện đặc biệt là ở những nơi sản xuất nông nghiệp còn mang tính tự cấp tự túc. Hiện nay hình thức hợp tác này cũng đang phát triển và có tác dụng tốt. Hình thức này có thể là „đơn mục đích“ tức là các chủ thể có thể có mục đích hoạt động kinh doanh giống nhau nhưng cũng có thể là „đa mục đích“ tức là các chủ thể có nhiều mục đích hoạt động kinh doanh khác nhau nhưng hợp tác với nhau. Ví dụ tổ nuôi ba ba, tổ nuôi rắn, tổ trồng chè...là tổ „đơn mục đích“ Ví dụ: trồng trọt kết hợp với chăn nuôi, chế biến, dịch vụ...là tổ „đa mục đích“ b, Hợp tác phức tạp Là hình thức tổ chức do các ngành, các thành phần kinh tế (các chủ thể kinh tế) cùng góp vốn, sức lao động để sản xuất kinh doanh. Hình thức này được thể hiện như các Hợp tác xã, các NTQD, các trạm, trại, các tập đoàn sản xuất, các Xí nghiệp liên hiệp hoặc Liên hiệp xí nghiệp... với sự hợp tác đa ngành, đa thành phần kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần hiểu rõ hơn, đó là ngay trong các tổ chức hợp tác phức tạp này vẫn chứa đựng sự hợp tác giản đơn vì những lí do tất yếu của sự hợp tác. Hình thức này được tổ chức có bộ máy quản lí‎ để điều hành công việc chung, có vốn, quỹ chung để hoạt động. Vốn này ban đầu là do các thành viên góp theo quy định khi vào hợp tác, sau đó tăng dần theo khả năng tích lũy. Những tổ chức kinh tế hợp tác này có tư cách pháp nhân, do đó, Nhà nước có vai trò, trách nhiệm bảo vệ chúng. Tuy nhiên, hình thức này lại rất kém linh hoạt cả trong quản l‎í và trong tổ chức điều hành. Để được thành lập, cần có những điều kiện nhất định (với mỗi tổ chức có quy định riêng), và do đó nó cần có thời gian nhất định. 2.2.2. Xét theo cách thức hợp tác a, Hợp tác theo ngành: Đây là sự hợp tác theo chiều dọc của sản phẩm, tức là sự hợp tác giữa các chủ thể từ khi sản xuất cho đến khi tiêu thụ sản phẩm. Các chủ thể sản xuất hợp tác với các chủ thể chế biến hay dịch vụ để chế biến sản phẩm hay dịch vụ để tiêu thụ sản phẩm. Ví dụ như sự hợp tác giữa xã viên trồng mía với cơ sở chế biến đường của Công ty mía đường Lam sơn, sự hợp tác giữa công nhân trồng chè với các Công ty chè... Sự hợp tác này có ‎ ý nghĩa rất lớn đối với nông dân. Tuy nhiên, do có nhiều khó khăn và do trình độ dân trí còn thấp nên nhiều khi bà con nông dân đã vi phạm những nguyên tắc của hợp tác, vì vậy đã làm cho các chủ thể chế biến hay tiêu thụ gặp rất nhiều khó khăn nên hình thức hợp tác này chưa phát triển rộng khắp. Ví dụ như khi giá mía ngoài thị trường cao hơn giá mía đã được bà con kí với Công ty mía đường thì bà con đã tự phá vỡ hợp đồng với Công ty để bán ngoài kiếm lợi làm ảnh hưởng lớn đến Công ty. b, Hợp tác theo vùng: Đây là sự hợp tác theo chiều ngang của sản phẩm. Sự hợp tác này có thể diễn ra giữa huyện này với huyện khác, vùng này với vùng khác hay giữa hợp tác xã này với hợp tác xã khác. Sự hợp tác này có thể chỉ để sản xuất một loại sản phẩm nhưng cũng có thể để sản xuất nhiều loại sản phẩm. c, Hợp tác giữa các thành phần kinh tế : Hiện nay, chúng ta có 6 thành phần kinh tế, mỗi thành phần kinh tế đều có được sức mạnh riêng. Việc hợp tác giữa các thành phần kinh tế sẽ khai thác được thế mạnh tổng hợp cho tổ chức kinh tế hợp tác. Ở một số địa phương, hình thức này đã được chú ý khai thác vì nông dân đã thấy được thế mạnh của nó: các hợp tác xã hợp tác với các nông trường, trạm trại để giải quyết khó khăn về hạt giống hay khoa học kỹ thuật cho các hộ nông dân. Ví dụ ở Thanh hóa có sự hợp tác giữa Công ty mía đường Lam Sơn (đây là thành phần kinh tế nhà nước) với các hợp tác xã (đây là thành phần kinh tế tập thể) xung quanh khu vực của Công ty với các hộ xã viên (cả các hộ tư nhân và các hộ là xã viên hợp tác xã). Mối quan hệ hợp tác giữa các thành phần kinh tế cũng được thể hiện thông qua sự liên kết 4 nhà: nhà nông, Nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp. Nhìn chung, hình thức hợp tác này tạo được nhiều sức mạnh kinh tế nhưng vì trình độ dân trí còn thấp nên không phát huy được thế mạnh của nó. Các tổ chức thuộc thành phần kinh tế Nhà nước còn ngại hợp tác với các thành phần kinh tế tập thể hoặc tư nhân vì các thành phần kinh tế này rất dễ bị thị trường lung lạc, dễ phá vỡ hợp đồng mà xử l‎í họ theo pháp luật cũng không hề dễ dàng. Như vậy, nhiều khi các chủ thể thuộc thành phần kinh tế Nhà nước lại chịu nhiều thiệt thòi nhất sau khi mang lại lợi ích cho các thành phần kinh tế khác. 2.2.3. Xét theo chủ thể tham gia hợp tác. Chúng ta xem xét xem sau khi hợp tác các chủ thể có sự thay đổi nào về tổ chức, về hoạt động sản xuất kinh doanh...Nó bao gồm Các thành phần kinh tế, Liên kết sản xuất, Liên doanh sản xuất và Liên hiệp hóa sản xuất. Ta sẽ xét các hình thức này trong chương sau. Các hình thức hợp tác không thuần túy ở một hình thức mà đan xen nhiều hình thức đó là hình thức hợp tác hỗn hợp. 2.2.4. Mức độ và hiệu quả của các hình thức hiệp tác. Mức độ hiệp tác phát triển từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ đơn giản đến phức tạp. Ví dụ như hợp tác của nông dân trong phong trào hợp tác hóa, tư sản xuất tự cung, tự cấp đến sản xuất hàng hóa mang tính hội nhập toàn cầu. Mức độ hợp tác càng cao, quy mô càng lớn, càng phức tạp đòi hỏi trình độ hợp tác cao nhưng ngày càng có hiệu quả. Điều này được chứng minh bằng các hoạt động kinh tế , xã hội,... khi đất nước phát triển theo cơ chế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế. Như vậy, sự phát triển mức độ và hiệu quả hợp tác phụ thuộc vào sự tiến bộ và phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ thấp thì quy mô và hiệu quả hợp tác thấp, lực lượng sản xuất càng phát triển thì trình độ hợp tác và hiệu quả hợp tác ngày càng cao. Vì vậy, có thể nói mức độ hợp tác và hiệu quả của hợp tác là biểu hiện của quan hệ sản xuất nó phù hợp và thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, hoàn toàn phù hợp về quy luật quan hệ sản xuất thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thước đo đánh giá mức độ và hiệu quả của hợp tác được biểu hiện bằng các chỉ tiêu: - Mức độ hợp tác thể hiện quy mô và phức tạp, thể hiện về mặt lượng của hợp tác, vì vậy có thể sử dụng các chỉ tiêu về số lượng như số người, số hộ , số đơn vị hợp tác. Ví dụ HTX nông nghiệp có quy mô thôn hay quy mô xã, số xã viên của HTX, số vốn của HTX... - Hiệu quả của hợp tác đánh giá chất lượng của sự hợp tác như: thu nhập (GDP) của tổ chức của đất nước, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng đời sống, mức tăng trưởng, ... II. Thực trạng phát triển hợp tác xã ở nước ta hiện nay Quá trình phát triển. a, Giai đoạn trước đổi mới. * Thời kì thí điểm xây dựng HTX ở miền bắc (1955-1957). Mục tiêu của cách mạng dân chủ của nước ta là giải phóng dân tộc và cải cách ruộng đất cho người nghèo. Trong giai đoạn này đã xây dựng được 45 HTX và hơn 100000 tổ đối công. Tuy số lượng HTX còn ít, trình độ thấp, song có tác động tích cực đến sản xuất và xây dựng nông thôn. * Thời kì tổ chức xây dựng HTX nông thôn bậc thấp (1958-1960) Miền bắc đã có 40422 HTX nông nghiệp, thu hút 2,4 triệu hộ nông dân chiếm 85,8 % tổng số hộ với 76%diện tích ruông đất về cơ bản miền Bắc đã hoàn thành xây dựng HTX bậc thấp. Có 4346 HTX bậc cao và xuất hiện một số HTX có quy mô toàn xã. * Thời kì tổ chức HTX bậc cao (1960-1965). Có 17562 HTX bậc cao, thu hút 90,3% số hộ nông dan miền Bắc tham gia HTX trong đó có 80% số hộ tham gia HTX bậc cao. Tuy nhiên trong thời kì này, phong trào HTX bộc lọ nhiều khuyết tật. Số HTX yếu kém nhiều, hiệu quả hoạt đọng thấp, chưa đạt được mục tiêu hợp tác hóa đề ra, chưa xác định được niềm tin vững chắc đối với nông dân. Mục tiêu hợp tác hóa là: + Xây dưng quan hệ sản xuất mới trong nông thôn + Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho nông nghiệp * Thời kì tiếp tục củng cố và phát triển HTX ở miền Bắc (1966-1975) Đẩy mạnh cuộc vận động cải tiến quản lí, cải tiến kĩ thuật và tiến hành cuộc vận động dân chủ, phấn đấu đưa nông nghiệp miền Bắc tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Có 97% số hộ nông dân vào HTX trong đó 88% tham gia HTX bậc cao Quy mô hợp tác xã không ngừng mở rộng nhưng xuất hiện nhiều tồn tại: + Diện tích gieo trồng của các HTX trong giai đoạn 1966-1975 giảm 3,6% so với giai đoạn 1961-1965. + cán bộ xã viên có thu nhập từ HTX ngày càng thấp, lương thực bình quân theo đầu người giảm từ 304kg thời kì 1961-1965 xuống còn 258,8kg thời kì 1966-1975. + Tệ nạn tham ô, lãng phí và hiện tượng thất thoát, hư hao tiền của * Thời kì mở rộng hợp tác hóa trên phạm vi cả nước (1976-1986). Ở miền Bắc: HTX nông nghiệp tiếp tục mở rộng quy mô tổ chức lại theo hướng tập trung, chuyên môn hóa, cơ giới hóa. Ở miền Nam: phát triển hợp tác hóa nông nghiệp đã được đẩy nhanh. Đánh giá chung hợp tác hóa cả nước: + Cuối thập kỉ 70 và đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX phát triển hợp tác hóa nông nghiệp lâm vào tình trạng bế tắc, những khuyết điểm yếu kém của mô hình hợp tác kiểu cũ ngày càng bộc lộ rõ, tác đông tiêu cực về tâm lí và xã hội trong nông thôn , người lao động không gắn bó với ruộng đất. + Sản xuất nông nghiệp dậm chân tại chỗ. Số lượng lương thực từ 1976-1981 không vượt quá con số 15 triệu tấn mỗi năm. + Để tháo gỡ khó khăn, 1 số địa phương đã đi tìm mô hình mới về HTX nông nghiệp theo phương thức khoán sản phẩm đến người lao động. + Tháng 1-1981,ban bí thư đẫ ban hành chỉ thị 100 CT-TW về cải thiện công tác khoán và mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong HTX nông nghiệp và đã thu được kết quả rất lớn trong sản xuất nông nghiệp. + tuy nhiên mô hình HTX vẫn dựa trên sở hữu tập thể, quản lí tập trung, phân phối thống nhất theo chế độ cộng điểm. b, Giai đoạn từ đổi mới đén nay (1987 đến nay) * Thời kì từ thực hiện đổi mới đến khi có luật hợp tác xã (1987-1996) Cải biến thực sự tính chất va phương cách tổ chức quản lí HTX NN ở nước ta: Hộ gia đình xã viên được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ, kinh tế hộ được quyền chủ động sản xuất kinh doanh HTX chỉ thực hiện những khâu mà kinh tế hộ làm không hiệu quả hoặc không làm được Do không thích ứng với cơ chế mới và do công tác quản lí nhà nước đối với HTX không theo kịp tình hình nên vào những năm đầu của thập kỉ 90 thế kỉ trước, hầu hết các HTX và tập đoàn sản xuất nông nghiệp bị giải thể hàng loạt hoặc chỉ tồn tại về mặt hình thức, chỉ có khoảng 15% số HTX đã chuyển đổi hoạt động thích ứng với điều kiện mới bảo đảm phục vụ và thúc đẩy kinh tế phát triển sản xuất. Thời điểm cao nhất của phát triển hợp tác hóa nông nghiệp, cả nước có 17022 HTXNN và 36352 tập đoàn sản xuất nông nghiệp thì đến tháng 12-1996, cả nước chỉ còn 13763 HTXNN và 1892 tập đoàn sản xuất nông nghiệp. * Thời kì khi có luật HTX đến nay (1997 đến nay) Tính đến ngày 30-6-2010, cả nước có 8918 HTXNN, bình quân 1 HTX có 795 xã viên. Hiện nay, các HTXNN chủ yếu tập trung làm dịch vụ hỗ trợ cho hộ xã viên. ở các mức độ khác nhau, HTXNN đã thể hiện được vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn các hộ xã viên ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa có hiệu quả kinh tế cao góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn + Nhiều HTX đã thể hiện được các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và phát triển HTX, tính giảm được bộ máy quản lí, phát huy được vai trò tự chủ dân chủ nội bộ, xây dựng địa vị chính đáng về quyền và nghĩa vụ của xã viên HTX thích ứng dần với cơ chế thị trường. + Quá trình chuyển đổi và phát triển HTXNN còn chậm, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển của sức sản xuất. HTXNN còn nhỏ bé chưa đáp ứng kịp sự phát triển kinh tế hàng hóa của kinh tế hộ ở nhiều vùng. Một số HTX chuyển đổi và thành lập mới còn mang tính hình thức, chưa chuyển biến về nội dung, chưa tổ chức được các hoạt động dịch vụ hỗ trợ hộ xã viên phát triển kinh tế cải thiện đời sống. Thực trạng HTX Thực trạng chung của các HTX là, mức vốn hoạt động còn nhỏ, đặc biệt là các HTX trong nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, thương mại. Tỷ lệ vốn cố định ở các HTX rất cao, từ trên 70% đến 95%. Tình trạng này làm cho HTX thường không đủ vốn lưu động để hoạt động, do đó cũng không phát huy được vốn cố định, trong khi vay ngân hàng thì gặp nhiều khó khăn về tài sản thế chấp. Ngược lại, trong lĩnh vực tín dụng thì tỷ trọng vốn cố định rất thấp (chưa đạt 5%), dẫn đến tình trạng chung ở các quỹ tín dụng là cơ sở làm việc rất nghèo nàn, không bảo đảm an toàn cho việc mở rộng hoạt động huy động và cho vay. Tỷ lệ HTX có quan hệ tín dụng với ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác chỉ bằng 11,3% số HTX được thống kê, điều đó cho thấy các HTX chưa phát triển các quan hệ tín dụng với ngân hàng để có thêm vốn phát triển các dịch vụ phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh của xã viên. - Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt đối với quá trình sản xuất nông nghiệp của các HTX. Nhưng khó khăn lớn hiện nay là diện tích đất nông nghiệp đang mất vào các khu công nghiệp, khu đô thị và giao thông với tốc độ quá nhanh. Đất trồng lúa nước năm 2005 đã giảm trên 302 ngàn héc-ta so với năm 2000. Theo số liệu thống kê, trong 5 năm qua cả nước đã có khoảng 13% số hộ nông dân bị mất đất, mà lý do chính là bị thu hồi do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Trong khi đó, nhiều hộ khác tuy đã năng động chuyển đổi ngành nghề, nhưng vẫn không đủ "can đảm" (tính chắc chắn của nghề mới chưa bảo đảm cho các hộ chuyển nghề yên tâm) để nhượng ruộng cho người khác canh tác hay thuê người làm. Phần lớn là giữ đất hay có chăng cũng là cho con cháu làm để vừa đủ mức nộp thuế sử dụng đất. Bởi vậy, tốc độ tích tụ, hoặc dồn điền, đổi thửa diễn ra quá chậm so với nhu cầu phát triển sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó, tình trạng lãng phí sử dụng đất diễn ra khá phổ biến. Tại Nam Định, có địa phương người nông dân muốn trả ruộng thì chính quyền xã không nhận, vì thời hạn giao đất vẫn còn hiệu lực, nếu nhận thì xã không thu được lệ phí. Trong khi đó người dân nơi khác đến canh tác thì khó khăn do chính sách cư trú... Tại huyện Từ Sơn, Bắc Ninh có 10.600 hộ nông dân mất đất, làm cho 21.000 lao động không có việc làm, nhưng diện tích thu hồi lại bỏ hoang, chờ dự án, hoặc chỉ sử dụng khoảng 30%... Quan điểm chung của nhiều nhà hoạch định chính sách ở nước ta hiện nay là làm sao sớm "thoát" khỏi nông nghiệp. Đây là cách hiểu rất thiển cận, thiếu tính bền vững, đối với một nước phải bảo đảm có nguồn lương thực ổn định cho gần 90 triệu dân trong một vài năm tới như nước ta. - Lề lối làm ăn còn nặng về sản xuất nhỏ, manh mún, chưa thích ứng với kinh tế thị trường. Chữ tín trong làm ăn là rất quan trọng, thế nhưng một số địa phương nông dân sẵn sàng "phá hợp đồng" để được lợi trước mắt do giá thị trường đột ngột lên cao so với hợp đồng, như trong hợp đồng bán hoa hồi cho đối tác Bắc Âu tại Lạng Sơn. Còn chuyện giá cả lên xuống thất thường là quy luật "cung - cầu" của thị trường. Đối với sản xuất nông nghiệp, tính chất mùa vụ và sự lệ thuộc vào đất đai, tiểu khí hậu rất chặt chẽ, nên khó có thể thành công nếu cứ chạy theo sự "lên - xuống" của thị trường. Thế mà, một số nông dân ở huyện Đông Triều, Quảng Ninh, khi giá vải xuống, thì chặt vải trồng cây sưa (cây lấy gỗ phải mất 50 năm mới cho thu hoạch, mà giá lúc đó chưa ai có thể nói rõ là sẽ như thế nào). ở một số địa phương phía Nam cũng vậy, thấy giá một số cây trồng khác đang "sốt", thì vội chặt cây điều đang kỳ cho thu hoạch... Trong khi đó, các ngành chức năng thiếu sự tuyên truyền, giải thích hữu hiệu để có định hướng sản xuất đúng và hơn nữa có quy hoạch cây, con một cách khoa học, ổn định lâu dài. Chẳng hạn, nhiều địa phương đã khá thành công trong việc tìm kiếm thị trường "cần những cái mình có", như chè Nghệ An vào thị trường Trung Đông, gạo, hạt tiêu, cà phê... xuất khẩu ra thế giới. Hơn nữa, cũng phải tính toán đến cả tình huống mới, khi đang có nhiều cảnh báo trên thế giới đã nói về một cuộc khủng hoảng mới về lương thực đang xuất hiện và sẽ trở nên nghiêm trọng hơn bất kỳ cuộc khủng hoảng lương thực trước đây thế giới từng chứng kiến. Theo ông Đô-nan Cốc (Donald Coxe), thách thức lớn nhất đối với thế giới không phải là 100 USD/thùng dầu, mà thế giới phải có đủ lương thực cho các tầng lớp trung lưu mới và vì vậy đòi hỏi phải tăng sản lượng lương thực. Chỉ riêng giá lúa mì đã tăng 92% trong năm 2007, và ngày 3-1-2008, giá đóng cửa giao dịch là 9,45 USD cho 8 ga-lông tại sàn buôn bán Chi-ca-gô. Theo nhiều dự báo, trong những tháng tới của năm 2008, giá lương thực vẫn tiếp tục tăng. Những nước xuất khẩu lương thực trước đây như Nga và Ấn Độ hiện nay đang ngừng xuất khẩu lương thực. Khu vực Trung - Tây của nước Mỹ cung cấp 54% sản lượng ngô của thế giới, nhưng gần đây số lượng lương thực được tích trữ của Mỹ cho những vụ tiếp theo đã tụt xuống mức thấp kỷ lục. Do vậy, những nước dư thừa lương thực sẽ có một lợi thế lớn. Nếu không đánh giá đúng lợi thế này, không khéo chúng ta đang đánh mất những lợi thế đã có để chạy theo những "lợi thế ảo" mà thế giới đang mạnh hơn ta rất nhiều lần. Trong khi đó, muốn làm cho nền nông nghiệp nước nhà phát triển và hội nhập thành công trên đà của những thành tựu đã đạt được trong hơn 20 năm đổi mới đã qua, không có cách nào khác là phải có thêm những chính sách có tính chất đột phá để tạo động lực mới, thật sự mạnh mẽ cho kinh tế hộ phát triển. Đất nước đang cần có nhiều hộ nông dân làm ăn mang tính chuyên nghiệp hơn, bởi vậy kinh tế hộ đang cần có sự hỗ trợ, hợp lực mang tính cộng đồng chặt chẽ hơn mới hy vọng có được sức mạnh trong cạnh tranh khốc liệt của thương trường trước xu thế hội nhập ngày một sâu hơn của nền kinh tế quốc dân. Chứng minh hợp tác là tất yếu Ngày nay, hợp tác không chỉ là nhu cầu tăng thêm sức lực hoặc trí lực để hoàn thành những mục tiêu chung, mà quan trọng hơn do mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng đang ngày càng phụ thuộc vào nhau hơn bao giờ hết, vì vậy nhu cầu hợp tác đã trở nên bức thiết với mọi cá nhân và cộng đồng. Cự tuyệt hợp tác hoặc thiếu khả năng hợp tác đồng nghĩa với trì trệ và kém phát triển. Cuộc sống mới đòi hỏi phải nhận thức lại vai trò và khả năng hợp tác như là một giải pháp chủ yếu để nhân loại chung sống và phát triển. Hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp là một nhu cầu khách quan. Đó là con đường phát triển tất yếu của kinh tế hộ nông dân. Bởi lẽ, do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, cây trồng, vật nuôi đều là những cơ thể sống, chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngoại cảnh như thời tiết, khí hậu và các sinh vật khác. Cùng với các điều kiện thuận lợi, sản xuất nông nghiệp gặp không ít khó khăn, trở ngại do tác động của thời tiết, khí hậu và các yếu tố sâu bệnh, thú dữ phá hoại v.v… Từ thời xa xưa, các hộ nông dân đã có nhu cầu hợp tác với nhau để hỗ trợ, giúp nhau vượt qua khó khăn, nâng cao hiệu quả sản xuất. Khi nền sản xuất còn mang nặng tính tự cung tự cấp thì quá trình hợp tác mang tính chất hợp tác lao động theo mùa vụ, đổi công, cùng làm giúp nhau v.v.. nhằm đáp ứng yêu cầu thời vụ, hoặc tăng thêm sức mạnh để giải quyết những công việc mà từng hộ gia đình không có khả năng thực hiện, hoặc làm riêng rẽ không có hiệu quả như phòng chống thiên tai, thú dữ, sâu bệnh, đào kênh dẫn nước, v.v.. Quá trình hợp tác này còn mang đặc điểm tình cảm, tâm lý truyền thống cộng đồng đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn trong sản xuất và đời sống. Đặc điểm cơ bản của hợp tác kiểu này là hợp tác theo vụ, việc hợp tác ngẫu nhiên, không thường xuyên, chưa tính đến giá trị ngày công. Đây là các hình thức hợp tác xuất hiện từ trước chủ nghĩa tư bản. Khi nền nông nghiệp hàng hoá phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá trình tát sản xuất ngày càng tăng cả về qui mô và chất lượng dịch vụ, như dịch vụ về giống, phòng trừ sâu bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thuỷ lợi v.v.. Trong điều kiện này, từng hộ nông dân tự đảm nhiệm tất cả các khâu cho quá trình sản xuất sẽ gặp khó khăn, hoặc không đủ khả năng đáp ứng, hoặc hiệu quả kinh tế thấp kém hơn so với hợp tác. Từ đó nảy sinh nhu cầu hợp tác ở trình độ cao hơn, đó là hợp tác thường xuyên, ổn định, có tính đến giá trị ngày công – giá trị dịch vụ, dẫn đến hình thành HTX. Như vậy, sự ra đời của HTX trong nông nghiệp là nhu cầu khách quan, gắn với quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hoá. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển cùng với quá trình phân công chuyên môn hoá nảy sinh các chuyên ngành, như sản xuất lương thực, hoa, rau, quả, cây công nghiệp như chè, cà phê v.v.. Đồng thời, cũng xuất hiện nhiều loại dịch vụ chuyên ngành phục vụ cho nông nghiệp như: cung ứng vật tư, vận chuyển, chế biến tiêu thụ nông sản v.v.. Như vậy, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, xuất phát từ mục tiêu kinh tế nông dân đều có nhu cầu hợp tác từ hình thức giản đơn đến phức tạp, từ đơn ngành đến đa ngành. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng tăng, mối quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng, do đó tất yếu hình thành và ngày càng phát triển các hình thức kinh tế hợp tác ở trình độ cao hơn. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, sự hình thành và phát triển HTX của các hộ, trang trại gia đình nông dân còn xuất phát từ nhu cầu kết hợp để làm tăng sức mạnh giúp đỡ lẫn nhau chống lại sự chèn ép, lũng đoạn của tư bản độc quyền lớn nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ và trang trại gia đình nông dân. Đây là tầng lớp người có khó khăn hơn và chịu nhiều thiệt thòi, rủi ro hơn trong xã hội tư bản. Từ góc độ này mà kinh tế hợp tác của nông dân còn được coi là loại hình kinh tế mang bản chất xã hội – nhân đạo. Nó là hình thức kinh tế cần thiết cho những người nghèo có tiềm lực kinh tế yếu hơn trong xã hội chống lại xu hướng chèn ép, “cá lớn nuốt cá bé” trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh tàn khốc. Xuất phát từ nhu cầu khách quan và vai trò, vị trí của HTX trong lĩnh vực nông nghiệp, ở nhiều nước trên thế giới, HTX nông nghiệp đã có lịch sử hình thành và phát triển hơn 100 năm. Đồng thời, Chính phủ của các nước này đều đã dành sự quan tâm giúp đỡ đáng kể cho khu vực kinh tế HTX. Năm 1844, lần đầu tiên ở nước Đức, những nguyên tắc về HTX được nêu ra là: tự do gia nhập; quản lý dân chủ, thực hiện nguyên tắc “một người – một phiếu”; góp tỷ suất lợi nhuận vào các phần của hội; chia lợi tức tỷ lệ với sự hoạt động của doanh số; trả tiền mặt cho các sản phẩm mua; đào tạo và giáo xã viên không tham gia chính trị và tôn giáo. Đây là cơ sở cho những nguyên tắc hoạt động mà các tổ chức HTX quốc tế đã phê chuẩn sau này. Năm 1847, tổ chức phúc lợi nông thôn đầu tiên ở Đức đã được thành lập, sau đó các HTX nông nghiệp phát triển và trở thành một lực lượng kinh tế – xã hội quan trọng của Cộng hoà Liên bang Đức. Ở nhiều nước trên thế giới, Chính phủ đã ban hành rất sớm các Thông tư, pháp lệnh, luật về HTX. Có nước còn qui định tính hợp hiến của HTX trong hiếp pháp nhằm mục đích hướng dẫn, giúp đỡ nông dân. Khi họ thực sự có nhu cầu thì tự nguyện liên kết với nhau thành HTX để vượt qua khó khăn, phát triển sản xuất. Đến nay, ở hầu khắp các nước trên thế giới, nhiều hình thức kinh tế HTX trong nông nghiệp vẫn được duy trì, phát triển và có hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên, một số nước không thành công ở một số mô hình HTX cụ thể do tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau. Ở Hà Lan, HTX nông nghiệp đã ra đời hơn 100 năm. Ngay từ đầu, các HTX đã thực hiện chức năng thương nghiệp chuyên ngành vì mục tiêu kinh tế. Đa số hộ nông dân tham gia từ 2 – 4 HTX khác nhau. Ngày nay, hệ thống các loại hình HTX ở Hà Lan vẫn phát triển và có vị trí quan trọng đối với lĩnh vực cung cấp sản phẩm nông nghiệp cho xã hội. Thí dụ, với sản phẩm bột khoai tây khu vực kinh tế HTX đã cung cấp 100% số lượng sản phẩm trên thị trường. Tương tự, với sản phẩm bơ là 94%, pho mát 92%, thức ăn gia súc 90%, sữa 87% v.v.. Ở Mỹ, hệ thống các HTX nông nghiệp đã hình thành trên 100 năm và trở nên cần thiết đối với các chủ trang trại. Ngay từ năm 1914, Nhà nước đã thành lập Cục HTX để hỗ trợ cho khu vực kinh tế này, kể cả việc đảm nhận công tác đào tạo cán bộ quản lý HTX. Chính phủ liên bang cũng như ở từng bang đều giành một khoản kinh phí nhất định cho hoạt động của Cục HTX. Ngày nay, các Cục HTX tự nguyện và có hiệu quả của các thủ trưởng nông trại có vai trò to lớn trong nền nông nghiệp hiện đại của Mỹ. Ở Nhật Bản, đại đa số nông trại đều tham gia HTX. Từ năm 1947, Chính phủ Nhật bản đã ban hành Luật HTX nông nghiệp. Đến năm 1967, Nhật Bản thông qua chính sách cơ bản về hợp tác hoá nhằm phát triển nông nghiệp. Nhờ vậy, phong trào hợp tác hoá đã được triển khai trên phạm vi toàn quốc. Ở một số nước trong khối ASEAN như Inđônêxia, Thái Lan, v.v.. HTX cũng xuất hiện khá sớm. Chính phủ các nước này cũng đã có những chủ trương, biện pháp cụ thể để khuyến khích việc thành lập HTX hay “hiệp hội” nông dân để giúp đỡ nhau, phát triển sản xuất. Đồng thời, các Chính phủ đều ban hành sự quan tâm hỗ trợ đáng kể cho khu vực kinh tế HTX và các nông trại. Thí dụ, Chính phủ Thái Lan đã thành lập hệ thống “phát triển nông thôn quốc gia” từ cấp trung ương đến cơ sở. Nhà nước Inđônêxia đã nêu rõ chủ trương nền kinh tế quốc dân phải được xây dựng trên nguyên tắc tương trợ và hợp tác. Nhà nước đề ra những chính sách ưu tiên đối với khu vực kinh tế HTX và đã tiến hành cải tiến HTX theo một số hướng cơ bản như: - Cải tiến tổ chức và quản lý HTX trong phạm vi toàn quốc. - Cải tiến và nâng cao hiệu quả của hệ thống thông tin quản lý HTX, đào tạo kỹ năng cho cán bộ điều hành, quản lý HTX. - Chú trọng hơn đến nâng cao vị trí, uy tín của HTX và quyền lợi kinh tế cho xã viên HTX. - Sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ về kinh tế của Chính phủ đối với HTX v.v.. Ở Liên xô (trước đây), các nước Đông Âu và Trung Quốc, phong trào hợp tác hoá trong nông nghiệp được triển khai rầm rộ, rộng rãi và nhanh chóng để thành lập các nông trang tập thể, công xã nhân dân, v.v.. nhằm mục tiêu đưa nông nghiệp, nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, mô hình HTX “tập thể hoá” đã chứa đựng những yếu tố không phù hợp với nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá trong điều kiện cơ chế thị trường. Do vậy, trong những năm qua, ở các nước nói trên, khu vực kinh tế này đã và đang tiến hành quá trình “đổi mới”, “cải tổ”. Song, điều đó hoàn toàn không phủ nhận tính tất yếu khách quan của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Mặc dù các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin không có nhiều điều kiện nghiên cứu về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; song, khi nói đến nhiệm vụ đưa nông nghiệp, nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội, các ông đều nhấn mạnh vai trò quan trọng của hình thức kinh tế hợp tác và coi đó là con đường để đưa nông dân đi tới chủ nghĩa xã hội. Sau khi giành chính quyền, các ông cho rằng, nhiệm vụ của chúng ta đối với tiểu nông trước hết phải hướng quyền sở hữu cá thể và nền kinh doanh cá thể của họ vào con đường hợp tác, không phải bằng bạo lực mà bằng tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội. Rằng, cần tổ chức cho nông dân vào các HTX của chủ nghĩa xã hội, nhưng phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện. Rằng, chúng ta kiên quyết đứng về phía người tiểu nông, chúng ta phải tìm đủ mọi cách để làm cho số phận của họ được dễ chịu hơn, để cho họ được chuyển sang HTX dễ dàng hơn, nếu họ quyết chuyển như thế và thậm chí để cho họ có thời gian suy nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh đất của họ. Con đường chủ yếu để thu hút nông dân vào lối làm ăn XHCN là hợp tác hoá. Chỉ có thống nhất qua hợp tác hoá mới lôi cuốn được những người sản xuất cá thể vào công cuộc xây dựng XHCN. Kế thừa và phát triển tư tưởng của Mác, ăngghen về nông nghiệp, nông dân và hợp tác hoá vào hoàn cảnh cụ thể của nước Nga, Lênin đã dành sự quan tâm đặc biệt đến quá trình nghiên cứu về con đường hợp tác hoá để đưa nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm Bàn về chế độ HTX, Lênin đã nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản về chế độ hợp tác dưới chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ vai trò quan trọng của HTX và cho rằng đó là “bước quá độ sang một chế độ mới bằng con đường giản đơn nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân”. Cũng trong tác phẩm này, Người đã nêu lên phương châm, nguyên tắc xây dựng HTX nông nghiệp, với vai trò, trách nhiệm của Chính quyền Xôviết đối với HTX. Đó là những chỉ dẫn quý báu cho việc đề ra đường lối, chiến lược, chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn của các Đảng cộng sản sau khi giành chính quyền. Vận dụng tư tưởng của Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN ở nước ta. Người khẳng định, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải bắt đầu từ nông dân. Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, nông nghiệp một phần lớn. Muốn cho nông nghiệp và nông dân giàu lên cần phải xây dựng HTX. Nói về sự cần thiết khách quan, ý nghĩa của HTX trong nông nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích: “Tuy cách làm thì có khác nhau ít nhiều, nhưng mục đích thì nước nào cũng như nhau… trong lời tuyên ngôn của HTX Anh đã nói: “Cốt làm cho những người vô sản giai cấp hoá ra anh em… làm giùm nhau, nhờ lẫn nhau. Bỏ hết thói tranh cạnh. Làm sao cho ai trồng cây thì được ăn trái, ai muốn ăn trái thì giùm vào trồng cây… Tục ngữ An Nam có những câu: “Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó” và “Một cây làm chẳng nên non, nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao”. Lý luận HTX đều ở trong những điều ấy”. Từ ý nghĩa đó, Người kêu gọi nông dân: “Muốn làm hòn núi cao, phải vào tổ đổi công và HTX”, vì nhiều người họp lại thì làm được nhiều, được tốt, “nông dân ta mới có thêm sức để cải tiến kỹ thuật, đẩy mạnh sản xuất. Do đó mà đưa nông thôn… đến chỗ ấm no, sung sướng”. Hợp tác tạo nên sức mạnh của tập thể, giúp các hộ nông dân thực hiện những công việc mà từng hộ gia đình không có khả năng thực hiện, hoặc thực hiện kém hiệu quả hơn hợp tác, như phòng chống thiên tai, xây dựng công trình thuỷ nông, phòng trừ sâu bệnh v.v.. Ngoài mục tiêu kinh tế, hợp tác còn thực hiện các mục tiêu xã hội quan trọng. Theo Hồ Chí Minh, hợp tác góp phần xây dựng tình đoàn kết xóm làng, tinh thần tương thân tương ái nhằm xây dựng cộng đồng xã hội tốt đẹp ở nông thôn. Nhờ vậy mà tạo nên sức mạnh có thể vượt qua khó khăn, trở ngại trong sản xuất đời sống, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đối với nước ta, mục đích việc tổ chức HTX còn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “để cải thiện đời sống nông dân, làm cho nông dân được no ấm, mạnh khoẻ, được học tập, làm cho dân giàu, nước mạnh”. Vì vậy, HTX là con đường đưa nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mục đích riêng và mục đích chung của việc xây dựng HTX. Thực tế lịch sử thế giới hơn 100 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của quan điểm về sự cần thiết khách quan của quan điểm về sự cần thiết khách quan của kinh tế hợp tác trong quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Ngày nay, kinh tế hợp tác, HTX tiếp tục phát triển ở hầu hết các nước trên thế giới với lực lượng quan trọng, bao gồm hơn 760 triệu xã viên và một tổ chức quốc tế – Liên minh HTX quốc tế (ICA) (Việt Nam chính thức tham gia ICA từ năm 1988). Ở Việt Nam, gần nửa thế kỷ qua, phong trào hợp tác hoá trải qua những bước thăng trầm. Thời kỳ cao điểm cả nước có hàng trăm ngàn tổ chức kinh tế hợp tác, bao gồm cả HTX và các hình thức kinh tế hợp tác giản đơn như: tập đoàn sản xuất, tổ hợp tác, tổ đổi công, v.v.. thu nạp tới hơn 90% số hộ nông dân và hơn 80% diện tích canh tác, gần 90% số hộ tiểu thương, tiểu chủ và những người lao động cá thể. Nhờ vậy mà kinh tế hợp tác, HTX đã có những đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ sản xuất, đời sống, góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Tuy vậy, mô hình HTX “kiểu cũ” ngày càng tỏ ra không phù hợp với đặc điểm, yêu cầu phát triển kinh tế trong điều kiện mới, phong trào hợp tác hoá chuyển sang giai đoạn suy thoái, tan rã. Đồng thời, với quá trình nêu trên, trong thực tế lại diễn ra một xu hướng trái ngược. Trong khi nhiều hộ nông dân không thiết tha với HTX “kiểu cũ” thì không ít hộ lại gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cá thể do không thể tự lo được tất cả các khâu sản xuất, như giống, vốn, thuỷ lợi, phòng trừ sâu bệnh, tiêu thụ sản phẩm, v.v.. Chính từ thực tế đó, nông dân ở nhiều địa phương đã tự nguyện góp vốn và công sức hình thành các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng để giúp nhau trong sản xuất và đời sống. Rõ ràng là trong khi mô hình HTX “kiểu cũ” tan rã thì các hình thức kinh tế hợp tác do nông dân tự nguyện thành lập xuất phát từ nhu cầu thực sự của họ đã phát huy tác dụng, được nông dân thừa nhận và tích cực tham gia. Thực tế đó một lần nữa chứng minh tính đúng đắn, khoa học về sự cần thiết khách quan phải phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp. Không thể vì những thiếu sót, sai lầm của mô hình HTX “kiểu cũ” mà phủ nhận vai trò, tác dụng và sự cần thiết tất yếu của nó trong quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hoá. Điều quan trọng là phải tôn trọng các nguyên tắc và lựa chọn các mô hình kinh tế phù hợp, thực sự đem lại hiệu quả cho kinh tế hộ nông dân. Nghiên cứu mức độ hợp tác. Mức độ hiệp tác phát triển từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ đơn giản đến phức tạp. Ví dụ như hợp tác của nông dân trong phong trào hợp tác hóa, tư sản xuất tự cung, tự cấp đến sản xuất hàng hóa mang tính hội nhập toàn cầu.Mức độ hợp tác càng cao, quy mô càng lớn, càng phức tạp đòi hỏi trình độ hợp tác cao nhưng ngày càng có hiệu quả. Điều này được chứng minh bằng các hoạt động kinh tế , xã hội,... khi đất nước phát triển theo cơ chế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế. Như vậy, sự phát triển mức độ và hiệu quả hợp tác phụ thuộc vào sự tiến bộ và phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ thấp thì quy mô và hiệu quả hợp tác thấp, lực lượng sản xuất càng phát triển thì trình độ hợp tác và hiệu quả hợp tác ngày càng cao. Vì vậy, có thể nói mức độ hợp tác và hiệu quả của hợp tác là biểu hiện của quan hệ sản xuất nó phù hợp và thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, hoàn toàn phù hợp về quy luật quan hệ sản xuất thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất.Thước đo đánh giá mức độ và hiệu quả của hợp tác được biểu hiện bằng các chỉ tiêu: - Mức độ hợp tác thể hiện quy mô và phức tạp, thể hiện về mặt lượng của hợp tác, vì vậy có thể sử dụng các chỉ tiêu về số lượng như số người, số hộ , số đơn vị hợp tác. Ví dụ HTX nông nghiệp có quy mô thôn hay quy mô xã, số xã viên của HTX, số vốn của HTX... Hợp tác xã hiện nay không chỉ đơn thuần là sự kết hợp giữa các cá nhân, giữa những người lao động với nhau mà nó dần mang tính phức tạp hơn thể hiện sự hợp tác giữa các thành phần kinh tế, giữa các địa phươnAg, các ngành với nhau và rộng ra hơn nữa là giữa các nước. Trong kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập, một hợp tác xã duy trì quy mô nhỏ hạn chế thành viên, hợp tác xã và xã viên không có dự án đầu tư mới, không đầu tư bổ sung sẽ hạn chế (giảm) lợi ích của mỗi thành viên. Do vậy, các hợp tác xã hôm nay quy mô nhỏ, hợp tác xã quy mô lớn đều phải có chiến lược, tầm nhìn theo hướng mở : Thứ nhất: Vận động xã viên tăng vốn góp bằng quyền sử dụng đất, tài sản và công sức, có thể lấy lợi nhuận hằng năm chia theo vốn góp, công sức lao động, mức độ sử dụng dịch vụ chuyển thành vốn góp; kết nạp thành viên mới, chú ý cả những thành viên với tư cách là người lao động chỉ góp vốn tối thiểu và những thành viên là các pháp nhân, cán bộ công chức có vốn, có chất xám, có kinh nghiệm tổ chức sản xuất, phát triển thị trường. Kinh nghiệm quốc tế chỉ ra nhiều hợp tác xã ở Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Trung Quốc có số thành viên rất lớn; hiện nay các quỹ tín dụng nhân dân ở nước ta cũng có số thành viên ngày càng tăng, năm 2005 bình quân 1200 thành viên/quỹ, một số hợp tác xã nông nghiệp ở miền Trung quy mô đến trên 3000 xã viên là những điển hình về hợp tác xã mở. Thứ hai, Mở rộng liên kết kinh tế-xã hội giữa các hợp tác xã để thành lập một số liên hiệp hợp tác xã theo vùng (huyện, liên huyện, liên tỉnh) và theo ngành trong phạm vi toàn quốc. Quy mô mở rộng đòi hòi trình độ quản lý tương thích, đồng thời thúc đẩy các liên hiệp hợp tác xã thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, liên hiệp hợp tác xã là chủ sở hữu được thành lập công ty con góp vốn vào các công ty khác theo Luật Doanh nghiệp năm 2005. Thứ ba, Các hợp tác xã cởi mở, chủ động liên kết với các nhà đầu tư trong và ngoài nước lập dự án đầu tư, thông qua dự án đầu tư để tăng quy mô sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh các lợi thế kinh doanh hiện có như đất đai ở địa phương, nguồn nhân lực tại chỗ và tận dụng các ưu đãi của nhà nước cho riêng hợp tác xã về đất đai, thuế, tín dụng, xúc tiến thương mại, đào tạo, đầu tư mới, khuyến nông, khuyến công, công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn,... Các dự án đầu tư mới đòi hỏi hợp tác xã phải chọn lựa thành viên, mở rộng quy mô. Theo hướng trên, các hợp tác xã có xã viên là các hộ gia đình, hợp tác xã bạn hữu có bước tiến đến hợp tác xã cộng đồng bởi cộng đồng vừa là người góp vốn, người lao động, là người tiêu thụ, người cung cấp đầu vào, chia sẻ lợi ích, chống đỡ rủi ro, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của hợp tác xã trong điều kiện hiện nay mà những người sáng lập phong trào hợp tác xã quốc tế, Liên minh HTX quốc tế-ICA, tổ chức lao động quốc tế- ILO và các quan điểm về hợp tác xã của Đảng và Nhà nước ta đã đề ra tại Nghị quyết Trung ương 5 Khóa IX và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X. Bảng năng lực hợp tác của các HTX Chỉ tiêu Tỷ lệ hài lòng Toàn bộ mẫu Nhóm mẫugia đình có hoạt động kinh tế Nhóm mẫu gia đình không hoạt động kinh tế Tính liên kết trong nội bộ xã viên HTX 84,88 81,25 87,50 Phát huy được sức mạnh tổng hợp của xã viên 80,95 75,00 90,00 Sự liên kết giữa HTX và kinh tế của hộ của xã viên 72,50 78,72 62,96 Khả năng tiêu thụ sản phẩm ra thị trường 62,82 64,44 55,56 Khả năng thu hút lao động không phải là xã viên 60,76 55,56 64,29 Thực hiện chức năng giải quyết các thủ tục hành chính với các cơ quan quản lý Nhà nước 51,28 52,17 46,15 Năng lực hợp tác với các HTX khác 50,63 46,67 50,00 Nguồn: Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011. Hiệu quả hợp tác Hiệu quả của hợp tác đánh giá chất lượng của sự hợp tác như: thu nhập (GDP) của tổ chức của đ.ất nước, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng đời sống, mức tăng trưởng. Sau gần 200 năm kể từ khi hợp tác xã đầu tiên trên thế giới được thành lập, đến nay phong trào hợp tác xã đã phát triển rộng khắp ở nhiều nước, có vai trò, vị thế và đóng góp to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Với khoảng 750.000 hợp tác xã, gần 1 tỷ xã viên, khu vực hợp tác xã đã có đóng góp trực tiếp vào việc cải thiện đời sống của gần một nửa dân số thế giới. Vị thế, vai trò và những đóng góp tích cực của phong trào hợp tác xã quốc tế được Liên Hợp Quốc, các tổ chức thành viên trong hệ thống Liên Hợp Quốc ghi nhận, đặc biệt đối với phát triển bền vững, xóa đói, giảm nghèo, góp phần thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Trong những đóng góp to lớn này có vai trò quan trọng Liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA), một trong những tổ chức quốc tế lớn nhất đại diện cho hơn 224 tổ chức hợp tác xã quốc gia của gần 100 nước thành viên. Ở Việt Nam, nhận rõ vai trò, vị trí quan trọng của kinh tế tập thể trong nền kinh tế quốc dân, cách đây 64 năm, ngay từ khi mới lập nước, Hồ Chủ tịch đã gửi thư kêu gọi điền chủ, nông gia tham gia hợp tác xã. Nhà nước đã ban hành và triển khai nhiều chính sách hỗ trợ thiết thực đến quá trình đổi mới, phát triển hợp tác xã, như tạo thuận tiện cho thành lập, đơn giản thủ tục, ưu đãi về thuế, hỗ trợ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đào tạo nghề cho người lao động trong cáchợp tác xã… Phong trào hợp tác xã nước ta không ngừng lớn mạnh, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và có những đóng góp quan trọng trong công cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước cũng như trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng 370.000 tổ hợp tác, 19.500 hợp tác xã, 54 Liên hiệp hợp tác xã, tập hợp khoảng 13 triệu xã viên và người lao động - là khu vực kinh tế xã hội rộng lớn. Khu vực hợp tác xã hoạt động ngày càng hiệu quả, đóng góp quan trọng vào GDP (khoảng 6%). Nhiều hợp tác xã đã mở rộng sản xuất kinh doanh, phát triển ngành nghề thu hút lao động, giải quyết việc làm, góp phần tích cực vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tham gia xoá đói giảm nghèo, xây dựng cộng đồng, hỗ trợ tương thân, tương ái, góp phần vào việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giữ ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, cơ sở. Phát triển hợp tác xã phải trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc hợp tác xã, tuân thủ các quy định trong luật Hợp tác xã, tôn trọng nguyên tắc tự nguyện của các thành viên. Gắn quá trình phát triển hợp tác xã với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, quá trình xây dựng nông thôn mới. Kết hợp phát triển mới với việc chú trọng củng cố, nâng cao hiệu quả của các hợp tác xã hiện có. Với tư cách là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cáchợp tác xã, các tổ chức thành viên, Liên minh các hợp tác xã Việt Nam cần sâu sát, gắn bó mật thiết với cơ sở, phong trào, kịp thời nắm bắt và hiểu biết các khó khăn vướng mắc của cáchợp tác xã, từ đó chủ động đề xuất, kiến nghị với Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan; tham gia tích cực với các cấp, các ngành trong việc xây dựng chương trình, đề án phát triển kinh tế tập thể, hoàn thiện khung khổ pháp lý vềhợp tác xã. Đồng thời, Liên minh phải làm thật tốt các hoạt động hỗ trợ phát triển đối với kinh tế tập thể, coi trọng hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lýhợp tác xã và dạy nghề cho xã viên và người lao động, kỹ năng quản lýhợp tác xã theo các tiêu chuẩn mới, nâng cao kiến thức về thị trường, thông tin, xây dựng thương hiệu, hội nhập kinh tế quốc tế...; đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ khác như tín dụng, thông tin, tư vấn khoa học kỹ thuật, xúc tiến thương mại, tham gia triển khai các chương trình, dự án kinh tế - xã hội, đặc biệt là các dịch vụ mà thành viên đang có nhu cầu và đòi hỏi cấp thiết hiện nay. Phấn đấu đưa “hợp tác” trở thành một nét văn hóa, phát huy hơn nữa tinh thần và sinh hoạt dân chủ trong xã hội. Tích cực mở rộng hơn nữa quan hệ đối ngoại nhằm tranh thủ sự giúp đỡ và hợp tác với Liên minh hợp tác xã quốc tế, các tổ chứchợp tác xã các nước và các tổ chức quốc tế khác. Các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức đoàn thể cần quan tâm phối hợp, tạo điều kiện để Liên minh hợp tác xã Việt Nam làm tốt chức năng, nhiệm vụ thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tập thể. Hợp tác xã đã góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm, thúc đẩy sự liên kết và gắn kết xã hội, tạo động lực phát triển địa phương, nâng cao vị thế cho người nghèo và những người yếu thế trong xã hội như phụ nữ và thanh niên. Hợp tác xã cũng góp phần vào tăng trưởng và ngăn chặn sự bất bình đẳng và không công bằng giữa các thành phần kinh tế-xã hội. Cơ sở hạ tầng ở các HTX cũng phần nào được cải thiện. Hiện có khoảng 1 tỷ người trên thế giới là xã viên của các hợp tác xã và hợp tác xã tạo ra trên 100 triệu việc làm. Hợp tác xã cũng đóng vai trò chính trong phát triển nông thôn và khoảng ½ sản lượng nông nghiệp trên thế giới được tiêu thụ thông qua các hợp tác xã. Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2009, kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn trong cả nước đã có sự phát triển tích cực. Trong năm 2009 đã phát triển thêm 280 HTX và đưa tổng số lên 9004 HTX, tăng 1,8% so với năm 2008; thu hút được 58% số hộ dân; xây dựng được 17 mô hình thôn, bản nông thôn mới. Cùng với các nguồn vốn của nhà nước năm 2009 và ứng trước năm 2010 với trên 1.732 tỷ đồng để đầu tư hỗ trợ di dời khẩn cấp các hộ dân vùng thiên tai sạt lở nguy hiểm tại 31 tỉnh thành phố với trên 15.000 hộ dân; hỗ trợ trực tiếp cho 343.000 hộ dân trên 550 tấn giống cây lương thực, 20 nghìn con giống gia súc, 14 nghìn con giống gia cầm và trên 1 triệu con giống thuỷ sản, 4.000 tấn vật tư phân bón, thuốc trừ sâu, 12.500 thiết bị công cụ phục vụ sản xuất và mở 1.557 lớp tập huấn tiến bộ kỹ thuật cho trên 156 nghìn lượt nông dân, với tổng số tiền trên 433,6 tỷ đồng; đồng thời xoá được 83,18% nhà tạm trên tổng số 62.155 nhà. Nhờ có HTX mà thu nhập cũng như đời sống của người dân được cải thiện đáng kể. Cụ thể: Bảng thu nhập và vai trò của HTX trong việc tạo thu nhập cho xã viên Chỉ tiêu Toàn bộ mẫu Nhóm mẫu gia đình có hoạt động kinh tế Nhóm mẫu gia đình không hoạt động kinh tế Trung bình hàng tháng gia đình Ông/Bà nhận được bao nhiêu thu nhập từ HTX (ngàn đồng/tháng) 2.053,77 2.241,45 1.812,93 Trung bình hàng tháng gia đình Ông/Bà nhận được bao nhiêu thu nhập từ tất cả các nguồn (ngàn đồng/tháng) 5.332,97 5.828,61 3.580,46 Số nhân khẩu (người) 4,92 5,29 4,36 Thu nhập/nhân khẩu/tháng (đơn vị ngàn đồng/ tháng) 1.083,94 1.101,82 821,21 Tỷ lệ thu nhập từ HTX/Tổng Thu nhập 38,51% 38,46% 50,63% Nguồn: Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, 2011. PHẦN III: KẾT LUẬN HTX là phương thức tất yếu trong lao động sản xuất và các hoạt động kinh tế, gắn liền với sự phát triển kinh tế và bị ràng buộc và qui định bởi sự tiến triển trong quá trình xã hội hoá của hoạt động kinh tế của con người và phải thích ứng với tiến trình phát triển kinh tế đó. HTX phải tạo ra xung lực tăng NSLĐ và đạt hiệu quả kinh tế cao. Tóm lại, hợp tác là tất yếu, không có hợp tác thì hiệu quả công việc không cao. Ngay từ khi tạo dựng hình hài hợp tác xã đầu tiên, những nhà sáng lập Liên minh những người tiên phong công bằng Rochdale (Anh Quốc, 1844) đã chọn lọc những ưu việt trong nguyên tắc hoạt động của hiệp hội tự nguyện và doanh nghiệp, biến thể chúng để tạo ra tổ chức “hợp tác xã” có những đặc trưng riêng biệt. Hợp tác xã là một tổ chức rất đặc thù, mang tính “nhị nguyên” thể hiện ở vai trò kép với hai cơ cấu cùng tồn tại song hành: khía cạnh hiệp hội được hình thành trên cơ sở các cá nhân tự nguyện, liên kết với nhau trên tinh thần tương trợ, dân chủ, minh bạch, bình đẳng, bác ái, trách nhiệm cộng đồng; và khía cạnh doanh nghiệp được thể hiện ở việc huy động vốn góp của xã viên để tổ chức hoạt động kinh doanh có hiệu quả (giá trị thặng dư) vì mục tiêu gia tăng thêm tài sản của xã viên và tích luỹ nội bộ trong hợp tác xã. Thật sai lầm khi cho rằng hợp tác xã là “cánh tay nối dài” của chính quyền và sai lầm hơn khi tin rằng hợp tác xã là “con đẻ của nhà nước”. Từ những kinh nghiệm thành công trong và ngoài nước, chúng ta có thể tin tưởng một cách chắc chắn rằng với vai trò kép vừa là tổ chức hiệp hội vừa là tổ chức kinh tế, hợp tác xã có thể hoạt động tốt như bất kỳ doanh nghiệp nào. Thậm chí hợp tác xã có thể hoạt động tốt hơn doanh nghiệp, nếu chúng ta am hiểu tường tận bản chất của hợp tác xã, biết cách sử dụng và khai thác công cụ tập thể độc đáo này. Hợp tác xã là phương tiện hữu hiệu giúp kinh tế hộ gia đình của mỗi xã viên nâng cao sức cạnh tranh và phát triển.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxtieu_luan_kinh_te_hop_tac_3475.docx
Luận văn liên quan