Các nguồn lực phát triển kinh tế nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng của Việt Nam còn bị hạn chế hoặc nằm trong tình trạng khó khai thác, sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới còn thấp, trình độ công nghệ, trình độ quản lý còn hạn chế, là nước đi sau nên gặp nhiều khó khăn vì phải cạnh tranh gay gắt và phải đối phó với hàng rào bảo hộ mậu dịch tinh vi thông qua các tiêu chuẩn kỹ thuật.
17 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3493 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Kinh tế quốc tế sự ra đời của liên minh châu âu và mối quan hệ với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ
" SỰ RA ĐỜI CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM "
MỤC LỤC
Mở đầu
Nội dung
1. Sự ra đời của liên minh châu Âu và các nước tiến tới nhất thể hóa toàn diện
2. Cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của liên minh châu Âu
Tình hình phát triển của liên minh châu Âu
Quan hệ của Việt Nam với EU
Những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ Việt Nam với liên minh châu Âu
III. Kết luận
I. MỞ ĐẦU
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều tổ chức hay những liên minh khác nhau cụ thể như: các liên minh về kinh tế- chính trị- văn hóa,…Những liên minh hay tổ chức này được thành lập nên bởi nhiều nước cùng tham gia sáng lập và có nhiều quy định khác nhau tùy thuộc vào những mục đích như thế nào mà các quốc gia cùng liên kết với nhau lại thành lập nên. Những tổ chức hay liên minh này thành lập ra để nhằm bảo vệ quyền lợi của những nước thành viên của nó, và tạo ra một bức tường vững chắc cho sự phát triển về mặt kinh tế- xã hôi của các quốc gia. Và có những tổ chức và liên minh được cả thế giới biết đến như: ASEAN, OPEC, WTO, EU,..Trong những tổ chức nói trên thì chúng ta đi tìm hiểu về liên minh châu Âu (EU), tìm hiểu lịch sử hình thành và quá trình phát triển của nó như thế nào.
Trong quá trình phát triển thì liên minh châu Âu có những quan hệ hợp tác với các nước khác nhau trên thế giới, trong đó có quan hệ hợp tác thương mại với Việt Nam. Chúng ta tìm hiểu mới quan hệ giữa hai bên như thế nào và cả hai bên làm gì để cho quan hệ ngày càng vững chắc hơn.
II. NỘI DUNG
Sự ra đời của liên minh châu Âu và các nước tiến tới nhất thể hóa toàn diện
Hiện nay, chúng ta chỉ biết đến với một liên minh châu Âu hùng mạnh với trên 50 năm tuổi, nhưng trong số chúng ta không mấy ai biết rằng từ thới Saclơ đại đế thuộc đế chế La Mã (thế kỷ thứ VII sau công nguyên), ý tưởng về một châu Âu thống nhất đã được hình thành. Tuy nhiên trong một thời gian dài, ý đồ thống nhất châu Âu chỉ thuộc về một số nhà chính trị, quân sự có nhiều tham vọng và một bộ phận nhà tri thức có tư tưởng cấp tiến; còn đại bộ phận châu Âu vẫn còn thờ ơ, và thậm chí không còn ý tưởng gì cho điều đó, mặc dù châu Âu đã mang sẵn trong mình các yếu tố thống nhất.
Đến năm 1923, Bá tước người Áo- Condanhve Kalagi đã sáng lập ra phong trào liên Âu nhằm thiết lập hợp chủng quốc châu Âu để làm đối trọng với hợp chủng quốc hoa kỳ; và vào năm 1929 ngoại trưởng Pháp lúc bấy giờ là Aristide Briand cũng đưa ra đề án thành lập liên minh châu Âu, nhưng đều không thành. Phải đến sau thế chiến thứ 2, những ý tưởng thống nhất châu Âu mới thành hiện thực.
Đại chiến thế giới thứ 2 kết thúc đã làm đảo lộn trật tự thế giới nói chung và trật tự châu Âu nói riêng . Trật tự thế giới Yalta với hai cực là siêu cường là Hòa kỳ và Liên Xô trở thành lực lượng mới khống chế toàn cầu. Cùng với sự thay đổi đó châu Âu cũng bị chia thành hai khu vực: Đông Âu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa còn Tây Âu đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Và trong khi Liên Xô với vai trò thành trì của phong trào công sản quốc tế, dẫn dắt nửa kia của châu Âu, có vị thế ngày càng rộng lớn, thì Hoa kỳ nhờ chiến tranh mà phát triển vượt bậc cả về kinh tế lẫn quân sự, còn Tây Âu phải đối mặt với sự suy yếu toàn diện và nguy cơ tụt hậu. Cho dù thắng trận hay bại trận thì nền kinh tế các nước Tây Âu đều rơi vào tình trạng kiêt quệ. Còn về quân sự thì cả hai phía đồng minh và phát xít không tránh khỏi những tổn thất nặng nề. Nguy cơ mất vai trò trung tâm thế giới của Tây Âu đã trở thành hiện thực.
Hơn nữa, người châu Âu nhận thấy rằng để loại trừ tận gốc mầm mống của hai cuộc đại chiến thế giới đã gây không biết bao nhiêu tổn thất cho châu Âu, cần phải tước bỏ quyền độc lập sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của hai ngành kinh tế quan trọng nhất của châu Âu lúc bấy giờ là Than và Thép, chủ yếu nằm trong tay Pháp và Đức, hai quốc gia luôn có những căng thẳng chình trị- mối hiểm họa tiềm tàng của hòa bình châu Âu. Chính trị trong bối cảnh đó, nhu cầu hợp tác và liên kết chặt chẽ, toàn diện của các nước Tây Âu trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Chỉ bằng con đường hợp tác hòa bình, các nước Tây Âu mới giải quyết hết những khó khăn chồng chất sau chiến tranh, phát triển nội lực và tăng thế cạnh tranh bên ngoài. Chưa bao giờ các quốc gia Tây Âu lại có ý thức rõ ràng và
Cáp bách một vấn đề cộng đồng chung đến như vậy. Và một yêu cầu tất yếu, hết sức cấp thiết đặt ra là phải thành lập một tổ chức quyền lực siêu quốc gia có sứ mệnh điêu hành các hoạt động hợp tác giữa các quốc gia sao cho hiệu quả. Đòi hỏi khách quan đó đã trở thành nguồn gốc của sự liên kết các quốc gia Tây Âu- mở ra trang mới trong lịch sử phát triển Tây Âu nói riêng cũng như cả châu Âu nói chung.
Mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành EU là bản tuyên bố Schuman của bộ trưởng ngoại giao Pháp Robert Schuman vào ngày 09/05/1990 với đè nghị đặt toàn bộ nền sản xuất gang thép của công hòa liên bang Đứcvà Pháp dưới một cơ quan quyền lực chung, trong một tổ chức mở cửa để các nước châu Âu khác cùng tham gia. Sau đó, hiệp ước thành lập cộng đồng gang thép châu Âu (ECSC), một tổ chức tiền than của châu Âu ngày nay được ký kết. Từ đó đến nay, sự liên kết của các quốc gia châu Âu đã không ngừng phát triển cả về chiêu rộng cũng như chiều sâu với đỉnh cao là liêm minh châu Âu như chúng ta thấy ngày nay và cả trong tương lai sẽ đạt tới một cấp độ liên kết cao hơn. Nhìn lại hơn 50 năm hình thành và phát triển của liên minh châu Âu, có thể thây quá trình này gắn với các hiệp ước chủ yếu sau đây ( từ năm 1952 đến nay).
Hiệp ước Paris thành lập cộng đồng than- thép châu Âu (ECSC) được ký ngày 18/04/1951 với sự tham gia của 6 nước: Pháp, Đức. Italia, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg, nhằm thống nhất việc sản xuất và phân phối hai sản phẩm chính là thép và than trên toàn lãnh thổ châu Âu. Hiệp ước này đã chứa ý đồ của các nhà sáng lập ECSC là gây dựng nền tảng cho việc nhất thể hóa kinh tế châu Âu
Hiệp ước Rome thành lập cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu (EURATOM) và cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) được ký ngày 25/03/1957 với sự nhất trí của 6 nước thành viên ECSC. Mục đích thành lập EURATOM là thống nhất quản lý ngành năng lượng nguyên tử của 6 nước thành viên; trong khi đó EEC ra đời nhằm đáp ứng nha cầu tăng cường liên kết kinh tế giữa 6 nước này, tạo ra một sức mạnh tổng hợp dưới hình thưc một thị trường chung mà lao động hàng hóa được tự do di chuyển như một thị trường nội địa. Hiệp ước Rome là kết quả những thành tựu đáng khích lệ về kinh tế và chính trị mà ECSC đã đạt được. Và có thể nói, hiệp ước này đã mở ra một hướng liên kết giữa các nước châu AAuddanhf giá sự ra đời của một liên minh kinh tế thưc sự cộng đồng kinh tế châu Âu.
Hiệp ước thành lập công đồng châu Âu (EC) được ký ngày 08/04/1995 giữa các nước của 3 nước cộng đồng này dưới tên gọi: cộng đồng châu Âu. Đây là văn bản thể hiên mức độ nhất thể hóa nền kinh tế cao giữa các quốc gia này thể hiện thành lập một thi trường thống nhất; trong đó ngoài việc hàng hóa, lao động và việc vốn đầu tư, được tự do di chuyển và hang rào thuế quan và thuế quan cũng được gỡ bỏ, hệ thống thuế quan và chính sách thương mại chung thành lập, một số chính sách đối với các lĩnh vực kinh tế khác cũng được thống nhất nhằm tăng cường sức cạnh tranh với các khối kinh tế bên ngoài nhằm tiến tới một liên minh chặt chẽ về chính trị.
Hiệp ước Maastricht thành lập liên minh châu Âu được ký ngày 07/02/1992 tại Maastricht- Hà Lan, với sự nhất trí hoàn toàn của các nguyên thủ quốc gia các nước thành viên ( lúc này số thành viên của EC là 12 nước: Pháp,Đức, Bỉ, Ha Lan, Luxembourg, Anh, Đan Mạch, Ailen, Hy Lap, Italia, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha) nhằm thành lập một không gian châu Âu thống nhất về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng và các chính sách xã hội. Như vậy, EU đã bổ sung các nội dung liên kêt mới mà các tổ chức tiền thân của nó chưa có, để đạt được các mục tiêu hoàn thiện hơn như: duy trì bảo vệ hòa bình và thịnh vượng, thiết lập nền tảng phát triển, tiến tới hợp nhất về kinh tế vì lợi ịch chung của các dân tộc châu Âu thong qua việc tạo một khuc vực kinh tế rộng lớn, một khu vực thị trường tự do, thống nhất, tạo điều kiện cho việc thống nhất chính trị và hài hòa về xã hội trong liên minh. Với mục tiêu như vậy, EU đã thực sự bước vào một thời kỳ mới, tồn tại như một thực thể thống nhất, hay nói đúng hơn là đóng vai trò như một đại quốc gia ở châu Âu, ngôi nhà chung của châu Âu.
Hiệp ước Amsterdam được ký kết vào ngày 02/10/1997 bởi các nguyên thủ quốc gia của 15 nước thành viên ( năm 1995 EU đã kết nạp them 3 thành viên nữa là: Thụy Điển, Phần Lan, Áo). Hiệp ước này được hình thành trên cơ sở sữa đổi hiệp ước Maastricht nhằm đưa những cố gắng của EU trong việc xây dựng một liên minh kinh tế- tiền tệ (EMU) trở thành hiện thực. hiệp ước này đã tạo cơ sỏ pháp lý để đồng EU đồng tiền chung của các nước châu Âu chính thức ra đời với tư cách đày đủ của một đồng tiền thưc thụ và đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1999 trong phạm vi 11 nước (EU-11): Đức. Pháp, Ailen, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Italia, Luxembourg, Phần Lan. Theo kế hoạch đã được định trước, đúng ngày 01/01/2002 đồng tiền EU bằng giấy và bằng kim loại chính thức được lưu hành song song với các đồng tiền bản tệ và bắt đàu giai đoạn đổi tiền. Và kể từ ngày 01/07/2002 , các đồng bản tệ của 11 nước thuộc EU- 11 đã chính thức kết thúc lịch sử tồn tại của mình vĩnh viễn rút khỏi lưu thông, chính thức nhường chỗ hoàn toàn cho đồng EU đang là đồng tiền chung, duy nhất lưu hành trong tất cả các quan hệ kinh tế- xã hội những nước thành viên, một ngôi nhà chung châu Âu đã được hình thành.
Hiệp ước Nice (07/11- 12/2000) được tập trung vào các vấn đề cái cách thể chế để đón nhận cấc thành viên mới gồm các vấn đề:
+ Cải cách thể chế: đổi mới thành phần ủy ban châu Âu (ủy ban châu Âu sẽ có không quá 27 ủy viên, trong đó mỗi nước sẽ có một ủy viên, được chỉ định theo nguyên tắc luân phiên, sẽ thực hiện từ năm 2005. Chủ tịch ủy ban sẽ được trao thêm một số quyền mới, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương và trong lĩnh vực ECsex được biểu quyết theo nguyên tắc đa số đủ thẩm quyền; phân định số phiếu bầu trong Hôi đồng Bộ trưởng, cụ thể: Pháp, Đức, Anh, Italia có cùng số phiếu bầu là 29, Tây Ban Nha có số phiếu bầu là 27 phiếu, Hà Lan có số phiếu bầu là 13 phiếu, Bỉ có số phiếu bầu là 12 phiếu, và các nước còn lại sec có tú 3- 7 phiếu. Tổng số phiếu bầu sẽ là 345 khi số thành viên EU là 25 nước nguyên tắc bỏ phiếu theo đa số đủ thẩm quyền: hiện đang áp dụng cho 80% quyết định, 20% vấn đề còn lại các nước vẫn giữ nguyên quyền phủ quyết của mình, đặc biệt đối với những vấn đề nhạy cảm, động chạm đến lợi ích quốc gia).
+ Tăng cường vai trò của nghị viện châu Âu, số nghế nhiều nhất là 99 (tăng 12 so với cũ). Pháp, Anh, Italia chỉ còn 74 ( giảm 13 so với số cũ). Tổng số nghị sĩ tương lai sẽ là 738.
+ Về chính trị an ninh và quốc phòng: EU thành lập lực lượng phản ứng nhanh (RRF) từ năm 2003, bao gồm 60000 quân và 100 tầu chiến và 400 máy bay trong thời gian 60 ngày. RRF sẽ có cơ cấu điều hành thường trực gồm ủy ban quân sự và bộ tham mưu đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của EU.
Như vậy, từ ECSC đến EU hiện nay là cả một quá trình phát triển phức tạp với các hình thực liên kết kinh tế quốc tế được phát triển chặt chẽ, toàn diện và hoàn toàn mới về vật chất. Và cho đến nay, sau nhiều nỗ lực thiết thực EU, tiến trình hóa châu Âu đã đạt được các kết quả rất khả quan trên nhiều lĩnh vực.
+ Về an ninh: EU lấy NATO và liên minh phòng thủ Tây Âu (WCU) làm hai trụ cột chính. Tuy nhiên EU đang cố tạo cho mình một cánh tay quân sự bên cạnh cánh tay kinh tế với bản sắc riêng của mình, hạn chế sự lệ thuộc vào Hoa Kỳ.
+ Về chính trị: đang diễn ra quá trình chính trị hóa các nhân tố kinh tế, an ninh, nghĩa là kết hợp các phương tiện kinh tế và quân sự nhằm đạt được mục tiêu kinh tế. Trong nội khối đã và đang diễn ra quá trình hợp nhất và thống nhất các đường biên giới quốc gia nhằm tăng cường quyền lực và quản lý chung. Còn đối với bên ngoài, EU đang đẩy mạnh hợp tác quốc tế và khu vực bằng các hiệp định song phương và đa phương.
+ Về kinh tế: GDP của EU năm 1988 đạt 8.482 tỷ USD, được xem là lớn nhất thế giới ( NAFTA: 8.150 tỷ USD, ASEAN: 845 tỷ USD), năm 200 đạt 9004 tỷ USD, năm 2001 đạt 9.315 tỷ USD, với mức tăng trưởng bình quân hang năm 1995- 2000 gần 2,2. Đây là khu vực kinh tế đạt trình độ cao về kỹ thuật, công nghệ, thiết bị, máy móc, đặc biệt là về cơ khí, năng lượng, nguyên tử, dầu khí, hóa chất, dệt may, điện tử, công nghiệp vũ trụ và vũ khí.
+ Về thương mại: EU là trung tâm thương mại lớn thứ hai sau Hoa Kỳ, với doanh số 1.527,5 tỷ USD năm 1997, trong đó 50% là buôn bán giữa các thành viên, năm 2002 giá trị xuất khẩu hành hóa của EU đạt 2.441,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu hàng hóa nội khối đạt 1.502,2 tỷ USD, xuất khẩu hàng hóa ngoại khối đạt 939 tỷ USD. Về nhập khẩu hàng hóa: năm 2002, EU đạt 2.437 tỷ USD, trong đó nhập khẩu khối nội đạt 1.506 tỷ USD và ngoại khối đạt 931 tỷ USD. Như vậy, thương mại của EU phần lớn phát triển mạnh trong nội bộ khối nhờ khối tác động của chính sách nhất thể hóa kinh tế khu vực. Ngày 01/05/2004, EU có 25 nước thành viên sau khi kết nạp them 10 quốc gia mới, với việc mở rộng lần thứ 5 này. EU trở thành một khối kinh tế thị trường lớn nhất thế giới, với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa dịch vụ chiếm khoảng 21,9% kim ngạch nhập khẩu của tập đoàn thế giới.
Cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của liên minh châu Âu
Nhằm thực hiện mục tiêu chung đã được đề ra trong các hiệp ước, EU đã xây dựng cho mình một hệ thống thể chế siêu quốc gia để điều hành, giám sát quá trình liên kết của các quốc gia thành viên. Hệ thống thể chế này bao gồm 5 cơ quan chính sau:
Hội đồng châu Âu: bao gồm những người đứng đầu nhà nước, chính phủ các nước thành viên và chủ tịch ủy ban châu Âu. Hội đồng châu Âu có nhiệm vụ xác định những định hướng lớn của EU và đóng vai trò như mọi diễn đàn chính trị.
ỦY ban châu Âu: là cơ quan hành pháp của EU, gồm 20 ủy viên được ủy nhiệm dựa trên cơ sở sự thỏa thuận của các nước thành viên và phải được quốc hội châu Âu tán thành. Ủy ban châu Âu đè xuất lên hội đồng bộ trưởng các biện pháp phát triển chính sách chung và theo dõi việc tôn trong các hiệp ước.
Nghị viên châu Âu: là cơ quan lập pháp của EU, bao gồm 626 nghị sĩ của các nước thành viên và được chia ra thành 18 ủy ban. Nghị viên châu Âu có chức năng thông qua ngân sách, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách của EU, cùng hôi đòng châu Âu quyết định trong một số lĩnh vực. Nghị viên cũng có quyền bãi miễn ủy viên ủy viên ban châu Âu.
Tòa án châu Âu: trụ sở đặt tại Luxembourg, gồm 15 thẩm phán và 9 trạng sự do chính phủ thỏa thuận bổ nhiệm. Tòa án có vai trò độc lập, có quyền bác bỏ những quy định của các tổ chức của ủy ban châu Âu, văn phòng chính phủ của các nước nếu bị coi là không phù hợp với luật của EU.
Tòa kiểm toán châu Âu: có chức năng kiểm tra các khoản tài chính của EU để đảm bảo tính hợp pháp của các khoản thu chi, đồng thời phối hợp với các cơ quan thể chế khác của EU để thực hiện các hoạt động có liên quan đến tài chính của mình.
Ủy ban kinh tế và xã hội: là cơ quan đại diện cho lợi ích của các nhóm người trong xã hội, có nhiệm vụ tư vấn, hỗ trợ cho hội đồng bộ trưởng và ủy ban châu Âu.
Ủy ban về khu vực: có chức năng tư vấn cho các cơ quan thể chế của EU về các vấn đề liên quan tới lợi ích của các đơn vị địa phương và khu vực.
Ngân hàng đầu tư châu Âu: đảm bảo trách nhiệm cấp phát tín dụng cho các tổ chức nhà nước, các doanh nghiệp và các nước thành viên trên cơ sở nguồn vốn của các nước thành viên đóng góp hoặc vốn vay quốc tế.
Tình hình phát triển của liên minh châu Âu
Trải qua không ít những thăng trầm trong gần một nữa cuối thế kỷ XX, giờ đay châu Âu đang dần lấy lại vị trí trung tâm thế giới của mình. Đặc biệt trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước EU đã thực sự khẳng định được vị thế là một trung tâm kinh tế hùng mạnh của thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kể và tương đối ổn định. Tăng trưởng GDP của EU trong năm 1996 là 1,6%, năm 1997 là 2,5%, năm 1988 là 2,7%, năm 1999 là 2,0% và cho đến năm 2000 thì cả châu Âu thở phào nhẹ nhõm với tốc độ tăng trưởng GDP là 3%, cao nhất từ cuối thập kỷ 80 cho tới năm cuối cùng của thế kỷ XX. Năm 1988 khi cơn bão tài chính làm nghiêng ngã nền kinh tế thế giới thì EU- khu vực ít bị ảnh hưởng nhất của khủng hoảng- vẫn tiếp tục quá trình phát triển kinh tế của mình. Theo các nhà kinh tế, sự ổn định kinh tế của EU có chiều hướng giảm do sự sụt giá của đồng Euro và sản xuất công nghiệp giảm sút. Nhưng chỉ riêng với sự suy giảm này cũng chưa thể đưa ra một kết luận tiêu cực về nền kinh tế EU, bởi ngay cả khi tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chậm lại, lạm phát của EU trong năm 1999 vẫn ở mức 1,1%- mức thấp chưa từng có trong lịch sử, tỷ lệ thất nghiệp giảm lần đầu tiên trong thập kỷ 90 từ hơn 10% xuống còn 9,4% trong năm 1999 và thâm hụt ngân sách của các nước thành viên cũng ở mức thấp: 0,5%- 0,7% GDP. Tình hình kinh tế EU trong năm 1999 đã được cải thiện và phát triển tích cực, năm 200, GDP của Eu cao hơn năm 199 gần 1,1%, tăng truoengr tốc độ 3% trong các năm 2001- 2002 do tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp đã tạo nguy cơ chưa từng có chia rẽ nội bộ EU và ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế châu Âu. Khoảng cách giữa các quốc gia trong khối ngày càng thu hẹp. Trong số các quốc gia thuộc EU thì các nước nhỏ Bắc Âu tỏ ra tiến mạnh mẽ nhất, nước Đức khổng lồ thường bị tụt hậu mấy năm gần đây cũng đã bắt kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả khối. Chỉ có Italia, hơi yếu về khả năng cạnh tranh cũng đã vươn lên tốc độ tăng trưởng 2,6% trong năm 200, tuy nhiên vẫn bị coi là mức thấp nhất khối. Theeo ủy ban châu Âu, kinh tế EU vẫn đang phát triển khả quan. Các chuyên gia kinh tế của IMF và OECD cũng rất lạc quan vào sự tiếp tục phát triển của EU bởi ngân hàng trung ương châu Âu tiếp túc kiểm soát chặt chẽ mức cấp tiền và duy trì mức lãi suất khá ổn định ở mức 4,5%. Theo dự báo của OECD, trong năm 2003, tốc độ tăng trưởng của kinh tế EU vẫn sẽ ổn định ở mức tren dưới 2,6%, tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm đáng kể từ 8,8% năm 2003. Các nhà kinh tế cho rằng Eu tăng trưởng chậm nhưng chắc và vẫn tin tưởng khẳng định xu hướng đi lên của kinh tế EU trong năm 2010 và tầm nhìn tới năm 2020.
Quan hệ của Việt Nam với EU
Quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều theo những hướng hay những con đường khác nhau nhưng nhìn chung thì trong quá trình phát triển đó cần phải có sự hợp tác với các quốc gia hay những tổ chức khác nhau nhằm mực đích tìm kiếm thị trường để tiêu thụ sản phẩm đó là những vấn đề cấp bách đối với các nước phất triển, còn đối với các nước nghèo hay là các nước đang phát triển thì hợp tác là để tìm vốn đầu tư hay là học hỏi kinh nghiệm phát triển, quản lý của họ.
Đối với Việt Nam quá trình phát triển kinh tế cũng giống như các nước khác là cần sự hợp tác với các nước hay tổ chức. Cụ thể như là quân hệ của nước ta với liên minh châu Âu (EU).
Quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam với các nước thành viên của liên minh châu Âu đã có từ lâu, mối quan hệ ấy đặc biệt phát triển nhanh, mạnh kể từ khi Việt Nam và EU thành lập quan hệ ngoại giao năm 1990. Liên minh châu Âu đã và đang trở thành một đối tác quan trọng, một thị trường rộng lớn, có khả năng tiêu thụ nhiều loại sản phẩm của Việt Nam như: giày, dép, dệt may, nông sản, thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ dân dụng, sản phẩm nhựa, đồ điện tử, thủy sản…Đồng thời EU cũng là một khu vực có nền kinh tế phát triển cao, có thể đáp ứng những nhu cầu nhập khẩu thiết bị công nghiệp, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước.
Quan hệ hợp tác đầu tiên giữa EU và Việt Nam chủ yếu là trợ giúp người Việt Nam hồi hương. Từ năm 1989- 1996, tổng viện trợ của EU cho mục đích trên là 110 triệu USD. Năm 1996, Việt Nam và OC thống nhất chiến lược phát triển và hợp tác nền kinh tế chung nhằm củng cố quá trình chuyển đổi kinh tế vVieetj Nam sang nền kinh tế thị trường, đồng thời giảm nhẹ chi phí xã hội trong qua trình chuyển đổi. Đến nay EU đã cam kết tổng công 150 triệu Euro cho chiến lược này.
Năm 2002, EU thong qua chiến lược phát triển với Việt Nam trong giai đoạn 2002- 2006, nhằm tạo điều kiện tăng tốc xóa đói giảm nghèo trong chiến lược phát triển bền vững. Theo đó EU dự kiến trợ giúp 162 triệu Euro tập trung vào hai lĩnh vực:
Tăng cường phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt hỗ trợ phát triển một số tỉnh nghèo thong qua hỗ trợ giáo dục
Trợ giúp cái cách kinh tế Việt Nam theo hướng cơ chế thị trường để nhanh chonhs hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới
Ngoài ra, trong chiến lược này còn có vấn đề bảo vệ môi trường, văn hóa, giáo dục, chất lượng giới tính và quản lý nhà nước có hiệu quả.
Hiệp định hợp tác Việt Nam- EU ký 7/1995, tạo bước ngoạt vững chắc trong tiến trình phát triển quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai bên. Đây là hiệp định khung dài nhằm 4 mục tiêu:
Đảm bảo các điều kiện cần thiết thúc đẩy phất triển quan hệ thương mại, đầu tư trên cơ sở cùng có lợi và giành cho nhau quy chế tối huệ quốc; Trợ giúp phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam và đặc biệt chú trong đến việc cải thiện đời sống choc ho các tầng lớp nhân dân nghèo; Trợ giúp các nỗ lực của Việt Nam trong việc cơ cấu lại nền kinh tế theo cơ chế thị trường; Trợ giúp nhằm bảo vệ môi trường và sử dụng lâu dài nguồn tài nguyên thiên nhiên theo hướng phát triển bền vững.
Quan hệ thương mại: quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước thành viên của liên minh EU phát triển mạnh mẽ từ đầu những thập kỷ 90 sau khi Việt Nam ký một loạt hiệp định song phương với EU như hiệp định khung về hợp tác kinh tế khao hoc và kỹ thuật (năm 1990), hiệp định dệt may (1994, 1996, 1997, 2000, 2003), hiệp định giày dép (2000). Kim ngạch buôn bán hai chiều tăng tứ 300 triệu USD năm 1990 lên 2 tỷ USD năm 1995, trên 4,1 tỷ USD năm 2000, xấp xỉ 5 tỷ USD năm 2002 và hơn 6,3 tỷ USD năm 2003, năm 2006 kim ngạch hai chiều đạt gần 10 tỷ USD và luôn tăng trưởng ở mức cao 15- 20% năm. Các nhà đàu tư EU có mặt hầu hết các ngành kinh tế quan trong của Việt Nam với 562 dự án, tổng vốn đăng ký khoảng 7 tỷ USD. Các dự án đầu tư của châu Âu có hàm lượng và tỷ lệ chuyển giao công nghệ cao, phương pháp quản lý tiên tiến, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. EU luôn là những đối tác viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, mức cam kết năm 2007 là 940 triệu USD.
Về xuất khẩu: năm 2003, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt hơn 3,8 tỷ USD, tăng 20 lần so với năm 1990. Có 5 mặt hàng chủ lực là giày dép 1,6 tỷ, dệt may 537 triệu USD, cà phê và chè gần 268 triệu USD, thủ công mỹ nghệ 172 triệu USD và hải sản hơn 153 triệu USD
Về nhập khẩu: từ năm 1999, Việt Nam nhập khẩu nhiều máy móc, thiết bị công nghệ trực tiếp từ các nước thành viên EU…Năm 2003 tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ EU đạt 2,5 tỷ USD, tăng 15 lần so với năm 1990. Các mặt hàng nhập khẩu chính đạt hơn 1,538 tỷ USD. Trong đó máy móc thiết bị gần 1,3 tỷ USD, tân dược hơn 110 triêu USD, nguyên phụ liệu dệt may da 76,3 triệu USD, sắt thép 71,4 triệu USD và phân bón hơn 9,3 triệu USD.
Ngoài quan hệ trực tiếp nói trên, các doanh nghiệp EU còn tham gia xuất nhập khẩu với Việt Nam qua nước thứ 3 như: Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Hoa Kỳ, Nhật Bản. Hiện có gần 1000 chi nhánh thương nhân, văn phòng đại diện thương mại thường trú của các doanh nghiệp EU hoạt động tại Việt Nam, trong các lĩnh vực xuất nhập khẩu, dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, hằng hải phân phối, xúc tiến thương mại và đầu tư.
Đầu tư trực tiếp: nếu tính EU là một hệ thống thống nhất thì EU đứng đầu danh sách những nước và vùng lãnh thổ có đầu tứ trực tiếp tại Việt Nam, song nếu tính thành viên thì các thành viên thuộc EU vẫn chưa phải là những nước đi đàu trong lĩnh vực này.
Tính đến 31/12/2003 các doanh nghiệp EU đã đầu tư gần 2,3 tỷ USD trên tổng vốn đăng ký trên 5,8 tỷ USD vào 369 dự án. Trong đó đứng đầu là các doanh nghiệp Pháp với 134 dự án, trị giá hơn 2,1 tỷ USD đứng thứ hai là doanh nghiệp Hà Lan với 51 dự án, trị giá hơn 2 tỷ. Năm 2006 kim nhạch hai chiều đạt gần 10 tỷ với 562 tỷ USD, tổng vốn đăng ký khoảng 7,5 tỷ USD, mức cam kết năm 2007 là 940 triệu USD.
Về lĩnh vực đầu tư: dầu khí là lĩnh vực có số dự án ít nhưng vốn đăng ký và vốn thực hiện lớn, 10 dự án với 1,4 tỷ USD vốn đầu tư; chiếm 3,2% tổng số dự án và 23,7% tổng vốn đầu tư. Phần lớn dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 176 dự án có số vốn 2,3 tỷ USD, chiếm 55,8% tổng số dự án và 39% tổng số vốn đầu tư. 32 dự án đầu tư vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp với số vốn là 835,7 triệu USD. 55 dự án đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ với số vốn 282,1 triệu USD.
Về hình thức đầu tư: EU đầu tư chủ yếu vào Việt Nam theo hai hình thức là liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Trong đó, liên doanh có 115 dự án với số vốn 1,6 tỷ USD. Có 171 dự án 100% vốn nước ngoài với số vốn 818,7 triệu USD. Hình thức đầu tư BOT, BT, BTO từ EU vào Việt Nam không nhiều.
5. Những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ hợp tác với EU
Những thuận lợi: Việt Nam có nguồn lực to lớn về con người, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nằm trong khục vực kinh tế năng động nhất của thế giới, sự ổn định về chính trị, ổn định về kinh tế vĩ mô, nhất quán trong đường lối của Đảng và nhà nước, sự tích cực trong cải cách nền hành chính,…Đã tạo nên một môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng của Việt Nam.
Những khó khăn: nhìn chung, quan hệ của Việt Nam với EU đã đạt được nhiều thành tựu cũng như các kết quả khả quan nhưng bên cạnh đó còn có những khó khăn đối với việc quan hệ nhất là về mặt kinh tế. Đó là, nạn quan liêu tham nhũng là trở ngại lớn nhất với các nhà đầu tư EU, việc trì trệ trong tiến hành cấp phép đầu tư, khiến nhà đầu tư mất nhiều thời gian hơn và gây tâm lý chán nản. Thủ tục đầu tư càng minh bạch, càng nhanh chóng sẽ khiến nhà đầu tư hấp dẫn hơn khi rót vốn đầu tư vào Việt Nam, vấn đề quan trọng nữa là Việt Nam cần mở cửa hơn nữa trong lĩnh vực ngân hàng cũng như đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động của chính phủ, để đảm bảo phát triển kinh tế bền vững.
Các nguồn lực phát triển kinh tế nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng của Việt Nam còn bị hạn chế hoặc nằm trong tình trạng khó khai thác, sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới còn thấp, trình độ công nghệ, trình độ quản lý còn hạn chế, là nước đi sau nên gặp nhiều khó khăn vì phải cạnh tranh gay gắt và phải đối phó với hàng rào bảo hộ mậu dịch tinh vi thông qua các tiêu chuẩn kỹ thuật.
III. KẾT LUẬN
Qua chặng đường hơn 50 năm phát triển, từ khi thành lập đến nay liên minh châu Âu (EU) đã có những bước phát triển hết sức mạnh mẽ bó qua những khó khăn hay những tình hình kinh tế trên thế giới đầy biến động.
Từ khi mới thành lập bằng hiệp ước Paris thành lập cộng đồng Than- thép châu Âu (ECSC) lúc đó với 6 nước tham gia để nhằm thống nhất việc sản xuất và phân phối sản phẩm chính là thép và than trên toàn lãnh thổ châu Âu, hiệp ước này đã chứa đựng ý đồ của các nhà sáng lập ECSC là dựng nền tảng cho việc nhất thể hóa kinh tế châu Âu và bây giờ là liên minh châu Âu (EU). Trong quá trình thành lập đó cho đến nay EU có tới 27 thành viên đã có những bước tiến mạnh mẽ biến Eu trở thành một trung tâm kinh tế lớn hàng đầu thế giới, EU đã có được một nền hòa bình thịnh vượng. Mỗi nước thành viên của EU đều đóng góp vào sự thống nhất châu Âu và ổn định của nền đân chủ ở đây. Với 27 nước thành viên, EU ngày nay đã trở thành động cơ hòa bình thế giới.
Quan hệ kinh kinh tế thương mại của Việt Nam với liên minh châu Âu bắt đầu từ năm 1990 cho đến nay cũng có những bước tiến mạnh mẽ về kinh tế thương mại và đang phát triển tốt đẹp, đem lại nhiều kết quả có lợi cho cả hai bên. Liên minh châu Âu là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam, hiện nay, hai bên đang tích cực xây dựng hiệp định hợp tác và đối tác, hai bên đang thúc đẩy quá trình hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn và mong muốn đưa quan hệ hợp tác giữa Việt Nam- Liên minh châu Âu lên tầm cao mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế. Chủ biên TS. Nuyễn Phúc Thọ & Ths. Lương Xuân Chính. nhà xuất bản Nông Nghiệp
Sách báo, radio, tivi…
Mạng internet:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ sự ra đời của liên minh châu âu và mối quan hệ với việt nam.doc