CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Nhiều nước, nhất là các nước ở châu Á coi một số loại côn trùng là món ăn ngon. Ở nước ta các loại côn trùng như cào cào, châu chấu, dế, tằm, sâu chit, nhộng tằm, rươi. là những loại côn trùng được dùng làm món ăn, một số nơi được coi là món ăn quý. Với loài dế cũng có nhiều giống như: dế ché, dế cơm to con, thân màu nâu đen, hai chân sau to có màu nâu sẩm.
Dế cơm có cùng kích cỡ như dế ché, cánh màu đen đậm, chân nâu nhạt, đây là hai giống to con và lịch lỡm nhất trong họ nhà dế.
Ngoài ra còn có các loại dế nhỏ con hơn như dế mọi, dế ta, dế nhủi, dế mèn - cái tên quen thuộc trong tiểu thuyết "Dế mèn phiêu lưu ký" của nhà văn Tô Hoài, nhỏ con nhất và thường sống dưới lớp vỏ cây là dế dủi, không cánh.
1.2. Mục đính nghiên cứu
- Dế là một loại côn trùng mà ta có thể nuôi và chế biến ra nhiều món ăn khác nhau ở một số nước như Ấn Độ , Đài Loan, Trung Quốc, thái Lan. Dế còn được coi là món ăn ngon, ở nhiêu nơi dế còn được coi đó như là một đăc sản. Những năm gần đây phong trào ăn dế và nuôi dế ở một số nước ngày càng phổ biến, thì ở VN ta một vài năm trở về đây cũng vậy nhất là ở trong TPHCM dế là một món ngon luôn có ở trên bàn nhậu, nhờ đó mà phong trào nuôi dế bắt đầu hình thành và đã có người giàu lên nhờ nuôi dế.
- Vậy để đáp ứng nhu cầu một số nhà hàng và một số hộ chăn nuôi. Chúng tôi nghiên cứu vấn đề này để giúp các hộ nuôi dế, Trang trại dế đả cung cấp dế giông cho các hộ chăn nuôi và hướng dẫn kỹ thuật một cách nhiệt tình giúp người nuôi đạt hiệu quả tốt nhất.
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN
Hiệp Hòa là một huyện trung du, nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Bắc Giang, cách thành phố Bắc Giang 30 km. Phía Bắc giáp huyện Tân Yên. Phía Nam giáp huyện Yên Phong (Bắc Ninh). Phía Đông giáp huyện Việt Yên. Phía Tây giáp tỉnh Thái Nguyên. Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 20.110 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 67%; đất lâm nghiệp chiếm 0,9%. Đây là một vùng có đất đai đa dạng, thích nghi với nhiều loại cây trồng về lương thực, thực phẩm, công nghiệp. Trên địa bàn huyện có con sông Cầu chảy qua, không chỉ cung cấp nguồn nước tưới mà còn chứa trữ lượng tài nguyên cát, sỏi khá lớn. Các xã ven sông Cầu có nghề trồng dâu nuôi tằm dệt lụa nổi tiếng, điển hình là làng nghề ươm tơ truyền thống tại xã Mai Đình. Gần đây còn nổi lên phong trào nuôi dế xoá đối giảm nghèo và làm giàu Về giao thông đường bộ còn có tuyến Quốc lộ 37 chạy qua dài 14km, nối huyện Hiệp Hòa với tỉnh Thái Nguyên. Về nguồn nhân lực, dân số toàn huyện có khoảng 21 vạn người. Trong đó, độ tuổi lao động chiếm khoảng 45%, chủ yếu là lao động nông nghiệp. Về tiềm năng du lịch, huyện Hiệp Hòa có điểm du lịch văn hóa An toàn khu 2 tại núi Y Sơn (thuộc xã Hòa Sơn), thu hút nhiều khách du lịch tới thăm quan.
Nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, trong những năm gần đây Hiệp Hòa đã chú trọng chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa. Trong đó, phát huy lợi thế vùng đẩy mạnh sản xuất lương thực, rau màu, chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng thủy sản; xây dựng các cụm công nghiệp tại thị trấn Thắng và các xã nhằm thu hút đầu tư; chú trọng qui hoạch, đầu tư nâng cấp hệ thống chợ nông thôn tạo điều kiện đẩy mạnh giao lưu hàng hóa, phát triển thương mại – dịch vụ.
Theo hướng đó, huyện đã ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; củng cố đội ngũ cán bộ theo hướng chuẩn hoá, nâng cao năng lực công tác, chất lượng quản lý, chỉ đạo điều hành từ huyện đến cơ sở. Trong phát triển kinh tế, đảng bộ, chính quyền huyện tập trung chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu theo hướng thâm canh, khuyến khích nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật, từng bước làm thay đổi nhận thức, tập quán sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi. Không cổ động làm kinh tế theo phong trào, huyện chủ trương căn cứ vào đặc điểm địa thế, đất đai, dân cư để gợi mở người dân chủ động lựa chọn những cách làm phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Tại xã Danh Thắng, giữa không gian xanh yên bình của những cánh đồng lúa và lạc bạt ngàn, đã xuất hiện những dãy phố làng, không thiếu những ngôi nhà xây kiên cố, kiến trúc hiện đại trị giá bạc tỷ. Phó Chủ tịch UBND xã Tạ Xuân Kiệm dẫn chúng tôi thăm cơ sở nuôi dế của anh Nguyễn Văn Phương tại thôn Trung Phú - chủ nhân của một trong những ngôi nhà như thế. Làm nghề nuôi dế trước đây anh chủ yếu dùng phương pháp thủ công. Sau này, khi ăn nên làm ra, vốn liếng kha khá, anh tính chuyện làm ăn lớn bằng cách đầu tư xây dựng cơ sở lơn mạnh, mở rộng quy mô sản xuất. Mỗi năm tháng anh xuất trại hàng chục kg dế thịt Cùng với anh Phương, xã Danh Thắng còn có gần chục hộ nuôi dế chuyên cung cấp con giống cho người chăn nuôi dế thịt ở huyện Yên Thế và một số nơi như Hải Dương, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Nguyên. Cũng từ đây, hàng trăm hộ dân trong xã đã có thêm nghề nuôi dế cung cấp cho các trang trại và các nhà hàng, nhiều hộ nuôi đến hàng nghìn thùng. Để có thêm thu nhập trang trải cuộc sống, nuôi con ăn học và có vốn liếng "lấy ngắn nuôi dài", người dân xã Danh Thắng cũng đổ đi các nơi kiếm kế sinh nhai. Các thôn như Trung Phú, Đại Đồng có tới 70% số hộ có người đi làm ăn ở Hà Nội, Quảng Ninh . Nhưng điều đáng ghi nhận là không những nông dân không bỏ ruộng mà đồng đất ở đây vẫn quay vòng đủ ba vụ mỗi năm. Từ nguồn vốn hỗ trợ và huy động trong nhân dân, Danh Thắng đã có 70% đường và hơn 50% kênh mương được cứng hoá. Ba trường học và trạm y tế xã đều đạt chuẩn quốc gia. Hơn một nửa số hộ trong xã có kinh tế khá trở lên.
Còn ở xã Đoan Bái, ông Đặng Văn Thiện, Chủ tịch UBND xã cho biết: "Từ nhiều năm nay, Đoan Bái có duyên với các dự án khoa học nông nghiệp của một số bộ, ngành. Vì thế cán bộ và nhân dân có điều kiện thuận lợi để tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đưa các giống cây, con có năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao vào sản xuất." Nông dân ở đây vốn có truyền thống trồng các giống đậu tương cao sản, nay thêm cây dưa bao tử, ớt, cà chua xuất khẩu, liên kết với Viện Ngô Trung ương trồng ngô giống, chăn nuôi lợn siêu nạc; đưa cây bưởi Diễn trồng thành trang trại, sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý tàn dư thực vật trên đồng ruộng thành phân bón hữu cơ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Trong xã đã xuất hiện nhiều mô hình mới như nuôi dế, nuôi hươu lấy nhung, mở ra triển vọng đa dạng hoá sản phẩm chăn nuôi.
Các biện pháp chỉ đạo sát thực tế của cấp uỷ, chính quyền các cấp cùng với đức cần kiệm, năng động, sáng tạo của người dân đã cho ra đời nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao như: luân canh lạc xuân - lúa mùa - khoai tây Đức ở các xã Danh Thắng, Đoan Bái, Hùng Sơn; nuôi cá bán thâm canh cho năng suất tăng gấp đôi so với phương pháp truyền thống (4 tấn lên 8 tấn) tại Đông Lỗ, Mai Đình, Xuân Cẩm, Hợp Thịnh; lúa - cá - cần ở Hoàng Lương; nhãn - bưởi Diễn - keo ở Lương Phong, Ngọc Sơn, Đức Thắng. Bên cạnh đó còn xuất hiện mô hình phát triển tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ như làng nghề ở Mai Trung . Thu nhập của người dân nông thôn Hiệp Hoà đến từ nhiều nguồn: sản xuất nông nghiệp, làm dịch vụ, xuất khẩu lao động, làm thuê . Những nguồn thu đó đều nhằm mục đích đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, mở mang sản xuất, dịch vụ, cải thiện đời sống làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi. Chạy dọc sông Cầu giờ đây là những làng quê trù phú của các xã Châu Minh, Mai Đình, Xuân Cẩm, Hợp Thịnh . Chỉ đạo phát triển sản xuất, huyện hướng các xã tập trung đầu tư theo khoảnh, theo vùng, khuyến khích chăn nuôi theo quy mô trang trại, gia trại để thuận lợi cho việc thâm canh, phòng chống dịch bệnh và tiêu thụ sản phẩm. Theo đó, các trang trại ngày càng phát triển cả về số lượng, quy mô và chất lượng. Đến thời điểm này, toàn huyện có gần 500 trang trại và gia trại, tăng 145% so với 5 năm trước. Tổng doanh thu của các trang trại khoảng 100 tỷ đồng/năm. Kinh tế trang trại góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá trên địa bàn huyện. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản 1.000 ha với sản lượng hàng năm đạt 2.460 tấn. Tổng diện tích cây ăn quả toàn huyện khoảng 2.000 ha, sản lượng 10 nghìn tấn, gấp gần 3 lần so với 5 năm trước (trong đó diện tích cây ăn quả chủ lực như nhãn, bưởi Diễn tăng nhanh). Thu nhập bình quân trên một ha đất canh tác đến nay đạt 53 triệu đồng/năm (tăng 23 triệu đồng/ha/năm so với mục tiêu đại hội đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2005-2010 đề ra). Tuy nguồn kinh phí hỗ trợ không nhiều (khoảng 5-6 tỷ đồng/năm) nhưng nhờ lựa chọn đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, kế hoạch hợp lý, đến nay đã có 100% các tuyến đường huyện và liên xã, 554 km đường nông thôn được cứng hoá tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông, vận tải hàng hoá, thúc đẩy KT-XH phát triển. Thu nhập bình quân đầu người toàn huyện đạt gần 10 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 7%.
đây là hình ảnh mô hình nuôi dế rất phổ biến hiện nay
- Dế là loài đa thực, thức ăn gồm nhiều loại như rau, củ, mầm non cây cỏ, cây hoa màu . Nhà đầu tư có thể tận dụng nguồn rau củ, quả có sẵn trong tự nhiên để tiết kiệm chi phí, nhưng phải chọn cây tươi, không bị hư, úng. Mỗi tháng, 1 kg dế thịt (khoảng 1.000 con) ăn hết 3 kg cám, 6 kg cỏ, cà rốt, rau. Mỗi ngày, dế ăn 3 bữa: sáng, trưa và chiều.
Dế sinh sản mạnh ở vùng đất khô ráo, ấm, nơi có nhiều cây cối phát triển. Chúng lớn lên bằng cách lột xác nhiều lần. Trứng dế thường được đẻ thành từng ổ trong môi trường đất ẩm. Mỗi ổ có từ vài chục đến hàng trăm trứng. Trứng hình hạt gạo hơi dài và có màu vàng pha nâu, kích thước khoảng 2,5-3 mm x 0,8-1mm. Mỗi con dế cái đẻ trung bình 300 - 500 trứng và có thể đẻ liên tục trong 7-10 ngày. Sau khi đẻ từ 10-15 ngày, dế mẹ chết và 7-10 ngày sau trứng sẽ nở. Sau 2 lần lột xác, dế non xuất hiện mầm cánh. Quá trình trưởng thành là từ 1,5-2 tháng. Và đây là giai đoạn bắt đầu thu hoạch, lấy thịt.
Thu hoạch dế cũng là khâu quan trọng vì phải giữ cho thịt dế không bị mất chất lượng. Một mẹo nhỏ là có thể đựng dế trong bịch ni lông nhỏ rồi bỏ vào thùng giấy, bên trong đặt một ít cỏ tươi, vài cái rế. Cách này chỉ bảo đảm được chất lượng thịt dế trong điều kiện di chuyển xa khoảng 100 km, đến nơi thì chế biến ngay. Nếu nuôi tốt, một cặp dế bố mẹ có thể cho 1 kg dế con. Giá thịt dế trên thị trường hiện tại khoảng 250.000 đồng/kg. Như vậy với 80 cặp dế giống ban đầu, trừ chi phí cho điện, nước và nhân công thì 6 tháng sau nhà đầu tư có thể hoàn vốn, 1 năm sau đó là có thể thu về 160 triệu đồng.
- Dế là một loài côn trùng ăn hại lá rất mạnh. Ðể tiến hành nuôi với số lượng lớn, quy trình nuôi phải khép kín thành từng khu hoặc tại các hộ gia đình, có quản lý chặt chẽ không để chúng trốn chạy ra ngoài làm ảnh hưởng đến cây trồng xung quanh
Nếu di chuyển xa hơn nên đông lạnh trước khi di chuyển. Dế đông lạnh bằng cách rửa sạch dế đã thu hoạch qua nước sạch, hoặc nước muối 5%, sau đó cho vô khay rồi đem đông lạnh. Cách này có thể giữ dế được lâu hơn khoảng 1 tuần đến 10 ngày.
Giá dế giống: 15.000 đồng (1 con đực và 2 con cái)
Giá thương phẩm: 250.000 đồng/kg
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3922 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lợi ích của việc nuôi dế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tại thị trấn Thắng và các xã nhằm thu hút đầu tư; chú trọng qui hoạch, đầu tư nâng cấp hệ thống chợ nông thôn tạo điều kiện đẩy mạnh giao lưu hàng hóa, phát triển thương mại – dịch vụ.
Theo hướng đó, huyện đã ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; củng cố đội ngũ cán bộ theo hướng chuẩn hoá, nâng cao năng lực công tác, chất lượng quản lý, chỉ đạo điều hành từ huyện đến cơ sở. Trong phát triển kinh tế, đảng bộ, chính quyền huyện tập trung chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu theo hướng thâm canh, khuyến khích nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật, từng bước làm thay đổi nhận thức, tập quán sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi. Không cổ động làm kinh tế theo phong trào, huyện chủ trương căn cứ vào đặc điểm địa thế, đất đai, dân cư để gợi mở người dân chủ động lựa chọn những cách làm phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Tại xã Danh Thắng, giữa không gian xanh yên bình của những cánh đồng lúa và lạc bạt ngàn, đã xuất hiện những dãy phố làng, không thiếu những ngôi nhà xây kiên cố, kiến trúc hiện đại trị giá bạc tỷ. Phó Chủ tịch UBND xã Tạ Xuân Kiệm dẫn chúng tôi thăm cơ sở nuôi dế của anh Nguyễn Văn Phương tại thôn Trung Phú - chủ nhân của một trong những ngôi nhà như thế. Làm nghề nuôi dế trước đây anh chủ yếu dùng phương pháp thủ công. Sau này, khi ăn nên làm ra, vốn liếng kha khá, anh tính chuyện làm ăn lớn bằng cách đầu tư xây dựng cơ sở lơn mạnh, mở rộng quy mô sản xuất. Mỗi năm tháng anh xuất trại hàng chục kg dế thịt Cùng với anh Phương, xã Danh Thắng còn có gần chục hộ nuôi dế chuyên cung cấp con giống cho người chăn nuôi dế thịt ở huyện Yên Thế và một số nơi như Hải Dương, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Nguyên. Cũng từ đây, hàng trăm hộ dân trong xã đã có thêm nghề nuôi dế cung cấp cho các trang trại và các nhà hàng, nhiều hộ nuôi đến hàng nghìn thùng. Để có thêm thu nhập trang trải cuộc sống, nuôi con ăn học và có vốn liếng "lấy ngắn nuôi dài", người dân xã Danh Thắng cũng đổ đi các nơi kiếm kế sinh nhai. Các thôn như Trung Phú, Đại Đồng có tới 70% số hộ có người đi làm ăn ở Hà Nội, Quảng Ninh... Nhưng điều đáng ghi nhận là không những nông dân không bỏ ruộng mà đồng đất ở đây vẫn quay vòng đủ ba vụ mỗi năm. Từ nguồn vốn hỗ trợ và huy động trong nhân dân, Danh Thắng đã có 70% đường và hơn 50% kênh mương được cứng hoá. Ba trường học và trạm y tế xã đều đạt chuẩn quốc gia. Hơn một nửa số hộ trong xã có kinh tế khá trở lên.
Còn ở xã Đoan Bái, ông Đặng Văn Thiện, Chủ tịch UBND xã cho biết: "Từ nhiều năm nay, Đoan Bái có duyên với các dự án khoa học nông nghiệp của một số bộ, ngành. Vì thế cán bộ và nhân dân có điều kiện thuận lợi để tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đưa các giống cây, con có năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao vào sản xuất." Nông dân ở đây vốn có truyền thống trồng các giống đậu tương cao sản, nay thêm cây dưa bao tử, ớt, cà chua xuất khẩu, liên kết với Viện Ngô Trung ương trồng ngô giống, chăn nuôi lợn siêu nạc; đưa cây bưởi Diễn trồng thành trang trại, sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý tàn dư thực vật trên đồng ruộng thành phân bón hữu cơ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Trong xã đã xuất hiện nhiều mô hình mới như nuôi dế, nuôi hươu lấy nhung, mở ra triển vọng đa dạng hoá sản phẩm chăn nuôi.
Các biện pháp chỉ đạo sát thực tế của cấp uỷ, chính quyền các cấp cùng với đức cần kiệm, năng động, sáng tạo của người dân đã cho ra đời nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao như: luân canh lạc xuân - lúa mùa - khoai tây Đức ở các xã Danh Thắng, Đoan Bái, Hùng Sơn; nuôi cá bán thâm canh cho năng suất tăng gấp đôi so với phương pháp truyền thống (4 tấn lên 8 tấn) tại Đông Lỗ, Mai Đình, Xuân Cẩm, Hợp Thịnh; lúa - cá - cần ở Hoàng Lương; nhãn - bưởi Diễn - keo ở Lương Phong, Ngọc Sơn, Đức Thắng. Bên cạnh đó còn xuất hiện mô hình phát triển tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ như làng nghề ở Mai Trung... Thu nhập của người dân nông thôn Hiệp Hoà đến từ nhiều nguồn: sản xuất nông nghiệp, làm dịch vụ, xuất khẩu lao động, làm thuê... Những nguồn thu đó đều nhằm mục đích đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, mở mang sản xuất, dịch vụ, cải thiện đời sống làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi. Chạy dọc sông Cầu giờ đây là những làng quê trù phú của các xã Châu Minh, Mai Đình, Xuân Cẩm, Hợp Thịnh... Chỉ đạo phát triển sản xuất, huyện hướng các xã tập trung đầu tư theo khoảnh, theo vùng, khuyến khích chăn nuôi theo quy mô trang trại, gia trại để thuận lợi cho việc thâm canh, phòng chống dịch bệnh và tiêu thụ sản phẩm. Theo đó, các trang trại ngày càng phát triển cả về số lượng, quy mô và chất lượng. Đến thời điểm này, toàn huyện có gần 500 trang trại và gia trại, tăng 145% so với 5 năm trước. Tổng doanh thu của các trang trại khoảng 100 tỷ đồng/năm. Kinh tế trang trại góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá trên địa bàn huyện. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản 1.000 ha với sản lượng hàng năm đạt 2.460 tấn. Tổng diện tích cây ăn quả toàn huyện khoảng 2.000 ha, sản lượng 10 nghìn tấn, gấp gần 3 lần so với 5 năm trước (trong đó diện tích cây ăn quả chủ lực như nhãn, bưởi Diễn tăng nhanh). Thu nhập bình quân trên một ha đất canh tác đến nay đạt 53 triệu đồng/năm (tăng 23 triệu đồng/ha/năm so với mục tiêu đại hội đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2005-2010 đề ra). Tuy nguồn kinh phí hỗ trợ không nhiều (khoảng 5-6 tỷ đồng/năm) nhưng nhờ lựa chọn đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, kế hoạch hợp lý, đến nay đã có 100% các tuyến đường huyện và liên xã, 554 km đường nông thôn được cứng hoá tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông, vận tải hàng hoá, thúc đẩy KT-XH phát triển. Thu nhập bình quân đầu người toàn huyện đạt gần 10 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 7%.đây là hình ảnh mô hình nuôi dế rất phổ biến hiện nay
- Dế là loài đa thực, thức ăn gồm nhiều loại như rau, củ, mầm non cây cỏ, cây hoa màu... Nhà đầu tư có thể tận dụng nguồn rau củ, quả có sẵn trong tự nhiên để tiết kiệm chi phí, nhưng phải chọn cây tươi, không bị hư, úng. Mỗi tháng, 1 kg dế thịt (khoảng 1.000 con) ăn hết 3 kg cám, 6 kg cỏ, cà rốt, rau. Mỗi ngày, dế ăn 3 bữa: sáng, trưa và chiều. Dế sinh sản mạnh ở vùng đất khô ráo, ấm, nơi có nhiều cây cối phát triển. Chúng lớn lên bằng cách lột xác nhiều lần. Trứng dế thường được đẻ thành từng ổ trong môi trường đất ẩm. Mỗi ổ có từ vài chục đến hàng trăm trứng. Trứng hình hạt gạo hơi dài và có màu vàng pha nâu, kích thước khoảng 2,5-3 mm x 0,8-1mm. Mỗi con dế cái đẻ trung bình 300 - 500 trứng và có thể đẻ liên tục trong 7-10 ngày. Sau khi đẻ từ 10-15 ngày, dế mẹ chết và 7-10 ngày sau trứng sẽ nở. Sau 2 lần lột xác, dế non xuất hiện mầm cánh. Quá trình trưởng thành là từ 1,5-2 tháng. Và đây là giai đoạn bắt đầu thu hoạch, lấy thịt. Thu hoạch dế cũng là khâu quan trọng vì phải giữ cho thịt dế không bị mất chất lượng. Một mẹo nhỏ là có thể đựng dế trong bịch ni lông nhỏ rồi bỏ vào thùng giấy, bên trong đặt một ít cỏ tươi, vài cái rế. Cách này chỉ bảo đảm được chất lượng thịt dế trong điều kiện di chuyển xa khoảng 100 km, đến nơi thì chế biến ngay. Nếu nuôi tốt, một cặp dế bố mẹ có thể cho 1 kg dế con. Giá thịt dế trên thị trường hiện tại khoảng 250.000 đồng/kg. Như vậy với 80 cặp dế giống ban đầu, trừ chi phí cho điện, nước và nhân công thì 6 tháng sau nhà đầu tư có thể hoàn vốn, 1 năm sau đó là có thể thu về 160 triệu đồng. - Dế là một loài côn trùng ăn hại lá rất mạnh. Ðể tiến hành nuôi với số lượng lớn, quy trình nuôi phải khép kín thành từng khu hoặc tại các hộ gia đình, có quản lý chặt chẽ không để chúng trốn chạy ra ngoài làm ảnh hưởng đến cây trồng xung quanh Nếu di chuyển xa hơn nên đông lạnh trước khi di chuyển. Dế đông lạnh bằng cách rửa sạch dế đã thu hoạch qua nước sạch, hoặc nước muối 5%, sau đó cho vô khay rồi đem đông lạnh. Cách này có thể giữ dế được lâu hơn khoảng 1 tuần đến 10 ngày. Giá dế giống: 15.000 đồng (1 con đực và 2 con cái) Giá thương phẩm: 250.000 đồng/kg
CHƯƠNG 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Cơ sở lí luận
Ở nước ta các loại côn trùng như cào cào, châu chấu, dế, tằm, sâu chit, nhộng tằm, rươi. là những loại côn trùng được dùng làm món ăn, một số nơi được coi là món ăn quý. Với loài dế cũng có nhiều giống như: dế ché, dế cơm to con, thân màu nâu đen, hai chân sau to có màu nâu sẩm. -Trong tự nhiên có rất nhiều loại dế như: dế ta, dế mèn, dế cơm, dế mọi, dế chó, dế dũi… Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu kỹ thuật nuôi dế ta.
Xuất phát từ thực tế sản xuất chăn nuôi các con vật truyền thống, những năm gần đây gặp rủi ro do dịch bệnh, giá cả bấp bênh… nên nhiều nông dân ở huyện Hiệp Hòa đã mạnh dạn chuyển sang mô hình nuôi dế thâm canh cho hiệu quả kinh tế cao và dễ nhân ra diện rộng.
Một số món ăn từ dế: Trước khi chế biến các món ăn từ dế, cần rút ruột, bóp bụng dế để bỏ ruột phân, rửa sạch sau đó mới chế biến. Dế có thể chế biến được nhiều món như chiên giòn, chiên bơ, lăn bột, kho tiêu, xào mì, trộn gỏi, rim mặn, lẩu... ăn cùng với bánh phồng tôm, bánh tráng hoặc cuốn bánh tráng với rau sống là những món ăn đặc sản từ dế. Hiện nay, dế là một trong những món ăn được các nhà hàng, quán nhậu tiêu thụ rất mạnh với giá 250.000- 300.000 đồng/kg.
Hiện nay các món ăn chế biến từ dế đang được nhiều người ưa thích và coi là món "đặc sản". sau đây xin trân trọng giới thiệu kỹ thuật nuôi Dế
3.2. Kỉ thuật nuôi dế
1. Đặc điểm sinh học của Dế Dế thuộc loại côn trùng ăn tạp và phát triển rất nhanh, từ khi nở ra đến 45 ngày nó đã nặng tới 15 – 17 gram (trùng bình khoảng 700 con/kg), chúng bắt đầu mọc cánh (nếu nuôi dế thương phẩm thì 45 ngày là thời điểm xuất bán hiệu quả tốt nhất). Dế thành thục lúc 60 ngày tuổi, theo kinh nghiệm phân biệt Dế cái khác dế đực ở phần hậu môn: dế cái có “máng đẻ” còn dế đực phần hậu môn tròn hơn. Mỗi Dế cái đẻ khoảng 30 – 40 trứng/ngày
2. Kỹ thuật chăn nuôi: 2.1. Dụng cụ nuôi: Có thể tận dụng các thùng hàng bằng nhựa, chum, vại có đường kính từ 20 – 50 cm, nắp thùng làm bằng bìa cứng, phên tre, tấm ván mỏng…có khoét một lỗ ở giữa khoảng 3 – 4 xm để thông khí và quan sát bên trong và cung cấp ánh sáng. Khay cho dế đẻ có thể làm khay chuyên dùng bằng gỗ như khuôn gói bánh chưng hình vuông cỡ 5cm, cao 2cm; trong khay đẻ để một ít đất ẩm tơi, lượng đất ẩm trong khay dầy khoảng 1,5 cm.
2.2. Thức ăn chăn nuôi Thức ăn cho Dế là các loại cỏ hoà thảo tự nhiên và cám hỗn hợp như cám cho gia cầm úm (chủ yếu cho dế non) Cỏ được rửa sạch, nếu cỏ chuẩn bị từ trước đã ráo nước thì phun nước cho cỏ hơi ướt rồi bó thành từng bó nhỏ cỡ bằng nắm tay (0,1 – 0,2 kg/bó) để trong thùng nuôi cho dế ăn và leo trèo. Bột cám hỗn hợp của gia cầm úm để vào đĩa nhỏ với số lượng bằng 3% trọng lượng Dế cho ăn tự do. Nước uống của dế: có thể sử dụng bình phun nhỏ tưới hoa phun dưới dạng phun bụi vào thành thùng nhựa hoặc chum, vại đang nuôi Dế.
2.3. Kỹ thuật ấp trứng Mỗi ngày lấy khay đẻ trứng ra một lần và đưa khay mới vào để nhân trứng cho hôm sau. Khi đưa khay trứng vào hộp ấp (dùng cái hộp nhỏ như hộp đựng mì tôm) chuẩn bị khăn bông thấm nước ẩm (loại khăn rửa mặt trẻ em nhỏ, cỡ 10 x 10 cm, 1 cái đặt dưới đáy thùng ấp để đè khay trứng lên và 1 cái phủ lên mặt khay, đậy nắp hộp lại, để trong chuồng nuôi có che xung quanh, nhiệt độ thích hợp nhất từ 22 – 26oC, cứ 3 – 4 ngày thay khăn ướt 1 lần để giữ độ ẩm, sau 9 -10 ngày trứng bắt đầu nở, khi thấy dế đã nở hết (vào ngày thứ 11) thì lấy khay ra đưa Dế con vào hộp nuôi.
2.4. Kỹ thuật nuôi Dế con Tận dụng các hộp, thùng hoặc chum, vại nuôi Dế con cần về sinh sạch sẽ, sau đó xông hơi focmol để khử trùng Ban đầu Dế con ăn ít, cần cho cỏ non và bột cám tổng hợp có 17 – 21 % chất đạm (tương đương cám úm gia cầm), lượng cám tổng hợp khoảng 3 % trọng lượng dế; cho ăn theo bữa, mỗi bữa cách nhau khoảng 4 – 6 giờ, chú ý vệ sinh hộp nuôi, bỏ cỏ cũ ra, đưa cỏ mới vào. Cho Dế uống nước bằng cách phun ướt cỏ non rồi đưa vào thùng nuôi, khi Dế lớn có thể phun nước vào thành dụng cụ nuôi để cho uống. Khi Dế lớn cần san bớt đàn sang hộp mới tránh mật độ quá dầy
2.5. Kỹ thuật nuôi Dế bố mẹ Tỷ lệ ghép đôi giao phối đực cái là 1 đực : 1,5 - 2 cái Mật độ nuôi là 30 – 40 con/m2 Thức ăn cho Dế bố mẹ tương tự như Dế con
3. Một số chú ý về phòng chống địch hại Địch hại của Dế là chuột và kiến Đối với kiến cần phòng bằng rành nước xung quanh khu vực nuôi (đối với quy mô chăn nuôi lớn), Nếu nuôi ít có thể đặt các hộp nuôi trên các giá có chân giá ngâm trong bát nước.
Đối với chuột cần dùng cả sinh học để diệt chuột. Theo các hộ đã chăn nuôi dế ở Lương Tài, Bắc Ninh và chuyên gia Nguyễn Lân Hùng thì ngoài các thiên địch trên, chưa thấy dế mắc bệnh gì khác. Hiện nay chưa có các công trình nghiên cứu sâu về con Dế, chúng tôi mong nhận được sự bổ sung của bạn đọc cùng chia sẻ kinh nghiệm nuôi Dế qua bản tin khuyến nông.
Phân biệt dế đực, cái- Dế đực phần ''đầu ngực'' to hơn dế cái.- Dế đực cánh màu đen pha màu nâu không bóng mượt.- Dế cái cánh màu đen bóng mượt hơn dế đực.- Dế đực bụng nhỏ hơn dế cái vì bụng dế cái có trứng nên to hơn.- Dế đực không có bộ phận để đào đất ( giông như cái kim khâu quần áo) ở phần đuôi , còn dế cái thì có để chúng đào ổ đẻ.- Dế đực trưởng thành kêu vể ban đêm còn dế cái không kêu.
4. Cách cho dế đẻ- Khi thấy dế gáy và xù cánh là lúc dế chuẩn bị đẻ ta chuẩn bị khay đẻ và đất cho dế đẻ.- Đến chiều tối bạn thử đặt hai khay đất vào và theo dõi xem dể có bò lên đẻ không.- Nếu thấy dể đẻ thì sáng hôm sau các bạn lấy khay trứng ra và đưa đi ấp.- Thường trứng của 2- 3 ngày đầu tỷ lệ nở ít do trứng không được thụ tinh 100%.- Dế đẻ liên tục khi rac thì chết ( trung bình 30 - 35 ngày)Chú ý: Chỉ bỏ khay trứng vào thùng dể đẻ, sau khi trời đã tối và phải lấy ra vào sáng hôm sau. Nếu không dế bố mẹ có thể đào bới khay trứng lôn tung.5. Cách ấp trứng- Tôi thường lấy khay trứng ra xịt nước xếp chúng chồng lên nhau cứ 2 - 3 khay 1. Sau đó dùng một cái khăn loại dày nhúng nước và vắt bớt một ít rồi chùm kín khay trứng.- Cứ một ngày xịt nước cho khay trứng 2 lần vào mùa hè 1 lần vào mùa đông, conf 2 ngay nhúng khăn ướt một lần.- Trứng ấp trong vòng từ 9 - 12 ngày là nở, trúng nở trong vỏng -4 ngày là hết.- Tôi thường để 2 khay trong một chậu, như vậy dế nở ra sẽ rất đều.- Các bạn không nen để trứng của 2 -3 ngàycungf một chậu, như vậy khi dế nở sẽ dẫn đến con to, con nhỏ không đồng đều.Chú ý: Khi các bạn xịt nước cho trứng thấy bề mặt đất có màu thâm nâu là được. Không nên xịt quá nhiều vì như vậy trứng sẽ rất dễ bị ung.6. Cách nuôi dế từ mới nở đến 15 ngày tuổi.- Dế nở ra từ 2 khay trung bình được 2000 con.- Các bạn để từ 1 - 2 dế ( cái dế để bắc nồi cơm) vào chậu nuôi để cho dế đậu trèo leo.- Để 2 -3 búi cỏ vào chậu và một khay thức ăn ( cám gà)Chú ý: Các bạn tuyêt đối không được để khay nước vào chậu nuôi vì lúc này dế còn nhỏ dễ sa vào nước không bò ra được, sẽ dẫn đến chết đuối.- Ta chỉ lên phun sương vào 2 búi cỏ để dế uống nước.7. Cách nuôi dế từ 15 - 30 ngày tuổi- Lúc này dế đã lớn các bạn có thể dặt một khay nước vào chậu cho dế uống nước mà không sợ dế bị chết đuối nữa.- Tôi thường để 1000 con trên một chậu, một khay nước , hai khay thức ăn ( cam gà) và một ít rau cỏ và 3 - 4 dế để cho dế đậu và trèo leo.- Cứ một ngày vệ sinh khay cho dế uống nước một lần, khay thức ăn thì 2 ngày một lần. Nếu còn cám ta cũng lên bỏ không lên tiếc, còn chậu nuôi thì 3 ngày donj phân một lần. 8. cách nuôi dế từ 30 - 45 ngày tuổi- Lượng dế trung bình từ 400 - 700 con - 2 khay thức ăn, một khay nước, 3 -4 dế để dế đậu trèo leo.- 1 ít rau cỏ hoặc cùi dưa hấu hay một số lá cây như đu đủ, sắn...9. Làm thịt dế- làm thịt dế trước khi dế mọc cánh dài, thường ở vào 50 ngày tuổi. Vì lúc này trọng lượng của dế lớn nhất và béo nhất.- Không cho dế ăn từ 15- 20 tiếng trước khi làm thịt để ruột dế được sạch sẽ.- Trước khi làm thịt ngâm dế trong nước muối khoảng 2 phút.- Một tay cầm dế sao cho đầu con dế quay vào trong lòng bàn tay, bụng dế ngửa lên trên, tay kia cấu nhẹ phần mẩu đuôi và từ từ rút ruột dế ra khỏi bụng.- Sau khi đã làm sạch ruột dế các bạn rủa lại bằng nước sạch 2 - 3 lần và để dáo nước, lúc này các bạn có thể chế biến ra các món mà mình ưa thích
Những lưu ý khi nuôi dế
a. chọn giống và đặc điểm giống
Chọn dế giống bố mẹ to, khỏe mạnh (đủ râu, chân, không dị tật). Tùy theo phương tiện nuôi mà phân số lượng hợp lý. Nuôi dế giống bố mẹ (ép đẻ) trong xô có dung tích 45 lít thì thả 20 dế cái, 10 dế đực.
Nếu xô 80 lít thả 30 dế cái và 15 dế đực. Có thể nuôi dế trong xô, thau, chậu, khay có nắp đậy..., trước khi nuôi rửa sạch, phơi khô, nắp xô đục nhiều lỗ tạo thông thoáng.
Trong xô nuôi, có rế (rế để xoong nồi) hay vĩ tre, rế có lỗ nhỏ (dày) nuôi dế con mới nở đến 25 ngày tuổi, loại thưa nuôi tiếp theo đến thu hoạch. Xô loại 45 lít xếp khoảng 10 rế, 80 lít thì 15 rế. Rế xếp chồng lên nhau tạo khoảng trống để khay đất cho dế đẻ trứng, máng thức ăn, nước uống. Đất dùng trong khay là đất xốp, ẩm vừa phải, có độ dày 3 - 4 cm (có thể dùng đất trộn với xơ dừa xay). Đất cho vào không có kiến, không bị ô nhiễm. Có thể dùng vỏ nghêu, hoặc bằng đồ sứ kích thước không quá lớn (tránh dế con té chết) làm máng thức ăn, nước uống cho dế.
Thức ăn là cám chế biến, loại dùng cho gà con ăn. Cho dế ăn nên xay cám thành bột, để khô ráo, không mua cám nhiều một lúc dễ bị mốc. Có thể cho dế ăn thêm miếng dưa hấu (nhớ cắt bỏ phần ruột đỏ), lấy phần sát vỏ, không để nhiều. Cho ăn thêm rau xanh, cải ngọt, cà rốt, củ sắn, cỏ tươi... Chú ý thức ăn chỉ ăn trong ngày, còn dư phải bỏ. Cần lưu ý không cho dế ăn mầm đậu các loại, chúng sẽ bị rụng râu, chân mà chết.
- Vóc dáng: Dế ta có kích thước trung bình với chiều dài cơ thể khoảng 2cm. Dế ta có 3 màu đặc trưng như: đen huyền, đỏ hoe và vàng nghệ.
Tập tính sinh hoạt và môi trường sống: Trong tự nhiên, dế ta sinh trưởng, phát triển và sinh sản quanh năm, nhưng nhiều nhất là vào mùa mưa. Dế ta có bản tính hung hăng, nhưng lại thích sống theo bầy đàn, môi trường sống rất đơn giản, không cầu kỳ, có thể ở hang hay trong những đám cỏ khô… nên có thể tổ chức chăn nuôi công nghiệp, nhưng phải đảm bảo chuồng trại nuôi dế tương tự như môi trường thiên nhiên hoang dã. Môi trường sống tự nhiên, dế sẽ ít dịch bệnh, ít tốn công chăm sóc. Dế leo trèo rất giỏi và có thể nhảy xa chừng nửa mét. Đặc biệt, tối đến dế có thể bay xa hàng mét…
Tuổi thọ: Tuổi thọ của các loại dế khác nhau. Tuổi thọ của dế ta trung bình là 4 tháng.
- Tên gọi: Trong tự nhiên có rất nhiều loại dế như: Dế ta, dế mèn, dế cơm, dế mọi, dế chó, dế dũi. . . Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu kỹ thuật nuôi dế ta.
Tập tính sinh hoạt và môi trường sống: Trong tự nhiên, dế ta sinh trưởng, phát triển và sinh sản quanh năm, nhưng nhiều nhất là vào mùa mưa. Dế ta có bản tính hung hăng, nhưng lại thích sống theo bầy đàn, môi trường sống rất đơn giản, không cầu kỳ, có thể ở hang hay trong những đám cỏ khô. . . nên có thể tổ chức chăn nuôi công nghiệp, nhưng phải đảm do chuồng trại nuôi dế tương tự như môi trường thiên nhiên hoang dã.
- Tuổi thọ: Tuổi thọ của các loại dế khác nhau. Tuổi thọ của dế ta trung bình là 4 tháng
Thức ăn: Chủ yếu là rau, cỏ, củ, quả, trái cây, mầm cây, côn trùng nhỏ và bột ngũ cốc các loại... Dế ít uống nước, nhưng phải thường xuyên có đủ nước sạch và mát cho dế uống tự do.
Sinh trưởng, phát dục: Trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển dế ta trải qua 4 lần lột xác. Sau mỗi lần lột xác dế ta lớn nhanh hơn. Từ lúc nở ra cho đến khoảng 45 ngày tuổi là đã đó thể xuất bán. Từ ngày thứ 45 trở đi để phát triển cánh. Hai tháng tuổi để đã thành thục sinh dục và có thể ghép đôi giao phối cho sinh sản. Với chiều dài cơ thể khoảng 2cm, nặng khoảng 800-1.000 con/kg.
- Sinh sản: 60 ngày tuổi dế đã trưởng thành và bắt đầu sinh sản. Dế mái có biểu hiện động dục (thích gần dế đực) trước lúc đẻ khoảng 15 ngày. Khi đẻ dế mái tìm đến những chỗ đất tơi xốp và ấm để đẻ trứng, mỗi lần đẻ vài trăm trứng.
Giá trị và thị trường: Nhiều nước, nhất là các nước ở châu Á coi một số loại côn trùng là món ăn ngon. Trong những nghiên cứu mới đây, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng côn trùng có rất nhiều tác dụng bổ ích đối với con người, đặc biệt có thể sử dụng chúng như những món ăn thuộc hàng "đặc sản".
Một số món ăn từ dế: Trước khi chế biến các món ăn từ dế, cần rút ruột, bóp bụng dế để bỏ ruột phân, rửa sạch sau đó mới chế biến. Dế có thể chế biến được nhiều món như chiên giòn, chiên bơ, lăn bột, kho tiêu, xào mì, trộn gỏi, tim mặn, lẩu... Hiện nay, dế là một trong nhũng món ăn được các nhà hàng, quán nhậu tiêu thụ rất mạnh với giá 250.000- 300.000 đồng/kg.
b. Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng dế
Chọn giống: Chọn dế giống bố mẹ là tơ mới biết gáy, dế mái chưa sinh sản, to, khỏe mạnh nhất trong đàn, không dịch bệnh, dị tật (đủ râu, chân...).
Chuồng trại: Cao ráo, yên tĩnh, thoáng mát có mái che mưa che nắng, xung quanh có lưới đề phòng mèo, chuột bắt dế, có rãnh nước để phòng kiến xâm nhập gây hại cho dế...
+ Chuồng nuôi và thiết bị chăn nuôi:
- Chuồng nuôi: Chuồng nuôi có thể là xô, thau, khay, chậu... có nắp đậy nhưng phải đảm bảo yên tĩnh, thoáng mát. Nắp đậy, có thể là cái lồng bàn hoặc nắp xô đục nhiều lỗ tạo thông thoáng, ban ngày mở ra, chiều tối đậy lại để phòng tránh dế bay đi và mèo, chuột bắt dế... Trước khi nuôi phải rửa sạch, phơi khô chuồng nuôi và trang thiết bị phục vụ chăn nuôi dế.
Tùy theo phương tiện và điều kiện nuôi mà bố trí số lượng nuôi hợp lý. Nuôi dế giống bố mẹ (ép đẻ) trong xô có dung tích 40-50 lít thì thả 20 dế cái, 10 dế đực. Trong xô 70-80 lít thì thả 30 dế cái và 15 dế đực...
- Thiết bị chăn nuôi: Rế tre, máng đẻ, máng thức ăn, nước uống cho dế đơn giản, có thể dùng vỏ nghêu, hoặc làm bằng xi măng, đồ sành sứ kích thước không quá lớn nhằm hạn chế dế con té chết (đường kính khoảng 10 -15 cm, dày khoảng 1,5 - 2,0 cm, sâu khoảng 0,5-1,0cm).
Trong chuồng nuôi, có rế tre (rế để xoong nồi đường kính 15- 20 cm) hay vỉ tre, rế có lỗ nhỏ (dày) nuôi dế con mới nở đến 25 ngày tuổi, loại thưa nuôi tiếp theo đến thu hoạch. Xô loại 45 lít xếp khoảng 10 rế, xô 80 lít thì 15 rế. Rế xếp chồng lên nhau tạo khoảng trống để máng đẻ, máng thức ăn, nước uống cho dế. Đất dùng trong máng đẻ là đất sạch, tơi xốp, ấm vừa phải, có độ dày 3 - 4 cm (có thể dùng đất sạch trộn với xơ dừa xay). Không dùng đất có kiến, đất bị nhiễm hoá chất độc hại... Trên cùng phủ một lớp cỏ cho dế ăn, ở, sinh trưởng phát triển và sinh sản...
- Thức ăn: Thức ăn chủ yếu của dế là cỏ, cám hỗn hợp (thường dùng cám gà con), nên xay cám thành bột cho dế ăn, bảo quản nơi khô ráo, không mua nhiều một lúc dễ bị mốc. Cho ăn thêm rau xanh, cải ngọt, cà rốt, củ sắn, cỏ tươi... Có thể cho dế ăn thêm miếng dưa hấu (nhớ cắt bỏ phần ruột đỏ), lấy phần sát vỏ, không để nhiều. Cần lưu ý thức ăn chỉ ăn trong ngày, còn dư phải bỏ, không cho dế ăn mầm đậu các loại, chúng sẽ bị rụng râu, chân mà chết.
Dế mỗi ngày một trưởng thành, nên lượng thức ăn ngày càng tăng lên tùy thuộc vào sức ăn của dế. Hàng ngày nước được phun sương để giữ ẩm và cho dế uống.
Chăm sóc nuôi dưỡng:
+ Chăm sóc nuôi dưỡng dế sinh sản:
- Thả giống: Theo tỷ lệ 1 trống/ 2 mái. Xô nhựa nhỏ thả 15 dế trống và 30 dế mái vừa mới trưởng thành. Xô nhựa lớn 80 lít có thể thả 25 dế trống và 50 dế mái.
- Đẻ trứng: Sau khi thả giống 2-3 ngày dế đẻ trứng vào máng đẻ
Dấu hiệu dế sắp đẻ: Dế mái thường thụt lùi và chọc cây kim nhọn sau đuôi xuống đáy xô. Lúc này ta đặt máng đẻ vào là dế leo lên đẻ ngay (trong máng đẻ đã để sẵn đất sạch tơi xốp và đủ ẩm).
Khi dế có dấu hiệu sắp đẻ ta đặt máng đẻ vào xô nuôi dế bố mẹ hàng đêm cho dế đẻ. Cứ sau mỗi đêm máng đẻ được lấy ra đưa đi ấp, tối đến đưa máng mới vào xô nuôi để dế đẻ tiếp. Mỗi đêm 30 con dế mẹ có thể đẻ hàng nghìn trứng vào máng đẻ. Dế chỉ đẻ trong vòng hai tháng là thải loại.
Dế rất nhát, vì vậy ta nên để mảng đẻ vào buổi tối. Mỗi tối để vào một máng đẻ, sáng hôm sau lấy máng đẻ ra để vào xô ấp trứng ở một khu vực khác.
- Ấp trứng: Xô ấp trứng được thiết kế như sau:
Bỏ một lớp đất xốp vào đáy xô, cao khoảng 1cm, rộng khoảng 3cm. Để 3 máng trứng vào chính giữa xô, phủ lên một lớp cỏ mỏng, mỗi ngày phun nước 1 - 2 lần để giữ ẩm. Hoặc trước khi cho máng trứng vào xô ấp trứng, ta chuẩn bị hai khăn bông vuông (loại khăn lạnh lau mặt ở các nhà hàng), nhúng nước ướt rồi đặt dưới đáy thùng ấp, sau đó đặt máng trứng trên khăn ướt và dùng khăn ướt thứ hai đã nhúng nước đậy lên máng trứng để giữ độ ẩm. Sau khi đã làm xong các việc nói trên đậy nắp thùng lại. Cứ 3-4 ngày, thay khăn ướt một lần để giữ độ ẩm. Nhiệt độ cần cho trứng nở khoảng 25- 300C (nhiệt độ phòng). Sau 8- 12 ngày là dế nở. Khi thấy dế đã nở hết, ta lấy khay đẻ ra khỏi xô ấp và chuyển dế con vào xô ương nuôi riêng.
Để dế đẻ nhiều và dế con khoẻ mạnh, cần lưu ý: Vệ sinh chuồng nuôi và thiết bị chăn nuôi sạch sẽ, khô ráo, máng thức ăn phải được che đậy, tránh nước gây nấm mốc... Sau đó, để máng đẻ vào đáy xô lệch sang một bên, bên kia để một máng thức ăn, một máng nước, úp chồng rế lên, phủ lên rế một ít cỏ tươi. Phun nước dạng sương lên cỏ tươi mỗi ngày 1-2 lần tạo nhiệt độ trong xô 25- 300C. Sau khi dế đẻ một ngày, chuyển máng trứng sang thùng ấp và đặt máng đẻ khác vào trong xô nuôi. Có thể dùng thùng các- tông loại dày hoặc khay nhựa có kích thước 60x40x20cm để ấp trứng, mỗi thùng có thể để 8-10 máng trứng. Thùng ấp phải kín, có nắp đậy (dùng lưới muỗi), theo dõi hàng ngày, tránh kiến gây hại...
+ Ương nuôi dế con: Dế con mới nở, ta chuyển sang ương nuôi riêng trong xô nhựa, trung bình khoảng 1.000 con/xô 80 lít. Lúc này ta để thức ăn của gà con xay nhuyễn vào cho dế mới nở ra ăn, ngày 2-3 lần và bỏ vào xô nuôi một lớp cỏ tươi non cho dế con trú ẩn và nhấm nháp. Mỗi ngày tiếp tục phun nước 1-2 lần để giữ ẩm và cho dế uống. Ương nuôi dế con đến 20 ngày ta chuyển sang nuôi dế thịt thương phẩm.
+ Nuôi để thịt thương phẩm: Đặt rế, máng thức ăn, nước uống, phủ cỏ tươi như nuôi dế đẻ nhưng số lượng nhiều hơn (400-500 con với xô 80 lít, 300 con ở xô 45 lít). Chăm sóc và phun nước ngày 1- 2 lần, tránh nước đọng, ẩm mốc trong xô, tránh để thức ăn tồn dư, ẩm ướt, hôi mốc và không để máng đẻ trong xô nuôi như nuôi dế đẻ.
Ngoài ra, có thể làm chuồng nuôi dế bằng xi măng, kích thước một ô rộng 1 m x dài 1,2 m x cao 0,5 m, mặt tường nhẵn tránh dế bò ra, che đậy bằng lưới phía trên, nuôi 1.000 con/m2. Chuồng xây xong cần ngâm nước cho hết chất xi măng. Xung quanh chuồng làm rãnh nước tránh kiến, côn trùng xâm hại... Chồng vào 25 rế, tạo khoảng không cho dế. Cũng cần chăm sóc như nuôi trong xô, chú ý phun nước (dạng sương) 2-3 lần/ngày.
Thức ăn tinh cho ăn hàng ngày, thức ăn thô xanh rau, củ, quả các loại thì 2-3 ngày mới cho ăn một lần, nhưng chỉ ăn trong ngày, thức ăn còn dư phải bỏ. Riêng cỏ xanh có thể 2-3 ngày mới cho ăn và thay mới một lần.
Dế con được 20 ngày, chuyển qua nuôi dế thịt thương phẩm khoảng 45 ngày thì có thể thu hoạch (800-1.000 con được 1 kg), xuất bán thịt hoặc tuyển chọn dế tơ làm giống nuôi đến 60 ngày thì cho phối giống sinh sản.
Chú ý: Dế sắp trưởng thành tối đến thường hay bay đi kiếm ăn và hoạt động tình dục... Vì vậy, chiều tối ta nên đậy nắp xô lại sáng sớm mới mở ra cho thoáng mát.
- Thu hoạch: Dùng vợt nylon nhỏ thu hoạch, cho vào thùng giấy cùng với rế, cỏ tươi di chuyển xa dế không chết. Có thể đông lạnh sau khi rửa sạch dế bằng nước sạch hoặc nước muối 2% và cho vào khay đông lạnh.
Chăm sóc nuôi dưỡng dế đơn giản, ít vốn, ít dịch bệnh, dễ thực hiện mang lại hiệu quả kinh tế cao, ai cũng có thể nuôi được.
Phòng và trị bệnh: Với phương châm phòng bệnh là chính, thực hiện tốt chương trình 3 sạch: Ở sạch, ăn sạch, uống sạch. Đặc biệt, khi thời tiết hoặc môi trường sống thay đổi, cần phải vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng thật tốt để tăng cường sức đề kháng, chống stress gây hại cho dế...
Dế ta thường hay bị một số bệnh, nhất là bệnh đường ruột
Bệnh đường ruột:
- Nguyên nhân : Có thể do mật độ quá cao, chuồng nuôi quá nóng ẩm hoặc chuồng nuôi bị nước đổ vào lẫn phân, thức ăn gây ô nhiễm môi trường hoặc thức ăn bị ôi mốc, nước uống lẫn phân, dơ bẩn, mất vệ sinh...
- Triệu chứng: Dế đang ăn uống, khỏe mạnh bình thường, đột ngột bỏ ăn chỉ uống nước rồi yếu dần, râu gãy ngang, phân nước trắng gục, 7- 10 ngày sau thì dế chết. Bệnh này rất dễ lây lan sang những con ở cùng một xô, rất khó trị.
- Phòng và trị bệnh: Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Phòng bệnh là chính bởi, khi chúng ta phát hiện ra triệu chứng thì đã muộn. Tốt nhất nên giữ gìn vệ sinh chuồng nuôi sạch sẽ, khô ráo, thoáng mát, thức ăn, nước uống phải thay rửa hàng ngày...
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Sơ lược về tình hình nuôi dế trên địa bàn huyện hiệp hoà
- Khi áp lực về việc làm tăng cao, cùng với các loại dịch bệnh trên gia súc, gia cầm phát sinh khó kiểm soát, các hộ dân của huyện hiệp hoà đã đưa con dế vào nuôi thử nghiệm, bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao, mở ra cơ hội mới trong phát triển kinh tế của nông dân.
Hai gia đình đi tiên phong khi đưa con dế là con đặc sản vào nuôi thử nghiệm là gia đình ông Trần Đình Tập và ông Trần Đình Huynh ở huyện. Ban đầu, chỉ với nguồn vốn bỏ ra 650 ngàn đồng, mỗi gia đình mua 50 dế bố mẹ và một thùng dế khoảng 2000 con non. Dế bố mẹ từ khi đưa vào nuôi đẻ liên tục cho đến nay và thùng dế con sau 45 ngày cũng đã đẻ trứng, nở con, do vậy chỉ sau 2 tháng mỗi hộ đã nhân đàn lên khoảng 100 thùng đủ cung cấp dế giống cho khoảng 24 hộ gia đình khác trong huyện, thu lãi 18 triệu đồng. Dế là loại côn trùng sinh nở rất mạnh, chịu nắng nóng tốt, ít dịch bệnh, dễ chăm sóc vốn ban đầu bỏ ra ít, có thể nuôi trong nhà hoặc các chuồng trại chăn nuôi sẵn có sau khi đã cải tạo vệ sinh sạch sẽ, thức ăn cho dế cũng dễ kiếm, dế non sau 45 ngày sẽ trở thành dế thương phẩm, hiện nay có giá bán trên thị trường khoảng 200.000 đồng/kg, nếu nuôi thêm 5 ngày nữa bán dế giống sẽ có giá trị cao hơn. Theo tính toán 1kg dế qua quá trình nuôi chỉ tiêu tốn khoảng 20.000 đồng tiền thức ăn, trong khi đó đã có doanh nghiệp đăng ký bao tiêu sản phẩm không hạn chế.
- Chị Hà Thanh Huyền ở xã Ngọc Sơn là nông dân đầu tiên của huyện Hiệp Hoà mạnh dạn tìm tòi, đầu tư vào mô hình nuôi dế thâm canh. Chị kể cho chúng tôi nghe về cơ duyên đến với con dế. Trong một lần tình cờ xem truyền hình chị nhận thấy nuôi dế vừa nhàn, phù hợp với gia đình mình, lại cho hiệu quả kinh tế cao. Không ngại khó, chị đã cùng con trai tìm đến thăm trang trại dế của gia đình ông Ngọc ở Vĩnh Phúc để học hỏi kinh nghiệm. Bước đầu do chưa nắm rõ về kỹ thuật nuôi nên chị chỉ dám mua 1 thùng dế về nuôi thử và nhân giống. Vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chị đã từng bước mở rộng quy mô sản xuất. Gia đình chị bán 3 con bò được gần 30 triệu đồng và đầu tư hết vào nuôi dế. Sau hơn 7 tháng, chị đã nhân ra gần 200 thùng nuôi dế, gồm dế giống, dế thương phẩm và dế con. Với giá 5.000đ - 8.000đ/con dế giống, 250.000đ – 300.000đ/kg dế thương phẩm, ước tính 6 tháng chị thu lãi hơn 70 triệu đồng.
Theo chị Huyền, nuôi dế không còn là một việc làm mới lạ đối với người nông dân, nhưng mô hình nuôi dế mang tính hàng hoá thì vẫn còn quá ít, nhỏ lẻ, manh mún. Kinh nghiệm của chị cho thấy kỹ thuật nuôi dế khá đơn giản, không tốn nhiều thời gian. Nguồn thức ăn của dế rất đa dạng (ăn các loại rau và cám gà úm), ít bệnh, vốn đầu tư nuôi không lớn, ít gây ô nhiễm môi trường, hệ thống chuồng trại không tốn nhiều diện tích, tiêu thụ sản phẩm thuận lợi… Sau 2 tháng nuôi, dế bắt đầu sinh sản, mỗi con dế thường
Không chỉ làm giàu cho gia đình mình mà với kinh nghiệm tích luỹ được, chị Huyền vừa bán dế giống, dế thương phẩm vừa hướng dẫn cho bà con phương pháp chăm sóc và nhân giống cho hiệu quả cao. Hiện nay, học tập theo mô hình của chị, đã có ít nhất hơn 40 hộ trong xã, trong huyện nuôi dế thành công, hộ nuôi ít cũng có 20-30 thùng, hộ nuôi nhiều có đến vài trăm thùng. Mới đây chi hội nuôi dế liên xã Ngọc Sơn - Lương Phong đã được Sở khoa học công nghệ tỉnh đầu tư dự án phát triển con dế, theo đó 10 hộ nuôi dế quy mô lớn sẽ được hỗ trợ kinh phí 30 triệu đồng để mở rộng quy mô nuôi dế giống và dế thương phẩm. Thời gian tới chi hội tiếp tục hướng dẫn bà con cách chăm sóc và quy mô nuôi thích hợp, đứng ra nhận ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho các hộ nuôi đáp ứng yêu cầu của thị trường và riêng chị Huyền sẽ mở hướng sản xuất rượu dế, thức ăn dành cho dế mang thương hiệu gia đình chị nhằm đa dạng sản phẩm.
Năng động, dám nghĩ dám làm, vươn lên làm giàu chính đáng là nhận xét của nhiều người dành cho chi hội trưởng nuôi dế đầu tiên của huyện: Chị Hà Thanh Huyền.
Chị Nghiêm Thị Minh, thôn Ninh Giang – Danh Thắng – Hiệp Hòa, người nông dân đầu tiên của huyện Hiệp Hòa mạnh dạn năng động tìm tòi, đầu tư vào mô hình nuôi dế thâm canh và hiện tại chị Minh đang là chủ đề tài về dế thâm canh trong CLB đa dạng sinh học nông nghiệp Bắc Giang. Khi chúng tôi đến, chị đang bận rộn chăm sóc cho những chú dế mới nở nhưng trên môi luôn nở một nụ cười thân thiện. Trong 1 gian nhà chưa đầy 40m2 nhưng có hàng trăm chậu nhựa đậy lồng bàn nuôi dế mèn xếp thành từng tầng, từng hàng với các chú dế theo đủ loại ngày tuổi khác nhau, tiếng dế kêu râm ran nghe mà xao động lòng người. Chị dẫn chúng tôi đi thăm mô hình dế thâm canh của chị và một số hộ lân cận, đồng thời trao đổi với chúng tôi về kinh nghiệm nuôi dế mang lại hiệu quả kinh tế thật hấp dẫn. Theo chị, nuôi dế không khó và cũng không phải là một việc làm mới lạ đối với người nông dân, nhưng nuôi dế mang tính hàng hóa thì đó là một mô hình kinh tế hoàn toàn mới.
Nói về cơ duyên tìm đến với nghề nuôi dế của chị cũng thật ngẫu nhiên, sinh ra và lớn lên từ nhà nông rồi đi lấy chồng, khi ra ở riêng 2 vợ chồng chị Minh chỉ có 2 bàn tay trắng với 2 sào ruộng khoán trên đồng đất bạc màu quanh năm không đủ ăn nên cái nghèo, cái khó cứ bám riết lấy gia đình chị. Năm 2000 chồng chị lại mất sau một vụ tai nạn để lại cho chị 2 con nhỏ, nén nỗi đau vào lòng chị đi cày thuê, cấy mướn để nuôi các con ăn học. Thương mẹ vất vả, cả 2 con chị đều chăm ngoan, học giỏi. Đến năm 2008 chị lại chịu thêm một nỗi đau khi vụ tai nạn xe máy đã cướp đi đứa con trai đầu lòng. Khó khăn chồng chất khó khăn, nỗi đau cộng thêm nỗi đau nhưng là một người phụ nữ năng động, sáng tạo chị Nghiêm Thị Minh đã không cam chịu số phận, nuốt nước mắt vào trong chị quyết tâm vươn lên làm giàu. Tình cờ trong một lần nuôi con ốm tại bệnh viện, chị đọc được một bài báo về cậu bé 19 tuổi trở thành tỷ phú về nuôi dế thâm canh, điều đó đã thôi thúc chị quyết tâm tìm tòi và học tập bằng được kinh nghiệm mô hình nuôi dế đem lại hiệu quả cao. Với ý chí đó, Chị đã nhờ người quen vào Củ Chi – TPHCM để tìm nhập dế giống và tự mày mò, tìm tòi tài liệu trên các sách báo về kinh nghiệm, quy trình kỹ thuật nuôi dế và học hỏi từ người nuôi trước. Lúc đó với số vốn vay 6 triệu đồng, chị đầu tư mua 4 chậu dế, sau 5 ngày nhân ra được 4 chậu, đến 13 ngày sau chị tiếp tục đầu tư thêm 4 chậu. Với tổng số vốn ban đầu là 12 triệu đồng nhưng chỉ sau 1 tháng, trừ chi phí các loại cũng đem thu nhập về cho chị gần 20 triệu đồng. Sau 8 tháng chị đầu tư nuôi và nhân ra khoảng 135 chậu dế, sản phẩm dế chủ yếu được bán làm giống cho các hộ nông dân và do công ty CP thực phẩm Hà Nội nhận tiêu thụ đầu ra thương phẩm, cung cấp cho các nhà hàng, khách sạn làm đặc sản dế. Chị Minh đã đầu tư mạnh vào việc nuôi, nhân giống rồi cung cấp cho thị trường con dế giống. Vì vậy đem lại lợi nhuận kinh tế rất cao, bình quân mỗi 1 chậu dế giống ( khoảng 90 con) bán ra hơn 1 triệu đồng/ 1 chậu, mỗi con vào 15 -20.000đ/con. Lòng quyết tâm, sự táo bạo và mạnh dạn đã đem lại cho chị những thành công mới. Lứa dế thương phẩm đầu tiên được xuất đi đã đem lại cho gia đình chị một khoản thu nhập bất ngờ. Bắt đầu nuôi dế từ tháng 7/2009, với số vốn ban đầu là 6 triệu đồng, đến nay sau gần một năm, từ con dế giống chị Nghiêm Thị Minh đã thu về hàng trăm triệu đồng. Do đó đây có thể được coi là nghề kinh doanh siêu lợi nhuận 1 vốn, 4 lời.
Theo kinh nghiệm của chị Minh thì kỹ thuật nuôi dế khá đơn giản, không tốn nhiều thời gian. Nguồn thức ăn của dế rất đa dạng, nó ăn các loại rau xanh, vỏ dưa, cỏ non, cám gà con, đặc biệt dế thuộc họ côn trùng nên rất ít bệnh, dịch, vốn đầu tư không lớn lại không gây ô nhiễm môi trường, hệ thống chuồng trại không tốn nhiều diện tích, việc tiêu thụ sản phẩm thuận lợi, nó còn được coi là một nguồn thực phẩm sạch. Nếu so với các con vật khác thì lợi nhuận từ nuôi dế cao hơn gấp rất nhiều lần. Dế thường được nuôi bằng thùng xốp (vào mùa đông) và bằng thau nhựa, chậu nhựa (vào mùa hè), người nuôi có thể cho thêm rế bắc nồi cơm để dế leo trèo, trú ẩn. Sau 2 tháng nuôi, đế bắt đầu sinh sản, mỗi con dế thường đẻ từ 600-700 trứng, dế đẻ liên tục trong 20 -25 ngày, đem ấp khoảng 10 – 12 ngày trứng nở. Tuy nhiên người nuôi cần chú ý vệ sinh thùng nuôi dế sạch sẽ, không để thức ăn quá thối nát vì sẽ làm dế mắc bệnh tiêu chảy, nhiệt độ luôn giữ từ 25-320C. Đối với loại dế con thì 2-3 ngày cho ăn một lần và cho uống nước thông qua miếng mút để cho dế khỏi bị chết đuối. Đối với dế thương phẩm và dế giống ngày cho ăn một lần, cho uống nước thông qua cát ướt. Khi dế đến kỳ sinh sản, cần chọn những con dế to khỏe để nhân giống, đặc biệt tỷ lệ ghép giữa dế đực với dế cái cũng rất quan trọng bởi nó liên quan đến chất lượng của dế, nếu ghép ít đực, tỷ lệ trứng nở sẽ kém. Theo kinh nghiệm của chị Minh thì tỷ lệ thích hợp nhất trong một Chậu 60 con dế cái thì ghép 30 con dế đực. Tức là bình quân 1,2 đến 1,5 con dế cái thì có 1 con đực.
Ngoài cách làm giàu cho gia đình, với kinh nghiệm tích lũy được và tinh thần nhiệt huyết của một chủ đề tài nuôi dế thâm canh, chị Nghiêm Thị Minh vừa bán dế giống, dế thương phẩm vừa hướng dẫn cho bà con phương pháp chăn nuôi, chăm sóc và nhân giống dế cho hiệu quả cao. Mỗi lần đi tập huấn cho bà con nhân dân, chị Minh đều truyền đạt tận tình và hướng dẫn rất chu đáo về quy trình, kỹ thuật nuôi dế thâm canh mà chị đúc rút được từ kinh nghiệm của chính bản thân thông qua hoạt động trao đổi kinh nghiệm ở CLB sinh học tỉnh Bắc Giang, cụ thể như: Địa điểm nuôi dế, Cách chọn giống, tách đàn, dụng cụ nuôi dế, khay đựng thức ăn, nước uống, cách nuôi dế theo từng chủng loại dế, chọn thức ăn… Mỗi buổi tập huấn có hàng trăm lượt người tham dự và được người dân rất hào hứng tham gia. Chị cũng khuyến cáo, trong thời gian nuôi dế, nên chú ý đến loài kiến hại, do vậy cứ 3 tháng thì dùng loại thuốc diệt kiến, ruồi, muỗi của ngành y tế phun quanh tường, nền nhà một lần, trước khi phun thuốc phải chuyển các chậu dế ra ngoài khoảng 2-3 giờ khi thuốc hết mùi thì để dế trở về chỗ cũ. Là người nông dân đầu tiên của huyện Hiệp Hòa thực hiện mô hình nuôi dế thâm canh, đồng thời là một chủ đề tài dế của Tỉnh, chị Nghiêm Thị Minh không chỉ truyền đạt kinh nghiệm, kỹ thuật nuôi dế cho bà con trong vùng, chị còn đi chuyển giao khoa học – kỹ thuật công nghệ nuôi dế thâm canh cho bà con nông dân ở nhiều tỉnh, huyện bạn như: Hà Nội, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc, Hưng Yên,Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang (Lạng Giang, Tân Yên, Lục Nam, Hiệp Hòa, Việt Yên)… Ngoài ra, để tạo điều kiện cho các hộ nông dân nuôi dế phát triển lâu dài, chị Minh còn đứng ra làm đầu mối thu mua bao tiêu sản phẩm, và có khi đến tận nhà dân để trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật. “Là nông dân nên tôi hiểu sự vất vả, khốn khó của cái nghèo, việc nuôi dế là một việc làm không khó, vốn đầu tư ít lại dễ nuôi, cho lợi nhuận cao nên bất kỳ ai cũng có thể nuôi được và tôi mong bà con nông dân cùng phát triển kinh tế và làm giàu như tôi”- Chị Minh tâm sự.Thấy được hiệu quả cao từ mô hình nuôi dế, bà con nhân dân trong huyện cũng hưởng ứng và đầu tư nuôi, đến nay đã có 10 đơn vị xã, thị trấn thực hiện mô hình nuôi dế thâm canh như: xã Ngọc Sơn, Thường Thắng, Danh Thắng, Mai Trung, Đức Thắng,Thị trấn Thắng, Bắc Lý, Quang Minh, Lương Phong, Đoan Bái… Đồng thời huyện vừa thành lập một chi hội nuôi dế thâm canh liên xã Ngọc Sơn – Lương Phong với 40 hội viên tham gia nhằm hỗ trợ giúp đỡ nhau cùng làm ăn chính đáng và lâu dài. Tuy nhiên, do còn nặng tư tưởng của phương thức sản xuất truyền thống nên mô hình nuôi dế thâm canh ở huyện Hiệp Hòa vẫn còn nhỏ lẻ chưa thực sự phát triển mạnh và nhân rộng.
Năng động thoát nghèo, luôn nỗ lực vươn lên làm giàu chính đáng, chị Nghiêm Thị Minh luôn được mọi người quý mến, tìm đến học hỏi, trong thâm tâm, chị luôn mong muốn các cấp quan tâm tạo nguồn vốn xây dựng và thành lập HTX nuôi dế, có thể phát triển, nhân rộng mọi nơi, giúp nông dân thoát nghèo. Từ hiệu quả mô hình dế thâm canh đầu tiên trong huyện của chị Nghiêm Thị Minh (Ninh Giang – Danh Thắng –Hiệp Hòa), UBND huyện Hiệp Hòa cũng đang có kế hoạch theo dõi, nắm bắt tình hình thực tế, tìm hiểu, khảo nghiệm về quy trình, kỹ thuật và quá trình phát triển kinh tế từ mô hình “dế thâm canh” để từ đó có chính sách đầu tư, hỗ trợ kinh phí cho người nông dân nuôi dế và khuyến khích nhân rộng ra địa bàn toàn huyện.
Chủ trại dế Lê Thanh Tùng
Trong các loại dế này, dế ta có màu đen tuyền, đầu cánh có đốm trắng vàng, là loại dế đã được anh Lê thanh Tùng - người đầu tiên ở Việt nam nghiên cứu so sánh giữa các giống dể tìm được và tìm ra giống dế dễ nuôi, thích hợp cho quy trình nuôi công nghiệp nhằm tạo ra sản phẩm đồng loạt. Người viết bài này mô tả lại từng loại dế và kỹ thuật nuôi dế theo hướng công nghiệp đã được anh Tùng - người đã dồn hết tâm huyết, dày công nghiên cứu tìm cho ra công nghệ cho dế đẻ, kỹ thuật ấp trứng, kỹ thuật nuôi dế để có trại dế Thanh Tùng ngày nay. 1. Sinh trưởng phát dục của dế: - Sinh trưởng: từ lúc nở ra cho đến khoảng 45 ngày tuổi là xuất bán. Từ ngày thứ 45 trở đi dế phát triển cánh. Ngày tuổi 60 trở đi dế đã trưởng thành, bắt đầu sinh sản. - Sinh sản: hai tháng tuổi dế đã thành thục sinh dục và có thể ghép đôi giao phối cho sinh sản. Mỗi thùng nuôi cho ghép 30 con cái và 15 con đực trưởng thành. Dế chỉ đẻ trong vòng hai tháng là thải loại. - Khay đẻ cho dế: khi dế đẻ cần chuẩn bị khay đẻ cho dế, khay đẻ cho dế giống như gạt tàn thuốc lá chứa đất ẩm sâu 1,5 cm.. Khay đẻ được đặt vào thùng dế bố mẹ hàng ngày. Cứ sau mỗi ngày khay đẻ được lấy ra đưa đi ấp, sau đó đưa khay mới vào thùng nuôi để dế đẻ tiếp. Mỗi ngày 30 con dế mẹ có thể đẻ hàng nghìn trứng vào khay đẻ. - Ép nở: khay đẻ của dế được lấy ra đưa đi ấp, trước khi cho vào thùng ấp chuẩn bị hai khăn bông vuông (loại khăn lạnh lau mặt ở các nhà hàng), nhúng nước ướt rồi đặt dưới đáy thùng ấp sau đó đặt khay trứng trên khăn ướt và dùng khăn ướt thứ hai đã nhúng nước đậy lên khay trứng để giữ độ ẩm. Sau khi đã làm xong các việc nói trên đậy nắp thùng lại. Nhiệt độ cần cho trứng nở khoảng 24 - 25 độ C(nhiệt độ phòng). Cứ 3 - 4 ngày, thay khăn ướt một lần để giữ độ ẩm. Sau 9 - 10 ngày toàn bộ trứng trong khay bắt đầu nở. Khi thấy dế đã nở hết, lấy khay đẻ ra khỏi thùng và chuyển dế con vào thùng nuôi. - Thùng nuôi dế: thùng nuôi dế con có thể bằng nhựa, vại, lu có đường kính từ 45 - 50 cm, cao 60 cm, có nắp đậy làm bằng bìa cứng, kê thùng cách nền bằng gạch hay kệ kê. Nắp đậy bằng bìa cứng, khoét một lổ ở giữa có đường kính 3 - 4 cm để thông khí và quan sát, chăm sóc dế hàng ngày. Trước khi chuyển dế con vào thùng nuôi, thùng phải vệ sinh sạch, tìm một nắm cỏ xanh rửa sạch, rẩy nước lên, khoanh tròn xung quanh đáy thùng để dế ăn và có nơi leo trèo, một ít cám viên gà con đã nghiền nhuyễn. Khi dế trưởng thành nếu thấy chật cần chia ra thùng nuôi mới để dế lớn nhanh.. - Thức ăn của dế: thức ăn của dế là cỏ, cám hổn hợp. Tùy theo lứa tuổi mà thức ăn được cho nhiều hay ít ở đáy thùng nuôi. Hàng ngày nước được phun sương quanh thành thùng để dế uống. Dế ngày một trưởng thành, lượng thức ăn ngày càng tăng lên tùy thuộc vào sức ăn của dế. Dế trưởng thành, một cân được khoảng 700 con. Hiện tại một khay trứng bán 40.000 đồng, dế bán được 250.000 đồng/kg. - Phòng chống chuột, kiến cho dế: khi nuôi dế chú ý phòng tránh kiến cho dế. Quanh nơi nuôi dế phải có rãnh nước bảo vệ. Thùng nuôi dế phải có nắp đậy để tránh chuột. - Các món ăn từ dế: trước khi chế biến các món ăn từ dế, cần bóp bụng dế để bỏ phân, rửa sạch sau đó mới chế biến. Dế có thể chiên dòn, chiên bơ, tẩm bột để chiên.. ăn cùng với bánh phồng tôm, bánh tráng hoặc cuốn bánh tráng với rau sống là những món ăn đặc sản từ dế.
Trong suốt hơn hai năm Tùng âm thầm thử nghiệm nuôi dế.
Lúc đó, khoảng năm 2000, nghề nuôi dế còn quá mới mẻ, anh dò hỏi khắp nơi tìm học kỹ thuật nhưng ai cũng tròn mắt trước cái nghề lạ hoắc, ngay cả cán bộ Trung tâm Khuyến nông cũng lắc đầu "không có tài liệu". Không mấy ai tin cậu nông dân trẻ có thể làm nên chuyện.
Ngày ngày, Tùng cần mẫn đi làm phụ hồ từ sáng đến tối mịt, làm cả những ngày nghỉ để kiếm thêm tiền. Ăn uống dè sẻn, bao nhiêu tiền tích góp được anh mua xô, thùng nhựa cho dế ở và khắp nhà rả rích tiếng dế gáy. Nhiều người trong xóm thấy sự lạ còn trêu cợt Tùng "trẻ con".
Cũng từ ngày đó, dân ấp Bến Đò gọi cậu là Tùng "dế". Hành trình lập nghiệp của Tùng tựa như cuộc phiêu lưu cùng chú dế mèn với bao vui buồn. Dần dần Tùng tự mày mò, hoàn thiện kỹ thuật nuôi dế và trở thành bậc thầy trong nghề khi mới ngoài hai mươi tuổi.
Tỷ phú nhà nông
Tiếng thơm đồn xa, cái tên Tùng "dế" mọi người gọi đùa năm nào, nay đã là thương hiệu sáng giá. Nhiều nông dân các địa phương khác tìm đến trại dế Thanh Tùng mua con giống đều được chia sẻ kinh nghiệm, hướng dẫn kỹ thuật tận tình.
Cứ thế, nhiều trại dế lan tỏa khắp các miền đất nước. Từ một ít dế giống ban đầu, nay trại dế Thanh Tùng có đến vài trăm ngàn con; mỗi ngày xuất bán hơn chục ki-lô-gam dế thương phẩm với giá 200-375.000 đồng/kg.
Thịt dế giàu đạm, can-xi, vị ngon ngọt không kém thịt cua nên ngày càng được nhiều thực khách ưa chuộng. Gần đây, nhu cầu các nhà hàng, quán đặc sản càng tăng nên Tùng đã phát triển thêm nhiều trại dế "vệ tinh", chuyển giao con giống về một số tỉnh để nuôi gia công, sau đó bao tiêu thu mua toàn bộ sản phẩm.
Trong các loại dế, dế cơm bán cao giá nhất (375.000 đồng/kg, ước lượng khoảng 250 con), những chú dế cơm vàng nâu mập tròn múp míp to cỡ ngón tay cái người lớn có thể làm hơn chục món ngon tuyệt: xào mì, gỏi, chiên giòn, chiên bơ, kho tiêu…
Dế ta (còn gọi là dế đá, gộp chung tất thảy họ dế than, dế lửa) mình đen trũi, có giá thấp nhất (200.000 đồng/kg, khoảng 750 con). Nhưng làm nên thương hiệu của Tùng chính là loại dế sữa.
Dế sữa được chọn lọc từ các loại dế thông thường, nuôi đúng bí quyết kỹ thuật, dế non vừa qua giai đoạn lột xác thân trắng nõn, mọng căng nhìn rất bắt mắt. Dế sữa ngoài vị ngọt, còn béo ngậy, nhiều dinh dưỡng nên giá bán khá cao (250.000 đồng/kg, khoảng 850 con).
Sau gần 10 năm phiêu lưu cùng con dế, nhẩm lại Tùng trở thành tỷ phú lúc nào không nhớ. Ngoài căn nhà đầy đủ tiện nghi ngay tại trung tâm thị trấn Củ Chi, Tùng mua để phụng dưỡng ba mẹ; anh còn có trại dế Thanh Tùng ở ấp Bến Đò trị giá vài trăm triệu đồng, một trại nuôi bò cạp, rết trong cùng huyện. Chưa kể, Tùng đang đầu tư tiền tỷ mua thêm vài công đất trong ấp để chuẩn bị mở rộng trại Thanh Tùng.
Cách nghĩ của chàng tỷ phú nghe giản đơn nhưng đầy nghị lực: "Mình là nông dân thì phải bám đất, bám đồng mà làm giàu chứ!".
- Phú Khang của trại dế chính là tên cậu con trai 3 tuổi của hai vợ chồng Tuyên.
"Lúc mang bầu, vợ mình ăn uống rất kham khổ, bữa nào sang thì được được ba cái đậu, thường ngày chỉ được hai cái thôi. Lam lũ là thế nên vợ chồng đặt tên con với biết bao kì vọng. Một người đặt tên Phú, một người đặt tên Khang, kết hợp lại thành Phú Khang” - Tuyên tâm sự về những ngày đầu lập trại dế.
Giờ đây, với mức tiêu thụ dế thịt khoảng gần 4 tạ/tháng, trừ mọi chi phí, trại dế thu về một tháng từ 40 - 50 triệu đồng. Tiền lãi được Tuyên đầu tư ngược vào việc mua thêm đất, mở rộng chuồng trại. Trại dế được thiết kế theo mô hình chữ T với khu trên là 1.000 chậu nhựa nuôi dế, khu dưới chuyển sang nuôi dế trong khung gỗ đóng với nilông.
Khung gỗ giảm chi phí ban đầu tuy nhiên mức độ hao phí nhiều hơn chậu. Việc sử dụng chậu được coi là một bước đệm và sẽ tiến hành nhiều hơn khi có điều kiện.
Trung bình về mùa hè chỉ cần 35 - 40 ngày là có thể xuất dế thương phẩm. Tuy nhiên về mùa đông thời tiết khắc nghiệt hơn nên phải cần đến 3 tháng cho dế con lớn.
Việc nuôi dế không đòi hỏi nhiều nhân công. Tuy nhiên, công đoạn sơ chế lại cần nhiều người. “Sơ chế phải nhanh để tránh ôi. Dế được bỏ cánh, rút bằng phần chấm đuôi, cấu ruột ra hoặc bẻ gáy xong bóp nhẹ lên đến phần ruột. Phương pháp bỏ gáy đẹp mã hơn và giữ được lượng prôtêin, bảo quản dễ” - ông chủ trại dế tiết lộ.
Đa số những người học nghề nuôi dế ở trại dế Phú Khang là các bạn trẻ 8X. Nuôi dế phải chăm chú thì mới làm được, vì dế không giống như con gà rắc thóc là xong. Bệnh của gà dễ phát hiện nhưng biểu hiện bệnh của dế lại rất khó nhận biết” - Tuyên chia sẻ.
Nói về một trong số những “học trò” của mình, thầy Tuyên kể: “Bạn Ngà sinh năm 1987 giàu lên từ dế rồi mới lấy chồng. Lúc đầu khi bạn ấy đến hỏi mua dế giống, mình bảo nếu lấy chồng bạn không thể vác dế về nhà chồng được đâu nhưng bạn vẫn rất nhiệt tình”.
Hiện tại ngoài nuôi dế, thầy Tuyên đã “lấn sân” sang nuôi bọ cạp, rết, kì đà, sâu super, sâu quy (hai loại sâu làm thức ăn cho chim cảnh, cá cảnh).
Trong kinh doanh, “thầy Tuyên dế” quan niệm: “Thị trường không để dành chỗ cho ai. Ai nhanh nhạy biết nắm bắt thời cơ người đó sẽ là người kinh doanh có lãi. Ngoài việc nắm chắc kĩ thuật thì đầu ra cho sản phẩm phải được tính toán kỹ lưỡng ngay từ đầu.”
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Đúng là nhân dân ta còn mắc cái bệnh sản xuất theo phong trào. Cả trong chăn nuôi và trồng trọt, cứ chạy theo những thứ khởi đầu cho thu nhập cao, sản xuất ồ ạt để rồi khi giá xuống thấp (phù hợp với giá trị kinh tế thực) thì lại bỏ. Phá vườn tạp trồng vải thiều ồ ạt trước đây cũng đã là bài học cho cả người quản lý và nhân dân. Điều đáng suy nghĩ là cơ quan chuyên ngành của các cấp quản lý cần đánh giá đúng giá trị kinh tế của một sản phẩm, định hướng, hướng dẫn nhân dân đầu tư sản xuất thành những vùng hàng hóa, tổ chức liên kết với thị trường (nhất là thị trường nước ngoài) với giá cả phù hợp để phát triển ổn định, lâu dài. So với các con vật nuôi, có lẽ không có con gì dễ nuôi hơn con dế. Như Trịnh Lan nêu trong bài báo: “đầu tư ban đầu ít, vật dụng nuôi dễ, chỉ là chậu nhựa, thùng xốp. Thức ăn cho dế đơn giản, dễ kiếm, chỉ là rau, cỏ, cám gà con.” Đầu tư như thế, một vốn bốn lời đã là rất quý. Sao lại bỏ. Sao lại không khuyến khích?
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận - Lợi ích của việc nuôi dế.doc