Đôi khi hành vi bán trong chiến lược strangle được gọi là phối hợp phần
trên của trục thẳng đứng (Top vertical combination). Nó có thể thích hợp cho nhà
đầu tư nào cảm thấy sự dao động của giá chứng khoán không chắc xảy ra với biên
độ lớn. Tuy nhiên, giống như hành vi trong chiến lược straddle, nó cũng là một
chiến lược có nhiều rủi ro, có thể gây ra lỗ tiềm tàng không giới hạn cho nhà đầu
tư.
29 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5189 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lý thuyết hợp đồng quyền chọn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 1/27
Tiểu luận
Lý thuyết hợp đồng quyền chọn
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 2/27
1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN
1.1, Lịch sử thị trường quyền lựa chọn
Từ đầu thế kỷ 18, giao dịch quyền chọn lần đầu tiên được thực hiện trên thị
trường ở Châu Âu và ở Mỹ. Những năm đầu thị trường hoạt động gặp thất bại vì
nạn tham nhũng. Một trong những người liên quan là nhà môi giới có quyền chọn
về một loại cổ phiếu nhất định đã ăn hối lộ để giới thiệu cổ phiếu cho khách hàng
của họ.
Vào đầu những năm 1900, một nhóm công ty đã thành lập hiệp hội những
những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn (option). Mục đích của hiệp hội
này là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và những người bán lại với
nhau. Nhà đầu tư muốn mua quyền chọn sẽ liên hệ với một công ty thành viên,
công ty này sẽ tìm người bán quyền chọn từ khách hàng của công ty hoặc của các
công ty thành viên khác. Nếu không có người bán, công ty đó sẽ tự phát hành
quyền chọn với giá cả thích hợp. Thị trường hoạt động theo cách này gọi là thị
trường phi tập trung OTC (over-the-counter market), các nhà kinh doanh không
gặp nhau trên sàn giao dịch của thị trường.
Thị trường option của Hiệp hội các nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn
chịu áp lực của hai yếu tố. Một là, không có thị trường thứ cấp, người mua option
không có quyền bán cho bên khác trước ngày đáo hạn. Hai là, không có kỹ thuật
nào bảo đảm rằng người bán Option sẽ thực hiện hợp đồng, nếu người bán không
thực hiện hợp đồng thì người mua phải tốn chi phí kiện tụng.
Việc mua bán quyền chọn trở nên phổ biến đầu tiên ở Chicago Board of
Options Exchange (CBOE). Vào thời kỳ đó chủ yếu trao đổi các cổ phiếu thương
mại đơn lẻ. Vào năm 1973, hợp đồng quyền chọn mua bắt đầu được giao dịch trên
sàn Chicago Board Option Exchange với 16 loại chứng khoán. Quyền chọn đã
được giao dịch từ trước năm 1973 nhưng sàn CBOE thành công trong việc tạo ra
một lệnh thị trường với điều khoản hợp đồng được xác định rõ ràng. Hợp đồng
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 3/27
quyền chọn bán bắt đầu được giao dịch trên thị trường vào năm 1977. Ngày nay,
sàn CBOE thực hiện giao dịch quyền chọn với hơn 1.000 chứng khoán các loại và
nhiều loại chỉ số chứng khoán khác nhau. Giống như hợp đồng giao sau, hợp đồng
quyền chọn ngày càng trở nên phổ biến. Ngày nay, giao dịch quyền chọn được
diễn ra trên toàn cầu. Những tài sản cơ sở bao gồm: ngoại tệ, hợp đồng giao sau,
chứng khoán và chỉ số chứng khoán.
Năm 1982, quyền chọn bắt đầu giao dịch trên các hợp đồng tương lai với trái
phiếu chính phủ, và loại giao dịch này phát triển rất nhanh. Giao dịch trên thị
trường đấu giá mở, việc mua bán quyền chọn cung cấp rất nhiều công cụ để đầu cơ
và phòng hộ giá cho cộng đồng thương mại. Sự thành công của hợp đồng quyền
chọn đã mở lối cho việc ra đời quyền chọn trên vô số các hàng hoá tiêu dùng như
ngô, đậu nành và các sản phẩm khác.
Khi xã hội ngày càng phát triển, giao dịch quyền chọn ngày càng trở nên
phổ biến hơn, lan rộng sang Anh, Brazil, Đức, Pháp, Nhật Bản, Singapore, Hồng
Kông và Australia. Việc toàn cầu hoá thị trường thế giới đã tạo ra nhu cầu liên kết
điện tử và thương mại 24/24 trong ngày. Thị trường Mỹ đã đáp ứng nhu cầu này
bằng cách tạo ra những sản phẩm giao dịch quốc tế, mở rộng giờ giao dịch và triển
khai một sàn giao dịch điện tử.
Những hệ thống đáng chú ý nhất là GLOBEX (được CME phát triển) và
Project A (được CBOT phát triển). Ở Đức, Deutsche Terminborse Exchange đã bỏ
kiểu giao dịch đấu giá mở, thay vào đó vận hành sàn giao dịch điện tử. Trên hệ
thống GLOBEX, các nhà đầu tư cá thể có thể giao dịch dựa trên chỉ số SP500,
SP500 mini và NASDAQ 100 và các hợp đồng con. Các nhà đầu tư cá thể cũng có
thể mua bán ngoại hối trên GLOBEX.
Trên hệ thống Project A (hiện tại là hệ thống Eurex (Tháng 8/2000, CBOT
xây dựng Eurex, tất cả các giao dịch trên Project A đều được thực hiện tại Eurex)),
các nhà đầu tư cá thể có thể mua bán trái phiếu T-bonds và tín phiếu, quyền chọn,
và tất cả các sản phẩm ngũ cốc trên CBOT. Giao dịch điện tử được thiết kế để hỗ
trợ việc đấu giá mở ngoài giờ giao dịch chính.
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 4/27
Tóm lại, hợp đồng quyền chọn (options contract) có chiều dài lịch sử thăng
trầm, nó được giao dịch trên thị trường phi tập trung OTC (over the counter) từ thế
kỷ 19. Tuy nhiên, các hợp đồng quyền chọn đã tăng vọt trong 30 năm trở lại đây,
đặc biệt là kể từ khi sàn Chicago Board Option Exchange được thành lập. Riêng
tại Việt Nam, hoạt động Option bắt đầu được thí điểm tại Eximbank vào ngày
12/02/2003, nhưng đó chỉ là options ngoại tệ với ngoại tệ. Ngân Hàng Đầu Tư Và
Phát Triển Việt Nam là ngân hàng thứ 2 được triển khai nghiệp vụ option ngoại tệ.
Citibank là ngân hàng đầu tiên trong số hơn 20 ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam vừa được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ Quyền lựa chọn
vào 09/07/2003. Ngày 01/08/2003 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Việt Nam (NHNN&PTNT) là ngân hàng thứ 3 tại Việt Nam được thực hiện
nghiệp vụ Option. Ngày 23/09/2003 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận cho
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB) được thí điểm thực hiện nghiệp vụ
quyền lựa chọn trong 2 lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ và lãi suất. Đến nay đã có
thêm NHTMCP Quốc tế, NHTM cổ phần Á Châu, NHTMCP Kỹ thương,
NHTMCP Quân đội, HSBC chi nhánh TP.HCM được thực hiện nghiệp vụ quyền
chọn ngoại tệ. Sau đó, nhiều đơn vị triển khai options vàng, nông sản... Riêng
options chứng khoán là vấn đề hoàn toàn mới, dù thị trường chứng khoán đã hoạt
động gần 7 năm qua.
1.2, Một số khái niệm.
Quyền chọn (Option) là hợp đồng cho người mua một quyền được mua
hay bán một khối lượng tài sản xác định tại mức giá xác định trong (tại) một
khoảng thời gian.
Hợp đồng quyền chọn là thoả thuận được tiêu chuẩn hoá cho phép người
mua một quyền (nhưng không phải là nghĩa vụ) được mua hoặc bán một số
lượng tài sản xác định, tại một mức giá xác định vào một thời điểm hoặc
trong một khoảng thời gian xác định.
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 5/27
Tỷ giá thực hiện (Exercise Price): Là tỷ giá thỏa thuận theo đó Bên mua
của giao dịch quyền chọn sẽ có quyền thực hiện giao dịch tại mức giá đó trong
thời hạn giao dịch hoặc vào ngày đến hạn trong tương lai của giao dịch quyền
chọn.
Phí quyền chọn (Option premium): Là số tiền mà Bên mua trong giao
dịch quyền chọn phải trả cho Bên bán để có được quyền chọn của mình trong giao
dịch quyền chọn.
Thời điểm chấm dứt hợp đồng quyền lựa chọn:
Vôùi quyeàn löïa choïn kieåu Myõ: Laø thôøi ñieåm (trong thôøi haïn
heát hieäu löïc cuûa hôïp ñoàng quyeàn löïa choïn) hôïp ñoàng Option
ñöôïc thöïc hieän theo yeâu caàu cuûa ngöôøi mua quyeàn, hoaëc khi
hôïp ñoàng Option heát haïn.
Vôùi quyeàn löïa choïn kieåu Chaâu AÂu: khi hôïp ñoàng Option
heát haïn.
Caùc traïng thaùi quyeàn choïn:
Moät quyeàn choïn ñöôïc thöïc hieän vaø ñem laïi lôïi nhuaän (chöa
tröø phí quyeàn choïn) vôùi tyû giaù hieän haønh ñöôïc goïi laø cao giaù
ITM (in the money). Ngöôïc laïi, moät quyeàn choïn ñöôïc thöïc hieän vaø
bò loã vôùi giaù hieän haønh goïi laø giaûm giaù OTM (out of the money).
Trong khi ñoù, moät quyeàn choïn ñöôïc thöïc hieän maø giaù thöïc hieän
baèng vôùi tyû giaù giao ngay ñöôïc goïi laø ngang giaù ATM (at the
money).
Quyền chọn mua (Call option): Đây là quyền chọn cho phép khách hàng
được quyền mua 1 lượng tài sản theo các điều khoản của hợp đồng hoặc huỷ bỏ
hợp đồng (không mua) nếu điều đó là có lợi cho mình.
Người mua quyền chọn
- Không bị bắt buộc phải thực hiện quyền.
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 6/27
- Có thể đóng vị thế (lỏng hóa) bằng cách bán quyền trước khi đến
hạn.
- Không cần thiết phải có ký quỹ cho trạng thái quyền chọn.
Ví dụ:
Xét tình huống của một nhà đầu tư mua quyền chọn mua kiểu Châu Âu với giá
thực hiện là 100 USD để mua 100 cổ phiếu IBM. Giả sử giá cổ phiếu hiện hành là
98 USD, ngày đáo hạn option là trong 04 tháng, giá mua quyền chọn (phí quyền
chọn) là 5 USD cho một cổ phiếu, tổng phí quyền chọn ban đầu là 500 USD (5 x
100). Đây là quyền chọn kiểu Châu Âu nên nhà đầu tư chỉ thực hiện quyền vào
ngày đến hạn.
Nếu giá cổ phiếu vào ngày đến hạn thấp hơn 100 USD thì nhà đầu tư không
thực hiện quyền chọn mua vì không có lời. Khi không thực hiện quyền thì nhà đầu
tư lỗ phí đầu tư ban đầu là 500 USD.
Nếu giá cổ phiếu vào ngày đến hạn trên 100 USD thì nhà đầu tư sẽ thực hiện
quyền. giả sử có hai trường hợp xảy ra:
+ Trường hợp giá cổ phiếu là 115 USD:
Thực hiện option, nhà đầu tư sẽ mua cổ phiếu với giá 100 USD và bán ngay
trên thị trường với giá 115 USD, mức lời là 15 USD/ cổ phiếu, tổng cộng là 1.500
USD, sau khi trừ phí quyền chọn ban đầu là 500 USD, nhà đầu tư lời 1.000 USD.
+ Trường hợp giá cổ phiếu là 102 USD:
Thực hiện option, nhà đầu tư lời 2 USD/ cổ phiếu (102 – 100), tổng cộng là
200 USD, sau khi trừ phí quyền chọn ban đầu là 500 USD, nhà đầu tư lỗ 300
USD. Nếu không thực hiện quyền, nhà đầu tư lỗ nhiều hơn, là 500 USD.
Như vậy, quyền chọn mua luôn luôn được thực hiện vào ngày đến hạn nếu giá
hiện hành lớn hơn giá thực hiện.
Đối với người mua quyền chọn mua
Hợp đồng là “in-the-money” khi nó có thể đem lại lợi nhuận nếu thực hiện
quyền ngay lập tức; giá thị trường hiện tại > giá thực hiện quyền
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 7/27
Hợp đồng là “out-of-the-money” khi nó không đem lại lợi nhuận nếu thực
hiện quyền ngay lập tức; giá thị trường hiện tại < giá thực hiện quyền
Hợp đồng là “at-the-money” nếu giá thực hiện quyền gần nhất với mức giá
thị trường trước đó của tài sản; giá thị trường hiện tại = giá thực hiện
quyền.
Biểu diễn bằng đồ thị trong trường hợp tổng quát về call option:
Quyển chọn bán (Put option): Đây là quyền chọn cho phép khách hàng
được quyền bán 1 lượng tài sản xác định theo các điều khoản của hợp đồng hoặc
hủy bỏ hợp đồng (không bán) nếu điều đó là có lợi cho mình.
Người bán quyền chọn
- Nếu người mua quyết định thực hiện quyền, người bán phải chấp
nhận quyền đó.
- Có nghĩa vụ phải thực hiện các điều kiện và điều khoản của hợp
đồng quyền chọn.
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 8/27
- Có thể đóng vị thế (lỏng hóa) bằng cách mua quyền trước khi đến
hạn.
- Phải ký quỹ cho trạng thái quyền chọn.
Ví dụ:
Xét tình huống một nhà đầu tư mua quyền chọn bán (put option) kiểu Châu
Âu để bán 100 cổ phiếu Exxon với giá thực hiện 70 USD. giả sử giá cổ phiếu hiện
hành là 65 USD, ngày đáo hạn của option trong vòng 03 tháng và phí mua quyền
chọn bán là 7 USD/ cổ phiếu, tổng phí mua quyền chọn ban đầu là 700 USD (7 x
100). Giả sử có 02 trường hợp xảy ra:
+ Trường hợp giá đến hạn cổ phiếu cao hơn 70 USD:
Nhà đầu tư không thực hiện quyền và lỗ phí mua quyền chọn ban đầu là
700 USD.
+ Trường hợp vào ngày đến hạn, giá cổ phiếu là 55 USD:
Nhà đầu tư thực hiện option, bằng cách mua cổ phiếu với giá 55 USD rồi
thực hiện quyền chọn bán với giá 70 USD để kiếm lời là 15 USD/ cổ phiếu, tổng
cộng thu được 1.500 USD, sau khi trừ đi phí mua quyền chọn là 700 USD, nhà
đầu tư lãi 800 USD.
Như vậy, người mua quyền chọn bán sẽ kỳ vọng giá hiện hành sẽ thấp hơn
giá thực hiện, tức đầu tư khi giá giảm.
Đối với người mua quyền chọn bán
Hợp đồng là “in-the-money” khi nó có thể đem lại lợi nhuận nếu thực hiện
quyền ngay lập tức; giá thị trường hiện tại < giá thực hiện quyền
Hợp đồng là “out-of-the-money” khi nó không đem lại lợi nhuận nếu thực
hiện quyền ngay lập tức; giá thị trường hiện tại > giá thực hiện quyền
Hợp đồng là “at-the-money” nếu giá thực hiện quyền gần nhất với mức giá
thị trường trước đó của tài sản; giá thị trường hiện tại = giá thực hiện quyền
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 9/27
Biểu diễn bằng đồ thị trong trường hợp tổng quát về put option:
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 10/27
Những vị thế quyền chọn:
Có hai bên trong mỗi hợp đồng quyền chọn, một bên là nhà đầu tư với vị
thế là người bán, một bên là nhà đầu tư với vị thế là người mua. Người bán quyền
chọn sẽ nhận trước số tiền gọi là phí quyền chọn nhưng phải thực hiện nghĩa vụ
sau đó. Khoản lời hoặc lỗ của người bán quyền chọn là nghịch đảo với khoản lỗ
hoặc lời của người mua quyền chọn.
Có 04 loại vị thế quyền chọn, đó là:
1. Vị thế mua trong quyền chọn mua
2. Vị thế mua trong quyền chọn bán
3. Vị thế bán trong quyền chọn mua.
4. Vị thế bán trong quyền chọn bán
Mua quyền chọn mua (Long Call)
Kỳ vọng - Xu hướng tăng
- Giá của tài sản sẽ tăng
- Người mua được lợi do việc tăng giá
Ưu điểm - Rủi ro được hạn chế trong những chi phí ban đầu của
quyền chọn
- Quyền chọn có thể được bán đi trước khi đến hạn nếu
giá biến động có lợi hoặc xu hướng thị trường thay đổi
- Không hạn chế lợi nhuận tiềm năng (khi giá thị trường
> giá thực hiện)
- Đảm bảo giá mua tối đa
Nhược điểm - Giá trị thời gian của quyền chọn giảm dần
Điểm hoà vốn - Giá thực hiện + phí quyền chọn
Mua quyền chọn bán (Long Put)
Kỳ vọng - Xu hướng giảm giá
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 11/27
- Giá tài sản sẽ giảm
- Người mua sẽ hưởng lợi nếu giá giảm
Ưu điểm - Rủi ro bị hạn chế trong chi phí ban đầu
- Quyền chọn có thể được bù trừ trước khi đến hạn nếu
giá biến động bất lợi hoặc nhận định thị trường thay
đổi
- Không hạn chế lợi nhuận tiềm năng (giá thị trường <
giá thực hiện)
- Đảm bảo mức giá bán tối thiểu
Nhược điểm - Giá trị thời gian của quyền chọn bị xói mòn
Điểm hoà vốn - Giá thực hiện – phí quyền chọn
Bán quyền chọn mua (Short Call)
Kỳ vọng - Xu hướng giảm giá không chắc chắn
- Giá tài sản không biến động hoặc giảm
- Người bán thu được phí quyền chọn
Ưu điểm - Thu được phí trong điều kiện thị trường không có biến
động
- Giá trị thời gian giảm dần
Nhược điểm - Lợi nhuận tiềm năng bị hạn chế trong mức phí
- Rủi ro tiềm năng không hạn chế nếu giá tài sản tăng
lên
Bán quyền chọn bán (Short Put)
Kỳ vọng - Xu hướng tăng giá không chắc chắn
- Giá tài sản không biến động hoặc tăng
- Người bán thu được phí quyền chọn
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 12/27
Ưu điểm - Thu được phí trong điều kiện thị trường không có biến
động
- Giá trị thời gian giảm dần
Nhược điểm - Lợi nhuận tiềm năng bị hạn chế trong mức phí
- Rủi ro tiềm năng không hạn chế nếu giá tài sản giảm
lên
Tài sản cơ sở: Là loại tài sản sẽ được giao trên cơ sở mua hoặc bán khi
quyền chọn được thực hiện.
Có 04 loại tài sản cơ sở:
1. Chứng khoán (stocks).
2. Tiền tệ (Currencies).
3. Chỉ số chứng khoán (stock indices).
4. Hợp đồng giao sau (Futures).
Quyền chọn chứng khoán
Hầu hết quyền chọn chứng khoán được thực hiện trên sàn giao dịch. Ở Mỹ,
quyền chọn chứng khoán được giao dịch trên sàn Chicago Board Options
Exchange, Philadelphia Stock Exchange, the American Stock Exchange, the
Pacific Exchange và the International Securities Exchange, giao dịch quyền chọn
với hơn 1.000 chứng khoán các loại. Một hợp đồng quyền chọng chứng khoán cho
phép người nắm giữ quyền mua hoặc bán 100 cổ phiếu với giá thực hiện xác định.
Độ lớn của hợp đồng là tùy thích vì cổ phiếu được giao dịch theo nhều lô (100 cổ
phiếu/lô).
Quyền chọn ngoại tệ
Ngày nay, hầu hết các giao dịch quyền chọn tiền tệ là diễn ra trên thị trường
OTC, tuy nhiên cũng có một vài trường hợp là diễn ra trên sàn giao dịch. Ở Mỹ,
thị trường giao dịch chủ yếu là Philadelphia Stock Exchange với cả hai hợp đồng
kiểu Châu Âu và kiểu Mỹ với nhiều loại ngoại tệ khác nhau. Độ lớn của hợp đồng
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 13/27
tùy thuộc vào loại ngoại tệ. Ví dụ: bảng Anh: độ lớn hợp đồng là 31.250 bảng,
Yên Nhật: độ lớn hợp đồng là 6,2 triệu yên.
Quyền chọn chỉ số chứng khoán
Quyền chọn nhiều loại chỉ số chứng khoán khác nhau diễn ra trên toàn cầu
ở cả thị trường OTC và sàn giao dịch. Ở Mỹ, chỉ số chứng khoán phổ biến nhất
được giao dịch là chỉ số: S&P 500, S&P 100, Nasdaq 100 và chỉ số công nghiệp
Dow Jones. tất cả được giao dịch trên sàn Chicago Board Options Exchange. Hầu
hết các hợp đồng là quyền chọn kiểu Châu Âu, riêng quyền chọn chỉ số S&P 100
là kiểu Mỹ. Một hợp đồng thường được mua bán với khối lượng bằng 100 nhân
với chỉ số chứng khoán tại giá thực hiện được xác định. Việc thanh toán luôn luôn
dùng tiền mặt hơn là chuyển giao danh mục đầu tư cơ sở của chỉ số.
Ví dụ: xét một hợp đồng quyền chọn mua chỉ số S&P 100 với giá thực hiện
của chỉ số là 980. Nếu quyền chọn được thực hiện khi giá trị của chỉ số là 992.
Người bán quyền chọn phải trả cho người mua quyền số tiền là 100 x (992 – 980)
= 1.200 USD. Khoản tiền thanh toán này dựa trên cơ sở là giá trị của chỉ số chứng
khoán tại thời điểm cuối cùng của ngày mà chỉ số chứng khoán được niêm yết
(phát hành). Chính vì vậy, nhà đầu tư luôn luôn phải đợi đến thời điểm giao dịch
cuối cùng của ngày để phát hành những chỉ thị này.
Quyền chọn hợp đồng giao sau
Khi giao dịch về một hợp đồng giao sau thì nó cùng thường đi với giao dịch
về quyền chọn hợp đồng giao sau. Một quyền chọn về hợp đồng giao sau thường
có ngày đến hạn trước thời gian giao hàng trong hợp đồng giao sau. Khi một
quyền chọn mua được thực hiện, người nắm giữ quyền chọn so với người bán
quyền có vị thế mua trong hợp đồng giao sau cơ sở cộng với một khoản tiền mặt
bằng với mức vượt trội của giá giao sau so với giá thực hiện. Tương tự, khi một
quyền chọn bán được thực hiện, người nắm giữ quyền chọn có vị thế bán trong
hợp đồng giao sau cơ sở cộng với một khoản tiền mặt bằng với mức vượt trội của
giá thực hiện so với giá giao sau.
2. CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 14/27
2.1, Nhà đầu tư (Invertor)
Nhà đầu tư là các bên trong hợp đồng quyền chọn; họ hoặc là người có vị
thế mua hoặc là người có vị thế bán. Nhà đầu tư đã mua option có thể đóng vị thế
mua bằng cách phát lệnh bù trừ (offseting order) để bán cho một option tương tự;
và nhà đầu tư đã phát hành option có thể đóng vị thế bán bằng cách phát lệnh bù
trừ để mua một option tương tự.
2.2, Những người tạo thị trường (Market Makers)
Đa số các thị trường tập trung sử dụng nhà tạo lập thị trường tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động giao dịch. Nhà tạo lập thị trường nêu cả giá mua vào và
giá bán ra khi có yêu cầu. Giá hỏi mua là giá mà tại đó người tạo thị trường sẵn
sàng để hỏi mua. Giá chào bán là giá mà tại đó người tạo thị trường sẵn sàng để
bán. Vào lúc giá hỏi mua và giá chào bán được niêm yết, người tạo lập thị trường
không biết rằng nhà kinh doanh đã yêu cầu yết giá muốn mua hay bán option. Giá
chào bán luôn luôn cao hơn giá hỏi mua, và mức vượt trội của giá bán so với giá
hỏi mua gọi là mức chênh lệch giá hỏi mua và chào bán. Thị trường xác lập giới
hạn trên cho mức chênh lệch giá hỏi mua và chào bán. Sự tồn tại của người tạo lập
thị trường đảm bảo rằng lệnh mua và bán có thể luôn được thực hiện ở một vài
mức giá mà không có bất cứ sự chậm trễ nào. Những người tạo lập thị trường đã
làm tăng khả năng linh hoạt cho thị trường, họ cũng tạo ra lợi nhuận cho mình từ
chênh lệch giá mua và giá bán.
2.3, Nhà môi giới trên sàn giao dịch (The floor broker)
Nhà môi giới trên sàn giao dịch thực hiện giao dịch cho công chúng. Khi
nhà đầu tư liên hệ với nhà môi giới để mua hoặc để bán option, nhà môi giới
chuyển lệnh đến nhà môi giới trên sàn giao dịch của công ty tại thị trường có
option giao dịch. Nếu công ty không có người của mình tại thị trường đó, thì họ có
thể dàn xếp để sử dụng một nhà môi giới độc lập trên sàn giao dịch, hoặc là một
nhà môi giới trên sàn giao dịch của công ty khác. Nhà môi giới trên sàn giao dịch
tiến hành giao dịch không chỉ với nhà môi giới khác trên sàn giao dịch mà còn với
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 15/27
những người tạo thị trường. Các nhà môi giới trên sang giao dịch có thể có hoa
hồng hoặc được trả lương bởi công ty môi giới của họ.
Các kiểu lệnh của khách hàng:
Lệnh thị trường: được thi hành ngay lập tức.
Lệnh tùy ý hoặc lệnh tự do quyết định để thời gian giao dịch tùy thuộc vào
nhà môi giới trên sàn giao dịch.
Lệnh giới hạn chỉ rõ giá ưu đãi thấp nhất mà lệnh có thể được thực hiện.
2.4, Nhân viên lưu trữ lệnh (The order book official)
Trên hầu hết thị trường chứng khoán người môi giới trên sàn giao dịch sau
đó sẽ chuyển lệnh đến một cá nhân được gọi là nhân viên lưu trữ lệnh của thị
trường. Nhân viên này đưa lệnh vào máy tính cùng với những lệnh giới hạn khác
để đảm bảo ngay khi đạt đến giá giới hạn, lệnh sẽ được thực hiện. Những thông tin
về tất cả lệnh giới hạn chưa thực hiện thì sẵn có cho tất cả các nhà kinh doanh.
3. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA QUYỀN LỰA CHỌN CHỨNG KHOÁN
Đó là những chi tiết của hợp đồng quyền chọn chứng khoán, như: ngày đến hạn,
giá thực hiện, những vấn đề xảy ra khi chia cổ tức, nhà đầu tư nắm giữ vị thế trong
bao lâu, …
3.1. Ngày đến hạn (expiration date)
Một trong những thuật ngữ dùng để trình bày một quyền chọn chứng khoán
là tháng xảy ra ngày đến hạn. Ngày đến hạn là ngày mà quyền chọn trở nên vô giá
trị, người sở hữu quyền chọn không có quyền yêu cầu thực hiện quyền chọn nữa.
Trong tháng thực hiện, ngày cuối cùng mà nhà đầu tư với vị thế mua giao
dịch quyền chọn chứng khoán là đến 16 giờ 30 phút của ngày thứ Sáu của tuần
Thứ 3.
Đối với nhà môi giới, thời gian thực hiện lệnh là trước 23 giờ của ngày tiếp
theo, sau ngày thứ Sáu của tuần Thứ 3.
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 16/27
Theo quy định, 12 tháng trong một năm được chia thành 3 chu kỳ, mỗi chu
kỳ có 4 tháng. Một quyền chọn có thể có tháng đáo hạn thuộc một trong ba chu kỳ
sau:
Chu kỳ tháng Giêng gồm : tháng Giêng, tháng Tư, tháng Bảy, tháng Mười.
Chu kỳ tháng Hai gồm: tháng Hai, tháng Năm, tháng Tám, tháng Mười
Một.
Chu kỳ tháng Ba gồm: tháng Ba, tháng Sáu, tháng Chín, tháng Mười Hai.
Một quyền chọn có chu kỳ dài hơn đó là LEAPS, được giao dịch ở Mỹ với
khoảng 500 chứng khoán. Thời gian thực hiện quyền có thể kéo dài đến 03 năm và
ngày đến hạn luôn luôn là vào tháng Giêng.
3.2. Giá thực hiện (Strike Price)
Sàn giao dịch chọn giá thực hiện với các mức mà theo đó option có thể
được phát hành, đó là các khoảng cách 2,5 USD; 5 USD hoặc 10 USD. Loại
khoảng cách 2,5 USD khi giá chứng khoán là giữa 5 USD và 25 USD; là 5USD
khi giá chứng khoán giữa 25 USD và 200 USD; và là 10 USD đối với giá chứng
khoán trên 200 USD (ngoại trừ trường hợp có sự phân chia chứng khoán và cổ tức
thì không áp dụng theo tiêu chuẩn giá thực hiện như trên, mà khoảng cách sẽ ngắn
lại).
Khi một ngày đến hạn mới được đưa ra, hai hoặc ba mức giá thực hiện gần
nhất với giá chứng khoán hiện hành thường được chọn để giao dịch. Nếu giá
chứng khoán vượt ra khỏi giới hạn giá thực hiện thấp nhất và cao nhất, giao dịch
thường được giới thiệu một option với một giá thực hiện mới.
Ví dụ: Khi bắt đầu giao dịch quyền chọn tháng Mười, giá chứng khoán là
84 USD. Đầu tiên, quyền chọn mua và chọn bán sẽ được đề nghị với mức giá thực
hiện là 80 USD, 85 USD và 90 USD. Nếu giá chứng khoán tăng trên 90 USD, giá
thực hiện sẽ được đề nghị là 95 USD; còn trong trường hợp giá chứng khoán giảm
dưới 80 USD, giá thực hiện sẽ được đề nghị là 75 USD.
3.3. Quyền chọn linh hoạt (Flex option)
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 17/27
Quyền chọn linh hoạt được thực hiện trên sàn Chicago Board Options
Exchange khi đồng ý theo các điều kiện không được tiêu chuẩn hóa; bao gồm một
giá thực hiện hoặc một ngày đến hạn, có những khác biệt so với tiêu chuẩn của sàn
giao dịch. Quyền chọn linh hoạt thường theo kiểu Châu Âu hơn là kiểu Mỹ. Đây là
một sự cố gắng của sàn giao dịch để thu hút khách hàng từ thị trường OTC. Sàn
giao dịch quy định độ lớn tối thiểu của giao dịch quyền chọn linh hoạt là 100 hợp
đồng.
3.4. Phân chia cổ tức và cổ phiếu
Trước hết, option trao đổi qua thị trường OTC được đảm bảo về cổ tức.
Nếu một công ty công bố chia cổ tức bằng tiền mặt thì giá thực hiện của option về
cổ phiếu của công ty đó sẽ giảm một khoản bằng số cổ tức vào thời điểm không
nhận cổ tức.
Option trao đổi qua sàn giao dịch nói chung là không được điều chỉnh theo
cổ tức trả bằng tiền mặt. Mặt khác, khi mức cổ tức được công bố, sẽ không có sự
điều chỉnh nào trong các điều kiện của hợp đồng option.
Option trao đổi qua sàn giao dịch được điều chỉnh theo sự phân chia cổ
phiếu. Việc phân chia cổ phiếu xảy ra khi số cổ phiếu hiện tại được chia thành
nhiều cổ phiếu hơn. Ví dụ: trong một lần phần chia cổ phiếu 3 trên 1, tức có 3 cổ
phiếu mới được phát hành để thay thế 1 cổ phiếu hiện hữu. Vì sự phân chia cổ
phiếu không làm thay đổi tài sản hoặc khả năng thu lợi của công ty, nên chúng ta
mong nó không có bất cứ ảnh hưởng nào trên tài sản của các cổ đông công ty. Khi
tất cả các điều kiện khác không đổi, việc phân chia cổ phiếu 3 trên 1 sẽ làm cho
giá cổ phiếu giảm còn 1/3 so với giá trị ban đầu. Tóm lại, việc phân chia cổ phiếu
n/m sẽ làm giá cổ phiếu giảm còn m/n giá trị ban đầu. Các điều kiện của hợp đồng
option sẽ được điều chỉnh để phản ánh sự mong đợi những thay đổi trong giá cổ
phiếu (tăng lên sau khi phân chia). Sau một lần phân chia cổ phiếu n/m, giá thực
hiện sẽ giảm còn m/n so với giá trị ban đầu của nó và số lượng cổ phiếu cho một
hợp đồng tăng lên bằng n/m lần so với số lượng ban đầu. Nếu giá cổ phiếu giảm
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 18/27
theo cách được mong đợi, thì vị thế của người phát hành và người mua của hợp
đồng được giữ nguyên, không đổi.
Option về cổ phiếu còn được điều chỉnh theo cổ tức trả bằng chứng khoán.
Cổ tức trả bằng chứng khoán có liên quan đến việc công ty phát hành thêm cổ
phiếu cho những cổ đông hiện hữu. Ví dụ: cổ tức trả bằng chứng khoán 20% có
nghĩa là nhà đầu tư nhận được thêm 1 cổ phiếu mới trên mỗi 5 cổ phiếu mà họ
đang sở hữu. Cổ tức trả bằng chứng khoán giống như phân chia cổ phiếu, không
có ảnh hưởng trên tài sản hoặc khả năng thu nhập của một công ty. Giá cổ phiếu
có thể được mong đợi giảm như là kết quả phân chia cổ tức bằng chứng khoán. Cổ
tức trả bằng chứng khoán 20% về cơ bản giống như phân chia cổ phiếu 6/5. Khi
tất cả các điều kiện khác không đổi, nó sẽ làm cho giá cổ phiếu giảm còn 5/6 giá
trị ban đầu của nó. Các điều kiện của option được điều chỉnh để phản ánh sự mong
đợi giá cổ phiếu (đã giảm từ việc trả cổ tức bằng chứng khoán) sẽ tăng lên theo
cách tương tự như là giá sẽ tăng lên từ việc phân chia cổ phiếu.
3.5. Giới hạn vị thế và giới hạn thực hiện
Sàn Chicago Board Options Exchange thường xác định giới hạn vị thế cho
các hợp đồng quyền chọn. Đó là số lượng hợp đồng quyền chọn lớn nhất mà một
nhà đầu tư có thể nắm giữ trên thị trường. Với mục đích này, mua quyền chọn mua
và bán quyền chọn bán được xem là cùng một bên trên thị trường, tương tự đối với
bán quyền chọn mua và mua quyền chọn bán là cùng một bên.
Giới hạn thực hiện cũng tương tư như giới hạn vị thế. Nó cũng xác định số
hợp đồng tối đa mà một cá nhân hoặc một nhóm cá nhân có liên quan bất kỳ có thể
thực hiện trong thời gian 5 ngày làm việc phối hợp bất kỳ.
Giới hạn vị thế quyền chọn chứng khoán lớn nhất và giao dịch thường
xuyên nhất là 75.000 hợp đồng. Giới hạn vị thế quyền chọn chứng khoán thấp nhất
là 60.000, 31.500, 22.500 hoặc 13.500 hợp đồng.
Giới hạn vị thế và giới hạn quyền chọn được thiết kế để ngăn ngừa tình
trạng thị trường bị chi phối quá mức bởi hành vi của một nhà đầu tư hoặc một
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 19/27
nhóm nhà đầu tư. Tuy nhiên, những giới hạn cần thiết như vậy là một vấn đề gây
tranh cãi.
4. CHIẾN LƯỢC KINH DOANH HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN
4.1. Chiến lược liên quan đến một quyền chọn đơn và một cổ phiếu
Có một số chiến lược kinh doanh khác nhau liên quan đến một quyền chọn
đơn và một cổ phiếu. Đó là:
1. Vị thế mua trên chứng khoán kết hợp với vị thế bán trên call option.
2. Vị thế bán trên chứng khoán kết hợp với vị thế mua trên call option.
3. Vị thế mua trên put option kết hợp với vị thế mua trên chứng khoán.
4. Vị thế bán trên put option kết hợp với vị thế bán trên chứng khoán
Lợi nhuận từ những chiến lược này được minh họa trên các hình sau:
Lợi nhuận
ST K
(a)
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 20/27
Gọi:
1. p là giá put option Châu Âu
Lợi nhuận
ST
K
(b)
Lợi nhuận
ST
K
(c)
Lợi nhuận
ST K
(d))
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 21/27
2. So là giá chứng khoán
3. c là giá call option Châu Âu
4. K là giá thực hiện của cả put và call option
5. r là lãi suất phi rủi ro
6. D là hiện giá của cổ tức mong đơi trong vòng đời của option
Ta có mối cân bằng put – call được biểu diễn như sau:
p + So = c + Ke
-rT + D (1)
Từ phương trình (1) cho thấy vị thế mua put option phối hợp với vị thế mua
chứng khoán tương đương với vị thế mua call option cộng với một số tiền nhất
định (= Ke-rT + D). Điều này giải thích tại sao, mô hình lợi nhuận trong hình (c)
giống với mô hình lợi nhuận từ vị thế mua call option. Vị thế trong hình (d) là
nghịch đảo của vị thế hình (c). Vì vậy, dẫn đến mô hình tương tự với mô hình lợi
nhuận từ vị thế bán call option.
Phương trình (1) có thể viết lại thành:
So - c = Ke
-rT + D - p
Tương tự, vị thế mua chứng khoán phối hợp với vị thế bán call option
tương đương với vị thế bán put option công với một số tiền mặt nhất định (= Ke-rT
+ D ). Sự cân bằng này giải thích tại sao mô hình lợi nhuận trong hình (a) giống
với mô hình lợi nhuận từ vị thế bán put option. Vị thế trong hình (b) là nghịch đảo
của vị thế trong hình (a). vì vậy, dẫn đến mô hình tương tự với mô hình lợi nhuận
từ vị thế mua put option.
4.2 Chieán löôïc Spread
• Laø chieán löôïc kinh doanh lieân quan ñeán vieäc nắùm giöõ vò
theá treân 2 hoaëc nhieàu option cuøng kieåu ( 2 hoaëc nhieàu call
option hay 2 hoaëc nhieàu put option)
• Goàm coù nhieàu chieán löôïc:
– Bull Spread
– Bear Spread
– Butterfly Spread
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 22/27
– Calendar Spread
– Diagonal Spread
Chieán löôïc Bull Spread
• Ñöôïc taïo ra baèng caùch mua moät call option veà chöùng khoùan
vôùi giaù thöïc hieän nhaát ñònh vaø baùn call option treân cuøng
loaïi chöùng khoùan vôùi giaù thöïc hieän cao hôn.
• Caû hai option coù cuøng ngaøy ñaùo haïn
• Giaù call option luoân luoân giaûm khi giaù thöïc hieän taêng, giaù
trò cuûa option baùn luoân luoân thaáp hôn giaù trò cuûa option
mua
Chieán löôïc Bull Spread söû duïng call option
Giaû söû: K1: giaù thöïc hieän cuûa call option mua
K2: giaù thöïc hieän cuûa call option baùn
ST: giaù chöùng khoùan vaøo ngaøy ñaùo haïn cuûa option
K1 K2
Lợi nhuận
ST
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 23/27
Thu hồi từ chiến lược này:
Giá chứng khoán Thu hồi từ call
option
Thu hồi từ put
option
Tổng thu hồi
ST > = K2
K1< ST < K2
ST =< K1
ST - K1
ST - K1
0
K2 - ST
0
0
K2 - K1
ST - K1
0
Chiến lược Bull Spread sử dụng Put option
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 24/27
Chieán löôïc Bear Spread
• Nhaø ñaàu tö tham döï chieán löôïc bear spread thì hy voïng giaù ck
giaûm
• Ñöôïc taïo ra baèng caùch mua call option vôùi giaù thöïc hieän vaø baùn
call option vôùi giaù thöïc hieän khaùc
• Caû hai option coù cuøng ngaøy ñaùo haïn
• Giaù call option mua cao hôn giaù thöïc hieän cuaû call option baùn
• Taïo neân töø caùc call option coù lieân quan ñeán moät khoûan thu tieàn
maët ban ñaàu vì giaù cuûa call option baùn cao hôn giaù cuûa call option
mua
Chiến lược Butterfly Spread
Chiến lược này liên quan đến các vị thế option với 3 mức giá thực hiện
khác nhau. Nó có thể được tạo nên bằng cách mua một call option với giá thực
hiện K1 tương đối thấp, mua một call option với giá thực hiện K3 tương đối
cao. Nhìn chung. K2 gần với giá hiện hành.
K1 K2
Lợi nhuận
ST
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 25/27
Chiến lược này sẽ có lợi nhuận nếu giá chứng khoán gần với K2 và sẽ phát
sinh lỗ nhệ nếu có dịch chuyển đáng kể giá chứng khoán theo hai hướng.
Chiến lược Calendar Spread
Chiến lược này có cùng mức giá thực hiện nhưng ngày đáo hạn lại khác
nhau.
Chiến lược này có thể được tạo ra bằng cách bán một call option với mức
giá thực hiện nhất định và mua call option có thời hạn dài hơn với cùng giá
thực hiện. Option có thời hạn đáo hạn dài hơn thì sẽ đắt hơn.
Chiến lược Diagonal Spread
Chiến lược này có thời gian đáo hạn và giá thực hiện của các option đều
khác nhau. Có nhiều kiểu chiến lược Diagonal Spread khác nhau. Mô hình lợi
nhuận của chúng nói chung là các biến thể từ mô hình tương ứng của chiến
lược bull hay bear spread.
4.3 Chiến lược phối hợp
Phối hợp là một chiến lược kinh doanh option liên quan đến việc nắm giữ
vị thế cả trên put option và call option với cùng một loại chứng khoán. Có ba loai
chiến lược phối hợp: Straddle, strip, strap và strangle.
Chiến lược Straddle:
Chiến lược phối hợp phổ biến nhất là straddle, nó liên quan đến việc mua
một call option và một put option có cùng giá thực hiện và ngày đáo hạn.
Có 2 loại chiến lược straddle: Straddle purchase (Bottom straddle) và
Straddle write (Top straddle)
K ST
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 26/27
Mô hình lợi nhuận của chiến lược Straddle.
Giá thực hiện ký hiệu là K. Nếu giá chứng khoán gần với giá thực hiện vào
lúc option đáo hạn, chiến lược straddle dẫn đến lỗ. Tuy nhiên, nếu có sự dịch
chuyển rộng của giá cả về cả hai phía, thì sẽ có lợi nhuận đáng kể. Khoản thu hồi
này được tính trong bảng sau:
Giá chứng khoán Thu hồi từ call
option
Thu hồi từ put
option
Tổng thu hồi
ST = < K
ST > K
0
ST - K
K - ST
0
K - ST
ST - K
Chiến lược straddle thích hợp khi nhà đầu tư cho rằng sẽ có dao động giá
chứng khoán rộng nhưng không biết hướng dịch chuyển.
Ví dụ: Một nhà đầu tư cảm thấy giá thị trường hiện hành là 69$ của một
loại chứng khoán nhất định sẽ dao động nhiều trong 3 tháng tới. Nhà đầu tư có thể
tạo một straddle bằng cách mua cả put và call option với giá thực hiện là 70$ và
đáo hạn trong 3 tháng. Giả sử chi phí của call option là 4$ & put option là 3$.
Trường hợp: Nếu giá chứng khoán đứng ở mức 69$,
- Thu hồi từ call option: 0$
Thu hồi từ put option: 1$
Chi phí đầu tư ứng trước: 7$
Nhà đầu tư lỗ: 6$
Trường hợp: Nếu giá chứng khoán đứng ở mức 70$,
- Thu hồi từ call option: 0$
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 27/27
Thu hồi từ put option: 0$
Chi phí đầu tư ứng trước: 7$
Nhà đầu tư lỗ: 7$
Trường hợp: Nếu giá chứng khoán đứng ở mức 90$,
- Thu hồi từ call option: 20$
Thu hồi từ put option: 0$
Chi phí đầu tư ứng trước: 7$
Nhà đầu tư lãi: 7$
Chiến lược Strip và Strap
Chiến lược Strip bao gồm vị thế mua trên một call option và hai put option
với cùng giá thực hiện và ngày đáo hạn.
Trong chiến lược Strip, các nhà đầu tư đánh cuộc rằng sẽ có sự biến động
lớn về giá chứng khoán và nghĩ rằng sẽ giảm nhiều hơn tăng.
Chiến lược Strap bao gồm vị thế mua trên hai call option và một put option
với cùng giá thực hiện và ngày đáo hạn.
Trong chiến lược Strap, các nhà đầu tư đánh cuộc rằng sẽ có sự biến động
lớn về giá chứng khoán và nghĩ rằng sẽ tăng nhiều hơn giảm.
Chiến lược Strangle
Trong chiến lược Strangle, nhà đầu tư mua một call option và một put
option cùng ngày đáo hạn và khác giá thực hiện.
Chiến lược Strangle tương tự như chiến lược Straddle: Nhà đầu tư đánh
cuộc có sự biến động lớn về giá nhưng không chắc là tăng hay giảm. Để cho nhà
đầu tư kiếm được lời, trong chiến lược strangle thì giá chứng khoán phải dịch
chuyển xa hơn so với trong chiến lược Straddle. Tuy nhiên rủi ro do giá có chiều
tiếp tục xuống khi giá chứng khoán dừng ở giá trị trung tâm của chiến lược
strangle lại ít hơn.
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 28/27
K1 K2
ST
Chiến lược Strangle
Giá thực hiện call option là K2 , giá thực hiện put option là K1. Thu hồi từ
chiến lược Stangle:
Giá chứng khoán Thu hồi từ
call option
Thu hồi từ
put option
Tổng thu hồi
ST = < K1
K1 < ST < K2
ST >= K2
0
0
ST - K2
K1 - ST
0
0
K1 - ST
0
ST - K2
Mô hình lợi nhuận của chiến lược strangle phụ thuộc vào mức độ gần nhau
của các mức giá thực hiện. Chúng càng xa nhau thì rủi ro do giá có chiều tiếp tục
xuống càng ít và biên độ dịch chuyển xa nhau của giá chứng khoán càng nhiều,
tức là lợi nhuận càng nhiều.
Lý thuyết Hợp đồng quyền chọn
Trang 29/27
Đôi khi hành vi bán trong chiến lược strangle được gọi là phối hợp phần
trên của trục thẳng đứng (Top vertical combination). Nó có thể thích hợp cho nhà
đầu tư nào cảm thấy sự dao động của giá chứng khoán không chắc xảy ra với biên
độ lớn. Tuy nhiên, giống như hành vi trong chiến lược straddle, nó cũng là một
chiến lược có nhiều rủi ro, có thể gây ra lỗ tiềm tàng không giới hạn cho nhà đầu
tư.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ly_thuyet_option_2_1643.pdf