Các tổ chức tín dụng trên địa bàn chủ động ban hành các chính sách lãi suất
huy động vốn một cách linh hoạt, thực hiện có kết quả một số biện pháp gửi tiền tiết
kiệm Các tổ chức tín dụng nên quan tâm hơn đến khối doanh nghiệp dân doanh,
thực hiện cho vay dựa trên cơ sở tính hiệu quả của dự án, thường xuyên cải tiến quy
trình, thủ tục cho vay theo hướng đơn giản thuận tiện, giảm thiểu phiền hà cho doanh
nghiệp vay vốn.
Trong vấn đề hỗ trợ khoa học công nghệ: Sở Khoa học – Công nghệ nghiên
cứu đề xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng thành
tựu khoa học – kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ, như chính sách hỗ trợ lãi suất
cho đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, hỗ trợ thuê chuyên gia, hỗ trợ đào tạo, bồi
dưỡng Giám đốc, đào tạo công nhân lành nghề; hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng hệ
thống quản lý chất lượng quốc tế, đăng ký bản quyền sở hữu công nghiệp, đăng ký
nhãn mác, xây dựng và củng cổ thương hiệu sản phẩm.
84 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2281 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nâng cao khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2009 – 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7 7.77 53 -36
Tiếp cận đất đai và sự ổn định
trong sử dụng đất
5.95 34 6.49 25 6.68 33 -8
Tính minh bạch 4.63 48 5.99 27 5.54 46 -19
Chi phí thời gian để thực hiện
các quy định của nhà nước
4.73 26 6.12 34 5.92 15 19
Chi phí không chính thức 5.24 59 6.15 46 6.47 43 3
Ưu đãi đối với DNNVV 6.79 23 6.46 42 7.92 12 30
Tính năng động và tiên phong
của chính quyền Tỉnh
3.11 60 4.32 39 4.83 44 -5
Chính sách phát triển khu vực
kinh tế tư nhân
4.61 40 4.62 35 2.22 54 -19
Đào tạo lao động 3.73 56 4.02 56 2.45 62 -6
Thiết chế pháp lý 3.53 38 4.58 27 3.44 55 -28
PCI chưa có trọng số 57.05 53.12 49
PCI cuối cùng đã có trọng số 45.30 54 52.82 38 46.22 52 -14
(Nguồn: chi nhánh VCCI Thanh Hóa)
Thanh Hóa có chỉ số năng lực cạnh tranh xếp ở gần cuối mức 4 (cả nước chia
làm 4 mức).Trong khi đó, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Bình Dương là cao
nhất (76,23 điềm), Đà Nẵng là 75,39 điểm, Hà Nội là 50,34 điểm. Tỉnh Nghệ An cao
hơn Thanh Hóa có số điểm là 54,43. Tuy nhiên, Thanh Hóa là một trong 28 địa
phương được đánh giá là năng lực cạnh tranh được cải thiện hơn. Năm 2008, trong
10 chỉ số thành phần thì có 3 chỉ số cao hơn năm 2007 và có tới 7 chỉ số thấp hơn
năm 2007, trong đó có 4 chỉ số bị sụt giảm rất nhiều, từ 19 đến 36 bậc và chỉ số Đào
tạo lao động đến gần áp chót. Điều đó đã làm cho chỉ số PCI đã có trọng số cuối cùng
của năm 2008 của Thanh Hóa giảm xuống tới 14 bậc so với năm 2007. Bốn chỉ số
thành phần sụt giảm nhiều nhất bao gồm:
Thứ nhất: Chỉ số Chi phí gia nhập thị trường giảm từ 8.3 điểm năm 2007
xuống còn 7.77 điểm năm 2008. Nguyên nhân của sự sụt giảm trên đó là việc “bôi
trơn” nền kinh tế ở các cơ quan là không chính thức. Việc gia nhập thị trường tồn tại
nhiều mặt tiêu cực, ví dụ như việc để một doanh nghiệp được tham gia hoạt động thì
phải có một khoản chi phí nào đó để được tham gia vào thị trường một cách nhanh
nhất.
Thanh Hóa xếp hạng 53/64, so với năm 2007 thì giảm tới 30 bậc (17/64).
Thanh Hóa cũng cải thiện chút ít nhưng các tỉnh khác họ quan tâm nhiều hơn và chỉ
số này được cải thiện nhiều hơn. Ở đây có hai chỉ tiêu bị ảnh hưởng nhiều nhất là : %
doanh nghiệp phải mất hơn 1 tháng để khởi sự kinh doanh là 29,4% (năm 2007 là
20,51%) và % doanh nghiệp phải mất hơn 3 tháng để khởi sự kinh doanh là 11,76%
(năm 2007 là 2,56%), các chỉ tiêu khác không khá hơn năm 2007 là bao. Trong khi
đó, các tỉnh khác đã được cải thiện nhiều hơn rất nhiều, đặc biệt trong lĩnh vực đất
đai như thời gian làm thủ tục thue mặt bằng được rút ngắn, thủ tục hành chính gọn
nhẹ hơn, đặc biệt là áp dụng thủ tục một cửa. Việc này đã làm thuận lợi hơn rất nhiều
cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp khi mới tham gia vào thị trường, nhanh chóng
đi vào hoạt động. Việc này ở Thanh Hóa gần như là chững lại.
Thứ hai: Về chỉ số Tính minh bạch: Xếp hạng 46/64 năm 2008, so với năm
2007 giảm tới 19 bậc (27/64).
Các chỉ tiêu 2007 2008
Tiếp cận tài liệu, văn bản 1,02 0,98
Tính công bằng và ổn định trong việc áp dụng các văn
bản đạt
0,89 1,29
Khả năng tiên liệu của văn bản được 0,89 0,8
Độ mở của trang Web 3,19 2,47
Chỉ số này có 4 nhóm chỉ tiêu, trong đó có 3 nhóm thấp hơn năm 2007, chỉ có
chỉ tiêu Tính công bằng và ổn định trong việc áp dụng các văn bản đạt 1,29 điểm, cao
hơn so với năm 2007. Chỉ tiêu quan trọng nhất đã ảnh hưởng rất lớn đến chỉ số này là
chỉ tiêu Độ mở của trang Web, chỉ được 2,47 điểm, thấp hơn so với năm 2007 rất
nhiều.
Thứ ba: Về chỉ số thành phần về Chính sách phát triển kinh tế tư nhân: Năm
2008 xếp hạng 54/64 tỉnh thành, so với năm 2007 cũng giảm tới 19 bậc (năm 2007 là
35/64).
Chỉ số này có 7 chỉ tiêu, trong đó có tới 5 chỉ tiêu năm 2008 thấp hơn so với
năm 2007 rất nhiều. Cụ thể như sau:
Các chỉ tiêu 2007 2008
Chất lượng dịch vụ công – Cung cấp thông tin thị trường
(% Tốt hoặc Rất tốt).
46,96 17,27
Chất lượng dịch vụ công – Hỗ trợ tìm kiếm đối tác kinh
doanh, đầu tư (% Tốt hoặc Rất tốt).
24,78 4,35
Chất lượng dịch vụ công – Hỗ trợ xuất khẩu và hội chợ
thương mại (% Tốt hoặc Rất tốt).
58,93 13,38
Chất lượng dịch vụ công – Khu vực công nghiệp và Cụm 48,7 20,14
công nghiệp (% Tốt hoặc Rất tốt).
Chất lượng dịch vụ công – Công nghệ và các dịch vụ liên
quan đến công nghệ (% Tốt hoặc Rất tốt).
47,79 12,41
Nhìn chung, các chính sách thực thi trên địa bàn tỉnh tập trung chủ yếu ở khu
vực miền núi, UBND Huyện lại thiếu sự chăm lo việc thực thi chính sách đến đúng
đối tượng dẫn đến sự thiếu cương quyết của UBND Tỉnh.
Thứ tư: Về chỉ số thành phần Thiết chế pháp lý. Năm 2008, tỉnh Thanh Hóa
xếp hạng 55/64, so với năm 2007 thì giảm tới 28 bậc (27/64). Chỉ số này có 5 chỉ tiêu
thí có tới 4 chỉ tiêu thấp hơn nhiều so với năm 2007.
Các chỉ tiêu 2007 2008
Hệ thống pháp lý tạo ra cơ chế để doanh nghiệp có thể khởi
kiện hành vi tham nhũng của cán bộ công quyền (% Luôn
luôn hoặc Thường xuyên).
46,96% 33,1%
Doanh nghiệp tin rằng hệ thống pháp lý sẽ bảo vệ hợp đồng
và các quyền tài sản (% Đồng ý hoặc Hoàn toàn đồng ý).
24,78% 77,24%
Chủ yếu sử dụng thiết chế pháp lý để giải quyết tranh chấp. 58,93% 48,13%
Số vụ tranh chấp xét xử tại Tòa án kinh tế cấp tỉnh (bên
nguyên không phải là DNNN) bình quân trên 100 doanh
nghiệp đang hoạt động.
48,70% 0,26%
Tỷ lệ Số vụ tranh chấp (bên nguyên không phải là DNNN) so
với Tổng số vụ tranh chấp xét xử tại Tòa án kinh tế cấp tỉnh.
47,79% 19,44%
Về chỉ số Đào tạo lao động, năm 2008, Thanh Hóa xếp thứ 62/64 tỉnh thành,
thấp hơn năm 2007 là 6 bậc, xuống đến gần áp chót. Chất lượng dịch vụ giáo dục do
các cơ quan của Tỉnh cung cấp thì có 28,47% được đánh giá là tốt hoặc rất tốt, trong
khi đó tỉnh Vĩnh Long là 56,9% cao nhất cả nước. Chất lượng đào tạo nghề cho
người lao động do các cơ quan Tỉnh cung cấp thì có 12,41% được đánh giá là tốt
hoặc rất tốt, con số này ở tỉnh Vĩnh Long là 46,28%, cao nhất cả nước. Chất lượng
giới thiệu việc làm của tỉnh Thanh Hóa có 7,86% được đánh giá là tốt hoặc rất tốt, ở
tỉnh Đồng Tháp con số này là 41,79% cao nhất cả nước. Chỉ tiêu Số lượng trường
dạy nghề do địa phương quản lý trên 10.000 dân, có 0,38% được đánh giá là tốt, ở
Ninh Bình là 2,05%. Chỉ tiêu Số lượng trung tâm giới thiệu việc làm trên 10.000 dân
thì có 0,11% được đánh giá là tốt, ở Đà Nẵng con số này là 0,62%.
Về chất lượng đào tạo lao động phụ thuộc vào cả hai phía là các doanh nghiệp
và cơ quan đào tạo. Bản thân một số doanh nghiệp không muốn cử người đi học, và
các chương trình đào tạo lại mang tính chất ngắn hạn, thiếu chuyên sâu nên không
đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp.
Thanh Hóa là một tỉnh nghèo nhưng tài nguyên thiên nhiên lại phong phú và
được đánh giá là có tiềm năng lớn. Các DNNVV trên địa bàn tỉnh đã nhận thức được
điều này và đã tiến hành tận dụng triệt để lợi thế sẵn có của địa phương trong hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh ngày càng phát
triển nhanh về số lượng, rộng về quy mô, phong phú về các loại hình và hoạt động
ngày càng có hiệu quả. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh được cải thiện đáng kể, từ
thứ hạng 53/64 tỉnh, thành năm 2006 đã vươn lên xếp thứ 38/63 tỉnh, thành trong
năm 2007. Năm 2007, toàn tỉnh đã thành lập mới được 794 doanh nghiệp, tăng 26%
so với năm 2006; quý I năm 2008 thành lập được 200 doanh nghiệp; nâng tổng số
doanh nghiệp hiện có trên địa bàn tỉnh lên 4.815 doanh nghiệp (cả nước đã có khoảng
hơn 240.000 doanh nghiệp, gần 3 triệu hộ kinh doanh). Đã có nhiều nhà đầu tư trong
và ngoài nước đến Thanh Hóa tìm hiểu cơ hội đầu tư, riêng quý I năm 2008 đã cấp
giấy chứng nhận đầu tư cho 5 dự án với tổng vốn đăng ký 3.100 tỷ đồng.
2.1 Vốn (khả năng tài chính):
WACC là chi phí sử dụng vốn được doanh nghiệp tính toán dựa trên tỷ trọng
các loại vốn mà doanh nghiệp sử dụng. Vốn của doanh nghiệp bao gồm: cổ phần
thường, cổ phần ưu đãi, trái phiếu và các khoản nợ dài hạn khác.
WACC được tính toán như sau:
WACC = (E/V)*Re + (D/V)*Rd *(1-Tc)
Trong đó:
Re = chi phí sử dụng vốn cổ phần
Rd = chi phí sử dụng nợ
E = giá trị thị trường của tổng vốn cổ phần
D = giá trị thị trường của tổng nợ của doanh nghiệp
V = Tổng vốn dài hạn của doanh nghiệp
Tc = thuế thu nhập doanh nghiệp.
Nói rộng hơn, tài sản của doanh nghiệp được tài trợ dù bằng vốn cổ phần hay bằng
nợ thì WACC là chi phí sử dụng vốn bình quân của các khoản tài trợ của doanh
nghiệp. Bằng việc tính toán chỉ số WACC, chúng ta biết được doanh nghiệp phải tốn
bao nhiều chi phí cho mỗi đồng tiền tài trợ cho doanh nghiệp.
WACC của doanh nghiệp còn được gọi là tỷ suất sinh lợi đòi hỏi tối thiểu mà doanh
nghiệp phải đạt được khi quyết định thực hiện một dự án mở rộng nào đó, hoặc quyết
định mua lại doanh nghiệp khác. WACC được sử dụng như một tỷ lệ chiết khấu thích
hợp đối với các dòng tiền từ các dự án có mức rủi ro tương tự mức độ rủi ro của
doanh nghiệp. Còn nếu dự án có mức độ rủi ro cao hơn thì tỷ lệ chiết chấu sẽ đòi hỏi
1 tỷ lệ cao hơn tương ứng với mức rủi ro của dự án đó và ngược lại.
Bảng 2.12 : Vốn sản xuất bình quân năm của các doanh nghiệp phân theo
ngành kinh tế
(Đơn vị: Tỷ đồng)
2005 2006 2007
Nông, lâm nghiệp 1.290,3 1.555 1.531
Thủy sản 21,5 22 16,8
Công nghiệp 10.122,5 11.457,2 6.544,5
Xây dựng 3.525,1 4.204,1 5.241,4
Thương nghiệp 1.799,4 2.409,2 3.212,7
Khách sạn, nhà hàng 160,6 225,1 217
Vận tải, kho bãi, thông tin liên lac 599,7 800,5 853,9
Văn hóa, y tế, giao dục 3,3 23,4 26,1
Dịch vụ khác 843,2 1.075,1 6.150,4
Total 18.365,6 21.789,6 23.794,6
(Nguồn: Chi cục thuế tỉnh Thanh Hóa)
Ngành công nghiệp và xây dựng luôn chiếm tỷ trọng lớn, vốn bình quân năm
tỷ lệ thuận. Mặc dù có sự giảm về vốn từ 11.475,2 tỷ (2006) xuống còn 6.241,4 tỷ
đồng (2007) nhưng ngành xây dựng lại có chiều hướng gia tăng vốn sản xuất tương
đối đồng đều qua các năm. Nhìn chung vốn sản xuất theo ngành kinh tế là tương đối
ổn định theo các ngành nghề.
Doanh số cho vay của các tổ chức tín dụng trên địa bàn năm 2008 ước đạt
22.500 tỷ đồng, tăng 44% so với năm 2007; tổng dư nợ ước đạt 11.850 tỷ đồng, tăng
29,6% so với năm 2007, trong đó dư nợ cho vay trung và dài hạn chiếm 48%; dư nợ
ngắn hạn chiếm 52%, dư nợ tăng mạnh ở các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Chất lượng tín dụng: Doanh nghiệp có quan hệ tín dụng năm 2008 là tốt, vay
của các doanh nghiệp trả nợ đúng hạn, tỷ lệ nợ xấu chiếm tỷ lệ thấp 1,38%/dư nợ cho
vay của các doanh nghiệp. Hiện nay, toàn tỉnh có 1524 doanh nghiệp có quan hệ với
ngân hàng, trong đó có 31 doanh nghiệp nhà nước hoặc có vốn của nhà nước trên
51% vốn điều lệ và 1.378 doanh nghiệp dân doanh.
Tuy năm 2008 là năm tất cả các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của sự suy giảm
kinh tế thế giới, nhưng Chính phủ đã có những giải pháp kiềm chế lạm phát, từ đó
nhập siêu giảm dần. Cơ chế điều hành chính sách lãi suất ngân hàng của ngân hàng
linh hoạt, từ mức lãi suất cho vay từ 21% đến nay giảm còn 12,7%/năm việc này
nhằm chia sẻ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.
2.2 Nguồn nhân lực (trình độ lao động)
Bảng 2.13: Số lao động trong các doanh nghiệp phân theo ngành kinh tế
2005 2006 2007
Nông, lâm nghiệp 8.905 7.830 7.000
Thủy sản 170 158 88
Công nghiệp 34.518 38.865 39.865
Xây dựng 27.990 31.813 33.882
Thương nghiệp 11.082 11.615 12.728
Khách sạn, nhà hàng 835 1.134 136
Vận tải, kho bãi, thông tin liên lac 3.957 5.721 5.250
Văn hóa, y tế, giáo dục 64 135 243
Dịch vụ khác 3.870 3.393 3.016
Total 91.391 100.664 102.208
(Nguồn: Chi cục Thuế tỉnh Thanh Hóa)
Các DNNVV ở Thanh Hóa sử dụng nhiều lao động đặc biệt là lao động phổ
thông. Lao động có tay nghề được đào tạo ít. Các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là
lao động phổ thông, doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp sử dụng lao động được
đào tạo chiếm tỷ trọng cao nhất.
Lao động trong ngành Nông – lâm nghiệp giảm, trong lĩnh vực công nghiệp
lao động có xu hướng tăng. Chứng tỏ các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp –
xây dựng phát triển, mở rộng quy mô sản xuất. Bên cạnh đó, doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ trọng 20,41%.
Trong năm 2007, các doanh nghiệp trong tỉnh đã thu hút, tạo việc làm mới cho
48.000 lượt lao động, tăng 17,6% so với năm 2006, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị xuống còn 4,53% (năm 2006 là 4,79%) và giảm tỷ lệ thiếu việc làm ở khu
vực nông thôn xuống 7,52% (năm 2006 là 9,03%).
2.3 Máy móc, trang thiết bị công nghệ
Bảng 2.14 : Giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp đang hoạt động phân
theo ngành kinh tế
(Đơn vị: Tỷ đồng.)
2000 2001 2005 2006 2007
Nông, lâm nghiệp 428 445 1.001,3 1.324,6 1.313,4
Thủy sản 60 66 16,4 16,8 12,3
Công nghiệp 6.523 6.200 7.185 7.884,9 7.244,4
Xây dựng 305 343 819,9 931 1.193,6
Thương nghiệp 82 116 591,8 670,4 1.047,8
Khách sạn, nhà hàng 24 30 132,6 189,4 181,1
Vận tải, kho bãi, thông tin liên lac 51 239 434,2 613,1 628,1
Văn hóa, y tế, giáo dục 1,0 1,6 6,3 12,5
Dịch vụ khác 12 22 187,4 203 332
Total 7.485 7.462 10.370,2 11.839,5 11.965,2
(Nguồn: Chi cục thuế tỉnh Thanh Hóa)
Gía trị tài sản cố định của doanh nghiệp thể hiện rõ các doanh nghiệp đầu tư ở
mức độ như thế nào về công nghệ. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp – xây dựng là những doanh nghiệp có đầu tư vào tài sản cố định cao, đầu tư
vào công nghệ nhiều hơn các ngành nghề khác.
2.4 Sẩn phẩm: giá thành, chất lượng, mẫu mã.
Đến nay, nhiều doanh nghiệp trong tỉnh đã được cấp chứng chỉ ISO 9000,
hàng Việt Nam chất lượng cao. Các doanh nghiệp được tặng Giải thưởng Chất lượng
Việt Nam đến nay đều có mức tăng trưởng khá, hoạt động sản xuất kinh doanh phát
triển, sản phẩm hàng hoá luôn ổn định và đạt mức chất lượng tốt, chiếm lĩnh được thị
trường và được người tiêu dùng tín nhiệm.
Hoạt động Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng 5 năm qua đã góp phần giúp các
doanh nghiệp cải tiến quản lý, áp dụng công nghệ quản lý mới để nâng cao năng suất,
chất lượng và đạt hiệu quả trong sản xuất kinh doanh - dịch vụ góp phần hoàn thành
thắng lợi nhiệm vụ kế hoach kinh tế- xã hội 5 năm 2006-2010 của tỉnh, đồng thời góp
phần ổn định thị trường, ngăn chặn có hiệu quả việc sản xuất kinh doanh hàng kém
chất lượng, hàng giả, ngăn chặn các hành vi gian dối về đo lường, bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người tiêu dùng và bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất-kinh doanh
chân chính.
Mẫu mã hàng hóa trong tỉnh ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng được nhu
cầu của thị trường. Các doanh nghiệp trong tỉnh đã nắm bắt được nhu cầu của người
tiêu dùng, nên tiến hành cung cấp hàng hóa với chất lượng cao, mẫu mã đẹp và giá cả
phải chăng, thỏa dụng người tiêu dùng.
2.5 Khả năng tiếp cận thị trường, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác.
Các doanh nghiệp, doanh nhân đã nhanh chóng tiếp cận với thị trường trong và
ngoài nước, tích cực áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất
kinh doanh, cải tiến công tác quản lý, từng bước thích nghi với xu thế hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực. Nhiều doanh nghiệp đã đứng vững, có bước phát triển đáng kể
trên thương trường quốc tế.
Trong tỉnh, các DNNVV tiến hành liên kết với nhau thành các hiệp hội như
hiệp hội cói, hiệp hội ga… nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các doanh
nghiệp lớn và các doanh nghiệp nước ngoài. Bảo đảm được thị phần hàng hóa tiêu
thụ trong tỉnh và ngoài tỉnh. Tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, năm 2007, lần đầu
tiên tỉnh hoàn thành vược mức kế hoạch xuất khẩu (đạt 170,5 triệu USD, vượt 0,3%
KH và tăng 27,6% so với năm 2006). Hiện nay, hàng hoá trong tỉnh được xuất khẩu
đi 32 nước trên thế giới, với các mặt hàng chủ lực là: đá ốp lát, hàng may mặc, cao
su, thuỷ sản đông lạnh, mây tre đan...
3. Đánh giá năng lực cạnh tranh của DNNVV trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
3.1 Hạn chế
Chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhìn
chung còn thấp, nhiều sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm có sự tăng trưởng cao (hàng
da giày, dệt may, đồ uống, sản phẩm thép...) phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu
bán thành phẩm nhập khẩu từ nước ngoài; công nghệ ở mức trung bình và lạc hậu;
năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp và tay nghề của người
lao động còn yếu; rất nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm xây dựng thương hiệu sản
phẩm, chưa khẳng định được uy tín chất lượng và năng lực cạnh tranh trên thị trường
khu vực và quốc tế, làm cho sức cạnh tranh thấp, chất lượng sản phẩm không có ưu
thế rõ rệt trên thị trường. Thu nhập của người lao động còn thấp, thực hiện chế độ
bảo hiểm xã hội trong nhiều doanh nghiệp chưa bảo đảm.
- Khả năng tiếp cận nguồn vốn: Các DNNVV nguồn vốn chủ yếu là ít. Nhưng
khả năng tiếp cận nguồn vốn doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.
Trong năm 2008, nền kinh tế xảy ra nhiều biến động, các ngân hàng có vốn
nhưng lại ngần ngại cho vay. Theo điều tra PCI 2008 của chi nhánh VCCI Thanh
Hóa thì có 70% doanh nghiệp điều tra của Thanh Hóa hiện đang có các khoản vay từ
ngân hàng. Thời hạn vay từ 12 tháng trở xuống có 74,07% trong đó có 96,33% doanh
nghiệp sử dụng tài sản thế chấp để thực hiện khoản vay. Và chủ yếu các khoản vay
này từ ngân hàng thương mại nhà nước (83,93%).
Bảng 2.15: Đánh giá về việc vay vốn của các DNNVV Thanh Hóa.
(Đơn vị: %)
Hoàn
toàn
đồng ý
Đồng ý
Không
đồng ý
Hoàn
toàn
không
đồng ý
DN không thể vay vốn nếu không có tài
sản thế chấp
54,36 36,34 6,71 2,68
Lãi suất và các điều kiện cho vay đối với
DN tư nhân luôn khó khăn hơn so với
DN nhà nước
28,6 35,25 28,78 7,91
Thủ tục vay vốn phiền hà 19,85 32,35 40,44 7,35
Việc “bồi dưỡng” cho cán bộ ngân hàng
để vay được vốn là phổ biến
13,43 41,49 33,58 11,19
(Nguồn: Điều tra 7820 DN cả nước, VCCI & VNCI, tháng 6 năm 2008)
- Nhân lực: Số lượng lao động ở Thanh Hóa được đánh giá là dư thừa nhưng
nguồn lao động có tay nghề, kiến thức cũng như trình độ văn hóa chưa cao. Cơ sở
đào tạo nguồn lao động còn ít và yếu kém. Tỷ lệ lao động có tay nghề cao còn hạn
chế.
Nguồn nhân lực cho các DNNVV đang ở tình trạng thiếu và yếu. Thiếu lao
động chuyên nghiệp có tay nghề, những lao động sử dụng trong các doanh nghiệp tay
nghề non kém, chất lượng thợ có nhiều hạn chế. Không có đủ đội ngũ lãnh đạo có
chất xám làm việc cho doanh nghiệp. Các lao động trong DNNVV đa số phải được
đào tạo lại thì mới có thể sử dụng được.
- Khả năng ứng dụng công nghệ: Ít DNNVV trên địa bàn tỉnh có khả năng ứng
dụng công nghệ vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2 Nguyên nhân.
3.2.1 Nguyên nhân khách quan.
- Việt Nam là gia nhập WTO là cơ hội nhưng cũng là thách thức đối với các
DNNVV. Các doanh nghiệp phải tuân thủ các điều lệ của WTO, thị trường mở cửa,
tự do cạnh tranh. Các doanh nghiệp không còn được sự bảo hộ của Nhà nước như
trước đây, chống bán phá giá. Các doanh nghiệp phải đương đầu với rất nhiều đối thủ
trong và ngoài nước, thị phần bị tiến hành chia nhỏ. Để tồn tại được đòi hỏi các
doanh nghiệp phải có sức cạnh tranh đủ lớn trên thị trường.
- Năm 2008 là năm nền kinh tế thế giới đi vào suy thoái. Lạm phát trong năm
2008 khiến cho hầu hết các DNNVV gặp nhiều khó khăn. Lạm phát cao khiến cho
60% doanh nghiệp đình trệ hoạt động sản xuất kinh doanh, 20% doanh nghiệp đứng
trước nguy cơ phá sản, chỉ có 20% doanh nghiệp có khả năng trụ lại được.
Trước sự lan rộng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và nhiều nước khác, các
DNNVV lại đương đầu với những khó khăn nghiêm trọng hơn đó là thị trường bị thu
hẹp trong khi giá bán sụt giảm mạnh
- Môi trường vĩ mô trong nước. Các cơ quan chính quyền vẫn chưa triển khai
được các chính sách phát triển DNNVV như mong muốn. Hành lang pháp lý, các thủ
tục hành chính chưa minh bạch trong việc triển khai. Các chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp áp dụng không được linh hoạt, đôi khi chính quyền địa phương, tỉnh lại áp
dụng không đúng mục đích, không đúng đối tượng.
3.2.2 Nguyên nhân chủ quan.
- Trình độ quản lý của DNNVV.
Vẫn còn rất nhiều các doanh nghiệp vẫn còn làm ăn theo lối “gia đình trị ” và
nguyên tắc thuận tiện là hiện tượng thường xảy ra. Điều này mang lại hiệu quả không
cao cho hoạt động các doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp sử dụng quá nhiều
nhân viên, chi phí của nhân viên ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và đó được coi là
khoản chi cố định. Các DNNVV trong tỉnh thường chỉ có một số ít lập quỹ dự phòng
tài chính, điều này đã gây khó khăn khi các doanh nghiệp đối mặt với các rủi ro. Đôi
khi, có những doanh nghiệp quá chú ý tới tiện nghi, làm tăng chi phí cho doanh
nghiệp, xem nhẹ thua lỗ ban đầu, tin tưởng quá mức ở bạn hàng…
- Khả năng tiếp cận nguồn vốn vay hạn chế.
DNNVV khó chống đỡ với các công ty khác bởi hạn chế về tiềm lực tài chính.
Một thực trạng chung của các DNNVV hiện nay là việc tiếp cận nguồn vốn còn
nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do các DNNVV không có chiến lược kinh doanh,
không có các bản báo cáo tài chính, nhất là đối với các DN phát triển lên từ hộ kinh
doanh cá thế, tài sản thế chấp cũng là vấn đề cần nói tới. Do đó, các DNNVV này
khó có khả năng tiếp cận được với vốn vay của các ngân hàng đặc biệt là việc vay
vốn cho đầu tư dài hạn lại càng khó khăn hơn nữa.
Tuy nhiên, có những doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn có tính
khuyến khích, hỗ trợ. Nhiều doanh nghiệp tính toán phiêu lưu, sẽ chiết khấu, tiết
kiệm được nhiều thuế, nếu tăng cường vay vốn để đầu tư mua sắm, cho thuê tài
chính, thuê máy móc, xe cộ. Nhưng điều đó chỉ đúng khi doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh có lãi và lãi nhiều. Khi gặp khó khăn các doanh nghiệp này trở thành con nợ
và dễ phá sản.
- Khả năng nhạy bén với thị trường chưa cao. Năng lực thương trường của các
DNNVV chưa cao. Ít có cơ hội tiếp cận đối với các nguồn lực của thị trường. Cũng
do sự yếu kém của các bộ quản lý dẫn đến sự lựa chọn nhân sự có phần không hiệu
quả làm cho nguồn nhân lực các doanh nghiệp có trình độ hạn chế, kém nhạy bén với
những tình hình biến động của thị trường diễn ra liên tục.
- Khả năng nhạy bén với thị trường quyết định đến việc doanh nghiệp sẽ biết
được đối tượng khách hàng hướng tới là ai, từ đó sẽ quyết định cung cấp sản phẩm,
dịch vụ nào, giá thành là bao nhiêu. Cũng vì mặt hạn chế này mà hiện tại các doanh
nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa vẫn chưa cung cấp được những mặt hàng chất lượng, với
giá cả phải chăng tới người tiêu dùng.
- Đội ngũ quản lý chưa chuyên nghiệp, chưa đưa ra được những chiến lược
kinh doanh trong dài hạn. Văn hóa doanh nghiệp còn nhiều bất cập.
- Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin chưa nhiều. Điều này gây khó
khăn trong việc tiếp cận các thông tin của thị trường, các bạn hàng, đối tác làm ăn.
Khó nắm bắt được các cơ hội hay những thách thức đối với doanh nghiệp.
- Khả năng liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp cũng có nhiều hạn chế
trong việc triên khai. Việc liên doanh liên kết các doanh nghiệp chỉ tồn tại ở một số ít
các ngành, lĩnh vực cụ thể như: ga, hàng thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, cói…đa số
các doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác hoạt động độc lập dẫn đến tính cạnh tranh
không cao.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA CÁC DNNVV TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA GIAI
ĐOẠN 2009 – 2015.
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DNNVV TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH
HÓA GIAI ĐOẠN 2009 – 2015.
1. Quan điểm phát triển doanh nghiệp.
Phát triển doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế là mục tiêu nhất quán, lâu
dài của Đảng và Nhà nước ta, là động lực phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh.
Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp trong tỉnh, ngoài
tỉnh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều bình đẳng trước pháp luật và được
hưởng chính sách ưu đãi của tỉnh. Mở rộng liên doanh, liên kết giữa các loại hình
doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với hộ sản xuất và người tiêu thụ đạt hiệu quả cao
và bền vững.
Tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của doanh nghiệp mới, đồng thời khuyến
khích các doanh nghiệp hiện có không ngừng đổi mới và hoàn thiện, đạt trình độ phát
triển ngày càng cao, tạo lập uy tín và thương hiệu trên thương trường ngày càng bền
vững.
Phát triển doanh nghiệp là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành. Tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền, vai trò tuyên truyền vận
động các tổ chức xã hội, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để huy động nguồn
lực của mỗi doanh nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội cho phát triển doanh nghiệp.
2. Mục tiêu phát triển doanh nghiệp.
Mục tiêu tổng quát: Tạo môi trường thuận lợi, phát triển mạnh mẽ doanh
nghiệp trên địa bàn Tỉnh tăng cả về số lượng và chất lượng; có quy mô. Cơ cấu hợp
lý, trình độ công nghệ thích hợp với tiềm năng và đặc điểm của từng vùng, miền
trong tỉnh, tạo dựng mối quan hệ hợp tác, liên kết chặt chẽ trong cộng đồng doanh
nghiệp, với hợp tác xã và các hộ sản xuất để phát huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao
năng lực cạnh tranh, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tọa ra nhiều sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ, mang lại ngày càng nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp, việc
làm, thu nhập cho người lao động và tăng ngân sách.
Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2015 có 14.048 doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới và hoạt động.. Trong đó:
Doanh nghiệp hoạt động theo Luật DNNN là 56.
Doanh nghiệp hoạt động theo Luạt doanh nghiệp là 11.936.
Doanh nghiệp hoạt động theo Luật hợp tác xã là 2.032.
Doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài 24.
Như vậy bình quân mỗi năm (giai đoạn 2009 - 2015) số doanh nghiệp được
thành lập mới là 1.100 doanh nghiệp. Năm 2008 tỷ lệ số doanh nghiệp trên 1000 dân
đạt mức bình quân chung của cả nước hiện nay (2 doanh nghiệp), tỷ lệ này sẽ được
nâng lên 2,34 vào năm 2015.
Cơ cấu các loại hình doanh nghiệp năm 2015:
Doanh nghiệp nhà nước: 0,4%
Công ty cổ phần: 18,8%
Công ty TNHH: 49,6%
Doanh nghiệp tư nhân: 16,5%
Hợp tác xã: 14,5%
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: 0,2%
Cơ cấu theo vùng:
Địa bàn 11 huyện miền núi: 10%
Thành phố Thanh Hóa: 45%
Các huyện, thị xã còn lại: 45%
Múc vốn điều lệ bình quân đạt 2 tỷ đồng/doanh nghiệp dân doanh.
II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DNNVV TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA GIAI ĐOẠN 2009 – 2015.
1. Nhóm giải pháp dành cho doanh nghiệp.
1.1 Mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn.
Các doanh nghiệp nên tích cực huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư như huy
động vốn góp từ người thân, các đối tác làm ăn, phát hành cổ phiếu. Ngoài ra các
doanh nghiệp có thể đi vay vốn từ các tổ chức tín dụng. Cần nỗ lực để nâng cao năng
lực tự bổ sung vốn dưới hình thức tích lũy kêu gọi thành viên tăng vốn góp, huy động
nguồn vốn từ người thân và các nguồn vốn nhàn rỗi khác trong nhân dân. Đẩy nhanh
tiến trình cổ phần hóa, những công ty cổ phần lớn sớm tham gia vào thị trường chứng
khoán.
Để có thể huy động được vốn doanh nghiệp cần phải có những chiến lược
kinh doanh cụ thể, chứng minh sự minh bạch về tài chính. Trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, các doanh nghiệp phải chứng minh được dự án hoạt động khả thi, lợi ích
về mặt kinh tế.
1.2 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các DNNVV.
Để có đội ngũ người lao động có tay nghề cao, doanh nghiệp phải có chiến
lược đào tạo và giữ người tài. Trong xã hội hiện đại đào tạo nguồn nhân lực, nhà
nước và người lao động có vai trò quyết định. Để nâng cao năng suất lao động và tạo
điều kiện cho người lao động sáng tạo mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược đào tạo
nghiệp vụ chuyên sâu, phù hợp với yêu cầu của mình. Do đó, chương trình đào tạo,
kế hoạch đào tạo hiệu quả chính là một trong những phương thức mà doanh nghiệp
sử dụng để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, doanh nghiệp cần chú trọng xây
dựng chính sách đãi ngộ như chính sách lương, thưởng hợp lý để giữ ổn định lực
lượng lao động của mình, nhất là những lao động giỏi.
Để có được đội ngũ lao động đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu kinh doanh
trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường mở cửa, cần tập trung
thực hiện các giải pháp sau:
Tiến hành sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và lao động hiện có ở
các doanh nghiệp. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc
phù hợp với ngành nghề, trình độ và năng lực sở trường. Bổ sung những cán bộ, lao
động đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển, đồng thời thay thế những cán bộ, nhân
viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn, vi phạm pháp luật và đạo đức. Đây là
giải pháp quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công tác của đội
ngũ cán bộ hiện có mà chưa cần đến việc đào tạo, bồi dưỡng.
Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh
nghiệp bằng các chính sách như: đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăn việc làm ổn
định cho người lao động kể cả khi có biến động, xây dựng chế độ tiền lương và
thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự
phát triển của doanh nghiệp. Đa dạng hóa các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích
ứng của người lao động khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp.
Biện pháp này sẽ giúp các doanh nghiệp có thể dễ dàng điều chỉnh lao động khi có
những biến động, giảm được chi phí để tuyển dụng hay thuyên chuyển lao động.
Tiêu chuẩn hóa cán bộ, lao động trong doanh nghiệp. Ở mỗi ngành nghề, vị trí
công tác, cung bậc công việc đòi hỏi kiến thức, kỹ năng về chuyên môn khác nhau.
Do đó tiêu chuẩn hóa cán bộ phải cụ thể hóa đối với từng ngành nghề, từng loại công
việc và phải phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Khi xây
dựng hệ thống tiêu chuẩn, cần phải tham khảo điều kiện khu vực và đặc thù của Việt
Nam, tôn trọng tính văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp.
Áp dụng cơ chế bổ sung và đào thải nhân lực để duy trì đội ngũ cán bộ quản lý
kinh doanh, nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị
trường.
Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lao động để có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo vi tính, am hiểu thị trường thế giới và luật
lệ buôn bán quốc tế.
1.3 Nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.
Nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong từng doanh nghiệp, không chỉ từ
đội ngũ lãnh đạo, quản lý mà ngay cả đội ngũ người lao động về ý nghĩa sống còn
của việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản
phẩm.
Khơi dậy khả năng sáng tạo, phát huy trí tuệ của từng cá nhân và tập thể nhằm
tìm cách tối thiểu hóa chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí nguyên liệu, chi phí quản lý
doanh nghiệp... Ngoài ra, từng thành viên trong doanh nghiệp, đặc biệt là đội ngũ cán
bộ quản lý và đội ngũ lao động trực tiếp làm ra sản phẩm cần tự trau dồi, nâng cao
trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề.
Tiến hành ứng dụng công nghệ vào quá trình sản xuất kinh doanh, điều này
giúp tăng năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, trong điều kiện
nhiều doanh nghiệp còn thiếu vốn, tiềm lực tài chính chưa đủ mạnh để đầu tư đồng
bộ công nghệ và thiết bị thì các doanh nghiệp này cần chủ động trong việc liên kết và
hợp tác kinh doanh với nhau. Sự hợp tác liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc các
ngành khác nhau sẽ giúp các doanh nghiệp giảm thiểu những khó khăn về tài chính,
công nghệ, vốn, thị trường... và đẩy mạnh nội lực phát triển cho doanh nghiệp.
1.4 Hoàn thiện hệ thống thông tin, chủ động áp dụng thương mại điện tử trong
việc điều hành kinh doanh.
Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xây dựng được
hệ thống thông tin như: thông tin về môi trường kinh doanh, thông tin về hệ thống
phân phối, giá cả mặt hàng hiện hành, thông tin về tình hình và viễn cảnh của thị
trường, thông tin về hệ thống giao thông vận tải....
Để có được hệ thống thông tin trên, đòi hỏi hệ thống thông tin của doanh
nghiệp ngày càng được hoàn thiện và có chất lượng cao. Các biện pháp sau đây có
thể phần nào đóng góp cho việc xây dựng hệ thống thông tin này:
Xây dựng các chi nhánh nhằm thu được thông tin chính xác, kịp thời về giá cả,
chất lượng, điều kiện giao hàng…
Liên kết vời các bạn hàng truyền thống để họ có thể giúp đỡ về vấn đề thông
tin. Xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên trách nhằm nghiên cứu đầy đủ, cung cấp
thông tin về thị trường có thể dự báo về các biến động của thị trường.
Áp dụng biện pháp tin học hóa vào hoạt động kinh doanh thông qua việc hòa
mạng với hệ thống thông tin đã có trên thế giới. Các doanh nghiệp cần phải xây dựng
một mạng tin học có thể nối mạng với Intemet nhằm thu thập thông tin ở thị trường
thế giới.
Dưới tác động của khoa học và công nghệ, mà đặc biệt là công nghệ thông tin
đã làm xuất hiện hình thức thương mại tiên tiến - thương mại điện tử. Tuy thị trường
hoạt động của các DNNVV tỉnh còn hạn chế, nhưng cũng phải chủ động áp dụng và
phát triển thương mại điện tử, nếu không sẽ bị cô lập với thế giới bên ngoài. Việc
triển khai áp dụng thương mại điện tử có thể được tiến hành từng bước, từ thấp tới
cao. Giai đoạn đầu tư có thể triển khai chủ yếu ở khâu xúc tiến hoạt động kinh doanh,
dưới hình thức mở trang web quảng cáo trên mạng, tìm kiếm thông tin về thị trường
và bán hàng trên mạng, tiến hành các giao dịch trước khi ký kết hợp đồng và sử dụng
cho các mục đích quản trị bên trong doanh nghiệp. Khi điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ
sở pháp lý cho phép thì có thể tiến tới ký kết hợp đồng và thực hiện thanh toán trên
mạng.
Để phát triển thương mại điện tử, các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp sản
xuất và thương mại cần chủ động xây dựng và triển khai áp dụng các hệ thống quản
lý chất lượng quốc tế như ISO: 9000, HACCP và ISO: 14.000... vì kinh doanh trên
mạng đòi hỏi rất cao về tiêu chuẩn hóa sản phẩm và chất lượng.
1.5 Đổi mới cơ cấu quản lý, hoàn thiện kỹ năng quản lý của đội ngũ lãnh đạo
DNNVV.
Để đổi mới, hoàn thiện hay lựa chọn mô hình tổ chức quản lý kinh doanh thích
hợp cần phải thực hiện các biện pháp sau:
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống tổ chức kinh
doanh của doanh nghiệp, cần có sự phân biệt tương đối về tính chất, công việc của
các bộ phận, tránh sự chồng chéo, tạo điều kiện cho cán bộ quản lý tập trung đầu tư
chuyên sâu và đảm bảo sự hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp một cách
nhịp nhàng.
Điều chỉnh hợp lý tầm, hạn quản trị phù hợp với yêu cầu của đội ngũ cán bộ
quản lý trong doanh nghiệp với xây dựng mạng lưới thông tin, xác định các quyết
định đưa ra một cách chính xác, hiệu quả.
Đảm bảo thông tin trong nội bộ doanh nghiệp, đây là điều kiện quyết định sự
tồn tại của bất cứ một tổ chức nào. Đảm bảo thông tin tất làm cho mọi thành viên
hiểu rõ được mục đích của tổ chức, có thể đạt được sự thống nhất giữa mục đích cá
nhân và mục đích của tập thể. Tổ chức thông tin trong nội bộ doanh nghiệp phải tuân
thủ các nguyên tắc sau đây:
- Các kênh thông tin phải được hiểu biết cụ thể. Thông tin tương ứng phải
được phổ biến rộng rãi cho tất cả mọi người, mọi cấp trong tổ chức được biết rõ ràng.
- Các tuyến thông tin cần trực tiếp và ngắn gọn. Tuyến thông tin càng ngắn thì
khả năng truyền đạt thông tin càng nhanh, việc giải quyết các tình huống bất ngờ sẽ
được thực hiện kịp thời, không bị chậm trễ.
- Cần duy trì hoạt động của toàn bộ hệ thống thông tin một cách thường xuyên
không bị ngắt quãng.
- Mọi thông tin phải xác thực. Điều này có nghĩa là người truyền đạt thông tin
phải thực sự là người nắm chức vụ và quyền hạn liên quan đến thông tin mà anh ta
truyền đạt.
Để đảm bảo cho việc tổ chức truyền đạt thông tin đáp ứng những yêu cầu của
công tác quản lý, các doanh nghiệp cần trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, sử dụng các
phương tiện truyền tin tiên tiến như sử dụng mạng máy vi tính. Cần giảm bớt việc sử
dụng các phương tiện như văn bản, thư tín, các cuộc họp để truyền tin.
Duy trì và phát triển mối quan hệ ngang giữa các bộ phận trong tổ chức. Lãnh
đạo doanh nghiệp cần quan tâm đến vấn đề duy trì và phát triển mối quan hệ ngang
giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, để hoạt động của các bộ phận này phối hợp ăn
ý với nhau nhằm thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp.
1.6 Xây dựng và phát triển thương hiệu.
Một là, doanh nghiệp phải phát triển sáng tạo nhãn hiệu. Các doanh nghiệp cần
giao việc hoạch định chiến lược và sáng tạo nhãn hiệu cho các chuyên gia nhằm mục
đích là biến mình thành người thẩm định, sử dụng các dịch vụ tư vấn như: tư vấn
sáng tạo phát triển nhãn hiệu, tư vấn về pháp lý, tư vấn kinh doanh và hoạch định
chiến lược, tư vấn về quảng cáo và truyền thông, giám sát các nhà cung cấp dịch vụ
tư vấn. Việc sử dụng dịch vụ này sẽ đưa lại những điều tốt hơn cho doanh nghiệp.
Hai là, xây dựng thương hiệu phải khơi dậy cảm xúc của khách hàng. Để xây
dựng một thương hiệu được khách hàng tin cậy thì doanh nghiệp cần phải hiểu rõ
người hách hàng của mình hơn ai hết,và luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm
trọng tâm cho mọi hoạt động.
Ba là, doanh nghiệp phải coi thương hiệu là công cụ bảo vệ lợi ích của mình.
Để làm được điều này, trước tiên phải mở rộng thương hiệu bằng cách sử dụng
thương hiệu đã thành danh của sản phẩm này cho một loại sản phẩm khác có chung
kỹ năng, hoặc tạo ra một sản phẩm mới bổ sung cho sản phẩm đã có để làm tăng sự
hài lòng và mức độ cảm nhận của khách hàng mục tiêu với sản phẩm đó.
Bốn là, nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Các doanh nghiệp
cũng cần nhận thức rằng mình là chủ thể trong các quan hệ về sở hữu trí tuệ. Các
nhãn hiệu, kiểu đáng hàng hóa xuất khẩu là tài sản của doanh nghiệp. Do vậy, việc
đăng ký sở hữu công nghiệp, đăng ký độc quyền nhãn hiệu hàng hóa, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của thương hiệu tại các thị trường mà doanh nghiệp có
chiến lược đầu tư kinh doanh là rất cần thiết.
1.7 Xây dựng các chiến lược kinh doanh.
Sự yếu kém về tầm nhìn chiến lược trong phát triển kinh doanh là một trong
những nguyên nhân của sự thất bại trong phát triển dài hạn. Có DN hoạt động rất
thành công ở quy mô nhỏ nhưng thất bại ngay khi bước vào giai đoạn mở rộng quy
mô. Các DNVVN đều phải xây dựng khả năng phát triển một cách bền vững, nếu
không sẽ khó trụ vững trong cuộc cạnh tranh. Những trường hợp DN phát triển rầm
rộ trong một vài năm, sau đó suy yếu nhanh, thậm chí tan vỡ là các minh chứng.
Để bồi dưỡng, phát triển năng lực quản lý chiến lược và tư duy chiến lược cho
đội ngũ giám đốc và cán bộ kinh doanh trong các doanh nghiệp, cần chú trọng đặc
biệt những kỹ năng: Phân tích kinh doanh, dự đoán và định hướng chiến lược, lý
thuyết và quản trị chiến lược, quản trị rủi ro và tính nhạy cảm trong quản lý.
Về mặt chiến lược cạnh tranh, các doanh nghiệp còn rất yếu về liên kết nhóm.
Vừa cạnh tranh vừa hợp tác, hợp tác để tăng cường khả năng cạnh tranh; nếu các DN
chỉ thuần tuý chú ý đến mặt cạnh tranh mà bỏ qua mặt hợp tác thì rất sai lầm. Phải
biết hợp tác đi đôi với cạnh tranh để giảm bớt căng thẳng và tăng cường năng lực
cạnh tranh của DN.
Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, về cơ bản phụ thuộc vào
chiến lược của từng doanh nghiệp cụ thể. Trong thực trạng các DNNVV hiện nay có
một số điểm chung cần lưu ý như:
- Các doanh nghiệp chưa khai thác hết khả năng tạo uy tín và hiệu quả thông
qua chính sách tài chính hỗ trợ tối đa cạnh tranh để có thể tiếp cận nguồn vốn không
đến nỗi khan hiếm hiện nay. Các tổ chức tài chính của Việt Nam dù tiềm lực chưa
lớn, nhưng nguồn vốn không phải là nhỏ và hiện khan hiếm các dự án hiệu quả để
cho vay. Vấn đề là các doanh nghiệp phải năng động, phải đầu tư để có thông tin thị
trường và thông tin về đối thủ để có quyết sách đầu tư đúng đắn, qua đó mới có sức
mạnh về sản phẩm, về giá cả và quy mô để thắng thế trong cạnh tranh. Các chính
sách này không những phải có tầm nhìn dài hạn mà còn phải đủ linh hoạt và năng lực
thực hiện.
- Phải biết sử dụng đúng đắn tiềm năng con người và xã hội trong tỉnh. Lượng
lao động xã hội khá lớn và độ tuổi trung bình trẻ là lợi thế giúp doanh nghiệp nhanh
chóng đổi mới kỹ thuật mà không vấp phải lực cản lớn. Tuy nhiên, kỷ luật lao động
cần phải được chú trọng nhằm giữ ổn định tổ chức sản xuất và kiểm soát chất lượng.
Do tính tiểu nông còn nặng nề, nên người lao động chưa có tác phong công nghiệp,
nên tính tự giác lao động chưa cao, còn chuyển công việc theo thu nhập, chưa trung
thành với công ty. Do đó, không thể áp dụng nguyên xi các mô hình quản lý doanh
nghiệp của phương Tây, nhưng cũng không nên thụ động chờ hoàn cảnh. Điều căn
bản trong doanh nghiệp là ban quản lý phải gắn với lợi ích của công nhân, công khai
các lo lắng cùng công nhân và tạo nên không khí cởi mở, tin tưởng lẫn nhau. Doanh
nghiệp hiện nay cũng còn chi phí quá ít cho đào tạo lâu dài nguồn nhân lực, chất
lượng lao động chưa được tiêu chuẩn hóa, ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm
và năng suất lao động của doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh
nghiệp Việt Nam phải nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập cho công nhân,
đồng thời giảm chi phí lương trong sản phẩm. Đặc biệt, cần có chiến lược thu hút và
sử dụng nhân tài làm việc trong công ty. Có đội ngũ cán bộ quản lý đầy năng lực, tích
cực, năng động và tận tụy là lợi thế so sánh lớn nhất của doanh nghiệp trong cạnh
tranh.
Doanh nghiệp Thanh Hoá phải tích cực mở cửa liên doanh, liên kết với doanh
nghiệp khác, kể cả doanh nghiệp ngoài tỉnh, mở rộng hơn là các doanh nghiệp nước
ngoài. Kinh nghiệm của các doanh nghiệp thành đạt trên thế giới cho thấy: không có
doanh nghiệp nào đủ sức bao trùm mọi thế mạnh của ngành. Đợi chờ sự tích tụ năng
lực trong từng doanh nghiệp ngày nay thì rất chậm. Tăng quy mô sản xuất bằng vốn
vay cũng chỉ giải quyết được những lợi thế hạn hẹp của một doanh nghiệp, còn liên
doanh, liên kết, thậm chí sát nhập để trở thành các tập đoàn kinh tế lớn sẽ ngay lập
tức hội tụ được các lợi thế mà từng doanh nghiệp đã tích lũy được theo những con
đường khác nhau. Để có thể liên doanh, liên kết thành công, phải biết hy sinh những
lợi ích ngắn hạn, biết lựa chiều đối phương để có thể thông qua kế hoạch. Liên kết để
cùng hợp lực cạnh tranh có lẽ là mặt yếu kém lớn nhất của doanh nghiệp Thanh Hoá.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các doanh nghiệp còn cần đến cả những liên
kết xã hội mang tính ngành nghề nhằm hỗ trợ nhau về mặt tổ chức và pháp lý trong
môi trường cạnh tranh quốc tế.
1.8 Xây dựng văn hóa doanh nghiệp.
Văn hóa có vai trò quan trọng trong sự phát triển, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa doanh nghiệp, nói một cách khái quát là “đạo
làm giàu”, tức là làm giàu một cách có văn hóa: Làm giàu cho bản thân, làm giàu cho
doanh nghiệp, làm giàu cho xã hội và cho đất nước. Sự giàu có về trí tuệ, về của cải
và tính năng động sáng tạo là những giá trị xã hội mà mỗi doanh nhân, mỗi doanh
nghiệp phải có. Vì vậy, xây dựng văn hóa doanh nghiệp tạo ra môi trường văn hóa
lành mạnh, tích cực luôn là động lực thúc đẩy sức sáng tạo và sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp.
1.9 Tăng cường khả năng liên kết, hợp tác các DNNVV với nhau.
hiện nay đa số các doanh nghiệp đều có quy mô nhỏ, vốn ít; trình độ học vấn,
kiến thức kinh doanh, hiểu biết luật pháp (nhất là luật pháp quốc tế) không cao; trình
độ tay nghề của người lao động thấp... Vì vậy, để thực hiện chiến lược cạnh tranh cần
phải và nhất thiết phải thực hiện phương châm liên kết và hợp tác để nâng cao chất
lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Sự liên kết và hợp tác
không phải là phép tính cộng tổng số các doanh nghiệp, mà chính là tạo ra sức mạnh
bội phần của các nhóm, các tập đoàn kinh tế cùng sản xuất kinh doanh một (hoặc một
số) sản phẩm nhất định và cùng thực hiện chiến lược thương hiệu, xúc tiến thương
mại và quảng bá sản phẩm trên thị trường.
2. Kiến nghị về phía chính quyền địa phương.
2.1 Tạo môi trường thuận lợi, giảm chi phí khởi nghiệp và vận hành kinh doanh.
Công tác đăng ký thành lập doanh nghiệp đã được thực hiện cải cách thủ tục
hành chính theo cơ chế “một cửa”, nhưng tính đồng bộ và hiệu quả chưa cao. Để tạo
điều kiện rút ngắn thời gian và chi phí gia nhập thị trường của doanh nghiệp, giao các
sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Công an tỉnh, Cục thuế rà soát lại đề án
cải cách thủ tục hành chính về đăng ký kinh doanh, khắc dấu, đăng ký mã số thuế,
mua hóa đơn; bàn bạc, thống nhất xây dựng quy trình giải quyết các công việc về
đăng ký thành lập doanh nghiệp trình UBND tỉnh quyết định ban hành trong quý
3/2005.
Đơn giản hóa quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
công trình; tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận đất đai phục vụ nhu cầu
sản xuất kinh doanh.
Các sở quản lý chuyên ngành thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong thẩm
định và cấp chứng chỉ hành nghề, cấp giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh, giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo quy định tại quyết định số
181/2003/QĐ-TTg, để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
2.2 Tăng cường nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Kiểm soát hoạt động các doanh nghiệp, hướng các doanh nghiệp phát triển
theo định hướng phát triển doanh nghiệp của tỉnh.
2.3 Tiếp tục thực hiện các chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp.
Trong vấn đề kích thich đầu tư: Rà soát các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và
khuyến khích đầu tư của tỉnh; đối chiếu với tình hình thực tế để điều chỉnh, bổ sung,
hệ thống hóa, phổ biến rộng rãi cho cộng đồng doanh nghiệp và đông đảo nhân dân
biết để thực hiện (như chính sách về miễn giảm tiền thuê đất và kết cấu hạ tầng, hỗ
trợ tìm kiếm thị trường và xúc tiến thương mại, hỗ trợ đào tạo công nhân, hỗ trợ
nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ…).
Trong vấn đề tạo điều kiện huy động vốn cho doanh nghiệp: Ngân hàng nhà
nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại đa dạng hóa các hình thức tín dụng, mở rộng
phạm vi và nâng cao mức độ cho vay đối với các doanh nghiệp dân doanh. Cải cách
thủ tục hành chính, nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ ngân hàng,
chủ động tiếp cận doanh nghiệp để hướng dẫn nghiệp vụ, thẩm định dự án, giám sát
sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đảm bảo lợi ích của chung doanh
nghiệp và ngân hàng.
Các tổ chức tín dụng trên địa bàn chủ động ban hành các chính sách lãi suất
huy động vốn một cách linh hoạt, thực hiện có kết quả một số biện pháp gửi tiền tiết
kiệm…Các tổ chức tín dụng nên quan tâm hơn đến khối doanh nghiệp dân doanh,
thực hiện cho vay dựa trên cơ sở tính hiệu quả của dự án, thường xuyên cải tiến quy
trình, thủ tục cho vay theo hướng đơn giản thuận tiện, giảm thiểu phiền hà cho doanh
nghiệp vay vốn.
Trong vấn đề hỗ trợ khoa học công nghệ: Sở Khoa học – Công nghệ nghiên
cứu đề xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng thành
tựu khoa học – kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ, như chính sách hỗ trợ lãi suất
cho đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, hỗ trợ thuê chuyên gia, hỗ trợ đào tạo, bồi
dưỡng Giám đốc, đào tạo công nhân lành nghề; hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng hệ
thống quản lý chất lượng quốc tế, đăng ký bản quyền sở hữu công nghiệp, đăng ký
nhãn mác, xây dựng và củng cổ thương hiệu sản phẩm.
2.4 Tạo lập môi trường tâm lý xã hội, nâng cao nhận thức của cộng đồng về phát
triển doanh nghiệp.
Đài truyền hình cần mở thêm chuyên trang, chuyên mục hàng tuần để tăng
cường hơn nữa việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, pháp luật, chính sách của
Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân, phát triển doanh nghiệp, các sở ngành
chịu trách nhiệm cung cấp nội dung, thông tin giải đáp các vướng mắc cho các doanh
nghiệp.
Thực hiện tốt chương trình hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho DNNVV để
trang bị và nâng cao kiến thức về kinh tế thị trường, năng lực tổ chức, quản ký sản
xuất kinh doanh, năng lực quản lý kỹ thuật và công nghệm chuyển giao công nghệ
cho cán bộ doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp; đào tạo khởi sự doanh nghiệp giúp
cho những người có nguyện vọng phát triển bằng con đường kinh doanh nắm chắc
các quy định hiện hành của nhà nước về thành lập và hoạt động của doanh nghiệp
cũng như các kiến thức và kỹ năng thành lập chiến lược kinh doanh.
Kết luận
Tỉnh Thanh Hóa là một tỉnh nhỏ thuộc khu vực miền Trung, được đánh giá là
tỉnh có nhiều tiềm năng trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, những tiềm năng của tỉnh
vẫn chưa được khai thác hợp lý và có hiệu quả.
Các DNNVV trong tỉnh với nguồn vốn ban đầu ít, nhân lực hạn chế nhưng đã
bước đầu khai thác những nguồn lực sẵn có trong tỉnh trong quá trình hoạt động kinh
doanh. Nguồn lực sẵn có trong tỉnh bao gồm lao động nhàn rỗi, các tài nguyên
khoáng sản, mây tre đan, cói…Đặc điểm của DNNVV trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
đó là tỷ suất sử dụng lao động/ công nghệ là lớn. Vì thế, có những doanh nghiệp có
số lao động lớn hơn 300 lao động những vẫn chỉ được xem là DNNVV.
Tuy nhiên, các DNNVV trên địa bàn tỉnh chủ yếu là các doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực thương mại chiếm tỷ trọng cao. Trong lĩnh vực dịch vụ, một số
doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo tính chất thời vụ như các doanh nghiệp
hoạt động môi giới lao động xuất khẩu…sau một thời gian hoạt động thì ngừng do
hoạt động không có lãi.
Thực tế, trong tất cả các doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh thì chí
có khoảng 55% doanh nghiệp là hoạt động có lãi. Các doanh nghiệp mang tính lâu
dài là những doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, các doanh nghiệp tạo ra sản phẩm.
Việc nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp này là việc cần thiết và
phải được thực hiện ngay.
Sự xuất hiện của các hiệp hội như: hiệp hội Cói, hiệp hội Ga, hiệp hội các
DNNVV…trên địa bàn tỉnh đã phần nào minh chứng được khả năng liên kết của các
doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111327_8747.pdf