Tiểu luận Nâng cao khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2009 – 2015

Các tổ chức tín dụng trên địa bàn chủ động ban hành các chính sách lãi suất huy động vốn một cách linh hoạt, thực hiện có kết quả một số biện pháp gửi tiền tiết kiệm Các tổ chức tín dụng nên quan tâm hơn đến khối doanh nghiệp dân doanh, thực hiện cho vay dựa trên cơ sở tính hiệu quả của dự án, thường xuyên cải tiến quy trình, thủ tục cho vay theo hướng đơn giản thuận tiện, giảm thiểu phiền hà cho doanh nghiệp vay vốn. Trong vấn đề hỗ trợ khoa học công nghệ: Sở Khoa học – Công nghệ nghiên cứu đề xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng thành tựu khoa học – kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ, như chính sách hỗ trợ lãi suất cho đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, hỗ trợ thuê chuyên gia, hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng Giám đốc, đào tạo công nhân lành nghề; hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế, đăng ký bản quyền sở hữu công nghiệp, đăng ký nhãn mác, xây dựng và củng cổ thương hiệu sản phẩm.

pdf84 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2281 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nâng cao khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2009 – 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7 7.77 53 -36 Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất 5.95 34 6.49 25 6.68 33 -8 Tính minh bạch 4.63 48 5.99 27 5.54 46 -19 Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của nhà nước 4.73 26 6.12 34 5.92 15 19 Chi phí không chính thức 5.24 59 6.15 46 6.47 43 3 Ưu đãi đối với DNNVV 6.79 23 6.46 42 7.92 12 30 Tính năng động và tiên phong của chính quyền Tỉnh 3.11 60 4.32 39 4.83 44 -5 Chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân 4.61 40 4.62 35 2.22 54 -19 Đào tạo lao động 3.73 56 4.02 56 2.45 62 -6 Thiết chế pháp lý 3.53 38 4.58 27 3.44 55 -28 PCI chưa có trọng số 57.05 53.12 49 PCI cuối cùng đã có trọng số 45.30 54 52.82 38 46.22 52 -14 (Nguồn: chi nhánh VCCI Thanh Hóa) Thanh Hóa có chỉ số năng lực cạnh tranh xếp ở gần cuối mức 4 (cả nước chia làm 4 mức).Trong khi đó, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Bình Dương là cao nhất (76,23 điềm), Đà Nẵng là 75,39 điểm, Hà Nội là 50,34 điểm. Tỉnh Nghệ An cao hơn Thanh Hóa có số điểm là 54,43. Tuy nhiên, Thanh Hóa là một trong 28 địa phương được đánh giá là năng lực cạnh tranh được cải thiện hơn. Năm 2008, trong 10 chỉ số thành phần thì có 3 chỉ số cao hơn năm 2007 và có tới 7 chỉ số thấp hơn năm 2007, trong đó có 4 chỉ số bị sụt giảm rất nhiều, từ 19 đến 36 bậc và chỉ số Đào tạo lao động đến gần áp chót. Điều đó đã làm cho chỉ số PCI đã có trọng số cuối cùng của năm 2008 của Thanh Hóa giảm xuống tới 14 bậc so với năm 2007. Bốn chỉ số thành phần sụt giảm nhiều nhất bao gồm: Thứ nhất: Chỉ số Chi phí gia nhập thị trường giảm từ 8.3 điểm năm 2007 xuống còn 7.77 điểm năm 2008. Nguyên nhân của sự sụt giảm trên đó là việc “bôi trơn” nền kinh tế ở các cơ quan là không chính thức. Việc gia nhập thị trường tồn tại nhiều mặt tiêu cực, ví dụ như việc để một doanh nghiệp được tham gia hoạt động thì phải có một khoản chi phí nào đó để được tham gia vào thị trường một cách nhanh nhất. Thanh Hóa xếp hạng 53/64, so với năm 2007 thì giảm tới 30 bậc (17/64). Thanh Hóa cũng cải thiện chút ít nhưng các tỉnh khác họ quan tâm nhiều hơn và chỉ số này được cải thiện nhiều hơn. Ở đây có hai chỉ tiêu bị ảnh hưởng nhiều nhất là : % doanh nghiệp phải mất hơn 1 tháng để khởi sự kinh doanh là 29,4% (năm 2007 là 20,51%) và % doanh nghiệp phải mất hơn 3 tháng để khởi sự kinh doanh là 11,76% (năm 2007 là 2,56%), các chỉ tiêu khác không khá hơn năm 2007 là bao. Trong khi đó, các tỉnh khác đã được cải thiện nhiều hơn rất nhiều, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai như thời gian làm thủ tục thue mặt bằng được rút ngắn, thủ tục hành chính gọn nhẹ hơn, đặc biệt là áp dụng thủ tục một cửa. Việc này đã làm thuận lợi hơn rất nhiều cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp khi mới tham gia vào thị trường, nhanh chóng đi vào hoạt động. Việc này ở Thanh Hóa gần như là chững lại. Thứ hai: Về chỉ số Tính minh bạch: Xếp hạng 46/64 năm 2008, so với năm 2007 giảm tới 19 bậc (27/64). Các chỉ tiêu 2007 2008 Tiếp cận tài liệu, văn bản 1,02 0,98 Tính công bằng và ổn định trong việc áp dụng các văn bản đạt 0,89 1,29 Khả năng tiên liệu của văn bản được 0,89 0,8 Độ mở của trang Web 3,19 2,47 Chỉ số này có 4 nhóm chỉ tiêu, trong đó có 3 nhóm thấp hơn năm 2007, chỉ có chỉ tiêu Tính công bằng và ổn định trong việc áp dụng các văn bản đạt 1,29 điểm, cao hơn so với năm 2007. Chỉ tiêu quan trọng nhất đã ảnh hưởng rất lớn đến chỉ số này là chỉ tiêu Độ mở của trang Web, chỉ được 2,47 điểm, thấp hơn so với năm 2007 rất nhiều. Thứ ba: Về chỉ số thành phần về Chính sách phát triển kinh tế tư nhân: Năm 2008 xếp hạng 54/64 tỉnh thành, so với năm 2007 cũng giảm tới 19 bậc (năm 2007 là 35/64). Chỉ số này có 7 chỉ tiêu, trong đó có tới 5 chỉ tiêu năm 2008 thấp hơn so với năm 2007 rất nhiều. Cụ thể như sau: Các chỉ tiêu 2007 2008 Chất lượng dịch vụ công – Cung cấp thông tin thị trường (% Tốt hoặc Rất tốt). 46,96 17,27 Chất lượng dịch vụ công – Hỗ trợ tìm kiếm đối tác kinh doanh, đầu tư (% Tốt hoặc Rất tốt). 24,78 4,35 Chất lượng dịch vụ công – Hỗ trợ xuất khẩu và hội chợ thương mại (% Tốt hoặc Rất tốt). 58,93 13,38 Chất lượng dịch vụ công – Khu vực công nghiệp và Cụm 48,7 20,14 công nghiệp (% Tốt hoặc Rất tốt). Chất lượng dịch vụ công – Công nghệ và các dịch vụ liên quan đến công nghệ (% Tốt hoặc Rất tốt). 47,79 12,41 Nhìn chung, các chính sách thực thi trên địa bàn tỉnh tập trung chủ yếu ở khu vực miền núi, UBND Huyện lại thiếu sự chăm lo việc thực thi chính sách đến đúng đối tượng dẫn đến sự thiếu cương quyết của UBND Tỉnh. Thứ tư: Về chỉ số thành phần Thiết chế pháp lý. Năm 2008, tỉnh Thanh Hóa xếp hạng 55/64, so với năm 2007 thì giảm tới 28 bậc (27/64). Chỉ số này có 5 chỉ tiêu thí có tới 4 chỉ tiêu thấp hơn nhiều so với năm 2007. Các chỉ tiêu 2007 2008 Hệ thống pháp lý tạo ra cơ chế để doanh nghiệp có thể khởi kiện hành vi tham nhũng của cán bộ công quyền (% Luôn luôn hoặc Thường xuyên). 46,96% 33,1% Doanh nghiệp tin rằng hệ thống pháp lý sẽ bảo vệ hợp đồng và các quyền tài sản (% Đồng ý hoặc Hoàn toàn đồng ý). 24,78% 77,24% Chủ yếu sử dụng thiết chế pháp lý để giải quyết tranh chấp. 58,93% 48,13% Số vụ tranh chấp xét xử tại Tòa án kinh tế cấp tỉnh (bên nguyên không phải là DNNN) bình quân trên 100 doanh nghiệp đang hoạt động. 48,70% 0,26% Tỷ lệ Số vụ tranh chấp (bên nguyên không phải là DNNN) so với Tổng số vụ tranh chấp xét xử tại Tòa án kinh tế cấp tỉnh. 47,79% 19,44% Về chỉ số Đào tạo lao động, năm 2008, Thanh Hóa xếp thứ 62/64 tỉnh thành, thấp hơn năm 2007 là 6 bậc, xuống đến gần áp chót. Chất lượng dịch vụ giáo dục do các cơ quan của Tỉnh cung cấp thì có 28,47% được đánh giá là tốt hoặc rất tốt, trong khi đó tỉnh Vĩnh Long là 56,9% cao nhất cả nước. Chất lượng đào tạo nghề cho người lao động do các cơ quan Tỉnh cung cấp thì có 12,41% được đánh giá là tốt hoặc rất tốt, con số này ở tỉnh Vĩnh Long là 46,28%, cao nhất cả nước. Chất lượng giới thiệu việc làm của tỉnh Thanh Hóa có 7,86% được đánh giá là tốt hoặc rất tốt, ở tỉnh Đồng Tháp con số này là 41,79% cao nhất cả nước. Chỉ tiêu Số lượng trường dạy nghề do địa phương quản lý trên 10.000 dân, có 0,38% được đánh giá là tốt, ở Ninh Bình là 2,05%. Chỉ tiêu Số lượng trung tâm giới thiệu việc làm trên 10.000 dân thì có 0,11% được đánh giá là tốt, ở Đà Nẵng con số này là 0,62%. Về chất lượng đào tạo lao động phụ thuộc vào cả hai phía là các doanh nghiệp và cơ quan đào tạo. Bản thân một số doanh nghiệp không muốn cử người đi học, và các chương trình đào tạo lại mang tính chất ngắn hạn, thiếu chuyên sâu nên không đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Thanh Hóa là một tỉnh nghèo nhưng tài nguyên thiên nhiên lại phong phú và được đánh giá là có tiềm năng lớn. Các DNNVV trên địa bàn tỉnh đã nhận thức được điều này và đã tiến hành tận dụng triệt để lợi thế sẵn có của địa phương trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh ngày càng phát triển nhanh về số lượng, rộng về quy mô, phong phú về các loại hình và hoạt động ngày càng có hiệu quả. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh được cải thiện đáng kể, từ thứ hạng 53/64 tỉnh, thành năm 2006 đã vươn lên xếp thứ 38/63 tỉnh, thành trong năm 2007. Năm 2007, toàn tỉnh đã thành lập mới được 794 doanh nghiệp, tăng 26% so với năm 2006; quý I năm 2008 thành lập được 200 doanh nghiệp; nâng tổng số doanh nghiệp hiện có trên địa bàn tỉnh lên 4.815 doanh nghiệp (cả nước đã có khoảng hơn 240.000 doanh nghiệp, gần 3 triệu hộ kinh doanh). Đã có nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đến Thanh Hóa tìm hiểu cơ hội đầu tư, riêng quý I năm 2008 đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 5 dự án với tổng vốn đăng ký 3.100 tỷ đồng. 2.1 Vốn (khả năng tài chính): WACC là chi phí sử dụng vốn được doanh nghiệp tính toán dựa trên tỷ trọng các loại vốn mà doanh nghiệp sử dụng. Vốn của doanh nghiệp bao gồm: cổ phần thường, cổ phần ưu đãi, trái phiếu và các khoản nợ dài hạn khác. WACC được tính toán như sau: WACC = (E/V)*Re + (D/V)*Rd *(1-Tc) Trong đó: Re = chi phí sử dụng vốn cổ phần Rd = chi phí sử dụng nợ E = giá trị thị trường của tổng vốn cổ phần D = giá trị thị trường của tổng nợ của doanh nghiệp V = Tổng vốn dài hạn của doanh nghiệp Tc = thuế thu nhập doanh nghiệp. Nói rộng hơn, tài sản của doanh nghiệp được tài trợ dù bằng vốn cổ phần hay bằng nợ thì WACC là chi phí sử dụng vốn bình quân của các khoản tài trợ của doanh nghiệp. Bằng việc tính toán chỉ số WACC, chúng ta biết được doanh nghiệp phải tốn bao nhiều chi phí cho mỗi đồng tiền tài trợ cho doanh nghiệp. WACC của doanh nghiệp còn được gọi là tỷ suất sinh lợi đòi hỏi tối thiểu mà doanh nghiệp phải đạt được khi quyết định thực hiện một dự án mở rộng nào đó, hoặc quyết định mua lại doanh nghiệp khác. WACC được sử dụng như một tỷ lệ chiết khấu thích hợp đối với các dòng tiền từ các dự án có mức rủi ro tương tự mức độ rủi ro của doanh nghiệp. Còn nếu dự án có mức độ rủi ro cao hơn thì tỷ lệ chiết chấu sẽ đòi hỏi 1 tỷ lệ cao hơn tương ứng với mức rủi ro của dự án đó và ngược lại. Bảng 2.12 : Vốn sản xuất bình quân năm của các doanh nghiệp phân theo ngành kinh tế (Đơn vị: Tỷ đồng) 2005 2006 2007 Nông, lâm nghiệp 1.290,3 1.555 1.531 Thủy sản 21,5 22 16,8 Công nghiệp 10.122,5 11.457,2 6.544,5 Xây dựng 3.525,1 4.204,1 5.241,4 Thương nghiệp 1.799,4 2.409,2 3.212,7 Khách sạn, nhà hàng 160,6 225,1 217 Vận tải, kho bãi, thông tin liên lac 599,7 800,5 853,9 Văn hóa, y tế, giao dục 3,3 23,4 26,1 Dịch vụ khác 843,2 1.075,1 6.150,4 Total 18.365,6 21.789,6 23.794,6 (Nguồn: Chi cục thuế tỉnh Thanh Hóa) Ngành công nghiệp và xây dựng luôn chiếm tỷ trọng lớn, vốn bình quân năm tỷ lệ thuận. Mặc dù có sự giảm về vốn từ 11.475,2 tỷ (2006) xuống còn 6.241,4 tỷ đồng (2007) nhưng ngành xây dựng lại có chiều hướng gia tăng vốn sản xuất tương đối đồng đều qua các năm. Nhìn chung vốn sản xuất theo ngành kinh tế là tương đối ổn định theo các ngành nghề. Doanh số cho vay của các tổ chức tín dụng trên địa bàn năm 2008 ước đạt 22.500 tỷ đồng, tăng 44% so với năm 2007; tổng dư nợ ước đạt 11.850 tỷ đồng, tăng 29,6% so với năm 2007, trong đó dư nợ cho vay trung và dài hạn chiếm 48%; dư nợ ngắn hạn chiếm 52%, dư nợ tăng mạnh ở các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chất lượng tín dụng: Doanh nghiệp có quan hệ tín dụng năm 2008 là tốt, vay của các doanh nghiệp trả nợ đúng hạn, tỷ lệ nợ xấu chiếm tỷ lệ thấp 1,38%/dư nợ cho vay của các doanh nghiệp. Hiện nay, toàn tỉnh có 1524 doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng, trong đó có 31 doanh nghiệp nhà nước hoặc có vốn của nhà nước trên 51% vốn điều lệ và 1.378 doanh nghiệp dân doanh. Tuy năm 2008 là năm tất cả các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của sự suy giảm kinh tế thế giới, nhưng Chính phủ đã có những giải pháp kiềm chế lạm phát, từ đó nhập siêu giảm dần. Cơ chế điều hành chính sách lãi suất ngân hàng của ngân hàng linh hoạt, từ mức lãi suất cho vay từ 21% đến nay giảm còn 12,7%/năm việc này nhằm chia sẻ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. 2.2 Nguồn nhân lực (trình độ lao động) Bảng 2.13: Số lao động trong các doanh nghiệp phân theo ngành kinh tế 2005 2006 2007 Nông, lâm nghiệp 8.905 7.830 7.000 Thủy sản 170 158 88 Công nghiệp 34.518 38.865 39.865 Xây dựng 27.990 31.813 33.882 Thương nghiệp 11.082 11.615 12.728 Khách sạn, nhà hàng 835 1.134 136 Vận tải, kho bãi, thông tin liên lac 3.957 5.721 5.250 Văn hóa, y tế, giáo dục 64 135 243 Dịch vụ khác 3.870 3.393 3.016 Total 91.391 100.664 102.208 (Nguồn: Chi cục Thuế tỉnh Thanh Hóa) Các DNNVV ở Thanh Hóa sử dụng nhiều lao động đặc biệt là lao động phổ thông. Lao động có tay nghề được đào tạo ít. Các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là lao động phổ thông, doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp sử dụng lao động được đào tạo chiếm tỷ trọng cao nhất. Lao động trong ngành Nông – lâm nghiệp giảm, trong lĩnh vực công nghiệp lao động có xu hướng tăng. Chứng tỏ các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng phát triển, mở rộng quy mô sản xuất. Bên cạnh đó, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ trọng 20,41%. Trong năm 2007, các doanh nghiệp trong tỉnh đã thu hút, tạo việc làm mới cho 48.000 lượt lao động, tăng 17,6% so với năm 2006, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 4,53% (năm 2006 là 4,79%) và giảm tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn xuống 7,52% (năm 2006 là 9,03%). 2.3 Máy móc, trang thiết bị công nghệ Bảng 2.14 : Giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp đang hoạt động phân theo ngành kinh tế (Đơn vị: Tỷ đồng.) 2000 2001 2005 2006 2007 Nông, lâm nghiệp 428 445 1.001,3 1.324,6 1.313,4 Thủy sản 60 66 16,4 16,8 12,3 Công nghiệp 6.523 6.200 7.185 7.884,9 7.244,4 Xây dựng 305 343 819,9 931 1.193,6 Thương nghiệp 82 116 591,8 670,4 1.047,8 Khách sạn, nhà hàng 24 30 132,6 189,4 181,1 Vận tải, kho bãi, thông tin liên lac 51 239 434,2 613,1 628,1 Văn hóa, y tế, giáo dục 1,0 1,6 6,3 12,5 Dịch vụ khác 12 22 187,4 203 332 Total 7.485 7.462 10.370,2 11.839,5 11.965,2 (Nguồn: Chi cục thuế tỉnh Thanh Hóa) Gía trị tài sản cố định của doanh nghiệp thể hiện rõ các doanh nghiệp đầu tư ở mức độ như thế nào về công nghệ. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng là những doanh nghiệp có đầu tư vào tài sản cố định cao, đầu tư vào công nghệ nhiều hơn các ngành nghề khác. 2.4 Sẩn phẩm: giá thành, chất lượng, mẫu mã. Đến nay, nhiều doanh nghiệp trong tỉnh đã được cấp chứng chỉ ISO 9000, hàng Việt Nam chất lượng cao. Các doanh nghiệp được tặng Giải thưởng Chất lượng Việt Nam đến nay đều có mức tăng trưởng khá, hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, sản phẩm hàng hoá luôn ổn định và đạt mức chất lượng tốt, chiếm lĩnh được thị trường và được người tiêu dùng tín nhiệm. Hoạt động Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng 5 năm qua đã góp phần giúp các doanh nghiệp cải tiến quản lý, áp dụng công nghệ quản lý mới để nâng cao năng suất, chất lượng và đạt hiệu quả trong sản xuất kinh doanh - dịch vụ góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ kế hoach kinh tế- xã hội 5 năm 2006-2010 của tỉnh, đồng thời góp phần ổn định thị trường, ngăn chặn có hiệu quả việc sản xuất kinh doanh hàng kém chất lượng, hàng giả, ngăn chặn các hành vi gian dối về đo lường, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng và bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất-kinh doanh chân chính. Mẫu mã hàng hóa trong tỉnh ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Các doanh nghiệp trong tỉnh đã nắm bắt được nhu cầu của người tiêu dùng, nên tiến hành cung cấp hàng hóa với chất lượng cao, mẫu mã đẹp và giá cả phải chăng, thỏa dụng người tiêu dùng. 2.5 Khả năng tiếp cận thị trường, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp, doanh nhân đã nhanh chóng tiếp cận với thị trường trong và ngoài nước, tích cực áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh, cải tiến công tác quản lý, từng bước thích nghi với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Nhiều doanh nghiệp đã đứng vững, có bước phát triển đáng kể trên thương trường quốc tế. Trong tỉnh, các DNNVV tiến hành liên kết với nhau thành các hiệp hội như hiệp hội cói, hiệp hội ga… nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp nước ngoài. Bảo đảm được thị phần hàng hóa tiêu thụ trong tỉnh và ngoài tỉnh. Tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, năm 2007, lần đầu tiên tỉnh hoàn thành vược mức kế hoạch xuất khẩu (đạt 170,5 triệu USD, vượt 0,3% KH và tăng 27,6% so với năm 2006). Hiện nay, hàng hoá trong tỉnh được xuất khẩu đi 32 nước trên thế giới, với các mặt hàng chủ lực là: đá ốp lát, hàng may mặc, cao su, thuỷ sản đông lạnh, mây tre đan... 3. Đánh giá năng lực cạnh tranh của DNNVV trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa 3.1 Hạn chế Chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhìn chung còn thấp, nhiều sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm có sự tăng trưởng cao (hàng da giày, dệt may, đồ uống, sản phẩm thép...) phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu bán thành phẩm nhập khẩu từ nước ngoài; công nghệ ở mức trung bình và lạc hậu; năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp và tay nghề của người lao động còn yếu; rất nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm xây dựng thương hiệu sản phẩm, chưa khẳng định được uy tín chất lượng và năng lực cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế, làm cho sức cạnh tranh thấp, chất lượng sản phẩm không có ưu thế rõ rệt trên thị trường. Thu nhập của người lao động còn thấp, thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội trong nhiều doanh nghiệp chưa bảo đảm. - Khả năng tiếp cận nguồn vốn: Các DNNVV nguồn vốn chủ yếu là ít. Nhưng khả năng tiếp cận nguồn vốn doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Trong năm 2008, nền kinh tế xảy ra nhiều biến động, các ngân hàng có vốn nhưng lại ngần ngại cho vay. Theo điều tra PCI 2008 của chi nhánh VCCI Thanh Hóa thì có 70% doanh nghiệp điều tra của Thanh Hóa hiện đang có các khoản vay từ ngân hàng. Thời hạn vay từ 12 tháng trở xuống có 74,07% trong đó có 96,33% doanh nghiệp sử dụng tài sản thế chấp để thực hiện khoản vay. Và chủ yếu các khoản vay này từ ngân hàng thương mại nhà nước (83,93%). Bảng 2.15: Đánh giá về việc vay vốn của các DNNVV Thanh Hóa. (Đơn vị: %) Hoàn toàn đồng ý Đồng ý Không đồng ý Hoàn toàn không đồng ý DN không thể vay vốn nếu không có tài sản thế chấp 54,36 36,34 6,71 2,68 Lãi suất và các điều kiện cho vay đối với DN tư nhân luôn khó khăn hơn so với DN nhà nước 28,6 35,25 28,78 7,91 Thủ tục vay vốn phiền hà 19,85 32,35 40,44 7,35 Việc “bồi dưỡng” cho cán bộ ngân hàng để vay được vốn là phổ biến 13,43 41,49 33,58 11,19 (Nguồn: Điều tra 7820 DN cả nước, VCCI & VNCI, tháng 6 năm 2008) - Nhân lực: Số lượng lao động ở Thanh Hóa được đánh giá là dư thừa nhưng nguồn lao động có tay nghề, kiến thức cũng như trình độ văn hóa chưa cao. Cơ sở đào tạo nguồn lao động còn ít và yếu kém. Tỷ lệ lao động có tay nghề cao còn hạn chế. Nguồn nhân lực cho các DNNVV đang ở tình trạng thiếu và yếu. Thiếu lao động chuyên nghiệp có tay nghề, những lao động sử dụng trong các doanh nghiệp tay nghề non kém, chất lượng thợ có nhiều hạn chế. Không có đủ đội ngũ lãnh đạo có chất xám làm việc cho doanh nghiệp. Các lao động trong DNNVV đa số phải được đào tạo lại thì mới có thể sử dụng được. - Khả năng ứng dụng công nghệ: Ít DNNVV trên địa bàn tỉnh có khả năng ứng dụng công nghệ vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 3.2 Nguyên nhân. 3.2.1 Nguyên nhân khách quan. - Việt Nam là gia nhập WTO là cơ hội nhưng cũng là thách thức đối với các DNNVV. Các doanh nghiệp phải tuân thủ các điều lệ của WTO, thị trường mở cửa, tự do cạnh tranh. Các doanh nghiệp không còn được sự bảo hộ của Nhà nước như trước đây, chống bán phá giá. Các doanh nghiệp phải đương đầu với rất nhiều đối thủ trong và ngoài nước, thị phần bị tiến hành chia nhỏ. Để tồn tại được đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sức cạnh tranh đủ lớn trên thị trường. - Năm 2008 là năm nền kinh tế thế giới đi vào suy thoái. Lạm phát trong năm 2008 khiến cho hầu hết các DNNVV gặp nhiều khó khăn. Lạm phát cao khiến cho 60% doanh nghiệp đình trệ hoạt động sản xuất kinh doanh, 20% doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, chỉ có 20% doanh nghiệp có khả năng trụ lại được. Trước sự lan rộng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và nhiều nước khác, các DNNVV lại đương đầu với những khó khăn nghiêm trọng hơn đó là thị trường bị thu hẹp trong khi giá bán sụt giảm mạnh - Môi trường vĩ mô trong nước. Các cơ quan chính quyền vẫn chưa triển khai được các chính sách phát triển DNNVV như mong muốn. Hành lang pháp lý, các thủ tục hành chính chưa minh bạch trong việc triển khai. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng không được linh hoạt, đôi khi chính quyền địa phương, tỉnh lại áp dụng không đúng mục đích, không đúng đối tượng. 3.2.2 Nguyên nhân chủ quan. - Trình độ quản lý của DNNVV. Vẫn còn rất nhiều các doanh nghiệp vẫn còn làm ăn theo lối “gia đình trị ” và nguyên tắc thuận tiện là hiện tượng thường xảy ra. Điều này mang lại hiệu quả không cao cho hoạt động các doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp sử dụng quá nhiều nhân viên, chi phí của nhân viên ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và đó được coi là khoản chi cố định. Các DNNVV trong tỉnh thường chỉ có một số ít lập quỹ dự phòng tài chính, điều này đã gây khó khăn khi các doanh nghiệp đối mặt với các rủi ro. Đôi khi, có những doanh nghiệp quá chú ý tới tiện nghi, làm tăng chi phí cho doanh nghiệp, xem nhẹ thua lỗ ban đầu, tin tưởng quá mức ở bạn hàng… - Khả năng tiếp cận nguồn vốn vay hạn chế. DNNVV khó chống đỡ với các công ty khác bởi hạn chế về tiềm lực tài chính. Một thực trạng chung của các DNNVV hiện nay là việc tiếp cận nguồn vốn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do các DNNVV không có chiến lược kinh doanh, không có các bản báo cáo tài chính, nhất là đối với các DN phát triển lên từ hộ kinh doanh cá thế, tài sản thế chấp cũng là vấn đề cần nói tới. Do đó, các DNNVV này khó có khả năng tiếp cận được với vốn vay của các ngân hàng đặc biệt là việc vay vốn cho đầu tư dài hạn lại càng khó khăn hơn nữa. Tuy nhiên, có những doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn có tính khuyến khích, hỗ trợ. Nhiều doanh nghiệp tính toán phiêu lưu, sẽ chiết khấu, tiết kiệm được nhiều thuế, nếu tăng cường vay vốn để đầu tư mua sắm, cho thuê tài chính, thuê máy móc, xe cộ. Nhưng điều đó chỉ đúng khi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi và lãi nhiều. Khi gặp khó khăn các doanh nghiệp này trở thành con nợ và dễ phá sản. - Khả năng nhạy bén với thị trường chưa cao. Năng lực thương trường của các DNNVV chưa cao. Ít có cơ hội tiếp cận đối với các nguồn lực của thị trường. Cũng do sự yếu kém của các bộ quản lý dẫn đến sự lựa chọn nhân sự có phần không hiệu quả làm cho nguồn nhân lực các doanh nghiệp có trình độ hạn chế, kém nhạy bén với những tình hình biến động của thị trường diễn ra liên tục. - Khả năng nhạy bén với thị trường quyết định đến việc doanh nghiệp sẽ biết được đối tượng khách hàng hướng tới là ai, từ đó sẽ quyết định cung cấp sản phẩm, dịch vụ nào, giá thành là bao nhiêu. Cũng vì mặt hạn chế này mà hiện tại các doanh nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa vẫn chưa cung cấp được những mặt hàng chất lượng, với giá cả phải chăng tới người tiêu dùng. - Đội ngũ quản lý chưa chuyên nghiệp, chưa đưa ra được những chiến lược kinh doanh trong dài hạn. Văn hóa doanh nghiệp còn nhiều bất cập. - Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin chưa nhiều. Điều này gây khó khăn trong việc tiếp cận các thông tin của thị trường, các bạn hàng, đối tác làm ăn. Khó nắm bắt được các cơ hội hay những thách thức đối với doanh nghiệp. - Khả năng liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp cũng có nhiều hạn chế trong việc triên khai. Việc liên doanh liên kết các doanh nghiệp chỉ tồn tại ở một số ít các ngành, lĩnh vực cụ thể như: ga, hàng thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, cói…đa số các doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác hoạt động độc lập dẫn đến tính cạnh tranh không cao. CHƯƠNG III MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DNNVV TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA GIAI ĐOẠN 2009 – 2015. I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DNNVV TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA GIAI ĐOẠN 2009 – 2015. 1. Quan điểm phát triển doanh nghiệp. Phát triển doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế là mục tiêu nhất quán, lâu dài của Đảng và Nhà nước ta, là động lực phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp trong tỉnh, ngoài tỉnh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều bình đẳng trước pháp luật và được hưởng chính sách ưu đãi của tỉnh. Mở rộng liên doanh, liên kết giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với hộ sản xuất và người tiêu thụ đạt hiệu quả cao và bền vững. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của doanh nghiệp mới, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp hiện có không ngừng đổi mới và hoàn thiện, đạt trình độ phát triển ngày càng cao, tạo lập uy tín và thương hiệu trên thương trường ngày càng bền vững. Phát triển doanh nghiệp là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền, vai trò tuyên truyền vận động các tổ chức xã hội, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để huy động nguồn lực của mỗi doanh nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội cho phát triển doanh nghiệp. 2. Mục tiêu phát triển doanh nghiệp. Mục tiêu tổng quát: Tạo môi trường thuận lợi, phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh tăng cả về số lượng và chất lượng; có quy mô. Cơ cấu hợp lý, trình độ công nghệ thích hợp với tiềm năng và đặc điểm của từng vùng, miền trong tỉnh, tạo dựng mối quan hệ hợp tác, liên kết chặt chẽ trong cộng đồng doanh nghiệp, với hợp tác xã và các hộ sản xuất để phát huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tọa ra nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, mang lại ngày càng nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp, việc làm, thu nhập cho người lao động và tăng ngân sách. Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2015 có 14.048 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và hoạt động.. Trong đó: Doanh nghiệp hoạt động theo Luật DNNN là 56. Doanh nghiệp hoạt động theo Luạt doanh nghiệp là 11.936. Doanh nghiệp hoạt động theo Luật hợp tác xã là 2.032. Doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài 24. Như vậy bình quân mỗi năm (giai đoạn 2009 - 2015) số doanh nghiệp được thành lập mới là 1.100 doanh nghiệp. Năm 2008 tỷ lệ số doanh nghiệp trên 1000 dân đạt mức bình quân chung của cả nước hiện nay (2 doanh nghiệp), tỷ lệ này sẽ được nâng lên 2,34 vào năm 2015. Cơ cấu các loại hình doanh nghiệp năm 2015: Doanh nghiệp nhà nước: 0,4% Công ty cổ phần: 18,8% Công ty TNHH: 49,6% Doanh nghiệp tư nhân: 16,5% Hợp tác xã: 14,5% Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: 0,2% Cơ cấu theo vùng: Địa bàn 11 huyện miền núi: 10% Thành phố Thanh Hóa: 45% Các huyện, thị xã còn lại: 45% Múc vốn điều lệ bình quân đạt 2 tỷ đồng/doanh nghiệp dân doanh. II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DNNVV TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA GIAI ĐOẠN 2009 – 2015. 1. Nhóm giải pháp dành cho doanh nghiệp. 1.1 Mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn. Các doanh nghiệp nên tích cực huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư như huy động vốn góp từ người thân, các đối tác làm ăn, phát hành cổ phiếu. Ngoài ra các doanh nghiệp có thể đi vay vốn từ các tổ chức tín dụng. Cần nỗ lực để nâng cao năng lực tự bổ sung vốn dưới hình thức tích lũy kêu gọi thành viên tăng vốn góp, huy động nguồn vốn từ người thân và các nguồn vốn nhàn rỗi khác trong nhân dân. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, những công ty cổ phần lớn sớm tham gia vào thị trường chứng khoán. Để có thể huy động được vốn doanh nghiệp cần phải có những chiến lược kinh doanh cụ thể, chứng minh sự minh bạch về tài chính. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải chứng minh được dự án hoạt động khả thi, lợi ích về mặt kinh tế. 1.2 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các DNNVV. Để có đội ngũ người lao động có tay nghề cao, doanh nghiệp phải có chiến lược đào tạo và giữ người tài. Trong xã hội hiện đại đào tạo nguồn nhân lực, nhà nước và người lao động có vai trò quyết định. Để nâng cao năng suất lao động và tạo điều kiện cho người lao động sáng tạo mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu, phù hợp với yêu cầu của mình. Do đó, chương trình đào tạo, kế hoạch đào tạo hiệu quả chính là một trong những phương thức mà doanh nghiệp sử dụng để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng chính sách đãi ngộ như chính sách lương, thưởng hợp lý để giữ ổn định lực lượng lao động của mình, nhất là những lao động giỏi. Để có được đội ngũ lao động đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường mở cửa, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau: Tiến hành sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và lao động hiện có ở các doanh nghiệp. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với ngành nghề, trình độ và năng lực sở trường. Bổ sung những cán bộ, lao động đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển, đồng thời thay thế những cán bộ, nhân viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn, vi phạm pháp luật và đạo đức. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ hiện có mà chưa cần đến việc đào tạo, bồi dưỡng. Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp bằng các chính sách như: đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho người lao động kể cả khi có biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp. Đa dạng hóa các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Biện pháp này sẽ giúp các doanh nghiệp có thể dễ dàng điều chỉnh lao động khi có những biến động, giảm được chi phí để tuyển dụng hay thuyên chuyển lao động. Tiêu chuẩn hóa cán bộ, lao động trong doanh nghiệp. Ở mỗi ngành nghề, vị trí công tác, cung bậc công việc đòi hỏi kiến thức, kỹ năng về chuyên môn khác nhau. Do đó tiêu chuẩn hóa cán bộ phải cụ thể hóa đối với từng ngành nghề, từng loại công việc và phải phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Khi xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, cần phải tham khảo điều kiện khu vực và đặc thù của Việt Nam, tôn trọng tính văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp. Áp dụng cơ chế bổ sung và đào thải nhân lực để duy trì đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh, nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lao động để có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo vi tính, am hiểu thị trường thế giới và luật lệ buôn bán quốc tế. 1.3 Nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong từng doanh nghiệp, không chỉ từ đội ngũ lãnh đạo, quản lý mà ngay cả đội ngũ người lao động về ý nghĩa sống còn của việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. Khơi dậy khả năng sáng tạo, phát huy trí tuệ của từng cá nhân và tập thể nhằm tìm cách tối thiểu hóa chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí nguyên liệu, chi phí quản lý doanh nghiệp... Ngoài ra, từng thành viên trong doanh nghiệp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ lao động trực tiếp làm ra sản phẩm cần tự trau dồi, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề. Tiến hành ứng dụng công nghệ vào quá trình sản xuất kinh doanh, điều này giúp tăng năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, trong điều kiện nhiều doanh nghiệp còn thiếu vốn, tiềm lực tài chính chưa đủ mạnh để đầu tư đồng bộ công nghệ và thiết bị thì các doanh nghiệp này cần chủ động trong việc liên kết và hợp tác kinh doanh với nhau. Sự hợp tác liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau sẽ giúp các doanh nghiệp giảm thiểu những khó khăn về tài chính, công nghệ, vốn, thị trường... và đẩy mạnh nội lực phát triển cho doanh nghiệp. 1.4 Hoàn thiện hệ thống thông tin, chủ động áp dụng thương mại điện tử trong việc điều hành kinh doanh. Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xây dựng được hệ thống thông tin như: thông tin về môi trường kinh doanh, thông tin về hệ thống phân phối, giá cả mặt hàng hiện hành, thông tin về tình hình và viễn cảnh của thị trường, thông tin về hệ thống giao thông vận tải.... Để có được hệ thống thông tin trên, đòi hỏi hệ thống thông tin của doanh nghiệp ngày càng được hoàn thiện và có chất lượng cao. Các biện pháp sau đây có thể phần nào đóng góp cho việc xây dựng hệ thống thông tin này: Xây dựng các chi nhánh nhằm thu được thông tin chính xác, kịp thời về giá cả, chất lượng, điều kiện giao hàng… Liên kết vời các bạn hàng truyền thống để họ có thể giúp đỡ về vấn đề thông tin. Xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên trách nhằm nghiên cứu đầy đủ, cung cấp thông tin về thị trường có thể dự báo về các biến động của thị trường. Áp dụng biện pháp tin học hóa vào hoạt động kinh doanh thông qua việc hòa mạng với hệ thống thông tin đã có trên thế giới. Các doanh nghiệp cần phải xây dựng một mạng tin học có thể nối mạng với Intemet nhằm thu thập thông tin ở thị trường thế giới. Dưới tác động của khoa học và công nghệ, mà đặc biệt là công nghệ thông tin đã làm xuất hiện hình thức thương mại tiên tiến - thương mại điện tử. Tuy thị trường hoạt động của các DNNVV tỉnh còn hạn chế, nhưng cũng phải chủ động áp dụng và phát triển thương mại điện tử, nếu không sẽ bị cô lập với thế giới bên ngoài. Việc triển khai áp dụng thương mại điện tử có thể được tiến hành từng bước, từ thấp tới cao. Giai đoạn đầu tư có thể triển khai chủ yếu ở khâu xúc tiến hoạt động kinh doanh, dưới hình thức mở trang web quảng cáo trên mạng, tìm kiếm thông tin về thị trường và bán hàng trên mạng, tiến hành các giao dịch trước khi ký kết hợp đồng và sử dụng cho các mục đích quản trị bên trong doanh nghiệp. Khi điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở pháp lý cho phép thì có thể tiến tới ký kết hợp đồng và thực hiện thanh toán trên mạng. Để phát triển thương mại điện tử, các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp sản xuất và thương mại cần chủ động xây dựng và triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế như ISO: 9000, HACCP và ISO: 14.000... vì kinh doanh trên mạng đòi hỏi rất cao về tiêu chuẩn hóa sản phẩm và chất lượng. 1.5 Đổi mới cơ cấu quản lý, hoàn thiện kỹ năng quản lý của đội ngũ lãnh đạo DNNVV. Để đổi mới, hoàn thiện hay lựa chọn mô hình tổ chức quản lý kinh doanh thích hợp cần phải thực hiện các biện pháp sau: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp, cần có sự phân biệt tương đối về tính chất, công việc của các bộ phận, tránh sự chồng chéo, tạo điều kiện cho cán bộ quản lý tập trung đầu tư chuyên sâu và đảm bảo sự hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp một cách nhịp nhàng. Điều chỉnh hợp lý tầm, hạn quản trị phù hợp với yêu cầu của đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp với xây dựng mạng lưới thông tin, xác định các quyết định đưa ra một cách chính xác, hiệu quả. Đảm bảo thông tin trong nội bộ doanh nghiệp, đây là điều kiện quyết định sự tồn tại của bất cứ một tổ chức nào. Đảm bảo thông tin tất làm cho mọi thành viên hiểu rõ được mục đích của tổ chức, có thể đạt được sự thống nhất giữa mục đích cá nhân và mục đích của tập thể. Tổ chức thông tin trong nội bộ doanh nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: - Các kênh thông tin phải được hiểu biết cụ thể. Thông tin tương ứng phải được phổ biến rộng rãi cho tất cả mọi người, mọi cấp trong tổ chức được biết rõ ràng. - Các tuyến thông tin cần trực tiếp và ngắn gọn. Tuyến thông tin càng ngắn thì khả năng truyền đạt thông tin càng nhanh, việc giải quyết các tình huống bất ngờ sẽ được thực hiện kịp thời, không bị chậm trễ. - Cần duy trì hoạt động của toàn bộ hệ thống thông tin một cách thường xuyên không bị ngắt quãng. - Mọi thông tin phải xác thực. Điều này có nghĩa là người truyền đạt thông tin phải thực sự là người nắm chức vụ và quyền hạn liên quan đến thông tin mà anh ta truyền đạt. Để đảm bảo cho việc tổ chức truyền đạt thông tin đáp ứng những yêu cầu của công tác quản lý, các doanh nghiệp cần trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, sử dụng các phương tiện truyền tin tiên tiến như sử dụng mạng máy vi tính. Cần giảm bớt việc sử dụng các phương tiện như văn bản, thư tín, các cuộc họp để truyền tin. Duy trì và phát triển mối quan hệ ngang giữa các bộ phận trong tổ chức. Lãnh đạo doanh nghiệp cần quan tâm đến vấn đề duy trì và phát triển mối quan hệ ngang giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, để hoạt động của các bộ phận này phối hợp ăn ý với nhau nhằm thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp. 1.6 Xây dựng và phát triển thương hiệu. Một là, doanh nghiệp phải phát triển sáng tạo nhãn hiệu. Các doanh nghiệp cần giao việc hoạch định chiến lược và sáng tạo nhãn hiệu cho các chuyên gia nhằm mục đích là biến mình thành người thẩm định, sử dụng các dịch vụ tư vấn như: tư vấn sáng tạo phát triển nhãn hiệu, tư vấn về pháp lý, tư vấn kinh doanh và hoạch định chiến lược, tư vấn về quảng cáo và truyền thông, giám sát các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn. Việc sử dụng dịch vụ này sẽ đưa lại những điều tốt hơn cho doanh nghiệp. Hai là, xây dựng thương hiệu phải khơi dậy cảm xúc của khách hàng. Để xây dựng một thương hiệu được khách hàng tin cậy thì doanh nghiệp cần phải hiểu rõ người hách hàng của mình hơn ai hết,và luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm trọng tâm cho mọi hoạt động. Ba là, doanh nghiệp phải coi thương hiệu là công cụ bảo vệ lợi ích của mình. Để làm được điều này, trước tiên phải mở rộng thương hiệu bằng cách sử dụng thương hiệu đã thành danh của sản phẩm này cho một loại sản phẩm khác có chung kỹ năng, hoặc tạo ra một sản phẩm mới bổ sung cho sản phẩm đã có để làm tăng sự hài lòng và mức độ cảm nhận của khách hàng mục tiêu với sản phẩm đó. Bốn là, nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Các doanh nghiệp cũng cần nhận thức rằng mình là chủ thể trong các quan hệ về sở hữu trí tuệ. Các nhãn hiệu, kiểu đáng hàng hóa xuất khẩu là tài sản của doanh nghiệp. Do vậy, việc đăng ký sở hữu công nghiệp, đăng ký độc quyền nhãn hiệu hàng hóa, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thương hiệu tại các thị trường mà doanh nghiệp có chiến lược đầu tư kinh doanh là rất cần thiết. 1.7 Xây dựng các chiến lược kinh doanh. Sự yếu kém về tầm nhìn chiến lược trong phát triển kinh doanh là một trong những nguyên nhân của sự thất bại trong phát triển dài hạn. Có DN hoạt động rất thành công ở quy mô nhỏ nhưng thất bại ngay khi bước vào giai đoạn mở rộng quy mô. Các DNVVN đều phải xây dựng khả năng phát triển một cách bền vững, nếu không sẽ khó trụ vững trong cuộc cạnh tranh. Những trường hợp DN phát triển rầm rộ trong một vài năm, sau đó suy yếu nhanh, thậm chí tan vỡ là các minh chứng. Để bồi dưỡng, phát triển năng lực quản lý chiến lược và tư duy chiến lược cho đội ngũ giám đốc và cán bộ kinh doanh trong các doanh nghiệp, cần chú trọng đặc biệt những kỹ năng: Phân tích kinh doanh, dự đoán và định hướng chiến lược, lý thuyết và quản trị chiến lược, quản trị rủi ro và tính nhạy cảm trong quản lý. Về mặt chiến lược cạnh tranh, các doanh nghiệp còn rất yếu về liên kết nhóm. Vừa cạnh tranh vừa hợp tác, hợp tác để tăng cường khả năng cạnh tranh; nếu các DN chỉ thuần tuý chú ý đến mặt cạnh tranh mà bỏ qua mặt hợp tác thì rất sai lầm. Phải biết hợp tác đi đôi với cạnh tranh để giảm bớt căng thẳng và tăng cường năng lực cạnh tranh của DN. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, về cơ bản phụ thuộc vào chiến lược của từng doanh nghiệp cụ thể. Trong thực trạng các DNNVV hiện nay có một số điểm chung cần lưu ý như: - Các doanh nghiệp chưa khai thác hết khả năng tạo uy tín và hiệu quả thông qua chính sách tài chính hỗ trợ tối đa cạnh tranh để có thể tiếp cận nguồn vốn không đến nỗi khan hiếm hiện nay. Các tổ chức tài chính của Việt Nam dù tiềm lực chưa lớn, nhưng nguồn vốn không phải là nhỏ và hiện khan hiếm các dự án hiệu quả để cho vay. Vấn đề là các doanh nghiệp phải năng động, phải đầu tư để có thông tin thị trường và thông tin về đối thủ để có quyết sách đầu tư đúng đắn, qua đó mới có sức mạnh về sản phẩm, về giá cả và quy mô để thắng thế trong cạnh tranh. Các chính sách này không những phải có tầm nhìn dài hạn mà còn phải đủ linh hoạt và năng lực thực hiện. - Phải biết sử dụng đúng đắn tiềm năng con người và xã hội trong tỉnh. Lượng lao động xã hội khá lớn và độ tuổi trung bình trẻ là lợi thế giúp doanh nghiệp nhanh chóng đổi mới kỹ thuật mà không vấp phải lực cản lớn. Tuy nhiên, kỷ luật lao động cần phải được chú trọng nhằm giữ ổn định tổ chức sản xuất và kiểm soát chất lượng. Do tính tiểu nông còn nặng nề, nên người lao động chưa có tác phong công nghiệp, nên tính tự giác lao động chưa cao, còn chuyển công việc theo thu nhập, chưa trung thành với công ty. Do đó, không thể áp dụng nguyên xi các mô hình quản lý doanh nghiệp của phương Tây, nhưng cũng không nên thụ động chờ hoàn cảnh. Điều căn bản trong doanh nghiệp là ban quản lý phải gắn với lợi ích của công nhân, công khai các lo lắng cùng công nhân và tạo nên không khí cởi mở, tin tưởng lẫn nhau. Doanh nghiệp hiện nay cũng còn chi phí quá ít cho đào tạo lâu dài nguồn nhân lực, chất lượng lao động chưa được tiêu chuẩn hóa, ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm và năng suất lao động của doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập cho công nhân, đồng thời giảm chi phí lương trong sản phẩm. Đặc biệt, cần có chiến lược thu hút và sử dụng nhân tài làm việc trong công ty. Có đội ngũ cán bộ quản lý đầy năng lực, tích cực, năng động và tận tụy là lợi thế so sánh lớn nhất của doanh nghiệp trong cạnh tranh. Doanh nghiệp Thanh Hoá phải tích cực mở cửa liên doanh, liên kết với doanh nghiệp khác, kể cả doanh nghiệp ngoài tỉnh, mở rộng hơn là các doanh nghiệp nước ngoài. Kinh nghiệm của các doanh nghiệp thành đạt trên thế giới cho thấy: không có doanh nghiệp nào đủ sức bao trùm mọi thế mạnh của ngành. Đợi chờ sự tích tụ năng lực trong từng doanh nghiệp ngày nay thì rất chậm. Tăng quy mô sản xuất bằng vốn vay cũng chỉ giải quyết được những lợi thế hạn hẹp của một doanh nghiệp, còn liên doanh, liên kết, thậm chí sát nhập để trở thành các tập đoàn kinh tế lớn sẽ ngay lập tức hội tụ được các lợi thế mà từng doanh nghiệp đã tích lũy được theo những con đường khác nhau. Để có thể liên doanh, liên kết thành công, phải biết hy sinh những lợi ích ngắn hạn, biết lựa chiều đối phương để có thể thông qua kế hoạch. Liên kết để cùng hợp lực cạnh tranh có lẽ là mặt yếu kém lớn nhất của doanh nghiệp Thanh Hoá. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các doanh nghiệp còn cần đến cả những liên kết xã hội mang tính ngành nghề nhằm hỗ trợ nhau về mặt tổ chức và pháp lý trong môi trường cạnh tranh quốc tế. 1.8 Xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa có vai trò quan trọng trong sự phát triển, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa doanh nghiệp, nói một cách khái quát là “đạo làm giàu”, tức là làm giàu một cách có văn hóa: Làm giàu cho bản thân, làm giàu cho doanh nghiệp, làm giàu cho xã hội và cho đất nước. Sự giàu có về trí tuệ, về của cải và tính năng động sáng tạo là những giá trị xã hội mà mỗi doanh nhân, mỗi doanh nghiệp phải có. Vì vậy, xây dựng văn hóa doanh nghiệp tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh, tích cực luôn là động lực thúc đẩy sức sáng tạo và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. 1.9 Tăng cường khả năng liên kết, hợp tác các DNNVV với nhau. hiện nay đa số các doanh nghiệp đều có quy mô nhỏ, vốn ít; trình độ học vấn, kiến thức kinh doanh, hiểu biết luật pháp (nhất là luật pháp quốc tế) không cao; trình độ tay nghề của người lao động thấp... Vì vậy, để thực hiện chiến lược cạnh tranh cần phải và nhất thiết phải thực hiện phương châm liên kết và hợp tác để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Sự liên kết và hợp tác không phải là phép tính cộng tổng số các doanh nghiệp, mà chính là tạo ra sức mạnh bội phần của các nhóm, các tập đoàn kinh tế cùng sản xuất kinh doanh một (hoặc một số) sản phẩm nhất định và cùng thực hiện chiến lược thương hiệu, xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm trên thị trường. 2. Kiến nghị về phía chính quyền địa phương. 2.1 Tạo môi trường thuận lợi, giảm chi phí khởi nghiệp và vận hành kinh doanh. Công tác đăng ký thành lập doanh nghiệp đã được thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, nhưng tính đồng bộ và hiệu quả chưa cao. Để tạo điều kiện rút ngắn thời gian và chi phí gia nhập thị trường của doanh nghiệp, giao các sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Công an tỉnh, Cục thuế rà soát lại đề án cải cách thủ tục hành chính về đăng ký kinh doanh, khắc dấu, đăng ký mã số thuế, mua hóa đơn; bàn bạc, thống nhất xây dựng quy trình giải quyết các công việc về đăng ký thành lập doanh nghiệp trình UBND tỉnh quyết định ban hành trong quý 3/2005. Đơn giản hóa quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu công trình; tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận đất đai phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh. Các sở quản lý chuyên ngành thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong thẩm định và cấp chứng chỉ hành nghề, cấp giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo quy định tại quyết định số 181/2003/QĐ-TTg, để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp 2.2 Tăng cường nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Kiểm soát hoạt động các doanh nghiệp, hướng các doanh nghiệp phát triển theo định hướng phát triển doanh nghiệp của tỉnh. 2.3 Tiếp tục thực hiện các chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp. Trong vấn đề kích thich đầu tư: Rà soát các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và khuyến khích đầu tư của tỉnh; đối chiếu với tình hình thực tế để điều chỉnh, bổ sung, hệ thống hóa, phổ biến rộng rãi cho cộng đồng doanh nghiệp và đông đảo nhân dân biết để thực hiện (như chính sách về miễn giảm tiền thuê đất và kết cấu hạ tầng, hỗ trợ tìm kiếm thị trường và xúc tiến thương mại, hỗ trợ đào tạo công nhân, hỗ trợ nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ…). Trong vấn đề tạo điều kiện huy động vốn cho doanh nghiệp: Ngân hàng nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại đa dạng hóa các hình thức tín dụng, mở rộng phạm vi và nâng cao mức độ cho vay đối với các doanh nghiệp dân doanh. Cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ ngân hàng, chủ động tiếp cận doanh nghiệp để hướng dẫn nghiệp vụ, thẩm định dự án, giám sát sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đảm bảo lợi ích của chung doanh nghiệp và ngân hàng. Các tổ chức tín dụng trên địa bàn chủ động ban hành các chính sách lãi suất huy động vốn một cách linh hoạt, thực hiện có kết quả một số biện pháp gửi tiền tiết kiệm…Các tổ chức tín dụng nên quan tâm hơn đến khối doanh nghiệp dân doanh, thực hiện cho vay dựa trên cơ sở tính hiệu quả của dự án, thường xuyên cải tiến quy trình, thủ tục cho vay theo hướng đơn giản thuận tiện, giảm thiểu phiền hà cho doanh nghiệp vay vốn. Trong vấn đề hỗ trợ khoa học công nghệ: Sở Khoa học – Công nghệ nghiên cứu đề xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng thành tựu khoa học – kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ, như chính sách hỗ trợ lãi suất cho đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, hỗ trợ thuê chuyên gia, hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng Giám đốc, đào tạo công nhân lành nghề; hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế, đăng ký bản quyền sở hữu công nghiệp, đăng ký nhãn mác, xây dựng và củng cổ thương hiệu sản phẩm. 2.4 Tạo lập môi trường tâm lý xã hội, nâng cao nhận thức của cộng đồng về phát triển doanh nghiệp. Đài truyền hình cần mở thêm chuyên trang, chuyên mục hàng tuần để tăng cường hơn nữa việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, pháp luật, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân, phát triển doanh nghiệp, các sở ngành chịu trách nhiệm cung cấp nội dung, thông tin giải đáp các vướng mắc cho các doanh nghiệp. Thực hiện tốt chương trình hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho DNNVV để trang bị và nâng cao kiến thức về kinh tế thị trường, năng lực tổ chức, quản ký sản xuất kinh doanh, năng lực quản lý kỹ thuật và công nghệm chuyển giao công nghệ cho cán bộ doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp; đào tạo khởi sự doanh nghiệp giúp cho những người có nguyện vọng phát triển bằng con đường kinh doanh nắm chắc các quy định hiện hành của nhà nước về thành lập và hoạt động của doanh nghiệp cũng như các kiến thức và kỹ năng thành lập chiến lược kinh doanh. Kết luận Tỉnh Thanh Hóa là một tỉnh nhỏ thuộc khu vực miền Trung, được đánh giá là tỉnh có nhiều tiềm năng trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, những tiềm năng của tỉnh vẫn chưa được khai thác hợp lý và có hiệu quả. Các DNNVV trong tỉnh với nguồn vốn ban đầu ít, nhân lực hạn chế nhưng đã bước đầu khai thác những nguồn lực sẵn có trong tỉnh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nguồn lực sẵn có trong tỉnh bao gồm lao động nhàn rỗi, các tài nguyên khoáng sản, mây tre đan, cói…Đặc điểm của DNNVV trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đó là tỷ suất sử dụng lao động/ công nghệ là lớn. Vì thế, có những doanh nghiệp có số lao động lớn hơn 300 lao động những vẫn chỉ được xem là DNNVV. Tuy nhiên, các DNNVV trên địa bàn tỉnh chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương mại chiếm tỷ trọng cao. Trong lĩnh vực dịch vụ, một số doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo tính chất thời vụ như các doanh nghiệp hoạt động môi giới lao động xuất khẩu…sau một thời gian hoạt động thì ngừng do hoạt động không có lãi. Thực tế, trong tất cả các doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh thì chí có khoảng 55% doanh nghiệp là hoạt động có lãi. Các doanh nghiệp mang tính lâu dài là những doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, các doanh nghiệp tạo ra sản phẩm. Việc nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp này là việc cần thiết và phải được thực hiện ngay. Sự xuất hiện của các hiệp hội như: hiệp hội Cói, hiệp hội Ga, hiệp hội các DNNVV…trên địa bàn tỉnh đã phần nào minh chứng được khả năng liên kết của các doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf111327_8747.pdf
Luận văn liên quan