MỞ ĐẦU
Pháp luật nước ta đã quy định tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Để thực hiện tốt chức năng xét xử của mình thì mọi hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của tòa án thì mọi hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của bộ luật Tố Tụng Hình Sự khi tiến hành giải quyết các vụ án Hình sự. Cụ thể là khi tiến hành giải quyết các vụ án hình sự thì phải tuân thủ những quy định của bộ luật tố tụng hình sự về những vấn đề liên quan dến quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và những quy định trong quá trình xét xử nói riêng. Một trong những nguyên tắc quan trọng bậc nhất được quy định trong điều 16 bộ luật tố tụng hình sự để đảm bảo cho việc xét xử của toàn án được đúng người đúng tội đúng pháp luật là “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.Và theo điều 130 Hiến Pháp năm 1992 cũng có quy định “ khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Như vậy Bộ luật tố tụng hình sự đã ghi lại nội dung này và lấy nó làm một trong những nguyên tắc xét xử. Nội dung của nguyên tắc này còn được ghi nhận tại Điều 5 của luật tổ chức tòa án Nhân dân năm1992, điều 3 pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm tòa án nhân dân.
Nguyên tắc này được hiểu là:
Khi xét xử bất kỳ một vụ án nào, ở bất kỳ cáp xét xử nào nếu được phân công làm chủ tọa hay tham gia hội đồng xét xử thẩm phán và hội thẩm không phụ thuộc vào bất cứ cá nhân hay tổ chức nào trong việc đưa ra các ý kiến và phán quyết của mình về vụ án;
Căn cứ duy nhất mà thẩm phán và hội thẩm dựa vào để xét xử là pháp luật.
NỘI DUNG
Ở nước ta trong tất cả các bản hiến pháp từ hiến pháp năm 1946, 1959, 1980,1992 đến Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung đều có các điều luật quy định tòa án là cơ quan xét xử. Cùng với sự phát triển chung của xã hội, hệ thống tòa án của nước ta ngày càng được củng cố, hoàn thiện và cho tới ngày nay, tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động. Đoạn một điều 127 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung quy định “tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương,các tòa án quân sự và các toàn án khác do luật quy định là những cơ quan xét xử của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, và tòa án thực hiện chức năng xét xử thông qua các thẩm phán và hội thẩm. Khi được chánh án phân công thẩm phán và hội thẩm trở thành người tiến hành tố tụng và có toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến vụ án được giao. Khi thực hiện công việc xét xử, cùng với việc tuân thủ các nguyên tắc khác nhau của tố tụng, thẩm phán và hội thẩm phải tuân thủ nguyên tắc “Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây là một nguyên tắc Hiến định được quy định tại điều 130 Hiến pháp năm 1992 vừa là nguyên tắc của các hình thức tố tụng như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng lao động, tố tụng kinh tế và là một trọng tâm của luật tố tụng hình sự. Việc nghiên cứu và tìm hiểu nội dung của nguyên tắc này không chỉ có ý nghĩa với các cơ quan và cán bộ làm công tác pháp luật mà còn cần thiết đối với các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và mọi công dân vì nó đảm bảo cho thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử không bị ràng buộc bởi bất cứ yếu tố nào khác ngoài pháp luật đồng loại trừ mọi sự can thiệp từ bên ngoài vào hoạt động xét xử của Tòa án. Mặt khác việc tìm hiểu và nắm vững nguyên tắc này tạo điều kiện cho tòa án giải quyết vụ án đúng người đúng tội đúng pháp luật chống được các biểu hiện tiêu cực nhằm từng bước thực hiện công bằng xã hội trong tố tụng hình sự.
Nguyên tắc “Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” không chỉ là một nguyên tắc cơ bản được quy định trong hiến pháp của Nhà nước ta mà còn được quy định trong hiến pháp của nhiều nước trên Thế Giới. Tuy việc quy định có khác nhau về hình thức nhưng về nội dung thì cơ
24 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5032 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm tòa án nhân dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Pháp luật nước ta đã quy định tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Để thực hiện tốt chức năng xét xử của mình thì mọi hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của tòa án thì mọi hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của bộ luật Tố Tụng Hình Sự khi tiến hành giải quyết các vụ án Hình sự. Cụ thể là khi tiến hành giải quyết các vụ án hình sự thì phải tuân thủ những quy định của bộ luật tố tụng hình sự về những vấn đề liên quan dến quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và những quy định trong quá trình xét xử nói riêng. Một trong những nguyên tắc quan trọng bậc nhất được quy định trong điều 16 bộ luật tố tụng hình sự để đảm bảo cho việc xét xử của toàn án được đúng người đúng tội đúng pháp luật là “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.Và theo điều 130 Hiến Pháp năm 1992 cũng có quy định “ khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Như vậy Bộ luật tố tụng hình sự đã ghi lại nội dung này và lấy nó làm một trong những nguyên tắc xét xử. Nội dung của nguyên tắc này còn được ghi nhận tại Điều 5 của luật tổ chức tòa án Nhân dân năm1992, điều 3 pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm tòa án nhân dân.
Nguyên tắc này được hiểu là:
Khi xét xử bất kỳ một vụ án nào, ở bất kỳ cáp xét xử nào nếu được phân công làm chủ tọa hay tham gia hội đồng xét xử thẩm phán và hội thẩm không phụ thuộc vào bất cứ cá nhân hay tổ chức nào trong việc đưa ra các ý kiến và phán quyết của mình về vụ án;
Căn cứ duy nhất mà thẩm phán và hội thẩm dựa vào để xét xử là pháp luật.
NỘI DUNG
Ở nước ta trong tất cả các bản hiến pháp từ hiến pháp năm 1946, 1959, 1980,1992 đến Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung đều có các điều luật quy định tòa án là cơ quan xét xử. Cùng với sự phát triển chung của xã hội, hệ thống tòa án của nước ta ngày càng được củng cố, hoàn thiện và cho tới ngày nay, tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động. Đoạn một điều 127 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung quy định “tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa phương,các tòa án quân sự và các toàn án khác do luật quy định là những cơ quan xét xử của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, và tòa án thực hiện chức năng xét xử thông qua các thẩm phán và hội thẩm. Khi được chánh án phân công thẩm phán và hội thẩm trở thành người tiến hành tố tụng và có toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến vụ án được giao. Khi thực hiện công việc xét xử, cùng với việc tuân thủ các nguyên tắc khác nhau của tố tụng, thẩm phán và hội thẩm phải tuân thủ nguyên tắc “Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây là một nguyên tắc Hiến định được quy định tại điều 130 Hiến pháp năm 1992 vừa là nguyên tắc của các hình thức tố tụng như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng lao động, tố tụng kinh tế và là một trọng tâm của luật tố tụng hình sự. Việc nghiên cứu và tìm hiểu nội dung của nguyên tắc này không chỉ có ý nghĩa với các cơ quan và cán bộ làm công tác pháp luật mà còn cần thiết đối với các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và mọi công dân vì nó đảm bảo cho thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử không bị ràng buộc bởi bất cứ yếu tố nào khác ngoài pháp luật đồng loại trừ mọi sự can thiệp từ bên ngoài vào hoạt động xét xử của Tòa án. Mặt khác việc tìm hiểu và nắm vững nguyên tắc này tạo điều kiện cho tòa án giải quyết vụ án đúng người đúng tội đúng pháp luật chống được các biểu hiện tiêu cực nhằm từng bước thực hiện công bằng xã hội trong tố tụng hình sự.
Nguyên tắc “Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” không chỉ là một nguyên tắc cơ bản được quy định trong hiến pháp của Nhà nước ta mà còn được quy định trong hiến pháp của nhiều nước trên Thế Giới. Tuy việc quy định có khác nhau về hình thức nhưng về nội dung thì cơ bản là giống nhau. Điều 88 Hiến pháp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên quy định: “ Trong khi thi hành chức quyền của mình, các thẩm phán đều độc lập và chỉ phục tùng pháp luật”. Điều 127 Hiến pháp nước Cộng hòa dân chủ Đức cũ (năm 1949) quy định: “ Thẩm phán độc lập khi xét xử, chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật”. Khoản 1 Điều 97 Hiến pháp nước Cộng hòa liên bang Đức năm 1959 quy định: “Thẩm phá xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Ở Việt Nam, nguyên tắc “ Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” có lich sử hình thành và phát triển từ lâu. Sau cách mạng tháng Tám thành công, ngày 24/1/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức tòa án và các ngạch thẩm phán, trong đó có quy định: “Tòa án tư pháp sẽ độc lập với cơ quan hành chính, các quy định thẩm phán sẽ chỉ trong pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào tư pháp. Mỗi thẩm phán quyết định theo pháp luật và lương tâm của mình không quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án”. Mặt khác, Sắc lệnh số 13/SL còn quy định “Các phụ thẩm nhân dân có bổn phận lấy lý trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét mọi việc rồi phát biểu ý kiến một các công bằng, không vì nể, vì sợ một thế lực nào, vì lợi ích riêng hay tư thù mà bênh vực hay làm hại ai”
Điều 69 Hiến pháp năm 1946 cũng quy định “Trong khi xét xử các thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. Những quy định trên ít nhiều đã thể hiện được phần nào nội dung của nguyên tắc “ Khi xét thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Hiến pháp năm 1959 ra đời nguyên tắc này chỉ được ghi nhận một cách rõ nét hơn: “Khi xét xử tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 100 Hiến pháp năm 1959 và điều 4 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960). Sau khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất về mặt nhà nước, năm 1980 Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Trên cơ sở hiến pháp năm 1980, luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1981 và Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành. Nguyên tắc này được khẳng định cụ thể hơn: “ Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam tháng 12 năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Hiến pháp năm 1992 ra đời, một lần nữa nguyên tắc này được khẳng định một cách rộng rãi hơn ( Điều 130 Hiến pháp 1992, Điều 5 luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1992 và Điều 3 pháp lệnh về thẩm phán và hội thẩm nhân dân).
I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC
Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khi xét xử tòa án không nhân danh mình mà nhân danh Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay không két tội bị cáo. Vì thế Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “ Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Hoạt động xét xử là hoạt động có tính đặc thù và chỉ do tòa án thực hiện, quyết định của tòa án được đặc trưng bởi tính “dứt điểm” của nó. Do đó yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện đầy đủ; đúng người đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội.
Nguyên tắc “ Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào các quyết định hoặc kết luận của cơ quan điều tra, viện kiểm sát. Tức là độc lập với hồ sơ vụ án độc lập với bản cáo trạng và quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Thẩm phán và hội thẩm căn cứ vào các tình tiết của vụ án, các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa thông qua điều tra trực tiếp nghe tranh luận của các bên, đồng thời căn cứ vào các quy địn của pháp luật để quyết định bản án, không phụ thuộc vào ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát về việc xác định có tội hay không và hình phạt cần áp dụng mà hội đồng xét xử phải tự mình nghiên cứu lại toàn bộ hồ sơ vụ án, kết hợp với những chứng cứ mới thu được tại phiên tòa xét xử để có kết luận về từng vấn đề một cách khách quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được làm sáng tỏ.
Thẩm phán và hội thẩm được giao giải quyết vụ án không thể ra ngay quyết định hay bản án xác địn bị cáo có tội hay không có tội, hoặc dựa theo chứng cứ và những tình tiết đã được cơ quan điều tra, viện kiểm sát sử dụng để chứng minh tội phạm và người phạm tội, mà hội đồng xét xử độc lập xem xét, tiến hành mở phiên tòa xét xử. Thông qua xét xử để điều tra, xác định các tài liệu, chứng cứ của vụ án, thể hiện quan điểm của hội đồng xét xử mà không phụ thuộc kết luận điều tra ban đầu của cơ quan điều tra, ý kiến của viện kiểm sát hay bất cứ một tác động nào khác.
Sự độc lập giữa tòa án cấp trên và tòa án cấp dưới.
Tòa án cấp trên không quyết định trước là Tòa án cấp dưới phải xét xử một vụ án cụ thể như thế nào. Theo các quy định của Hiến pháp năm 1992 và luạt tổ chức tòa án nhân dân 1992 thì hệ thống cơ quan xét xử của nhà nước ta được tổ chức theo một hệ thống dọc từ Trung ương tới địa phương ( Điều 127 Hiến pháp điều 2 luật tổ chức tòa án nhân dân). Trong hệ thống đó tòa án nhân dân Tối cao là cơ quan xét xử cao nhất. Tuy nhiên tính “cao nhất” ở đây không đồng nghĩa với sự chỉ huy tuyệt đối. Trong tất cả các quy định về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án không có bất kỳ một quy định nào về chỉ huy và phục tùng trong hoạt động nghiệp vụ giữa Tòa án cấp trên và Tòa án cấp dưới. Tính “cao nhất” của Tòa án nhân dân Tối cao trong hệ thống cơ quan xét xử của nước ta thể hiện ở chỗ “ Tòa án nhân dân Tối cao Giám đốc việc xét xử của các tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự. Tòa án nhân dân Tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án đặc biệt và các tòa án khác trừ trường hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập tòa án đó (Điều 134 Hiến pháp 1992)
3. Sự độc lập giữa thẩm phán và hội thẩm khi xét xử thể hiện giữa các trình tự xét xử.
Quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn thể hiện một hướng nhất định của hoạt động tố tụng. Sự phân chia các giai đoạn này gắn liền với trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng. Mỗi giai đoạn tuy độc lập nhưng vẫn nằm trong một quan hệ khăng khít và tạo thành một hoạt động thống nhất.
Nhiệm vụ của cơ quan điều tra là xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, đây là vấn đề cơ bản phải làm rõ trong vụ án hình sự. Trong giai đoạn thu thập phải làm rõ có hay không có sự việc phạm tội, đối chiếu với bộ luật hình sự xem hành vi phạm tội thuộc vào điều khoản nào. Khi đã xác định có tội phạm xảy ra, cơ quan điều tra phải làm rõ ai là người thực hiện hành vi phạm tội. Xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Nếu có đủ chứng cứ để chứng minh tội phạm và người phạm tội thì hoàn thành hồ sơ vụ án chuyển sang viện kiểm sát cùng với quyết định điều tra.
Khi nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, viện kiểm sát xem xét toàn bộ hồ sơ vụ án từ thủ tục tố tụng đến phần các chứng cứ và phần các vấn đề khác có liên quan đến hồ sơ vụ án, nếu thấy đủ chứng cớ để truy tố bị can trước tòa bằng bản cáo trạng. Bản cáo trạng giới hạn việc xét xử của tòa án tạo điều kiện để tòa án chỉ xem xét bị cáo, những hành vi theo tội danh đã nêu trong bản cáo trạng, mà không phải xét xử những người, những tội không có trong cáo trạng.
Như vậy mỗi giai đoạn tố tụng hình sự có sự độc lập của nó, trên cơ sở những chứng cứ và những tình tiết của vụ án để tự mình ra một quyết định theo thẩm quyền. Tuy nhiên, giai đoạn trước làm tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Cứ kết thúc một giai đoạn lại phải có kết luận đưới hình thức văn bản tố tụng để giải quyết vụ án hay chuyển vụa án sang giai đoạn kế tiếp. Hồ sơ qua giai đoạn điều tra, đến khi có quyết định truy tố bị can trước tòa là một quá trình được làm hết sức chặt chẽ và nghiêm túc, theo đúng quy định của pháp luật, thể hiện quan điểm của từng cơ quan tố tụng. Đến đây các tài liệu, chứng cứ sử dụng chứng minh trong vụ án đã đáng tin cậy, nhưng cũng chỉ được coi là kết quả điều tra ban đầu, còn kết quả điều tra tại phiên tòa mới được coi là chính thức và được sử dụng cho kết luận của bản án. Vì thế hội đồng xét xử không được coi tài liệu, chứng cứ đã qua hai cơ quan tiến hành tố tụng là đã được kiểm tra, xác minh chính xác, nên có thể không cần điều tra tại phiên tòa mà sử dụng ngay làm căn cứ cho bản án. Sau khi tiếp nhận hồ sơ cùng bản cáo trạng từ viện kiểm sát chuyển qua, tòa án thụ lý vụ án phân công thẩm phán chủ tọa phiên tòa nghiên cứu hồ sơ vu án. Nếu nhạn thấy có thể đưa vụ án ra xét xử thì phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng phải đảm bảo thời gian nhất định theo quy định của pháp luật, đủ để chủ tọa phiên tòa nắm chắc về vụ án. Trong thực tế đã từ lâu hình thành một lề lối làm việc trong các tòa án gọi là duyệt án. Tất cả cá vụ án, trước khi được đem ra xét xử công khai đều phải được duyệt trước. Thông thường thẩm phán được giao chủ tọa phiên tòa nghiên cứu kỹ hồ sơ trước và phải chuẩn bị ý kiến sẽ thẩm vấn như thế nào và sẽ có hướng giải quyết vụ án như thế nào, sau đó báo cáo trước một tập thể rộng, hẹp khác nhau nhưng bao giờ cũng có cán bộ lãnh đạo của tòa án. Người lãnh đạo của tòa án này sẽ có ý kiến tổng hợp và hướng dẫn cách xử xự cụ thể đến mức độ nào tùy theo từng người và cũng tùy từng trường hợp. Việc báo cáo án là để tranh thủ ý kiến tập thể làm sáng tỏ các tình tiết vụ án giúp thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thêm cơ sở vững chắc, một niềm tin nội tâm vững vàng khi mà vụ án được quyết định đưa ra xét xử. Các ý kiên không làm ảnh hưởng tới tính độc lập xét xử của các thẩm phán và hội thẩm tại phiên tòa, thẩm phán và bồi thẩm tham gia xét xử vụ án đều được nghiên cứu hồ sơ kỹ càng, hoặc thẩm vấn cho cả vụ án và từng đối tượng. Giai đoạn chuẩn bị cho xét xử cũng được xác định là rất quan trọng, tạo cơ sở cho từng thành viên hội đồng xét xử nắm vững về vụ án, có kế hoạch trong xét xử không bị thụ động, lúng túng trước diễn biến phức tạp của phiên tòa. Làm tốt mọi công tác chuẩn bị sẽ làm cho hội đồng xét xử yên tâm, có lập trường vững vàng để độc lập quyết định theo đúng thực tế vụ án, đúng pháp luật.
Tại phiên tòa xét xử, hội đồng xét xử tiến hành các hoạt động xét hỏi, xem xét các chứng cứ, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo đều có quyết định bị cáo có tội hay không có tội và hình phạt. Hội dồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Nội dung của việc xét hỏi là xác định những tình tiết chứng minh bị có có phạm tội hay không, và nếu bị cáo bị truy tố về nhiều tội thì phải xét hỏi để chứng minh từng tội. Những tình tiết cần thiết để giải quyết việc bồi thường cũng phải được xác minh đầy đủ. Những chứng cứ buộc tội và những chứng cứ gỡ tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ đều phải điều tra xác minh tại phiên tòa.
Trình tự xét hỏi tại phiên tòa do bộ luật tố tụng hình sự quy định, tuy nhiên khi hỏi về những tình tiết của một việc hoặc một tội, điều luật không quy định cụ thể, chủ tọa phiên tòa phải xét hỏi theo một trình tự nhất định nào (hỏi ai trước , hỏi ai sau) mà chỉ quy định là cần phải hỏi theo “thứ tự xét hỏi hợp lý”. Vì vậy, tùy theo mức độ phức tạp của vụ án va yêu cầu về làm sáng tỏ sự thật khách quan, có thể xét hỏi theo những cách như: Hỏi người bị hại rồi mới hỏi bị cáo và những người khác, hoặc hỏi bị cáo trước rồi mới hỏi những người khác….Nếu trong vụ án có nhiều sự việc, nhiều tội, thì hỏi về sự việc và tội phạm quan trọng trước và hỏi về sự việc và tội ít quan trọng sau. Nếu vụ án không phức tạp thì sau khi hỏi bị cáo, người bị hại… và những tình tiết của tội phạm chủ tọa phiên tòa có thể hỏi luôn về việc bồi thường. Nếu vụ án phức tạp thì sau khi đã xác định xong những dấu hiệu của tội phạm mới xác định những vấn đề bồi thường. Trường hợp không lấy được lời khai trực tiếp của một người tại phiên tòa, mà theo quy định của pháp luật không phải dừng phiên tòa xét xử thì công bố lời khai của họ, lời khai đó được sử dụng như lời khai được xét hỏi tại phiên tòa.
Sau khi kết thúc xét hỏi thì đến giai đoạn tranh luận tại phiên tòa ở giai đoạn xét hỏi hội đòng xét xử mới kiểm tra các chứng cứ,do đó, sau khi xét hỏi cần phải bảo đảm cho kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự được phát biểu ý kiến về việc phân tích đánh giá chứng cứ và xử lý vụ án cho đúng pháp luật, Trong lời luận tội, kiểm sát viên phải căn cứ vào những chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa mà đánh giá chứng cứ, xác định những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, những tình tiết tăng nặng, những tình tiết giảm nhẹ để đề nghị với tòa án quyết định bị cáo có phạm tội hay không, và nếu kết tội bị cáo thì xét xử về hình sự và giải quyết việc bồi thường thiệt hại. Cũng cần phải nói rằng, các ý kiến của ngững người tham gia tố tụng nêu trên kể cả ý kiến đề nghị về hình sự, dân sự của công tố viên khi luận tội cũng không thể buộc hội đồng xét xử phải theo ý kiến của họ, mà các ý kiến đó chỉ là để tranh luận làm sáng tỏ vài đề nghị để hội đồng xét xử lưu ý để khi xem xét trong nghị án. Việc quyết định cuối cùng vẫn thuộc về hội đồng xét xử qua việc xem xét đánh giá các chứng cứ, các tài liệu được điều tra trực tiếp tại phiên tòa.
Qua tranh luận mà xét thấy cần phải xem xét thêm chứng cứ thì hội đồng xét xử có thể quy định trở lại xét hỏi, xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận. Sau những thủ tục xét hỏi và tranh luận, chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc tranh luận cho bị cáo nói lời cuối cùng, sau đó xem xét đến việc rút quyết định truy tố của viện kiểm sát nếu có và chuyển sang phần nghị án. Khoản 1 Điều 196 bộ luật tố tụng hình sự quy định, chỉ có thẩm phán và hội thẩm mới có quyền nghị án. Các thành viên của hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một. Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyết định trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đề vào hồ sơ.
4.Tòa án hoàn toàn độc lập trong xét xử không cho phép bất cứ ai, bất cứ cơ quan nhà nước nào can thiệp vào việc xét xử của tòa án, buộc hội đồng xét xử phải tuân theo ý muốn chủ quan của mình.
Với quy định trên đảm bảo cho hội đồng xét xử khi xem xét đi đến kết luận cuối cùng không bị tác động chi phối của bất kỳ một cơ quan nào, tổ chức hay cá nhân nào chỉ có các thành viên hội đồng xét xử cùng với kết quả điều tra tại phòng xét xử án. Từng thành viên hội đồng xét bằng khả năng của bản thân cảm nhận về vụ án và căn cứ theo quy định của pháp luật để đưa ra ý kiến của mình về vụ án.Kết quả xem xét của hội đồng xét xử được lấy theo ý kiến đa số của thành viên. Như vậy, tại phòng nghị án từng thành viên của hội đồng xét xử có quyền lập suy nghĩ đánh giá sự việc theo niềm tin chân thật của mình không phụ thuộc vào bất cứ một định kiến nào, không phụ thuộc vào ý kiến của các thành viên khác. Từ quyết định độc lập của từng thành viên để đi đến quyết định của tập thể hội đồng xét xử được khách quan, phù hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ. Tòa án dộc lập với các cơ quan khác của nhà nước như sau.
Các cơ quan quản lý không được can thiệp vào việc xét xử của tòa án vì công tác xét xử đã được Nhà nước giao cho tòa án, sự ràng buộc của tòa án với các cơ quan quản lý là sự ràng buộc về quản lý hành chính Nhà nước. Sự độc này được xác định đương nhiên theo nguyên tắc chung tổ chức cơ quan Nhà nước, bảo đảm cho các cơ quan Nhà nước trong hoạt động thực hiện chức năng của mình có sự độc lập tương đối, có thẻ gọi là độc lập về nghiệp vụ. Mà hội đồng xét xử lại được cử theo từng vụ án cụ thể, hoạt động có tính dộc lập quyết địnhcacs vấn đề của vụa ns, lại càng không thể phụ thuộc vào các cơ quan quản lý về mặt xét xử vụ án.
Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án đều là công cụ của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ quyền lợi của người lao động. Tuy nhiên mỗi cơ quan đều có chức năng nhiệm vụ riêng khi tham gia vào quá trình tố tụng. Tại phiên tòa kiểm sát viên đưa ra chính kiến của mình nhưng không buộc hội đồng xét xử phải thực hiện theo.
Tòa án không lệ thuộc vào ý kiến của cơ quan điều tra, viện kiểm sát. Nếu qua phiên tòa xét thấy cần phải xử lý khác với ý kiến của các cơ quan trên thì hội đồng xét xử phải căn cứ vào pháp luật mà xử lý chính xác. Hội đồng xét xử còn có quyền đổi tội danh nhẹ hơn hoặc thay đổi tội danh mà viện kiểm sát đã truy tố bằng một tội danh khác cùng khách thể và có cùng hình phạt tối đa.
Độc lập của thẩm phán và hội thẩm khi xét xử còn được thể hiện trong quan hệ giữa các cấp xét xử. Sự hướng dẫn công tác xét xử của tòa án cấp trên đối với tòa án cấp dưới là hết sức cần thiết, bảo đảm cho việc áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử xhung trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên tòa án cấp trên không quyết định trước là tòa án cấp dưới phải xét xử một vụ án như thế nào mà tòa án cấp trên chỉ hướng dẫn tòa án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử. Nếu có vụ án nào đó tòa án cấp dưới tranh thủ ý kiến của tòa án cấp trên, thì cũng chỉ là trao đổi ý kiến về nghiệp vụ những văn bản pháp luật cần áp dụng, để tòa án cấp dưới giải quyết vụ án cho đúng pháp luật, chứ không đặt ý kiến cụ thể về việc giải quyết vụ án đó.
Mặt khác khi tòa án cấp trên xét xử theo thủ tục phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm hủy bản án của cấp duới để xét xử lại, thì tòa án cấp dưới phải xét xử lại vụ án đó theo quyền hạn, nhưng khi xét xử lại, hội đồng xét xử vẫn có quyền độc lập. Chẳng hạn khi hủy án sơ thẩm để xét xử lại, tòa án cấp phúc thẩm không quyết định trước những chứng cứ mà tòa án cấp sơ thẩm phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ, cũng như không quyết định trước về điều khoản bộ luật hình sự và hình phạt mà tòa án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng. Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án để xét xử sơ thẩm lại nếu khi xét xử vụ án, tòa án cấp sơ thẩm vi phạm các quy định ở điều 160 bộ luật tố tụng hình sự về thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm, hoặc có những vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng như: xét xử không đúng thẩm quyền, vi phạm các quy định về bào chữa của bị cáo, xử vắng mặt bị cáo trong những trường hợp pháp luật không cho phép xử vắng mặt họ …. khi xét xử lại vụ án, tòa án cấp sơ thẩm có quyền quyết định trong phạm vi quyền hạn của mình ụ án, tòa án cấp sơ thẩm có quyền quyết định trong phạm vi quyền hạn của mình những vấn đề về vụ án, nhưng phải khắc phục những thiếu sót mà tòa án cấp phúc thẩm đã chỉ ra.
Quan hệ giữa tòa án và cơ quan tư pháp. Theo Điều 16 luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1992 thì việc quản lý các tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ trưởng bộ tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với chánh án tòa án nhân dân tối cao. Việc quy định trên là để các cơ quan tư pháp quan tư pháp quản lý tòa án về mặt tổ chức chức chứ không có quyền can thiệp vào hoạt động xét xử làm mất đi tính độc lập của thẩm phán và hội thẩm. Quản lý về mặt tổ chức như việc xây dựng và hình thành tổ chức, chức năng nhiệm vụ của các tổ chức trong tòa án sao cho phù hợp, quản lý về con người xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng quy hoạch cán bộ tòa án, quy hoạch đào tạo, bổ nhiệm, xét tính nâng lương, khen thưởng, quản lý kinh phí hoạt động của tòa.
Độc lập xét xử của thẩm phán và hội thẩm cũng có nghĩa là hội đồng xét xử hoàn toàn độc lập với tòa án của mình, nhưng thẩm phán cũng được xin ý kiến hướng dẫn của tòa án mình như mối quan hệ tòa án cấp dưới với tòa án cấp trên.
Sự độc lập của tòa án với yêu cầu của bị can, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.
Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm không chỉ độc lập với các cơ quan Nhà nước nói trên mà còn độc lập với yêu cầu của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác độc lập với ngưoif bào chữa, độc lập giữa các thành viên hội đồng xét xử với nhau…. Các thành viên hội đồng xét xử hoàn toàn độc lập trong xem xét đánh giá các tình tiết và chứng cứ có liên quan đến vụ án. Khi nghị án các thành viên hội đồng xét xử xem xét tất cả các vấn đề trong vụ án, từng thành viên được độc lập dưa ra quan điểm của mình về phân tích đánh giá các tài liệu, chứng cứ và đưa ra quyết định của mình mà không phụ thuộc vào các thành viên khác. Giữa các thành viên hội đồng xét xử không được áp đặt ý kiến khác nhau, thẩm phán không có quyền áp đặt ý kiến của mình với hội thẩm và ngược lại hội thẩm cũng không được áp đặt ý kiến với thẩm phán. Quyết định của bản án là quyết định của đa số các thành viên trong hội đồng xét xử. Việc quyết định theo đa số này càng đòi hỏi tính độc lập của từng thành viên hội đồng xét xử, có như vậy mới dảm bảo tính khách quan của đa số. Quyết định theo đa số vừa bảo đảm tính tập trung dân chủ nó còn thể hiện nguyên tắc khi xét xử hội thẩm ngang quyền với thẩm phán.Đây là điều kiện quan trọng để hội thẩm phát huy vai trò người đại diện của mình cho nhân dân lao động tham gia công tác xét xử của tòa án, đồng thời bảo đảm cho tiếng nói của nhân dân có tính chất quyết định trong công tác xét xử của tòa án. Khi xét xử các thành viên hội đồng xét xử đều được tham gia xét hỏi và nghị án. Để thực hiện được quyền của mình thì các hội thẩm phải nêu cao ý thức trách nhiệm phát huy được vai trò của mình ngay từ khâu đầu tiên là nghiên cứu, nắm chắc hồ sơ làm cơ sở cho việc xét hỏi tại phiên tòa.
6. Khi xét xử các thành viên của hội dồng xét xử độc lập với nhau trong suy nghĩ, trong việc xem xét kiểm tra và đánh giá chứng cứ.
Giữa các thành viên của hội đồng xét xử được độc lập xem xét đánh giá về các vấn đề của vụ án nhưng trong hội đồng xét xử, nếu các thành viến có hạn chế về năng lực thì các thành viên khác cần giúp đỡ họ trong việc nghiên cứu hồ sơ, nghiên cứu pháp luật để giải quyết vụ án, về nhận định dánh giá chứng cứ để họ có cơ sở vững chắc trong việc xem xét đánh giá, mà không được lợi dụng sự chênh lệch này để áp đặt ý kiến của mình cho thành viên khác.
Khi xét xử tòa án và thẩm phán nhân dân độc lập không có nghĩa là tách rời đường lối chính sách của Đảng, Đảng không chỉ đạo xét xử từng vụ án cụ thể nhưng Đảng chỉ đạo đường lối xét xử chung trong từng giai đoạn. Báo cáo chính trị tại đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ sáu của Đảng đã chỉ rõ: “Đảng không cho phép ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật, mọi vi phạm đều được đưa ra xử lý theo pháp luật, khong được giữ lại để xử lý nội bộ, không làm theo kiểu pháp luật Phong kiến: dân thì phải chịu hình phạt, quan thì xử theo “lễ”….Phải nghiêm trị tất cả những kẻ phạm tội bất kỳ ở cương vị nào và phải đảm bảo công bằng về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân”. Đảng ta đã xác định: “Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, là một trong những bảo đảm cần thiết để nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án đồng thời nó cũng là trách nhiệm nặng nề của tòa án.
II Khi xét xử Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà phải độc lập trong khuôn khổ pháp luật, phải tuân theo pháp luật.
Việc nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định của bộ luật trước hết là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, đó là cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án. Các cơ quan này phải hoạt động theo đúng nhiệm vụ, quyền hạn và thủ tục do pháp luật quy định bởi vì mọi vi phạm pháp luuatj của cơ quan tiến hành tố tụng đều có thể dẫn đến xử lý oan sai vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm tổn hại đến uy tín của hoạt động tư pháp XHCN, làm giảm lòng tin của nhân dân vào hiệu lực và sự công minh của pháp luật. Các cơ quan tiến hành tố tụng không những tự mình phải tuân theo các quy định của bộ luật, mà còn phải phổ biến cho những người tham gia tố tụng biết quyền lợi nghĩa vụ của họ khi thamgia hoạt động tố tụng, để họ chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Tức là họ chỉ được hành động trong phạm vi quyền hạn của mình và theo trình tự thủ tục đã được bộ luật quy định. Ngoài ra các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải kịp thời ngăn chặn mọi vi phạm về luật tố tụng hình sự của những người tham gia tố tụng.
Các cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác minh sự thật của vụ án một cánh khách quan, toàn diện, đầy đủ làm rõ những chứng cứ, những tình tiết về vụ án.
Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập nhưng cũng phải bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án (điều 20 bộ luật tố tụng hình sự). Hội đồng xét xử phải tôn trọng các quyền của những người tiến hành tố tụng về việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước tòa. Không thể coi trọng quyền của người này hơn quyền cảu người kia nhất là phải bảo đảm cho bị cáo và người bào chữa không bị hạn chế trong việc trình bầy trước tòa mọi tình tiết của vụ án, các chứng cứ, lý lẽ để hội đồng xét xử xem xét và trên cơ sở đó có những quyết định sáng suốt, công minh, đúng pháp luật.
Việc xét xử phải theo đúng thẩm quyền được quy định trong pháp luật và chỉ xét xử những bị cáo, những hành vi theo tội danh mà Viện Kiểm sát đã truy tố và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.
Tiếp nhận hồ sơ từ viện kiểm soát chuyển sang, thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa nghiên cứu hồ sơ toàn bộ vụ án, xem xét việc truy tố của viện kiểm sát là có căn cứ không, hoặc đã đầy đủ các yếu tố chưa và tùy trường hợp có quyền ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ điều tra bổ sung tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án. Nếu vụ án được đưa ra xét xử thì thẩm phán tiến hành những việc cần thiết chuẩn bị cho việc xét xử vụ án được đúng pháp luật, nhưng thời gian tiến hành mọi công tác chuẩn bị không phải kéo dài tùy ý mà phải theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và những người bào chữa chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa.
Tại phiên tòa, sau khi đọc quyết định dưa vụ án ra xét xử, hội đồng xét xử nghe thư ký báo cáo kết quả kiểm tra những người được triệu tập đến phiên tòa. Nếu có người vắng mặt mà lưoif khai của hộ có tính quan trọng đối với việc xét xử vụ án, cần hoãn phiên tòa thì hội đồng xét xử trao đổi rồi ra quyết định hoãn phiên tòa. Nếu những người triệu tập đến phiên tòa có mặt đủ hoặc có người vắng mặt nhưng toà án vẫn xét xử đuwocj thì hội đồng xét xử kiểm tra căn cước của những người vắng mặt.
Chủ tọa phiên toàn phải hỏi kiểm soát viên và những người tham gia tố tụng xem có ai đề nghị triệu tập thêm người làm chứng hoặc đề nghị đưa thêm vật chứng và tài liệu đưa ra xem xét hay không. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì chủ tọa phiên tòa cũng phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tào hay không, nếu có người yêu cầu thì hội đồng xét xử xem xét và quyết định.
Việc xét xử phải bằng lời nói, vì chỉ bằng lời nói người ta mới trình bày được chính xác những suy nghĩ và nhận xét cử mình. Vì vậy không thể xét xử một vụ án mà không nghe những lời khai về chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội và yêu cầu của những người có quyền lợi, nghĩa vụ được giải quyết trong vụ án… Việc xét xử phải được tiến hành liên tục từ khi tiến hành thủ tục bắt đầu phiên tòa cho đến khi tuyên án, trừ thời gian nghỉ cần thiết.
Việc xét hỏi cugnx theo thứ tự do pháp luật quy định tuy nhiên cũng không thực hiện một cách máy móc, chủ tọa phiên tòa có thể điều chỉnh, vì có trường hợp chủ tọa phiên tòa đang hỏi mà kiểm sát viên hoặc người bào chữa thấy cần thiết thì cũng có thể đề nghị chủ tọa phiên tòa cho hỏi luôn về một vài chi tiết đang được xét hỏi. Khi xét hỏi hội đồng xét xử mới kiểm tra các chứng cứ. Hội đồng xét xử cũng phải duy trì trình tự phát biể khi tranh luận theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Sau khi kết thúc tranh luận hội đồng xét xử vào phòng nghị án để thảo luận và ra quyết định bản án.
Các thành viên hội đồng xét xử được độc lập xem xét các tài liệu chững cứ và quyết định bản án, nhưng đều quán triệt nguyên tắc xử lý mà điều 3 bộ luật tố tụng hình sự đã quy định.
Độc lập xét xử của thẩm phán và hội thẩm không có ý nghĩa và tách rời sự kiểm tra giám sát. Hoạt động kiểm sát được tuan theo pháp luật trong tố tụng hình sự được tiến hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng. Công dân có quyền khiếu lại và tố cáo những việc làm trái pháp luật của cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó. Những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định của tòa án theo thủ tục phúc thẩm nếu bản án đã có hiệu lực pháp luật thì họ có quyền phát hiện những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Như vậy việc quy định cho thẩm phán và hội thẩm được độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử là để nâng cao trách nhiệm của hội đồng xét xử, chủ động nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án, nghiêm chỉnh tuân thủ phapos luật , ra quyết định phù hợp với bất cứ ai không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan tổ chức hay cá nhân nào. Song không có nghĩa là mọi quyết định của hội đồng xét xử lại không có sự giám sát nào. Pháp luật là cơ sở để kiểm tra tính hợp pháp của các quyết định ấy va floaij bỏ mọi hành vi tuỳ tiện có thể xảy ra. Thảm phán và hội thẩm tham gia giải quyết vụ án có thể bị thay đổi nếu vi phạm quy định của diều 28 Bộ luật tố tụng hình sự về những trường hợp phải thay đổi người tiến hành tố tụng.
III. “Độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Độc lập là điều kiện cần thiết để thẩm phán và hội thẩm nhân dân khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở cần thiết để thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này là mối quan hệ ràng buộc. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến tình trạng xét xử tùy tiện, độc đoán.
IV. Thực tiễn xét xử, và một số điều kiện cần thiết để nguyên tắc này được thực hiện có hiệu quả.
Hiện nay ở nước ta bên cạnh một số thẩm phán có trình độ chuyên môn nghiệp vụ thực hiện được nhiệm vụ của mình thì cong rất nhiều thẩm ơhans có trình độ chuyên môn còn yếu và chính điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự độc lập của họ khi xét xử. Vì năng lực trình độ nghiệp vụ yếu nên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thẩm phán đã thiếu tự tin ỷ lại hoặck sợ trách nhiệm không tự quyết định được những vấn đề đặt ra khi xét xử và họ đã đnahs mất tính độc lập của mình bằng cách chủ động xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên.
Trước thời điểm luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 có hiệu lực pháp luật, tòa án địa phương do Bộ tư pháp quản lý, trong đó Bộ tư pháp quản lý tòa án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và sơ tư pháp quản lý tòa án cấp quận huyện. Theo các quy định hiện hành của luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002, tòa án nhân dân tối cao thống nhất quản lý các tòa án địa phương cả về công việc và tổ chức cán bộ, trong đó tòa án nhân dân tối cao quản lý tòa án nhân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý TAND cấp quận, huyện. Cho dù việc quản lý tòa án địa phương theo cơ chế trước đây hay cơ chế như hiện nay thì trong chừng mực nào đó sự độc khi xét xử của thẩm phán vẫn bị chi phối bởi những cán bộ tòa án cấp trên và những người thuộc cơ quan tổ chức khác là thành viên các hội đồng tuyển chọn thẩm phán. Trong thực tế còn tồn tịa quan hệ phụ thuộc giữa thẩm phán với từng thành viên hội đồng tuyển chọn thẩm phán nên đã có không ít thẩm phán và trong không ít trường hợp đã làm theo đề nghị, yêu cầu của ai dó trong số những người nêu trên để mong có cơ hội tiếp tục được tái tuyển chọn vè tía bổ nhiệm vào chức dnah thâm rphans trong nhiêm kỳ sau. Trong trường hợp này, lại một lần nữa chúng ta thấy chính bản thân thẩm phán đã tự chối bỏ sự độc lập của mình khi xét xử, điều mà pháp luật đã trao cho họ. Ngoài ra trong thực tế cũng có nhưntgx người là thành viên của hội đồng tuyển chọn thẩm phán đã lơiij dụng chức vụ quyền hạn của mình để gây sức ép với thẩm phán, hạn chế hoặc làm mất đi tính độc lập của thẩm phán khi xét xử.
Ở nước ta tòa án nhân dân được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Dù là chánh án hay thẩm phán thì họ vãn bị chi phối bởi các ý kiến của cấp ủy hay lãnh đạo chính quyền địa phương vì vậy muốn hay không hoạt động chuyên môn của tòa án là công tác xét xử cũng vẫn phụ thuộc vào ý kiến của cấp ủy hoặc ý kiến cá nhân của người nào đó giữ vai tròn lãnh đạo trong cấp ủy. Hoạt động xét xử cuat thâm rphans không những chịu sự chio phối của cấp ủy, chính quyền địa phương mà còn bị chi phối bởi các mói quan hệ thân quen, bè bạn, họ hàng và các mối quan hệ khác.Trong một số năm gần đây với xu thế dân chủ hóa mọi hoạt động của nhà nước trong đó có hoạt động tố tụng vai trò của cơ quan ngôn luận ngày càng được nâng cao, nhiều vụ án được thông tin tới nhân dân thậm chí trước cả khi tòa án xét xử. Các bài báo, chương trình truyền hình, phát thanh không những chỉ đưa ra thông tin mà còn hướng dẫn dư luận. Vì vậy khi thụ lý hồ sơ vụ án thẩm phán ít nhiều bị chi phối bởi các nhận định đánh giá thậm chí phán xét của cơ quan ngôn luận.Trong quấ trình giải quyếtcác vụ án khác nhau, giữa thâm rphans, hội thẩm với những người tiến hành tố tụng khác, những người tham gia tố tụng tồn tại những mối quan hệ hết sức phức tạp.
Trong thời gian qua, nguyên tắc “Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” vẫn chưa được tuyệt đối tân thủ và bị chi phối bởi những yếu tố nêu trên. Để thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc này, việc nâng cao hiệu quả của công tác xét xử cần thực hiện một cách đồng bộ các biện pháp khác nhau.
Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến việc can thiệt vaò hoạt động xét xử các vụ án khác nhau của tòa án là sự nhận thức không đúng đắn về vai trò, vị trí của nguyên tắc này. Có không ít người cho rằng nguyên tắc này chỉ mang tính cương lĩnh, định hướng chứ chưa phù hợp và không thể thực hiện được trong những điều kiện hiện nay của nước ta. Chính vì vậy biện pháp đầu tiên đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc này là phải làm cho nhân dân trước hết là những cán bộ, đảng viên, những người có chức có quyền trong tổ chức đảng và cơ quan nhà nước nhận thức đúng đắn và rõ hơn vị trí vai trò ý nghĩa của nguyên tắc này trong quá trình giải quyết vụ án.
Nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng tới nguyên tắc em thấy một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng thẩm phán và hội thẩm mất tính độc lập khi xét xử là do trình độ, năng lực chuyên môn của các thẩm phán chưa đáp ứng được nhu cầu của công việc xét xử. Đã có thời kỳ dài ở nước ta các thẩm phán do cơ quan đại diện bầu ra nên có không ít người mặc dù không đủ trình độ kiến thức pháp luật cần thiết nhưng vẫn được làm thẩm phán. Chính vì vậy tiêu chuẩn hóa đội ngũ thẩm phán đang là công việc đã và đang phải tiến hành. Trong ngành tòa án phải có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh. Người giỏ, người có công phải được dánh giá đúng mức, người kém, người vi phạm cần phải xử phạt nghiêm khắc.
Để tránh sự can thiệp thô bạo của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương đối với công tác xét xử của các thẩm phán không nên đặt tổ chức Đảng của các tòa án trực thuộc cấp ủy của địa phương mà nên quy định các tổ chức Đảng của tòa án hoặc sinh hoạt theo tổ chức đảng của nghành mình hoặc là một tổ chức trực thuộc cấp ủy cấp trên trực tiếp. Việc thực hiện các biện pháp trên chắc hẳn sẽ tạo ra những điều kiện cần thiết bảo đam rcho việc thực hiện trong thực tiễn nguyên tắc: “Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm đốc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
KẾT BÀI
Nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được hình thành phát triển và dược thủ thách qua thực tiễn, được quy định trong hiến pháp đã là một nguyên tắc hiến định thì bắt buộc mọi tổ chức, mọi cơ quan phải chấp hành nghiêm chỉnh. Các tổ chức Đảng cũng phải chấp hành nghiêm chỉnh vì “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật” (điều 4 hiến pháp 1992). Việc quy định nguyên tắc này trong hiến pháp và trong bộ luật tố tụng hình sự là nhằm bảo đảm cho tòa án thực hiện tốt chức năng xét xử của mình theo quy định của pháp luật. Đồng thời đề cao trách nhiệm của thẩm phán và hội thẩm . Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm được độc lập xem xét và đưa ra ý kiến của mình, không bị phụ thuộc bởi bất cứ một cơ quan tổ chức hay cá nhân nào. Độc lập xét xử của thẩm phán và hội thâm rkhoong có ý nghĩa là xét xử tùy tiện mà phải tuân theo quy định của pháp luật và cũng không có nghĩa là mọi quyết định của thẩm phán không có sự kiểm sát, giám sát nào. Thực hiện tốt nguyên tắc này góp phần cho hội đồng xét xử phải tiến hành xét xứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, ra bản án được khách quan chính xác để không kết án oan người vô tội đồng thời có mức hình phạt thích đáng đủ để cho người phạm tội có điều kiện cải tạo tốt thành người có ích cho xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt Nam.
Bộ luật tố tụng hình sự
Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1992
Tạp chí luật học
Giáo trình luật tố tụng hình sự cua trường đại học Luật Hà Nội
Những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam.
PGS. TS Phạm Hồng Hải.
MỤC LỤC
MỞ BÀI 1
NỘI DUNG 2
Vài nét về sự phát triển của nguyên tắc. Vị trí của nguyên tắc 2
I . Nội dung ngyên tắc 4
1.Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm không bị phụ thuộc vào các
quyết định hoặc các kết luận của cơ quan điều tra, viện kiểm sát. 5
2. sự độc lập giưã tòa án cấp trên và tòa án cấp dưới 5
3. Sự độc lập giữa thẩm phán và hội thẩm 6
4.Tòa án hoàn toàn độc lập khi xét xử không cho phép bất cứ ai, bất cứ cá nhân tổ chức nào can thiệp vào việc xét xử của tòa án, buộc hội đồng xét xử phải tuân theo ý kiến chủ quan của mình 10
5. Khi xét xử các thành viên của hội đồng xét xử độc lập với nhau
trong suy nghĩ, trong việc kiểm tra đánh giá chứng cứ. 13
6. Khi xét xử các thành viên của hội đồng xét xử độc lập với nhau trong suy nghĩ, trong việc xem xét kiểm tra và đánh giá chứng cứ 13
II Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập nhưng vẫn luôn
tuân theo pháp luật. 14
III Độc lập và tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau 17
IV Thuc tiễn xét xử, và một số điều kiện cần thiết để nguyên tắc
được thực hiện có hiệu quả. 18
KẾT BÀI 21
Tài liệu tham khảo 22
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận- Nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm tòa án nhân dân.doc