Thực tế hiện nay cho thấy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp thường không được hiểu như
là một nguồn lợi vì hầu hết các doanh nghiệp đều coi các doanh nghiệp khác là các đối thủ cạnh
tranh trong việc tiếp cận với nguồn vốn, nguyên liệu, lao động của đát nước. Nhận thức được vấn
đề này từ cuối những năm 90, Chính Phủ đã khuyến khích thành lập các hiệp hội ngành nghề,
với mục tiêu xây dựng các đầu mối cấp quốc gia cho các doanh nghiệp trong hầu hết các ngành
nghề và ngành hàng xuất khẩu. Nhưng trên thực tế có rất ít các hiệp hội được ra đời như hiệp hội
giày da (LESAFO), hiệp hội hàng dệt may (VITAS), hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu thuỷ
sản (VASEP), và hiệp hội rau quả Việt Nam (Vina Fruit) và chức năng của các hiệp hội chỉ hỗ
trợ cho các thành viên xúc tiến xuất khẩu thông qua hội trợ triển lãm, cung cấp các thông tin về
thị trường . Chưa có quảng cáo, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy để tăng
thêm chức năng này thì các hiệp hội nên tổ chức ra một quỹ chung cho các thành viên. Nguyên
tắc hoạt động của quỹ này có thể là: Các thành viên của hiệp hội hàng tháng, hàng quý phải đóng
góp một khoản tiền nhất định cho hiệp hội, sau đó bốc thăm để phân chia thứ tự ứng tiền quỹ
(thực ra đây là cách “chiếm dụng” vốn giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong một thời gian
ngắn).
29 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2595 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nhu cầu tài trợ vốn, những thuận lợi và khó khăn khi huy động vốn của Công ty cổ phần ACC-244, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong nền kinh tế Việt Nam
DNV&N ở Việt Nam nói riêng cũng như nhiều nước trên thế giới đóng một vai trò rất
quan trọng đối với nền kinh tế. Theo thống kê tại Việt Nam, trong tổng số khoảng 200.000 doanh
nghiệp thì khối các DNV&N chiếm khoảng 88%, với những đặc điểm riêng có, khu vực
DNV&N thể hiện qua một số vai trò chủ yếu sau:
Một là, DNV&N có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế
Ở mỗi nước, tỷ lệ phát triển hợp lý giữa các doanh nghiệp lớn và DNV&N là tuỳ thuộc
vào thực trạng kinh tế xã hội ở từng thời kỳ. Thông thường các doanh nghiệp lớn hoạt động
trong một số ngành nòng cốt với kỹ thuật hiện đại, vốn lớn. Còn các DNV&N hoạt động trong
những ngành vốn ít, sử dụng nhiều lao động như các ngành công nghiệp nhẹ hoặc các ngành giữ
vai trò bổ trợ cho các doanh nghiệp lớn. Hai khu vực doanh nghiệp này luôn có tác động tương
hỗ nhằm phát huy thế mạnh của nhau, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của cả
nước. Ở Việt Nam, theo đánh giá của Viện nghiên cứu và quản lý Trung ương trong những năm
qua khối DNV&N đã đóng góp khoảng 30% GDP của cả nước. Ngoài ra, các DNV&N của nước
ta còn cung cấp 100% sản phẩm trong nhiều ngành, đặc biệt là những ngành công nghiệp thủ
công truyền thống như chiếu cói, giầy dép. Ngày nay, khối các DNV&N đang ngày càng lớn
mạnh, với sự phát triển này chắc chắn nó đang và sẽ góp phần không nhỏ vào tăng trưởng và
phát triển kinh tế.
Hai là, góp phần làm năng động, linh hoạt, tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế
Các DNV&N hoạt động với quy mô vốn không lớn nên có ưu thế nổi bật là có thể
chuyển hướng kinh doanh nhanh từ những ngành nghề kém hiệu quả sang những ngành nghề
hiệu quả hơn nhằm thoả mãn nhu cầu rất linh hoạt của dân cư. Do lợi thế là linh hoạt và sáng tạo
trong kinh doanh cho nên các DNV&N góp phần làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn.
Hơn nữa, chiếm đa số trong tổng số các doanh nghiệp trong cả nước tham gia vào nền kinh tế
(với tư cách là những chủ thể kinh doanh độc lập), nó sẽ tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ, giảm bớt
khả năng độc quyền của các doanh nghiệp lớn và giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế.
Ba là, DNV&N có vai trò quan trọng đối với quá trình CNH-HĐH và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế
Quá trình phát triển DNV&N cũng là một quá trình cải tiến máy móc, thiết bị, nâng cao
năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường, đến một mức độ nào
đó nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ, làm cho quá trình CNH-HĐH đất nước không chỉ ở
chiều sâu mà cả ở chiều rộng.
Sự mềm mại, linh hoạt của DNN&V tạo ra một cơ cấu kinh tế có tính đổi mới và thích
ứng cao cho nền kinh tế đang trong quá trình đổi mới và phát triển. Cơ cấu ngành, thành phần, cơ
cấu vùng lãnh thổ tạo điều kiện tận dụng và thu hút tốt các nguồn lực cho đầu tư phát triển, thúc
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn
Bốn là, DNV&N góp phần giải quyết công ăn việc làm, từ đó làm giảm tỷ lệ thất
nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê, hiện nay, ở nước ta hằng năm có thêm
khoảng 1,2-1,4 triệu người đến tuổi lao động. Việc tạo thêm việc làm đang là một áp lực xã hội
mạnh đối với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương. Các DNV&N có đặc điểm chung là
vốn ít, hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động, thu hút khoảng 50-75% lực
lượng lao động trong các ngành kinh tế đã tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, tăng
thu nhập cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Ở Việt Nam theo báo cáo tổng kết đánh giá 4 năm thi hành Luật doanh nghiệp cho thấy,
trong 4 năm qua ước tính đã có khoảng 1,8-2 triệu chỗ làm việc mới đã được tạo ra nhờ các
doanh nghiệp, trong đó DNV&N đóng góp khoảng 80% chỗ làm việc.
Ngoài ra, phần lớn lao động trong các DNV&N đều xuất thân từ nông nghiệp, nông thôn,
chưa quen với lối sống và làm việc theo phương thức công nghiệp. Vì vậy, ngoài việc đào tạo
nghề, không ít chủ doanh nghiệp còn phải hướng dẫn họ về nếp sống mới, về tính kỷ luật trong
phương thức sản xuất công nghiệp, qua đó góp phần xoá đói giảm nghèo, giảm khoảng cách về
thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và tăng mức độ công bằng trong nền kinh tế.
Năm là, gieo mầm cho các tài năng kinh doanh – là nơi nuôi dưỡng cho các doanh
nghiệp lớn
Sự phát triển của các DNV&N đã có tác dụng đào tạo, chọn lọc các tài năng kinh doanh
trẻ. Với trí tuệ và kinh nghiệm, họ biết cách làm giàu cho bản thân mình và xã hội, kinh nghiệm
quản lý của họ sẽ được nhân ra và truyền bá tới nhiều cá nhân trong cả nước để học hỏi và noi
theo.
Ngoài ra, các DNV&N còn là nền tảng quan trọng để phát triển các doanh nghiệp lớn.
Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, phần lớn các tập đoàn, các tổng công ty lớn đều bắt nguồn
từ DNV&N làm ăn hiệu quả, tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh để phát triển thành các tập
đoàn.
Qua sự phân tích trên ta thấy, khối các DNV&N đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, những đóng góp của khối các doanh nghiệp này
không hề nhỏ. Tuy nhiên hiện nay, các DNV&N đang hoạt động trong một môi trường kinh tế
không hoàn toàn thuận lợi ở cả tầm vĩ mô và vi mô, trong đó gặp rất nhiều khó khăn về công
nghệ sản xuất, mô hình quản lý, kỹ năng của đội ngũ lãnh đạo, đặc biệt phải kể đến sự hạn chế
về vốn đầu tư để tiến hành đổi mới trang thiết bị, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Với số
lượng ngày càng gia tăng thì nhu cầu huy động vốn của khối các DNV&N cũng ngày càng lớn,
trong khi đó các nguồn đáp ứng lại bị hạn chế. Vậy thì, các doanh nghiệp này sẽ phải đối mặt với
nhiều khó khăn về vấn đề huy động vốn phục vụ cho nhu cầu của mình.
2. Nhu cầu huy động vốn của doanh nghiệp
Để có được vốn hoạt động thì doanh nghiệp phải thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn
khác nhau. Huy động vốn chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau hay nói cách khác là
các ràng buộc khác nhau như:
+ Hình thức pháp lý của doanh nghiệp: một doanh nghiệp nhà nước khi huy động vốn phải chịu
sự ràng buộc của các văn bản quản lý Nhà nước về tỷ lệ huy động tối đa có thể (Luật DNNN).
+ Sự vững mạnh về tình hình tài chính nói chung và có khả năng thanh toán nói riêng sẽ là
những điều kiện mà chủ nguồn tài chính chú ý khi xem xét bỏ vốn cho doanh nghiệp.
+ Chiến lược kinh doanh quyết định cầu về vốn và từ đó ảnh hưởng đến lượng vốn cần thiết huy
động của doanh nghiệp.
Xuất phát điểm của chiến lược kinh doanh là cơ sở để huy động vốn. Để thực hiện huy
động vốn thì ta cần phải xác định cầu về vốn của doanh nghiệp. Để dự đoán cầu về vốn của
doanh nghiệp ta có thể sử dụng hai phương pháp:
+ Phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu
+ Phương pháp sử dụng các chỉ tiêu tài chính đặc trưng của ngành là cơ sở để làm xuất phát điểm
cho mình. Phương pháp này hay được sử dụng cho những doanh nghiệp mới thành lập hay
những doanh nghiệp đã hoạt động nhưng cần thiết lập lại cơ cấu vốn.
2.1. Các hình thức huy động vốn
Có nhiều cách phân loại nguồn cung ứng vốn cho doanh nghiệp. Nếu căn cứ vào nơi cung
ứng có thể phân loại nguồn cung ứng ở dạng khái quát nhất thành nguồn cung ứng từ nội bộ và
nguồn cung ứng vốn từ bên ngoài. Trên cơ sở đó người ta lại tiếp tục phân loại cụ thể hơn.
2.1.1. Tự cung ứng
a) Khấu hao tài sản cố định: việc xác định mức khấu hao cụ thể phụ thuộc vào thực tiễn
sử dụng tài sản cố định cũng như ý muốn chủ quan của con người. Đối với doanh nghiệp nhà
nước trong chừng mực nhất định phải phụ thuộc ý đồ của Nhà nước, các doanh nghiệp khác có
thể tự lựa chọn thời hạn sử dụng và phương pháp tính khấu hao cụ thể. Trong chính sách tài
chính của mình, doanh nghiệp có thể lựa chọn và điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây
là một nguồn cung ứng vốn bên trong của mình.
b) Tích luỹ tái đầu tư: phụ thuộc vào hai nhân tố cụ thể và tổng số lợi nhuận thu được
trong từng thời kỳ kinh doanh và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Đối
với doanh nghiệp Nhà nước toàn bộ lợi nhuận thu được sẽ phải sử dụng cho các khoản:
+ Nộp tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước theo quy định
+ Trả các khoản phải quy định
+ Lập các quỹ đặc biệt
c) Điều chỉnh cơ cấu tài sản: Phương thức này tuy không làm tăng tổng số vốn sản xuất -
kinh doanh nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ
sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết.
2.1.2. Phương thức cung ứng từ bên ngoài
a) Cung ứng từ ngân sách nhà nước:
Với hình thức này doanh nghiệp sẽ nhận được lượng vốn xác định từ ngân sách nhà nước
cấp. Thông thường hình thức này không đòi hỏi nhiều điều kiện ngặt nghèo đối với doanh nghiệp
được cấp vốn như các hình thức huy động vốn khác. Tuy nhiên, càng ngày hình thức này càng bị
thu hẹp cả về quy mô vốn và phạm vi được cấp. Hiện nay đối tượng được hưởng hình thức này là
các DNNN xác định duy trì để đóng vai trò công cụ điều tiết kinh tế; các dự án đầu tư ở những
lĩnh vực sản xuất hàng hoá công cộng, hoạt động công ích mà tư nhân không muốn hoặc không
có khả năng.
b) Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu:
Là hình thức do doanh nghiệp được cung ứng vốn trực tiếp từ thị trường chứng khoán,
Khi có cầu về vốn và lựa chọn hình thức này, doanh nghiệp tính toán và phát hành cổ phiếu bán
trên thị trường chứng khoán. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn nhưng không tăng nợ của doanh
nghiệp bởi lẽ những người sở hữu cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh nghiệp. Vì lẽ đó nhiều
nhà quản trị học coi hình thức này là nguồn cung ứng nội bộ.
Tuy nhiên chỉ có công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn mới được phát
hành. Và doanh nghiệp phải có nghĩa vụ công khai hoá thông tin tài chính theo Luật doanh
nghiệp.
c) Vay tiền bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn:
Đây là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng. Doanh nghiệp phát hành lượng
vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và bán cho công chúng. Đặc
trưng cơ bản là tăng vốn gắn với tăng nợ của doanh nghiệp. Cũng có những ưu điểm và hạn chế
nhất định.
- Ưu điểm chủ yếu: có thể huy động được một lượng vốn cần thiết, chi phí kinh doanh sử dụng
vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ như vay ngân
hàng và doanh nghiệp.
- Hạn chế: đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh áp lực nợ đến hạn và
vẫn có lợi nhuận đặc biệt khi kinh tế suy thoái lạm phát cao. Chi phí kinh doanh phát hành trái
phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần có sự trợ giúp của ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp phải
tính toán thoả mãn hai điều kiện: tài sản cố định phải nhỏ hơn tổng số vốn và nợ dài hạn của
doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nào thoả mãn các điều kiện theo luật định mới được phép
phát hành trái phiếu.
d) Vay vốn của các ngân hàng thương mại:
Vay vốn từ các ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới các hình
thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn từ các ngân hàng thương mại. Đây là mối quan hệ
tín dụng giữa một bên đi vay và một bên cho vay. Với hình thức này doanh nghiệp có thể huy
động được một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các doanh nghiệp cùng tham gia thẩm
định dự án nếu có nhu cầu vay đầu tư lớn. Yêu cầu doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm
phán, chấp nhận các thủ tục thẩm định ngặt nghèo. Nếu doanh nghiệp vay tiền của ngân hàng có
thể bị ngân hàng thương mại kiểm soát các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời
gian cho vay.
e) Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp:
Trong hoạt động kinh doanh, quan hệ mua bán trao đổi giữa các doanh nghiệp thông
thường không kết thúc tại một điểm, tức là xuất hiện sự chênh lệch về mặt thời gian giữa dòng
tài chính và dòng vật chất. Thực chất luôn diễn ra đồng thời quá trình doanh nghiệp nợ khách
hàng tiền và chiếm dụng tiền của khách hàng. Nếu tiền doanh nghiệp chiếm dụng của khách
hàng nhiều hơn số tiền doanh nghiệp bị chiếm dụng thì số tiền dôi ra sẽ mang bản chất tín dụng
thương mại hay tín dụng nhà cung cấp. Ngoài tín dụng thương mại còn gồm cả khoản đặt cọc
trước của khách hàng.
Đây là một hình thức tín dụng ngắn hạn quan trọng (thường phải thanh toán trong vòng
30-90 ngày) đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp đang trong thời kỳ
tăng trưởng.
f) Tín dụng thuê mua:
Trong cơ chế thị trường hình thức này được thực hiện giữa một doanh nghiệp có cầu sử
dụng máy móc, thiết bị với một doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá phổ
biến. Hình thức này có ưu điểm rất cơ bản là giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích,
khi nào doanh nghiệp có cầu về sử dụng máy móc, thiết bị cụ thể mới đặt vấn đề thuê mua.
Doanh nghiệp không chỉ được nhận máy móc thiết bị mà còn được nhận tư vấn đào tạo.
Tuy nhiên cũng có những hạn chế như: chi phí kinh doanh cho việc sử dụng máy móc
thiết bị cao và hợp đồng tương đối phức tạp.
g) Vốn liên doanh, liên kết:
Với phương thức này doanh nghiệp liên doanh, liên kết với một hoặc một số doanh
nghiệp khác nhằm tạo vốn cho hoạt động liên doanh nào đó.
- Ưu điểm: với hình thức này doanh nghiệp sẽ có một lượng vốn cần thiết cho một hoặc một số
hoạt động nào đó mà không tăng nợ.
- Nhược điểm: các bên liên doanh cùng tham gia liên doanh và cùng chia sẽ lợi nhuận thu được.
h) Nguồn vốn ODA:
Đối tác mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là các chương
trình hợp tác của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế khác. Hình thức
cấp vốn ODA có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi về
lãi suất và thời hạn thanh toán. Hình thức này có chi phí kinh doanh thấp (sử dụng vốn). Tuy
nhiên để nhận được nguồn vốn này các doanh nghiệp phải chấp nhận thủ tục chặt chẽ. Đồng thời
doanh nghiệp phải có điều kiện làm việc với các cơ quan Chính phủ và chuyên gia nước ngoài.
i) Nguồn vốn nước ngoài đầu tư t rực tiếp FDI:
Với phương thức này doanh nghiệp không chỉ nhận được vốn mà còn nhận được cả kỹ
thuật - công nghệ cũng như phương thức quản trị tiên tiến và cũng được chia sẻ thị trường xuất
khẩu. Tuy nhiên huy động vốn theo hình thức này phải chịu sự kiểm soát điều hành của doanh
nghiệp (tổ chức kinh tế) nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của doanh nghiệp
Một là, thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp: Trước hết cần xem xét lại
tình trạng bức tranh tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm cần huy động bằng việc tính toán
các chỉ tiêu tài chính căn bản như: khả năng thanh toán, chỉ số nợ, chỉ số hoạt động, chỉ số doanh
lợi. Đồng thời tính toán lại các chỉ tiêu theo phương án huy động khác nhau. Trên cơ sở đó
khẳng định mục tiêu, phương án huy động cụ thể.
Hai là, phân tích luận chứng kinh tế kỹ thuật: Phân tích nghiên cứu kỹ càng luận
chứng kinh tế kỹ thuật đối với khoản tài chính cần huy động, tính đến các rủi ro liên quan như:
rủi ro về mệnh giá, tỷ suất, hối đoái.
Ba là, chính sách tài trợ: Phân tích và lựa chọn sử dụng chính sách tài trợ thích hợp, có
nghĩa là nguồn huy động được lựa chọn tài trợ cho bộ phận tài sản nào, chúng sẽ ảnh hưởng như
thế nào đến chính sách tài trợ hiện tại và so sánh với kỳ kinh doanh cũng như đối thủ cạnh tranh
chủ yếu.
Bốn là, chủ các nguồn tài chính: Nghiên cứu tỷ mỷ các nguồn tài chính (chủ nợ) cũng
là một sự cân nhắc tuyệt đối quan trọng. Nếu đó là các ngân hàng, các tổ chức tài chính thì tiềm
lực sức mạnh kinh doanh của họ là một bảo đảm cần thiết trong trường hợp doanh nghiệp cần
kéo dài thời hạn các khoản nợ vì một lý do nào đó. Hơn nữa cùng cần xem xét động cơ tham gia
vào nguồn tài chính doanh nghiệp của họ.
Năm là, quyết định huy động nguồn vốn: Quyết định huy động các nguồn tài chính
luôn là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, do vậy trước hết cần tập trung nghiên cứu và khai
thác triệt để các biện pháp quản trị khả thi đối với nguồn huy động. Điều này có ý nghĩa to lớn
đối với doanh nghiệp đang trong tình trạng tài chính khó khăn, khả năng thanh toán thấp.
Sáu là, kế hoạch huy động tài chính cho chi trả: Nguồn tài chính huy động hôm nay sẽ
phải thanh toán chi trả khi đáo hạn (đối với những khoản vay) do đó doanh nghiệp cần phải có kế
hoạch huy động thanh toán, chi trả.
Bảy là, các chỉ tiêu liên quan đến huy động vốn: Khi doanh nghiệp thực hiện huy động
vốn từ các nguồn thì các chủ tài chính như ngân hàng, các chủ đầu tư thường cân nhắc và xem
xét các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, cơ cấu tài chính và các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi vốn
của doanh nghiệp.
- Các chỉ số về khả năng thanh toán:
Tuỳ thuộc vào từng ngành nghề kinh doanh và từng thời kỳ kinh doanh song chủ nợ ngắn
hạn sẽ tin tưỏng hơn nếu chỉ số này lớn hơn 2.
Nếu chỉ số này ≥ 1 có nghĩa là doanh nghiệp không có nguy cơ bị rơi vào tình trạng vỡ nợ và các
chủ nợ ngắn hạn sẽ tin tưởng doanh nghiệp hơn.
Khả năng thanh toán tức thời = (Tổng TS ngắn hạn – Hàng tồn kho)/Tổng nợ ngắn hạn
- Các chỉ số mắc nợ:
Về mặt lý thuyết chỉ số này nằm trong khoảng > 0 và < 1 nhưng thông thường nó dao
động xung quanh giá trị 0,5. Bởi vì lẽ nó bị tự điều chỉnh từ hai phía: chủ nợ và con nợ. Nếu chỉ
số này càng cao, chủ nợ sẽ rất chặt chẽ khi quyết định cho vay thêm. Mặt khác về phía con nợ,
nếu vay nợ quá nhiều sẽ bị mất chủ quyền kiểm soát nhiều bên đồng thời bị chia lợi nhuận quá
nhiều cho sự vay nợ của mình.
Chỉ số này được sử dụng làm giới hạn ràng buộc cấp tín dụng của ngân hàng đối với các doanh
nghiệp.
Đó là một số chỉ tiêu liên quan đến việc huy động vốn được quan tâm xem xét bởi cả hai
là doanh nghiệp đi vay và chủ cho vay.
3. Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
3.1. Khái quát chung
3.1.1. Quan niệm chung về hiệu quả
Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về vấn đề hiệu quả nhưng tựu chung lại ta thấy
rằng hiệu của là công cụ để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường ở nước
ta hiện nay, mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đều có mục tiêu bao trùm lâu dài và tối đa
hoá lợi nhuận.
Hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rất rộng rãi trong cả các lĩnh vực kinh tế xã hội
và kỹ thuật. Xong ở đây chúng ta chỉ xem xét hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh
doanh. Hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt
động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc,
nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Trình độ lợi
dụng các nguồn lực chỉ có thể đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét với mỗi
sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Vì vậy có thể mô tả bằng công
thức:
+ Hiệu quả kinh doanh (H) = K/C
trong đó: K: là kết quả đạt được
C: hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả.
Từ loại chỉ tiêu này cùng với suất hao phí ta phải kết hợp với việc đi xem xét với yếu tố
đầu vào là vốn cố định và vốn lưu động.
3.1.2. Mục đích của phân tích hiệu quả sử dụng vốn:
- Làm thông tin giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có các quyết định đúng đắn, kịp thời.
- Xác lập được một cơ cấu vốn hợp lý.
- Giúp cho các nhà quản trị đánh giá được tình hình thực tế về vấn đề sử dụng vốn.
- Từ đó tìm ra những mặt yếu kém, chưa có hiệu quả phát hiện ra những nguyên nhân để
tìm ra những biện pháp khắc phục. Tuy nhiên để công việc phan tích hiệu quả sử dụng vốn là
đúng, xác thực và phát huy được những mục đích trên thì cần quán triệt một số nhiệm vụ sau:
+ Thông tin thu thập để phân tích được lấy từ các báo cáo tài chính, báo cáo thực hiện kế
hoạch,... của doanh nghiệp và nguồn thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp như báo cáo về tình
hình sử dụng vốn của doanh nghiệp khác đặc biệt cùng ngành.
+ Xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá thích hợp.
3.2. Quản lý vốn cố định và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng
3.2.1. Hao mòn và khấu hao tài sản cố định:
Trong quá trình sử dụng tham gia vào sản xuất, do chịu sự tác động của nhiều nhân tố
khác nhau nên tài sản cố định bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
- Hao mòn hữu hình: là sự giảm dần về giá trị sử dụng (tức là sự giảm về chất lượng và sự giảm
về tính năng kỹ thuật) và giá trị do chúng được sử dụng trong sản xuất hoặc do tác động của yếu
tố tự nhiên gây ra. Tài sản cố định bị hao mòn hữu hình trước hết là nó trực tiếp hay gián tiếp
tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, giá trị hao mòn được chuyển dần vào giá trị sản
phẩm mới được sản xuất ra. Ngoài nguyên nhân chủ yếu trên thì trong khi sử dụng và không sử
dụng tài sản cố định bị hao mòn hữu hình là do tác động của các yếu tố tự nhiên như độ ẩm, khí
hậu, thời tiết...
- Hao mòn vô hình của tài sản cố định: là do sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định
do có những tài sản cố định cùng loại nhưng được sản xuất với giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn.
Như vậy nguyên nhân của hao mòn vô hình là do kỹ thuật ngày càng tiến bộ, tổ chức sản
xuất ngày càng hoàn thiện.
- Khấu hao tài sản cố định:
Trong quá trình sử dụng và bảo quản, tài sản cố định bị hao mòn. Bộ phận giá trị của tài
sản cố định tương ứng với mức hao mòn mà nó được dịch chuyển dần vào giá thành sản phẩm
gọi là khấu hao tài sản cố định. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được
trích lại và tích luỹ thành quỹ khấu hao tài sản cố định. Quỹ khấu hao tài sản cố định được coi là
một nguồn tài chính quan trọng để tái sản xuất mở rộng tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp.
- Các phương pháp tính khấu hao tài sản cố định:
Việc tính khấu hao tài sản cố định chính xác kịp thời, đầy đủ và biện pháp để bảo toàn
vốn cố định, để phòng ngừa hao mòn vô hình của tài sản cố định và chống lại hiện tượng “ăn vào
vốn” - một thực tế khá phổ biến trong ác DNNN ở nước ta trong thời gian qua. Cho nên việc lựa
chọn phương pháp tính khấu hao là quan trọng.
+ Phương pháp tính khấu hao theo đường thẳng (phương pháp tính khấu hao cố định):
M k = NG/T
M k : mức khấu hao cố định hàng năm
NG: nguyên giá tài sản cố định
T: thời gian sử dụng định mức cả đời máy.
+ Phương pháp tính khấu hao gia tăng:
M k = TK*(NG0 – NGt)
TK : tỷ lệ trích khấu hao năm
NGt : giá trị còn lại của tài sản cố định ở cuối năm thứ t
NG0 : nguyên giá tài sản cố định.
3.2.2. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định:
Là một biện pháp quan trọng để quản lý vốn cố định cả trên phương diện bảo toàn và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Kế hoạch khấu hao tài sản cố định phản ánh các chỉ tiêu
giá trị về tài sản cố định trong năm kế hoạch, tổng giá trị tài sản cố định ở đầu kỳ, xác định tổng
giá trị tài sản cố định bình quân cần tính khấu hao, mức khấu hao phải tính trong năm và tình
hình phân phối sử dụng quỹ khấu hao. Gồm một số TSCĐ sau:
- Tài sản cố định không phải tính khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn (như đất đai).
- Tài sản cố định tăng thêm trong năm kế hoạch: nếu tăng vào một ngày nào đó của tháng thì
tháng sau mới tính khấu hao.
- Tài sản cố định giảm bớt trong năm kế hoạch: nếu giảm trong một ngày nào đó của tháng thì
tháng sau mới không phải tính khấu hao.
- Tổng giá trị bình quân tài sản cố định phải tính trong năm kế hoạch được xác định theo công
thức:
Kế hoạch khấu hao tài sản cố định được coi là biện pháp quan trọng để quản lý vốn cố
định.
3.2.3. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Doanh thu thuần/ Vốn cố định bình quân
trong đó : VCĐ bình quân = ( VCĐ đầu kì + VCĐ cuối kì )/ 2
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn cố định, cho biết một đồng vốn cố định
bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Khả năng sinh lời của vốn cố định
càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao.
3.3. Quản lý vốn lưu động và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng
3.3.1. Quản lý vốn lưu động
a) Xác định nhu cầu thường xuyên tối thiểu về vốn lưu động của doanh nghiệp:
Xác định nhu cầu này nhằm mục đích đảm bảo đủ vốn lưu động cần thiết tối thiểu cho
quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, tránh ứ đọng vốn và ngược lại nếu quá ít
sẽ gây cho doanh nghiệp nhiều khó khăn tác động xấu đén hoạt động thu mua vật tư, không đáp
ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh.
- Muốn xác định vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch doanh nghiệp phải lần lượt tính toán vốn
lưu động định mức ở từng khâu (dự trữ, sản xuất, lưu thông) và đối với từng loại nguyên vật liệu
(chính, phụ) sau đó tổng hợp lại vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch. Tuy nhiên sử dụng phương
pháp này tương đối phức tạp.
- Phương pháp gián tiếp xác định nhu cầu vốn lưu động: nội dung phương pháp này dựa vào
thống kê kinh nghiệm để xác định nhu cầu vốn, chia làm 2 trường hợp:
+ Thứ nhất: dựa vào kinh nghiệm thực tế của các doanh nghiệp cùng loại trong ngành để xác
định nhu cầu vốn lưu động cho doanh nghiệp.
+ Thứ hai: dựa vào tình hình thực tế sử dụng vốn lưu động ở thời kỳ trước của doanh nghiệp để
xác định nhu cầu vốn lưu động cho thời kỳ tiếp theo, đồng thời xem xét với tình hình thay đổi
quy mô sản xuất kinh doanh và sự cải tiến tổ chức sử dụng vốn lưu động để xác định toàn bộ nhu
cầu vốn lao động thường xuyên cần thiết. Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản.
b) Bảo toàn vốn lưu động:
Bảo toàn vốn lưu động là khâu quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp. Tuỳ theo đặc điểm cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có phương pháp bảo toàn vốn lưu
động hợp lý. Các biện pháp đó là:
- Định kỳ tiến hành kiểm kê, kiểm soát, đánh giá lại toàn bộ vật tư hàng hoá, vốn bằng tiền, vốn
trong thanh toán, để xác định số vốn lưu động hiện có của doanh nghiệp theo giá trị hiện tại.
- Những vật tư hàng hoá tồn đọng lâu ngày không thể sử dụng được do kém hoặc mất phẩm chất
phải xử lý, kịp thời bù đắp.
- Đối với doanh nghiệp bị lỗ kéo dài, cần tìm biện pháp để loại trừ lỗ trong kinh doanh.
- Để đảm bảo vốn lưu động trong điều kiện lạm phát, khi phân phối lợi nhuận cho mục đích tích
luỹ và tiêu dùng, doanh nghiệp phải dành ra một phần lợi nhuận để bù đắp số hao hụt vốn vì lạm
phát và phải được ưu tiên hàng đầu.
3.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
- Hiệu suất sử dụng vốn:
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động = Doanh thu thuần/VLĐ bình quân
Chỉ tiêunày cho biết một đồng vốn lưu động bỏ vào kinh doanh thì đem lại mấy đồng giá trị sản
lượng hay doanh thu. Như vậy chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
- Mức đảm nhiệm vốn lưu động:
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = VLĐ bình quân/Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh để có một đồng sản phẩm tiêu thụ thì cần bao nhiêu vốn lưu động.
- Tỷ lệ doanh lợi trên vốn lưu động = Lợi nhuận/VLĐ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động bỏ
vào sản xuất kinh doanh đem lại mấy đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này càng cao thì hiệu quả sử dụng
vốn lưu động càng cao.
3.4. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn chung
Hiệu quả sử dụng vốn:
HVSD = D/VSXKD
trong đó:
HVSD : hiệu quả sử dụng vốn sản xuất
D : là doanh thu hoặc số lượng sản phẩm tiêu thụ
VSXKD: là số dư bình quân vốn sản xuất kinh doanh
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG NHU CẦU VỐN KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ACC-244
1. Quá trình hình thành phát triển và đặc điểm hoạt động của công ty
1.1. Quá trình thành lập và phát triển công ty
1.1.1. Sơ lược về công ty
- Tên công ty: Công ty cổ phần ACC-244
- Tên giao dịch: ACC-244 Joint Stock Company (ACC-244 JSC).
- Địa chỉ: Số 164 Lê Trọng Tấn - phường Khương Mai - quận Thanh Xuân - thành phố
Hà Nội.
- Lĩnh vực hoạt động: xây lắp
- Loại hình công ty: Công ty cổ phần.
- Vốn điều lệ: 29.408.620.000 đồng . Tổng số vốn điều lệ của Công ty được chia thành
2.940.862 cổ phần. Cổ phần phát hành lần đầu: 2.940.862 cổ phần, mệnh giá mỗi cổ phần 10.000
đồng. Trong đó: Cổ phần nhà nước nắm giữ 1.990.862 cổ phần, tương ứng 67,70% vốn điều lệ.
- Website:
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty
Công ty cổ phần ACC-244 hiện nay; tiền thân là Trung đoàn 244 thuộc quân chủng
Phòng không - Không quân, được thành lập từ ngày 10/7/1972. Từ năm 1977 khi tách thành 2
quân chủng: quân chủng Phòng không và quân chủng Không quân, Trung đoàn 244 trở về quân
chủng Không quân, đảm nhiệm nhiệm vụ xây dựng các công trình cho quân chủng.
Ngày 16/8/1989 tại Quyết định số 230/QĐ-QP, Bộ Quốc phòng đã quyết định đổi tên
Trung đoàn 244 thành Xí nghiệp xây dựng 244 trực thuộc Cục Hậu cần không quân, thực hiện cơ
chế hạch toán toàn phần theo Quyết định 217/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng. Ngày 27/12/1997
tại quyết định số 1896/QĐ-QP, Bộ Quốc phòng đã quyết định đổi tên Xí nghiệp xây dựng 244
thành Công ty xây dựng 244 trực thuộc Tổng công ty bay dịch vụ Việt nam. Thực hiện quyết
định số 116/2003/QĐ-BQP ngày 09/09/2003 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc sáp nhập
Công ty xây dựng 244 vào Công ty ACC, từ ngày 01/01/2004 Xí nghiệp xây dựng 244 là đơn vị
trực thuộc Công ty xâydựng công trình hàng không ACC.
Thực hiện Quyết định số 4859/QĐ-BQP ngày 21/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
về việc phê duyệt phương án và chuyển Xí nghiệp xây dựng 244 thành Công ty cổ phần ACC-
244.Với phương châm, mục tiêu hoạt động là “Chất lượng - Tiến độ - Hiệu quả”Công ty đã đạt
được nhiều thành tích trong sản xuất kinh doanh. Tháng 12 nóm 1999 được Chủ tịch nước tặng
“Huân chương lao động hạng ba”, 5 năm qua được Bộ Xây dựng và Công đoàn Xây dựng Việt
nam trao tặng 9 Huy chương vàng và bằng chất lượnng cao. Đặc biệt công trình “Trụ sở làm việc
UBND tỉnh Lào Cai” được Bộ xây dựng tặng “Cúp vàng chất lượng xây dựng Việt Nam”.
1.1.3. Ngành nghề kinh doanh chính của công ty
Công ty cổ phần ACC-244 chính thức đi vào hoạt động với các ngành nghề kinh doanh
chính như: xây dựng và hoàn thiện nhà các loại; xây dựng công trình đường bộ, công trình công
ích, công trình dân dụng khác; lắp đặt máy móc thiết bị công nghiệp, khai thác, xử lý cung cấp
nước, thoát nước, lắp đặt hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện, lò sưởi, điều hoà không khí, hệ
thống xây dựng khác; kinh doanh bất động sản…
1.2. Đánh giá khái quát về tình hình tài chính của công ty
Các chỉ tiêu Đv tính Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
Tăng giảm
2010 so với 2009 2011 so với 2010
Số tuyệt đối % Số tuyệt đối %
1. Tổng tài sản (nguồn vốn) Nghìn đồng 168.895.418 178.969.975 172.216.116 10.074.557 5,96 -6.753.859 -3,77
2. Vốn chủ sở hữu Nghìn đồng 23.506.129 30.573.651 31.422.582 7.067.522 30,07 848.931 2,78
3. Doanh thu (bán hàng+hoạt động
tchinh)
Nghìn đồng 175.769.557 183.269.645 275.369.583 7.500.088 4,27 92.099.938 50,25
4. Lợi nhuận trước thuế Nghìn đồng 6.304.091 7.618.687 9.880.437 1.314.596 20,85 2.261.750 29,69
5. Lợi nhuận sau thuế Nghìn đồng 4.800.188 5.708.754 7.159.774 908.566 18,93 1.451.020 25,42
Căn cứ vào bảng trên ta thấy tổng nguồn vốn của công ty cuối năm 2010 tăng so với cuối
năm 2009, và 2011, như vậy nguồn vốn của công ty biến động bất thường, chưa có xu hướng rõ
rệt. Tuy nhiên vốn chủ sở hữu lại có xu hướng tăng qua các năm, thể hiện mức độ tự chủ về tài
chính của công ty càng ngày càng tăng lên, nhưng nó vẫn còn ở mức khá thấp.
Doanh thu của công ty có sự gia tăng mạnh qua các năm điều này chứng tỏ công ty làm
ăn ngày càng có hiệu quả. Lợi nhuận trước lãi vay và thuế cũng có xu hướng tăng qua các năm,
đặc biệt cả 3 năm hoạt động công ty đều không có các khoản chi trả lãi vay. Nhờ hoạt động có
hiệu quả mà lợi nhuận của công ty có xu hướng tăng dần qua các năm, tỉ lệ tăng là khá cao. Tỷ
suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh của công ty có xu hướng tăng qua các năm chứng tỏ
côn ty sử dụng vốn có hiệu quả. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của công ty năm
2010 thấp hơn so với năm 2009 chứng tỏ trong năm 2010 vốn chủ của công ty tăng, nhưng hiệu
quả sử dụng vốn còn chưa cao, đến năm 2011 hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của công ty đã
tăng lên 22,79% chứng tỏ sự nỗ lực của công ty trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
2. Nhu cầu tài trợ vốn của công ty
2.1. Thực trạng nhu cầu tài trợ vốn của công ty
Năm 2012 cùng với khó khăn của nền kinh tế trong khi Nhà nước tiếp tục thực hiên Nghị
quyết 11 cắt giảm đầu tư công mang đến nhiều khó khăn cho công ty bởi phần lớn các công trình
công ty thi công thuộc nguồn Ngân sách Nhà nước.
Hiện nay, tỷ lệ vốn nợ đọng nằm trong các công trình mà Công ty thi công nhưng vẫn
chưa được chủ đầu tư thanh toán ở mức cao, trong khi đơn vị vẫn phải trả lãi vay cho ngân hàng.
Áp lực về vốn luôn làm đau đầu các nhà quản lý điều hành công ty vì vừa phải lo thanh toán các
khoản vay đến hạn vừa phải duy trì tiến độ thi công các công trình trong khi việc giải ngân và
thanh toán gặp nhiều khó khăn.
Một số công trình đang thi công tiêu biểu :
- Trung tâm dịch vụ thương mại và khách sạn VEGEPORT PLAZA ( giá trị xây lắp 200 tỷ).
- Đoàn an điều dưỡng 298/ Tổng cục CNQP(70 tỷ)
- Nhà khách Quân chủng PK-KQ (hơn 150 tỷ).
Để có nguồn cung vốn ổn định cho công tác thi công đạt đúng tiến độ đặc biệt là công
trình Nhà khách Quân chủng PK-KQ với thời gian cam kết hoàn thành với chủ đầu tư 1 năm đã
đặt ra bài toán khó. Tuy nhiên xuất phát từ một doanh nghiệp có truyền thống trong ngành xây
dựng công ty đã có một số phương án để khắc phục tình trạng thiếu vốn hiện nay đó là thực hiện
huy động vốn qua kênh:
+ Tín dụng ngân hàng.
+ Thông qua tín dụng thương mại (Mua trả chậm, trả góp)
+ Và tín dụng thuê mua (Thuê hoạt động và thuê tài chính)
2.2. Huy động vốn cho dự án Nhà khách Quân chủng PK-KQ
Để có cái nhìn tổng quát về cách thức và phương pháp mà công ty áp dụng để tài trợ vốn
ta xét riêng dự án có nhu cầu vốn cao nhất đó là công trình Nhà khách Quân chủng PK-KQ. Do
thời gian thi công gấp rút chỉ 1 năm trong khi khối lượng công việc khá nhiều đòi hỏi sự chủ
động trong tìm kiếm nguồn tài trợ vốn.
Nhằm nâng cao năng lực sản xuất công ty có lập danh mục TSCĐ cần đầu tư cho dự án
như sau:
DANH MỤC ĐẦU TƯ TÀI SẢN
CT: Nhà khách QC PK-KQ
Đơn vị tính: VNĐ
STT Tên Nguyên giá
1 Cẩu tháp QTZ 502 1,780,000,000
2 Cẩu tháp FO 560 2,280,243,000
3 Vận thăng lòng Model VPV 100 526,363,636
4 02 Trạm trộn bê tông bán tự động 727,272,727
5 Ván khuân thép 770,454,546
Tổng cộng 6,084,333,909
Để có thể đáp ứng nhu cầu về vốn hiện tại, công ty tiến hành huy động vốn qua:
2.2.1. Tài trợ vốn qua kênh tín dụng ngân hàng
Để thi công dự án công ty dự định huy động 30 tỷ bằng hình thức vay ngân hàng, thời
hạn vay 1 năm.
Mục đích sử dụng vốn vay là mua sắm TSCĐ, thanh toán tiền nguyên vật liệu ( bao gồm
thép, xi măng, cát, đá...), thanh toán tiền nhân công và các chi phí khác phục vụ dự án trong giai
đoạn 1.
a) Thuận lợi:
- Là một khách hàng thân thiết có lịch sử giao dịch tốt, có uy tín trong việc thanh toán nợ
đúng hẹn nên được ngân hàng tạo điều kiện có thể vay theo hình thức tín chấp với món vay giá
trị nhỏ từ 3-5 tỷ.
- Công ty thường xuyên tiếp cận với nguồn vốn vay ngân hàng do đó các điều kiện và thủ
tục vay vốn sẽ được đảm bảo và thực hiện nhanh chóng.
- Dự án được đánh giá khả thi, có hiệu quả nên thời gian thẩm định vay vốn được rút
ngắn.
- Nhà nước và các ngân hàng TM có nhiều chính sách ưu đãi cho vay vốn và giảm lãi
suất cho vay.
- Số lượng ngân hàng hoạt động hiện nay khá nhiều nên công ty có thể lựa chọn ngân
hàng phù hợp để thực hiện vay vốn.
b) Khó khăn:
- Trong giai đoạn kinh tế hiện nay khi vấn đề giải quyết nợ xấu trở nên cấp bách vì nó là
tác nhân làm tắc nghẽn dòng vốn của nền kinh tế. Các ngân hàng kiểm soát chặt chẽ các hợp
đồng vay vốn, điều kiện vay vốn được nâng cao hơn do đó việc vay vốn ngân hàng của công ty
cũng gặp rất nhiều khó khăn.
- Theo điều tra của Cục phát triển SMES - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ có 1/3 DNVVN
có khả năng tiếp cận nguồn vốn NH; 1/3 khó tiếp cận và 1/3 không tiếp cận được. Trong số DN
tại VN không tiếp cận được vốn vay NH thì 80% không đáp ứng đủ điều kiện cho vay
- Tài sản thế chấp là vấn đề khó khăn nhất khi công ty thực hiện vay vốn ngân hàng, nếu
như trước kia, bất động sản được ngân hàng định giá và cho vay khoảng 70% giá trị thì nay, việc
định giá vừa đánh xuống thấp bằng một nửa, hạn mức cho vay cũng chỉ bằng 50% giá được ngân
hàng ấn định.
2.2.2. Tài trợ vốn qua nghiệp vụ cho thuê tài chính
Với dự án Nhà khách Quân chủng PK-KQ hiện tại, công ty rất cần đầu tư mua sắm nhiều
máy móc, thiết bị đặc thù để phục vụ cho dự án. Vì vậy, sử dụng hình thức cho thuê tài chính để
cung cấp nguồn vốn là một giải pháp hiệu quả cao mà công ty đang tính đến.
a) Thuận lợi:
- Sử dụng hoạt động cho thuê tài chính, công ty sẽ được hỗ trợ về đầu tư chiều sâu, máy
móc, thiết bị… để mở rộng sản xuất. Bởi công ty vẫn gặp hạn chế về vốn tự có, uy tín cũng như
tài sản thế chấp dẫn đến khó tiếp cận với nguồn vốn tài chính, nên đi thuê máy móc, thiết bị của
công ty cho thuê tài chính đã được công ty xem xét kỹ.
- Bên cạnh đó, loại hình này rất được công ty lưu ý bởi vì thủ tục đi thuê đơn giản, linh
hoạt nhanh gọn hơn đi vay vì bớt được thời gian làm thủ tục thế chấp, bảo lãnh. Thêm vào đó,
hình thức thuê tài chính sẽ giúp cho công ty tránh được rủi ro về tính lạc hậu và lỗi thời của tài
sản, đặc biệt đối với những thiết bị, máy móc có tính đặc thù như của công ty. Hơn nữa, hình
thức này có thể giúp công ty vừa có vốn vừa có trang thiết bị máy móc hiện đại để tập trung sản
xuất kinh doanh hiệu quả hơn.
b) Khó khăn:
- Hiện nay giá cả cho thuê tài chính ở VN đang cao hơn so với các loại hình tín dụng
khác, khiến công ty phải tính toán cân đối nguồn tài chính. Lãi suất cho thuê tài chính thường
cao hơn so với lãi suất cho vay trung dài hạn từ 20% đến 25% và cao hơn 10% nếu tài sản được
mua sắm trực tiếp từ nhà sản xuất.
- Một vấn đề nữa khiến công ty ngại sử dụng cho thuê tài chin là vấn đề sở hữu. Theo
lãnh đạo công ty, nếu vay vốn NH mua máy móc thiết bị thì công ty vẫn đứng tên sở hữu tài sản
và chỉ làm động tác ra công chứng thế chấp. Khi tài sản thuộc sở hữu của công ty thì công ty sẽ
được quyết định mục đích sử dụng tài sản.
Còn cho thuê tài chính thì ngược lại, mặc dù công ty vẫn phải ký quỹ và trả trước
(thường 30-50% tổng giá trị tài sản) nhưng bên cho thuê lại đứng tên sở hữu và có quyền kiểm
tra việc sử dụng tài sản. Nếu công ty sử dụng tài sản không đúng mục đích đã thỏa thuận thì lập
tức bên cho thuê tài chính sẽ can thiệp, thậm chí luật còn cho phép thu hồi tài sản khi bên thuê vi
phạm hợp đồng (về nghĩa vụ thanh toán hoặc mục đích sử dụng)….
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP TĂNG HUY ĐỘNG VỐN CHO DOANH NGHIỆP
Công việc đổi mới kinh tế và nỗ lực thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước đã
tạo động lực đáng kể đối với sự tăng trưởng kinh tế, trong đó có khu vực ngoài quốc doanh –
Chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện nay doanh nghiệp vừa và nhỏ đang đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, huy động các nguồn vốn trong nước cho hoạt động kinh
doanh và tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra trong quá trình vừa học vừa làm doanh nghiệp vừa và nhỏ
đã và đang đào tạo một đội cgũ các nhà doanh nghiệp trẻ và công nhân, với kiến thức và tay
nghề đang từng bước được hoàn thiện. Xét về mặt quản lý chung doanh nghiệp vừa và nhỏ chính
là lực lượng quan trọng, góp phần hiệu suất và tính lhoạt của nền kinh tế.
Nhằm góp phần giải quyết một số khó khăn trong quá trình huy động vốn của doanh
nghiệp để thúc đẩy sự phát triển hơn nữa theo đúng tiềm năng của nó thì cần một số giải pháp
sau:
1. Thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng
Từ năm 1995, quỹ bảo lanhc tín dụng đã hoạt động thí điểm ở Bắc Giang giữa ngân hàng
Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn và trung tâm tư vấn doanh nghiệp Bắc Giang với viện
Friedrich Erbut (Đức), sau đó là quỹ bảo lãnh tín dụng giữa NH Công Thương Việt Nam và ngân
hàng cân đối Đức với giá trị 1 triêu DEM. Từ những kinh nghiệp khả quan bước đầu đó Chính
Phủ đã ra nghị định số 90/2001/10-CP đáp ứng được yêu cầu về thành lập quỹ tín dụng, và chúng
ta nên nhanh chóng thành lập quỹ này để đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Xuất phát từ tình thình thực tế phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, quỹ bảo lãnh tín
dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên là một tổ chức trung gian giữa NH và DN, là một
định chế tài chính phi lợi nhuận, nằm trong hệ thống NH và chịu sự giám sát của NHNN.
Nguyên lý cơ bản của quỹ bảo lãnh tín dụng là: Doanh nghiệp vừa và nhỏ đi vay ngân
hàng với sự bảo lãnh của quỹ tín dụng. Quỹ là người trung gian đắc lực giữa ngân hàng và các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc thẩm định dự án của doanh nghiệp để kiến nghị NH cho vay.
Quỹ đứng ra bảo lãnh cho các khoản vay cong thiếu thế chấp và trả nợ thay cho doanh nghiệp
nếu doanh nghiệp chưa có khả năng trả nợ. Để được bảo lãnh doanh nghiệp phải nộp lệ phí bảo
lãnh cho quỹ (mức phí thí điểm vừa qua là 1 – 2% tổng vốn vay). Quỹ có thể chỉ bảo lãnh tối đa
70 – 80% vốn vay, phần còn lại là NH gánh chịu để nâng cao trách nhiệm thẩm định của ngân
hàng.
Ngoài ra Nhà nước còn có thể hỗ trợ quỹ theo hướng:
Nhà nước cung cấp vốn ban đầu, không hoặc có thể rút dần them mức tích luỹ vốn của
quỹ.
Nhà nước tái bảo lãnh miễn phí (một tỉ lệ bất ky) cho quỹ.
Cũng cho vay ưu đãi (một tỷ lệ nhất định trên số dư bảo lãnh khi cần thiết).
2. Tăng cường nghiệp vụ thuê, mua tài chính
Một trong những giải pháp cung cấp nguồn vốn hiệu quả nhất cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ hiện nay được nhiều doanh nghiệp áp dụng là sử dụng hình thức cho thuê tài chính
Sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính đang được áp dụng phổ biến ở các doanh nghiệp tại
nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Ðức, Thụy Ðiển, Úc... Hiện nay ở Mỹ, ngành thuê
mua thiết bị chiếm khoảng 25 - 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng
năm của các doanh nghiệp. Nguyên nhân chính thúc đẩy hoạt động cho thuê tài chính phát triển
nhanh là do nó thể hiện hình thức tài trợ có tính an toàn cao, tiện lợi, và hiệu quả cho các bên
giao dịch.
Tại Việt Nam, dịch vụ cho thuê tài chính bắt đầu xuất hiện từ năm 1996, và đây được nói
là phương thức hiệu quả để giải quyết về nguồn vốn và trang thiết bị máy móc cho doanh nghiệp,
đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường hạn chế về vốn tự có, uy tín cũng như tài sản thế chấp
dẫn đến khó tiếp cận với nguồn vốn tài chính. Trong khi đó, hoạt động cho thuê tài chính là tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp hạn hẹp về ngân quỹ, các doanh nghiệp có mức độ tín nhiệm
thấp có được cơ sở vật chất và thiết bị cần thiết để sử dụng.
Các doanh nghiệp cần biết rằng cho thuê tài chính là hình thức tài trợ tín dụng thông qua
cho thuê các loại tài sản, máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển… là nhu cầu mà các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư mong muốn để đổi mới máy móc, thiết bị, hiện đại hóa công nghệ sản
xuất kinh doanh.
Đặc trưng của phương thức này là - đơn vị cho thuê là chủ sở hữu tài sản sẽ chuyển giao
tài sản cho người thuê, tức là người sử dụng tài sản được quyền sử dụng và hưởng dụng những
lợi ích kinh tế mang lại từ các tài sản đó trong một thời gian nhất định. Người thuê có nghĩa vụ
trả một số tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng. Điều này
cũng nói lên việc cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài chính không đòi hỏi sự bảo đảm tài
sản có trước, tạo cho doanh nghiệp tiếp cận hình thức cấp tín dụng mới, vừa giải tỏa được áp lực
về tài sản. Ngoài ra, các công ty cho thuê tài chính có thể mua tài sản của doanh nghiệp và cho
thuê lại tài sản đó nếu doanh nghiệp thiếu vốn lưu động do đã tập trung vốn để đầu tư mua sắm
tài sản cố định. Như vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử dụng lại vừa có vốn lưu động để sản
xuất kinh doanh.
Rõ ràng, loại hình này rất thích hợp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi vì thủ tục đi thuê
đơn giản, linh hoạt nhanh gọn hơn đi vay vì bớt được thời gian làm thủ tục thế chấp, bảo lãnh.
Thêm vào đó, hình thức thuê tài chính sẽ giúp cho doanh nghiệp tránh được rủi ro về tính lạc hậu
và lỗi thời của tài sản, đặc biệt đối với những thiết bị có tốc độ phát triển nhanh. Hơn nữa, hình
thức này có thể giúp doanh nghiệp vừa có vốn vừa có trang thiết bị máy móc hiện đại để tập
trung sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn.
3. Ngân hàng cần có các chính sách hỗ trợ vốn
Ngân hàng cần thông qua hình thức nới lỏng các quy định vay vốn…. Để làm được điều
này thì các ngân hàng phải làm những công việc cụ thể sau:
Điều cần thiết là phải nhận thức đúng vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh
tế từ đó tạo ra một sân chơi bình đẳng cho mọi doanh nghiệp trong việc vay vốn ngân
hàng.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được vay vốn tín dụng với các thủ tục không nên qua rườm
rà, phức tạp, các quy định về thế chấp, công chứng, lệ phí, thời gian cần sửa đổi cho rõ
ràng, hợp lý và đơn giản hơn.
Tăng thêm nguồn vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đầu tư mở rộng sản xuất và hiện đại hoá trang thiết bị.
Không nên hỗ trợ vốn chỉ dừng lại ở hỗ trợ ban đầu mà nên tiếp tục hỗ trợ trong cả quá
trình phát triển để đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý sao cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
ổn định hoạt động lâu dài.
4. Cải tiến chính sách đất đai
Đây là một trong những giải pháp nhằm tạo điều kiện dễ dàng hơn cho doanh nghiệp thế
chấp quyền sở hữu đất để vay vốn.
Hiện nay trong chính sách đất đai của chúng ta có nhiều văn bản pháp quy có liên quan
đến đất, các quyền sử dụng và thế chấp các quyền đó rất phức tạp, không rõ ràng, cụ thể là:
+ Hệ thống cấp phép của Chính Phủ trong từng việc thực hiện quyền sử dụng đất còn rất cồng
kềnh, phiền toái, không có hiệu quả kinh tế và tạo ra những cơ hội để trục lợi, lạm dụng khác.
+ Chưa có hệ thống đăng ký công khai về các quyền hạn cho thuê đất và thế chấp.
+ Về mặt hành chính giá trị của quyền sử dụng đất do UBND tỉnh, thành phố, xác định chữ ký
phải theo giá thị trường, và được mỗi tỉnh áp dụng một cách khác nha. Mặt khác NH định giá của
quyền sử dụng đất cũng không theo giá thị trường và giả trị thực của nó. Điều này gây ra cho
doanh nghiệp một tổn thất lớn về giá trị tài sản thế chấp và trở ngại. Vì vậy để tạo cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng trong việc thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn tín dụng thì Nhà
nước nên cải tiến chính sách đất đai theo hướng:
Làm rõ và đẩy nhanh các thủ tục cấp quyền sử dụng đất đai cho doanh nghiệp.
Thống nhất và hiện đại hoá việc đăng ký đất đai và nhà xưởng, hợp lý hoá các thủ tuck
đăng ký đất đai và nhà xưởng.
Phí và thuế trong việc đăng ký đất đai nên vượt quá 25% giá trị tài sản.
Nới lỏng các điều kiện.
5. Tổ chức thành lập quỹ theo kiểu hiệp hội kinh doanh
Thực tế hiện nay cho thấy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp thường không được hiểu như
là một nguồn lợi vì hầu hết các doanh nghiệp đều coi các doanh nghiệp khác là các đối thủ cạnh
tranh trong việc tiếp cận với nguồn vốn, nguyên liệu, lao động của đát nước. Nhận thức được vấn
đề này từ cuối những năm 90, Chính Phủ đã khuyến khích thành lập các hiệp hội ngành nghề,
với mục tiêu xây dựng các đầu mối cấp quốc gia cho các doanh nghiệp trong hầu hết các ngành
nghề và ngành hàng xuất khẩu. Nhưng trên thực tế có rất ít các hiệp hội được ra đời như hiệp hội
giày da (LESAFO), hiệp hội hàng dệt may (VITAS), hiệp hội các nhà sản xuất và xuất khẩu thuỷ
sản (VASEP), và hiệp hội rau quả Việt Nam (Vina Fruit)… và chức năng của các hiệp hội chỉ hỗ
trợ cho các thành viên xúc tiến xuất khẩu thông qua hội trợ triển lãm, cung cấp các thông tin về
thị trường…. Chưa có quảng cáo, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy để tăng
thêm chức năng này thì các hiệp hội nên tổ chức ra một quỹ chung cho các thành viên. Nguyên
tắc hoạt động của quỹ này có thể là: Các thành viên của hiệp hội hàng tháng, hàng quý phải đóng
góp một khoản tiền nhất định cho hiệp hội, sau đó bốc thăm để phân chia thứ tự ứng tiền quỹ
(thực ra đây là cách “chiếm dụng” vốn giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong một thời gian
ngắn). Với cách thành lập theo kiểu này thì sẽ thu được rất nhiều lợi ích:
Giúp cho chủ doanh nghiệp nhanh chóng có được nguồn vốn lớn để sản xuất kinh doanh,
thúc đẩy quá trình tái sản xuất.
Tạo ra sự hợp tác, hỗ trợ giữa các ngành có liên quan từ đó tồn tại một mối liên kết và bổ
xung giữa các doanh nghiệp và đây là một nguông mang lại lợi thế cạnh tranh cho các
doanh nghiệp.
6. Chính sách hỗ trợ từ Nhà nước
Trừ chính sách giảm thuế thu nhập DN cho DNVVN, hầu hết các biện pháp hỗ trợ đều là
các giải pháp chung cho tất cả các DN. Rất ít các biện pháp hỗ trợ được thiết kế để giúp DNVVN
vượt những cản trở do quy mô nhỏ gây ra. Chẳng hạn, cách thức các DNVVN tiếp cận tài chính
chắc chắn sẽ khác với các DN lớn, vậy thì Chính sách tín dụng phải đưa ra những giải pháp nào
sao cho DN lớn và DNVVN đều tiếp cận được. Tức là, mục tiêu chính sách và nhóm đối tượng
hỗ trợ cần được xác định rõ ràng.
Trước mục tiêu đến năm 2015 sẽ thành lập mới 350.000 DNVVN theo Quyết định
1231/QĐ-TTg ngày 7/9/2012 của Chính phủ, Bộ KH - ĐT đã đề ra 8 nhóm giải pháp cơ bản:
Hoàn thiện khung pháp lý về gia nhập, hoạt động và rút lui khỏi thị trường của DN; Hỗ trợ tiếp
cận tài chính, tín dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho DNVVN; Hỗ trợ đổi mới công
nghệ và áp dụng công nghệ mới trong các DNVVN; Phát triển nguồn nhân lực cho các DNVVN;
Đẩy mạnh hình thành các cụm liên kết, cụm ngành công nghiệp, tăng cường tiếp cận đất đai cho
các DNVVN; Cung cấp thông tin hỗ trợ DN; Xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp phát triển DN;
Quản lý thực hiện kết hoạch phát triển DNVVN. Vì vậy, việc sớm thành lập Quỹ Phát triển
DNVVN là giải pháp cần thiết.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_tap_nhom_1_1336.pdf