Mô hình nông thôn mới được quy định bởi các tính chất: Đáp ứng yêu cầu phát triển, có sự đổi mới về tổ chức vận hành và cảnh quan môi trường, đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội tiến bộ hơn so với mô hình cũ, chứa đựng các đặc điểm chung, có thể phổ biến và vận dụng trên cả nước. Như vậy, mô hình nông thôn mới là tổng thể những đặc điểm cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chỉ mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng so với mô hình nông thôn cũ truyền thống, đã có ở tính tiên tiến về mọi mặt. Đây là chính sách về một mô hình phát triển cả nông nghiệp và nông thôn, nên vừa mang tính tổng hợp, bao quát nhiều lĩnh vực, vừa đi sâu giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải quyết các mối quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính toán, cân đối mang tính tổng thể, khắc phục tình trạng rời rạc, duy ý chí.
14 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 8816 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích chủ trương “xây dựng nông thôn mới”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC VÀ KHXH
--*--
TIỂU LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
PHÂN TÍCH CHỦ TRƯƠNG “XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI”
Sinh viên thực hiện : Đỗ Thị Thùy Dung
Lớp : TC 15-19
Mã SV : 10A01465N
Giáo viên hướng dẫn : Trần Thị Thu Giang
Hà Nội, tháng 3 năm 2014
A. LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trên đường phát triển và hội nhập, bước lên thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong xu thế phát triển hiện nay, không thể có một nước công nghiệp nếu nông nghiệp còn lạc hậu và đời sống nhân dân còn thấp. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng việc xây dựng nông thôn. Dựa vào kiến trúc thượng tầng và tồn tại xã hội để xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch, xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắt dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Vấn đề xây dựng nông thộn mới lần đầu tiên được đề cập một cách cơ bản, toàn diện và sâu sắc đáp ứng được mong muốn của nhân dân và yêu cầu chiến lược xây dựng đất nước. Vậy xây dựng nông thôn mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhận thấy được vai trò quan trọng đó, em chọn đề tài: Phân tích chủ trương “Xây dựng nông thôn mới” dưới sự hướng dẫn của giáo viên em đi sâu phân tích chủ trương đổi mới từ tồn tại xã hội và kiến trúc thượng tầng.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Nội dung Trang
A. LỜI MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 3
Chương I. Luận cứ lý luận 3
I. Khái niệm về nông thôn 3
II. Kiến thức thượng tầng và tồn tại xã hội 3
Chương II. Những thay đổi căn bản 5
Chương III. Phân tích chủ trương 7
I. Chủ trương đổi mới từ tồn tại xã hội 7
1. Điều kiện tự nhiên 7
2. Dân số 8
3. Phương thức sản xuất 8
II. Chủ trương đổi mới từ kiến trúc thượng tầng 9
C. KẾT LUẬN 10
Tài liệu tham khảo 11
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. LUẬN CỨ LÝ LUẬN
I. Khái niệm về nông thôn
Khái niệm “nông thôn” thường đồng nghĩa với làng xóm, thôn trong tâm thức người Việt; không gian sinh tồn, không gian xã hội và cảnh quan văn hóa xây đắp nên nền tảng tinh thần, tạo thành lối sống, cốt cách và bản lĩnh của người Việt.
Làng là một đơn vị tự cấp, tự túc về kinh tế, có ruộng, có nghề, có chợ tạo thành không gian khép kín thống nhất. Làng - xã là một cộng đồng tương đối độc lập về phong tục, tập quán, văn hóa, là một đơn vị tự trị về chính trị. Tuy nhiên làng - xã cũng có những biến đổi ít nhiều qua các thời kỳ, nhưng nhìn chung qua các biến động, làng vẫn giữ được cấu trúc truyền thống cơ bản. Nông thôn được xây dựng là tổng hợp của các làng, nói cách khác là đơn vị cơ bản của nông thôn Việt Nam. Tóm lại, nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn, được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã.
Như vậy, nông thôn mới trước tiên phải là nông thôn, không phải là thị tứ, thị trấn, thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống. Nông thôn là làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại, sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; đời sống về vật chất và tinh thần của người dân nông thôn ngày càng được nâng cao; bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển; xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ.
II. Kiến trúc thượng tầng và tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là toàn bộ những yếu tố vật chất mà xã hội dựa vào để tồn tại và phát triển. Tồn tại xã hội bao gồm phương thức sản xuất, điều kiện tự nhiên (hoàn cảnh địa lý) dân số. Làng xã là một cộng đồng cư trú có danh giới lãnh thổ tự nhiên và hành chính xác định. Đây là nơi sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp.
Kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và trạng thái tâm lý cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Làng - xã đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển đất nước, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa, nuôi dưỡng nguyên khí của dân tộc trước các nguy cơ đồng hóa nô dịch. Những giá trị đó luôn luôn cần thiết cho phát triển đất nước. Nếu quá trình xây dựng nông thôn mới làm phá vỡ chức năng gìn giữ văn hóa truyền thống dân tộc mà đi ngược với lòng dân và làm xóa nhòa truyền thống văn hóa muôn đời của người Việt.
Bên cạnh đó là chủ trương chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước. Những nội dung trong chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn như xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, chú trọng các chương trình lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, phát triển kinh tế trang trại, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.
CHƯƠNG II. NHỮNG THAY ĐỔI CĂN BẢN
Từ thực tiễn, đã xuất hiện nhiều ý tưởng nghiên cứu và triển khai mô hình nông thôn mới. Từ năm 2001 đến 2006, cả nước triển khai mô hình Nông thôn mới cấp xã theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa do Ban Kinh tế Trung ương và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chỉ đạo.
Các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước ta đã đưa nền kinh tế nông nghiệp từ nền kinh tế kế hoạch hóa - tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện.
Một là, bước đầu thực hiện quy luật sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn nước ta. Người nông thôn có quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh cơ sở vật chất kỹ thuật (máy móc, điện, đường, trường, trạm) đã có bước phát triển đáng kể.
Hai là, lương thực tăng bình quân hàng năm 5%, đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia, có dự trữ liên tục xuất khẩu với khối lượng lớn. Kinh tế nông thôn có sự chuyển dịch đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp và phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn.
Ba là, trình độ sản xuất nông nghiệp có nhiều tiến bộ, nhiều loại sản phẩm đã được xây dựng thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Trình độ thâm canh được nâng cao, chất lượng nông sản cải thiện đáng kể.
Bốn là, giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản tăng liên tục ở mức cao, kể cả trong điều kiện không thuận lợi của ngoại cảnh (thời tiết và thị trường). Kim ngạch xuất khẩu nông sản của xu hướng tăng đều qua các năm, bình quân chiếm 25% đến 30% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Năm là, cơ cấu kinh tế nông thôn có chuyển biết tích cực. Các ngành sản xuất phi nông nghiệp ở nông thôn đã được mở rộng tuy chưa nhiều, trong đó có một số ngành nghề mới. Kết cấu hạ tầng nông thôn ở nhiều vùng được cải thiện.
Sáu là, tỷ lệ hộ đói nghèo ở nông thôn giảm mạnh từ 30% năm 1992 xuống còn 7% năm 2004. Đời sống của người dân nông thôn được cải thiện, bộ mặt nông thôn không ít nơi có dáng dấp hiện đại. Tốc độ phát triển kinh tế khá cao. Từ năm 2000 đến năm 2005, Từ Sơn (Bắc Ninh) đạt 16,4%; Quỳnh Lưu (Nghệ An) đạt 17,5%; Cai Lậy đạt 9,04%... Thu nhập bình quân đầu năm tăng mạnh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, sinh hoạt dân chủ khởi sắc. Thu nhập của cư dân nông thôn bình quân năm bằng 76,6% bình quân chung cả nước và bằng 47,5% thu nhập của cư dân đô thị.
Bảy là, văn hóa giáo dục, y tế có sự phát triển mới. Dân chủ hóa nông thôn, chương trình an sinh xã hội, phát triển giới đang được tích cực thực hiện.
Những thành tựu đạt được trong phát triển nông nghiệp, nông thôn thời kỳ đổi mới rất to lớn, tuy nhiên nông nghiệp và nông thôn nước ta vẫn tiềm ẩn những mâu thuẫn, thách thức và bộc lộ những hạn chế không nhỏ. Nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, nông thôn chiếm 74% dân số, chiếm 60,7% lao động xã hội. Thu nhập của nông dân bằng 1/3 so với dân cư thành thị. Nhiều chính sách của nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn chưa thực sự hiệu quả, thiếu bền vững. Ở nhiều mặt có thể nói là chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, chưa đưa sản xuất nông nghiệp ở nông thôn thành sản xuất hàng hóa thực sự.
CHƯƠNG III. PHÂN TÍCH CHỦ TRƯƠNG
Trong chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, Chính phủ quy định bảy giải pháp chủ yếu để thực hiện 11 nội dung mà chương trình mục tiêu quốc gia đề ra nhằm đạt mục tiêu quốc gia đề ra nhằm đạt mục tiêu cụ thể từ nay đến năm 2015, 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới và năm 2020, 50% số xã đạt chuẩn nông nông thôn mới (theo bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới mà Chính phủ ban hành). Vì vậy cần phải có chủ trương đổi mới đúng đắn.
I. Chủ trương đổi mới từ tồn tại xã hội:
1. Điều kiện tự nhiên:
Đảng và Chính quyền địa phương cần phải quyết định lựa chọn một cách khoa học, sát thực tế với từng địa phương những nội dung, việc cần ưu tiên làm trước. Trong đó, kiên trì kế hoạch, bổ sung quy hoạch lại nông thôn theo tiêu chí nông thôn mới. Quy hoạch phải đi trước một bước. Từ quy hoạch đến tổng thẻ, phân khu chức năng đến quy hoạch chi tiết, phải tôn trọng quá trình tích lũy nhiều đời. Hạn chế tối đa gây xáo trộn tốn kém gây tâm lý không tốt khi làm quy hoạch cho dân. Việc đầu tư kết cấu hạ tầng trong quá trình xây dựng nông thôn mới chi thực hiện khi quy hoạch được phê duyệt. Các cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi công cộng do Nhà nước đầu tư 100% (hiện nay Chính phủ quy định 7 hạng mục công trình “cứng”), tạo sự thay đổi bộ mặt nông thôn. Nhưng về lâu dài đòi hỏi phải có chính sách thu hút sự đầu tư của doanh nghiệp về nông thôn.
Hình thành “giá đỡ” để nông dân yên tâm sản xuất sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp. Chính phủ có quy định về an ninh lương thực quốc gia, ổn định lâu dài 3,7 triệu hecta đất trồng lúa. Ngoài ra đảm bảo 30-40% lợi nhuận cho nông dân trên giá thành. Cần có chính sách bảo hiểm để nông dân trồng lúa, nhất là rủi ro do thời tiết thiên tai, dịch bệnh.
Về môi trường, cần phải xây dựng, củng cố, bảo vệ môi trường, du lịch sinh thái, bảo vệ rừng đầu nguồn, chống ô nhiễm nguồn nước, môi trường không khí và chất thải công nghiệp để nông thôn phát triển bền vững.
2. Điều kiện dân số:
Hiện nay, cả nước có 15.570.642 hộ sống ở nông thôn, lao động việc làm trực tiếp trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chiếm 51,9% lao động cả nước. Vì vậy, trong quá trình tổ chức cuộc vận động xã hội về xây dựng nông thôn mới, phải nhận thức được vị thế chủ thể của người nông dân (bao gồm cả vị thế chính trị, kinh tế). Đây là nhóm dân số đông nhất hiện nay ở nước ta. Nông dân cùng với giai cấp công nhân Việt Nam đi suốt chiều dài lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, nn hiện tại đang gặp nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế - văn hóa - tinh thần và nền dân trí còn thấp so với những người dân thành thị.
Theo đó, nông thôn là khu vực rộng lớn nhất, đa dạng cư dân, da dạng văn hóa truyền thống (kể cả tập tục lạc hậu). Vì vậy cần có cách tổ chức, vận động phù hợp. Xây dựng hình mẫu người nông dân sản xuất hàng hóa khá giả, giàu có, kết tinh các tư cách: công dân, thổ dân, dân của làng, người của dòng họ, gia đình. Xây dựng hệ thống bảo hiểm cho người nông dân khi họ quá tuổi lao động theo nguyên tắc: người dân hưởng thụ bảo hiểm, tập thể doanh nghiệp sử dụng hoặc là hợp tác xã sản xuất sản phẩm nông nghiệp, ngân sách nhà nước cùng tham gia để khi người dân quá tuổi lao động có “tiền lương hưu” gọi “hưu nông dân”.
3. Phương thức sản xuất:
Về kinh tế, nông thôn có nền sản xuất hàng hóa mở, hướng đến thị trường và giao lưu hội nhập. Để đạt được điều đó, kết cấu hạ tầng của nông thôn phải hiện đại, tạo điều kiện cho mở rộng sản xuất giao lưu buôn bán. Thúc đẩy nông nghiệp nông thôn phát triển nhanh, khuyến khích mọi người tham gia vào thị trường, hạn chế rủi ro cho nông dân, điều chỉnh giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo.
Hình thức sở hữu đa dạng, trong đó chú ý xây dựng mới các hợp tác xã theo mô hình kinh doanh đa ngành. Hỗ trợ các hợp tác xã ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ phù hợp với các phương án sản xuất kinh doanh, phát triển ngành nghề ở nông thôn.
Sản xuất hàng hóa có chất lượng cao, mang nét độc đáo, đặc sắc của từng vùng địa phương. Tập trung đầu tư vào những trang thiết bị, công nghệ sản xuất, chế biến, bảo quản nông sản sau thu hoạch.
Kinh tế hộ, trang trại, tổ chức hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ đều nằm trong khuôn khổ của chính sách đó và Chính phủ chỉ nêu khuyến khích, lương cho người dân tự chọn, không áp đặt với mục tiêu tạo ra sản phẩm hàng hóa có giá trị cao, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn.
II. Chủ trương đổi mới từ kiến trúc thượng tầng
Nhà nước đóng vai trò chỉ đạo, tổ chức điều hành quá trình hoạch định và thực thi chính sách, xây dựng đề án, cơ chế tạo hành lang pháp lý hỗ trợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực, tạo điều kiện, động viên tinh thàn. Nông dân tự nguyện tham gia, chủ động trong thực thi và hoạch định chính sách. Trên tinh thần đó, các chính sách kinh tế - xã hội sẽ tạo hiệu ứng tổng thể nhằm xây dựng mô hình nông thôn mới.
Về chính trị, phát huy dân chủ với tinh thần thượng tôn pháp luật, gắn lệ làng hương ước với pháp luật, đê điều chỉnh hành vi con người đảm bảo tính pháp lý, tôn trọng kỷ cương phép nước, phát huy tính tự chủ của làng xã.
Cùng với việc ra sức kiện toàn các cấp ủy đảng, chính quyền xã là việc tổ chức lại các hội, đoàn thể của dân thực sự là tổ chức của họ, đại diện cho họ giám sát các hoạt động của các cấp chính quyền, tổ chức Đảng, bảo đảm nguyên tắc dân chủ, công khai, trong thôn xã, giúp họ định hướng phát triển sản xuất, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tình làng nghĩa xóm, đảm bảo an ninh trong làng xã, giúp nhau và thi đua làm giàu chính đáng. Xác định lợi ích thực tế của các bên liên quan trong phát triển nông thôn, nên có phần thiên về thúc đẩy phát triển ngành.
C. KẾT LUẬN
Mô hình nông thôn mới được quy định bởi các tính chất: Đáp ứng yêu cầu phát triển, có sự đổi mới về tổ chức vận hành và cảnh quan môi trường, đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội tiến bộ hơn so với mô hình cũ, chứa đựng các đặc điểm chung, có thể phổ biến và vận dụng trên cả nước. Như vậy, mô hình nông thôn mới là tổng thể những đặc điểm cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chỉ mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng so với mô hình nông thôn cũ truyền thống, đã có ở tính tiên tiến về mọi mặt. Đây là chính sách về một mô hình phát triển cả nông nghiệp và nông thôn, nên vừa mang tính tổng hợp, bao quát nhiều lĩnh vực, vừa đi sâu giải quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời giải quyết các mối quan hệ với các chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính toán, cân đối mang tính tổng thể, khắc phục tình trạng rời rạc, duy ý chí.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí Cộng sản.
2. Tạp chí Phát triển kinh tế.
3. Tạp chí nông thôn ngày này.
CAM ĐOAN CỦA SINH VIÊN
+ Bài tiểu luận này là do chính bản thân em tìm kiếm tài liệu, suy nghĩ tự viết ra.
+ Không sao chép một nguồn khác, không sao chép tiểu luận của bạn khác, không ngờ người viết hộ, không thuê viết hộ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- _123doc_vn_tieu_luan_triet_hoc_ve_phuong_phap_luan_phan_tich_chu_truong_xay_dung_nong_thon_moi_1429.doc