Tiểu luận Phân tích tổn thất tải trọng trong thị trường độc quyền hoàn toàn

LỜI MỞ ĐẦUNhư chúng ta đã biết, xu hướng chung của nền kinh tế hiện nay trên toàn thế giới là Kinh tế hỗn hợp. Nó bao gồm nhiều thị trường khác nhau và đa dạng. Để tồn tại và phát triển trong thởi buổi kinh tế hiện giờ thì các doanh nghiệp phải hiểu rõ cặn kẽ cơ cấu chung, đặc điểm của mỗi thị trường. Trong đó thị trường độc quyền hoàn toàn được coi là mặt trái của thị trường. Nó đứng trên mọi công bằng của nền kinh tế. Độc quyền gây ra mức giá cao hơn và lượng cung trên thị trường ít hơn so với giá và lượng cung trên thị trường bình thường. Vì thế người tiêu dùng thường chỉ trích và không thích thị trường này. .

docx26 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2785 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích tổn thất tải trọng trong thị trường độc quyền hoàn toàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết, xu hướng chung của nền kinh tế hiện nay trên toàn thế giới là Kinh tế hỗn hợp. Nó bao gồm nhiều thị trường khác nhau và đa dạng. Để tồn tại và phát triển trong thởi buổi kinh tế hiện giờ thì các doanh nghiệp phải hiểu rõ cặn kẽ cơ cấu chung, đặc điểm của mỗi thị trường. Trong đó thị trường độc quyền hoàn toàn được coi là mặt trái của thị trường. Nó đứng trên mọi công bằng của nền kinh tế. Độc quyền gây ra mức giá cao hơn và lượng cung trên thị trường ít hơn so với giá và lượng cung trên thị trường bình thường. Vì thế người tiêu dùng thường chỉ trích và không thích thị trường này. Việc nghiên cứu đề tài này cho chúng ta cái nhìn tổng quan về những tổn thất mà thị trường này gây ra. Qua đó cùng suy nghĩ ra những giải pháp quản lý cụ thể, đồng thời giúp chúng ta suy nghĩ lựa chọn cho bản thân cách thức thâm nhập vào thị trường hỗn hợp hiện nay. Đề tài được tổng hợp từ nhiều nguôn khác nhau và được chỉnh sửa theo ý kiến chủ quan của nhóm nên không tránh những sai sót mong cô và các bạn tân tình giúp đỡ để sửa chữa và hoàn thiện hơn nữa đề tài nghiên cứu của nhóm. Xin chân thành cảm ơn. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2011 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỘC QUYỀN HOÀN TOÀN Độc quyền hoàn toàn Định nghĩa Thị trường độc quyền hoàn toàn là thị trường mà trong đó chỉ có một người bán duy nhất nhưng có rất nhiều người mua. Trong trường hợp này, chỉ có duy nhất một người bán không có sản phẩm thay thế gần gũi gì cả, dù từ xa một.Có hoàn toàn không mức độ cạnh tranh. Độc quyền như vậy là thực tế rất hiếm. Đặc điểm của độc quyền hoàn toàn Thị trường độc quyền hoàn toàn thì khác với các loại thị trường khác. Nó đối nghịch với thị trường cạnh tranh hoàn toàn, nghĩa là thị trường cạnh tranh hoàn toàn thi có một số lượng lớn người bán trong khi đó thị trường độc quyền hoàn toàn chỉ có một người án duy nhất trên thị trường. Bao gồm các đặc điểm sau: Trong ngành chỉ có một người bán duy nhất và rất nhiều người mua. Vắng mặt người thay thế sản xuất hàng hóa cùng loại. Doanh nghiệp có quyền định giá. Doanh nghiệp rất khó khăn khi muốn gia nhập hay rút lui khỏi ngành. Do gặp các rào cản sau: Nguồn tài nguyên thiên nhiên : như đất đai, khoáng sản…. Nguồn cung ứng của các tài nguyên này luôn bị giới hạn. Do đó sẽ xuất hiện tình trạng độc quayền nếu các nguồn tài nguyên này nằm trong tầm tay các nhà độc quyền. Nguồn vốn: Những doanh nghiệp có vốn ít không thể gia nhập hay tồn tại trong ngành. Vì thế phần lớn doanh nghiệp này thường trở nên độc quyền hoàn toàn. Kĩ thuật chuyên dụng: Đòi hỏi một số ngành cần phải sử dụng kỹ thuật chuyên dụng đặt trưng như đóng tàu, ngành hàng không. Cho nên những doanh nghiệp này thường độc quyền hoàn toàn. Qui định của pháp luật: Qui định về độc quyền nhãn hiệu, qui định về tiêu chuẩn hàng hóa . Tiện ích công đồng: Như công ty cầu đường, công ty cấp nước…. là một dạng của độc quyền hoàn toàn đa số thuộc quyền sở hữu công ty nhà nước quản lý nhằm uy trì và nâng cap chất lượng cho sản phẩm và dịch vụ. Chỉ vì rào cản càng gây thêm tính độc quyền ngày càng tăng cao giữa thị trường hiện nay: Độc quyền sở hữu hoặc kiểm soát của một công ty / công ty để sản xuất và bán một hàng hóa hoặc dịch vụ.  2. Công ty này là một ngành công nghiệp, vì sự phân biệt giữa công ty và ngành công nghiệp không tồn tại.  3. Mâu thuẫn với một thị trường cạnh tranh hoàn hảo.  4. Không thay thế gần gũi của sản phẩm / dịch vụ có sẵn trên thị trường.  5. Bên bán là các nhà hoạch định giá và không thực thi giá cả, vì chúng là những nhà cung cấp duy nhất.  6. Cao rào cản cho các công ty khác, do đó hạn chế cạnh tranh.  7. Các rào cản gia nhập có thể được luật pháp, công nghệ, kinh tế hoặc tự nhiên. Như một cách đúng đắn bởi Milton Friedman nói rằng độc quyền thường xuyên ... phát sinh từ sự hỗ trợ của chính phủ hay từ các thỏa thuận thông đồng giữa các cá nhân. 8. Công ty này phải đối mặt với nhu cầu đường dốc xuống cho sản phẩm của nó; kể từ khi doanh nghiệp là một ngành công nghiệp. Nó có nghĩa là nó không thể bán ra nhiều hơn, trừ khi giá cả hạ xuống.  Giới hạn sức mạnh của Độc quyền Những công ty độc quyền hoàn toàn tự do trong việc quyết định giá, nhưng công ty độc quyền vẫn còn có những giới hạn trong sức mạnh chi phối thị trường. Gồm 2 phần: Đường cầu của công ty độc quyền dốc xuống: Đường D (như hình trên) là đường cầu của công ty độc quyền. Ta thấy nhà độc quyền không thể chọn lựa giá cả giá bán lẫn sản lượng sản xuất để bán ra mà chỉ có thể chọn một trong hai cách. Nếu công ty độc quyền quyết định chọn giá bán cao thì số lượng người mua sẽ ít đi, và ngược lại nếu công ty độc quyền muốn có số lượng số người mua thì phải gigảm giá xuống mức thấp hơn. Thu nhập và sẵn sàng mua của người mua: Nếu nhà độc quyền chọn giá bán là Pn (như hình trên) thì doanh thu của công ty độc quyền sẽ bằng không. Dù công ty độc quyền được tự do đưa ra giá bán trên thị trường nhưng sự tự do này vẫn bị hạn chế bởi khả năng mua của người tiêu dung. Với sản phẩm giá bán cao hơn sẽ gây ảnh hưởng đến thu nhập của người mua khiến họ mua ít lại hoặc không mua sản phẩm. Sự co giãn của đường cầu: Nếu đường cầu ít co giãn thì mức độ kiểm soát thị trường của nhà độc quyền sẽ cao hơn. Và khi đường cầu trở nên linh hoạt thì sự kiểm soát của công ty độc quyền đối với thị trường sẽ giảm xuống. Trong hình ta thấy có thấy hai đường cầu D1 và D2. Đường cầu D1 co giản ít nên mức độ kiểm soát thị trường của công ty độc quyền nhiều hơn. Còn đường cầu D2 có độ co giảm nhiều nên mức độ kiểm soát của công ty độc quyền thấp. Trên đường cầu D1, nếu nhà độc quyền tăng giá từ P lên P1 thì sản lượng sẽ giảm từ Q xuống Q1. Trên đường cầu D2 nếu mức giá thay đổi tương tự thì ta thấy lương bán của công ty độc quyền sẽ giảm nhiều hơn, tức là giảm từ N xuống N1. Ta thấy rằng đường cầu co giãn nhiều hơn, dù giá bán của công ty độc quyền có cao hơn nhưng doanh thu vẫn ít hơn so với trường hợp cầu so giản ít. Ngoài ra ta cần phải hiểu hơn về sự co giãn của nhiều yếu tố khác nhau : Đường cầu của một công ty độc quyền là đường cầu thị trường (do công ty là công ty duy nhất trên thị trường). Do đường cầu thị trường là đường cong có độ dốc xuống dưới, doanh thu cận biên sẽ ít hơn giá của hàng hoá .Cần lưu ý trước, doanh thu cận biên là: ·dương khi cầu co giãn, ·bằng 0 khi cầu là đơn vị co giãn, và ·âm khi cầu không co giãn PHÂN TÍCH TỔN THẤT TẢI TRỌNG Thị trường cạnh tranh hoàn toàn Thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất Hình 1: Thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất Đồ thị 1 minh họa thặng dư tiêu dùng. Giá cân bằng là P*, người tiêu dùng sẽ lựa chọn tiêu dùng là Q* , bởi đường cầu D phản ánh mức giá mà người tiêu dùng sẳn sàng trả cho hàng hoá ở các mức tiêu dùng khác nhau.Toàn bộ giá trị hàng hoá được mua là diện tích nằm dưới dường cầu từ sản lượng Q0 đến sản lượng Q*, đó là diện tích AEQ*0. Đối với giá trị này người mua chỉ phải trả là diện tích PEQ*0, do vậy người tiêu dùng sẽ nhận được một thặng dư là phần màu xanh diện tích AEP* Trong đồ thị 1 cũng minh hoạ giá trị dôi ra mà người sản xuất hàng hoá nhận được, liên quan đến vị trí mà số hàng hoá được sản xuất. Việc đo lường này dựa trên cơ sở đường cung, phản ánh mức giá thấp nhất mà người bán có thể chấp nhận cho mỗi đơn vị hàng hoá. Ở giá và lượng cân bằng thị trường P* và Q* người sản xuất nhận được toàn bộ thu nhập P*EQ*0. Bởi để bán một đơn vị hàng hoá người bán sẽ bán ở mức giá thấp nhất có thể và họ sẽ bán ở lượng Q* và chi phí phải bỏ ra là diện tích BEQ*0. Ở sản lượng Q* họ sẽ nhận được thặng dư sản xuất diện tích màu vàng P*EB. Từ việc hiểu biết một cách chính xác về thặng dư chúng ta sẽ lần nữa kiểm tra sự phân biệt ngắn hạn và dài hạn trong quyết định cung ứng của hãng. Thường là thị trường cạnh tranh hoàn toàn đưa giá cả sao cho hợp lý với người mua nhằm tăng số lượng hàng hóa bán ra nhiều hơn nhưng lợi nhuận sẽ thu lại ít hơn một tí so với thị trường độc quyền. Thặng dư sản xuất trong ngắn hạn Đường cung ngắn hạn hay dài hạn S mô tả trong hình 4.9 . Throng phần trước của chương chúng ta thấy hệ số góc dương của đường cung có sự khác nhau trong hai trường hợp. Trong ngắn hạn, đường cung thị trường là tổng theo chiều ngang đường chi phí biên ngắn hạn của các hãng (SMC). Hệ số góc dương của đường phản ánh quy luật hiệu suất giảm dần khi thay đổi một đầu vào và nó đo số đầu ra tăng lên. Trong trường hợp giá vượt quá chi phí biên( phản ánh bởi đường cung) toàn bộ mức đầu ra là Q* . Việc tăng mỗi đơn vị đầu ra làm tăng lợi nhuận đối với người cung ứng. Tổng lợi nhuận ngắn hạn là tổng của toàn bộ lợi nhuận tăng thêm này là diện tích P*EB. Do vậy P*EB là thặng dư sản xuất ngắn hạn. Phản ánh tổng của lợi nhuận ngắn hạn và chi phí cố định ngắn hạn. Nó bao gồm phần lợi nhuận vượt qua so với hãng lựa chọn không sản xuất( không sản xuất hãng phải chịu chi phí cố định). Thặng dư sản xuất trong dài hạn Trong dài hạn hệ số góc dương của đường cung xuất hiện khi hãng có chi phí đầu vào tăng. Khi thị trường cân bằng, mỗi hãng có lợi nhuận zero và ở đó không có chi phí cố định. Thặng dư sản xuất ngắn hạn không tồn tại trong trường hợp này. Trái lại thặng dư sản xuất dài hạn phán ảnh sự phải trả tăng lên để nhận được từ đầu vào của hãng tương ứng với đầu ra mở rộng. Diện tích P* EB trong đồ thị 4.9 đo lường phần phải trả tăng thêm này liên quan đến tình trạng với ngành sản xuất không có đầu ra, trong trường hợp này có thể nhận được giá thấp nhất cho dịch vụ của họ Thặng dư tổng xã hội Sự phân tích về thặng dư sản xuất và thặng dư tiêu dùng cung cấp bước đầu tại sao các nhà kinh tế giả thuyết về sự phân bổ các nguồn lực có hiệu quả trong thị trường cạnh tranh. Chúng ta quay trở lại với đồ thị 1 đã được mô tả. Bất kỳ mức đầu ra nào khác sản lượng Q* là không có hiệu quả, ở đó tổng thặng dư sản xuất và thặng dư tiêu dùng là không thể lớn. Nếu sản lượng được sản xuất là Q1 thì tổng thặng dư có khả năng bị mất sẽ là diện tích FEG. Ở sản lượng Q1 người mua sẽ trả giá P1 cho lượng Q1. Ở lượng này chi phí để sản xuất là P2. Ở đó có sự thiếu hụt, ám chỉ rằng ở đó tồn tại sự chuyển hoá lợi ích lẫn nhau, đó có thể là lợi ích giữa người mua và người bán. Chỉ ở sản lượng Q*, thặng dư sản xuất và thặng dư tiêu dùng là lớn nhất, hay tổng phúc lợi xã hội lớn nhất. Kiểm soát giá cả và sự thiếu hụt Một thị trường cạnh tranh sẽ có hiệu quả bởi nó làm cho tổng phúc lợi xã hội lớn nhất. Tuy nhiên, không phải để cho thị trường tự hoạt động sẽ có hiệu quả. Trong một số trường hợp sự can thiệp của chính phủ có thể nâng cao phúc lợi của cả người sản xuất và người tiêu dùng trong một thị trường có sức cạnh tranh. Trường hợp thứ nhất, nó xuất hiện khi các hành động của người sản xuất hoặc tiêu dùng dẫn đến một chi phí hoặc một lợi ích không xuất hiện như một bộ phận của giá thị trường. Những chi phí hoặc lợi ích này được gọi là “ngoại ứng”vì chúng ở bên ngoài thị trường. Trường hợp thứ hai trong đó sự can thiệp của chính phủ có thể cải thiện được sự thất bại của thị trường. Nếu không có những ngoại ứng và những thất bại của thị trường, thì thị trường có sức cạnh tranh không bị điều tiêt có thể dẫn đến một mức giá cả và đầu ra có sức tối đa hoá phúc lợi xã hội. Bây giờ chúng ta xem điều gì sẽ xẩy ra khi chính phủ kiểm soát giá cả. Hình 2: Kiểm soát và sự thiếu hụt Một vài chính phủ theo đuổi việc kiểm sóat giá cả dưới mức cân bằng. Mặc dù chính sách như vậy thường cao quý, nó ngăn cản vịêc cung ứng trong dài hạn và gây ra một phúc lợi ít hơn cho cả người tiêu dùng và người sản xuất. Sự phân tích đơn giản khả năng này được cung cấp bởi đồ thị 2. Hiện tại thị trường đang cân bằng dài hạn ở giá P1 và lượng Q1(điểm E). Sự tăng lên trong cầu từ D đến D1 là nguyên nhân để giá tăng lến P2, trong ngắn hạn sẽ kích thích việc đi vào của những hãng mới. Giả định thị trường này có đặc trưng là chi phí tăng ( phản ánh trong đường cung dài hạn LS). Giá có thể giảm, bởi sự đi vào này và nó nằm ở P3. Nếu giá này thay đổi chính phủ có thể thi hành luật giá trần P1. Đó có thể là nguyên nhân để hãng tiếp tục cung ứng ở mức đầu ra của họ là Q1 và ở giá này người mua muốn mua ở lượng Q4, điều này gây ra một sự thiếu hụt Q4 – Q1 Kết quả phúc lợi của chính sách kiểm soát giá này có thể ước lượng bằng việc so sánh lượng thặng dư sản xuất và thặng dư tiêu dùng. Chính sách này có thể có ưu thế bởi sự có mặt của việc kiểm soát. Thứ nhất, người mua sản lượng Q1 thặng dư tiêu dùng tăng thêm là diện tích P3CEP1 bởi vì họ có thể mua hàng hoá này với giá thấp hơn so với trường hợp không kiểm soát. Sự tăng thêm này phản ánh sự chuyển đồi hoàn toàn từ thặng dư sản xuất đến người tiêu dùng. Hiện tại người tiêu dùng có lợi từ giá thấp hơn và người sản xuất lại bị mất. Thứ hai, diện tích AE/C mô tả phần tăng thêm thặng dư tiêu dùng có thể đạt khi không có sự kiểm soát giá. Tương tự, diện tích CE/E phản ánh thặng dư sản xuất tăng thêm trong tình trạng không có sự kiểm soát giá. Gắn hai diện tích này phản ánh sự chuyển hoá lợi ích lẫn nhau giữa người mua và người bán, do có sự kiểm soát giá của chính phủ. Đó là đo lường thuần tuý chi phí xã hội của chính sách này. Cuối cùng, việc phân tích phúc lợi xã hội trong hình 2 cũng cung cấp một vài sự sáng suốt của chính sách kiểm soát giá này. Thị trường độc quyền hoàn toàn Thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất Các nhà sản xuất và người tiêu dùng thặng dư được minh họa bằng cung và cầu đường cong trong hình dưới đây. Tổng giá trị cho người tiêu dùng của Q được đại diện bởi số lượng các khu vực A + B + C. Bởi vì người tiêu dùng phải trả B + C, chỉ có khu vực là dư thừa cho họ. Các nhà sản xuất có được doanh thu của B + C. B là thặng dư của họ bởi vì các khoản thanh toán duy nhất của C là cần thiết để thu hút các nguồn lực cần thiết để sản xuất số lượng Q. Các khái niệm của người tiêu dùng và người sản xuất thặng dư là những công cụ có thể giúp phân tích nhiều tình huống. Ví dụ, là có bất kỳ sự cám dỗ cho người bán để băng đảng lên trên người mua? Nếu người bán có thể tăng giá, họ có thể chuyển giao một số thặng dư của người tiêu dùng cho chính mình? Họ có thể, và biểu đồ dưới đây mô tả những gì xảy ra.Những người tiêu dùng thặng dư ở Pc giá là A + B + D. Các nhà sản xuất thặng dư ở mức giá này là C + E. Bằng cách nâng giá để Pm, người bán người tiêu dùng gây ra dư thừa "để thu nhỏ với diện tích A. Khu B được chuyển từ người tiêu dùng để sản xuất, nhưng sản xuất khu vực mất điện. Nếu khu vực B là lớn hơn E, khu vực di chuyển này lợi ích người sản xuất. Các nhà sản xuất mới "thặng dư là C + B. Nếu người bán băng đảng lên trên người mua, họ không còn giá thực thi . Thay vào đó, những người bán để lại đường cung và tìm kiếm dọc theo đường cầu để giải quyết tốt nhất. Kết quả là, như hành vi được gọi là "giá tìm kiếm." Nó là dễ nhất cho người bán để hạn chế sản lượng và tăng giá khi có rất ít người bán và người mua nhiều. Khi độc quyền, có nghĩa là chỉ có một người bán, nhà kinh tế kỳ vọng của người bán để hành động theo cách này. Với nhiều người bán, điều phối các quyết định trở nên khó khăn (với lý do tương tự mà các vấn đề phổ biến có thể tồn tại) và hạn chế sản lượng trở nên khó xảy ra. Ngoài ra, người mua có thể băng đảng lên trên người bán và trích xuất thặng dư sản xuất. Họ phải hạn chế mua ổ đĩa giá xuống.  Một lần nữa, hành vi này có thể chỉ khi có rất ít người mua và người bán rất nhiều. Khi chỉ có một người mua, một độc quyền hoàn toàn, nhà kinh tế mong đợi nó để hạn chế mua hàng. Điều gì là tốt cho cá nhân không nhất thiết phải tốt cho nhóm. Chú ý rằng quá trình chuyển giao các giá trị của B diện tích từ người tiêu dùng để sản xuất trong đồ thị thứ hai ở trên người tiêu dùng gây mất diện tích sản xuất D và E mất tích, và không ai được giá trị này mất. Trong quá trình tăng thặng dư của họ bằng cách chiếm giữ khu vực B, sản xuất ra giá trị thặng dư tổng số thu nhỏ. Có một cuộc xung đột ở đây giữa lợi ích của người sản xuất và xã hội như một toàn thể. Việc mất giá trị, mà không bù đắp các nơi khác trong hệ thống, là bản chất của thị trường độc quyền hoàn toàn. Thặng dư tổng xã hội So với một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, một kết quả độc quyền trong một mức giá / số lượng đó không chỉ làm giảm thặng dư người tiêu dùng, mà còn dư thừa tổng thể và do đó phúc lợi. Xem xét lần lượt từng ảnh hưởng đến xã hội. Qua số liệu đo được thặng dư tiêu dùng bởi sự khác biệt giữa sẵn sàng chi trả, đại diện cho đường cầu, và giá cả thị trường, số tiền bất kỳ mà người tiêu dùng thực sự trả.  Cho rằng khu vực thặng dư tiêu dùng, trong đó thể hiện những gì người tiêu dùng sẽ phải trả nhiều hơn so với những gì họ đã chi tiêu, là một xấp xỉ tốt trong những lợi ích người tiêu dùng có được từ trao đổi. . Hình A : độc quyền, thặng dư tiêu dùng và xã hội Trong hình A, thặng dư ròng của người tiêu dùng trong một hệ thống cạnh tranh được đại diện bởi các khu vực của BGDB tam giác, trong khi ở chế độ độc quyền, điều này thặng dư tiêu dùng là giảm đến CEDC khu vực. So với các đối thủ cạnh tranh thị trường, thị trường kết quả độc quyền trong một giảm phúc lợi của người tiêu dùng và đo lường các bề mặt của BCEGB hình của đồ thị A. Ta quan sát thấy cường độ của sự mất mát của thặng dư người tiêu dùng sẽ phụ thuộc vào sức mạnh thị trường của công ty, hoặc là ta đã nói trước đây, sự nhạy cảm của nhu cầu giá cả, đại diện cho độ dốc của nhu cầu . Tốt hơn là thay thế được, càng có nhiều tính đàn hồi của nhu cầu với giá là mạnh mẽ theo định hướng về phía bên phải của ứng dụng theo chiều ngang, và mất ít thặng dư tiêu dùng sẽ cao hơn. Đối xứng với sự mất mát của các thặng dư tiêu dùng, doanh nghiệp độc quyền tăng thặng dư sản xuất. Trong hình A, lợi nhuận đến từ các bề mặt BGAB cạnh tranh ở các bề mặt trong chế độ độc quyền CASL. Các tổng lợi nhuận cao hơn ở trong tình trạng độc quyền. Điều này có thể được thêm lợi nhuận ước tính của các mặt BCEHB - hgfh. Tuy nhiên, sự gia tăng thặng dư sản xuất không bù đắp sự sụt giảm tổng số thặng dư của người tiêu dùng. Tổng thặng dư, trong đó bao gồm thặng dư sản xuất (lợi nhuận) và giảm thặng dư tiêu dùng. Do đó làm giảm phúc lợi xã hội. Trong hình A, tổng thặng dư được thể hiện trong cuộc thi, bởi mặt ADGA, và độc quyền của khu vực ADEFA. Tổng thặng dư thực sự giảm do thực hiện quyền lực thị trường độc quyền. Điều này làm giảm phúc lợi thường được gọi tải như đã chết, tính bằng diện tích nở EGFE hình của đồ thị A minh họa cho khái niệm này của tĩnh tải nói rằng độc quyền, sự suy giảm trong tổng số thặng dư vượt quá mức tăng lợi nhuận của một số tiền bằng với sự mất mát của phúc lợi. So sánh Phần bên trái của biều đồ dưới đây minh hoạ cho thặng dư mà người tiêu dùng và người sản xuất nhận được trong thị trường cạnh tranh hoàn toàn. Phần bên tay phải biểu đồ minh hoạ mức thặng dư thất thoát mà người tiêu dùng và người sản xuất phải chịu trong một thị trường độc quyền thay cho một thị trường cạnh tranh hoàn toàn. Như biểu đồ này cho thấy, việc đưa ra giá của một công ty độc quyền dẫn tới giá tăng từ P(pc) tới P(m) trong khi sản lượng giảm từ Q(pc) xuống Q(m). Giá cao hơn và số lượng giảm trong ngành độc quyền này dẫn tới thặng dư của người tiêu dùng giảm bằng phần hình thang ACBP(pc). Mặc dù vậy, điều này không phải là chi phí của xã hội do phần hình chữ nhật P(m)CEP(pc) được chuyển sang cho nhà độc quyền như phần thặng dư thêm của người sản xuất. Chi phí ròng xã hội là phần tam giác xanh CBF. Chi phí ròng của một thị trường độc quyền được gọi là sự thất thu tới hạn (deadweight loss). Đây là một phuơng pháp tính thiệt hại của thặng dư của người tiêu dùng và người sản xuất do mức sản xuất thấp hơn trong một ngành kinh doanh độc quyền. Một số nhà kinh tế cho rằng mối đe doạ cạnh tranh tiềm ẩn có thể khuyến khích các công ty độc quyền sản xuất thêm nhiều hàng hoá tại một mức giá thấp hơn mô hình trên đưa ra. Lập luận này cho thấy sự thất thu tới hạn từ một ngành độc quyền nhỏ hơn khi các rào cản của việc gia nhập ít hiệu quả hơn. Lo sợ sự can thiệp của chính phủ (dưới hình thức điều chỉnh giá hoặc luật chống phá giá) có thể giữ mức giá trong một ngành độc quyền thấp hơn mức người ta dự tính. Một điểm liên quan là không hợp lý khi so sánh kết quả của một thị trường cạnh tranh hoàn toàn với kết quả của một thị trường độc quyền do quy mô kinh tế mang lại. Trong khi các công ty cạnh tranh có thể sản xuất nhiều hàng hoá hơn so với một công ty độc quyền có thể sản xuất với cùng một đường chi phí, một công ty độc quyền lớn có thể sản xuất hàng hoá với mức chi phí thấp hơn những công ty nhỏ hơn có thể sản xuất khi tính tới quy mô kinh tế. Điều này làm giảm sự thất thu tới hạn được dự tính do kết quả của sự độc quyền. Nói cách khác, sự thất thu tới hạn có thể nói giảm đi chi phí của sự độc quyền do kết quả của sự thiếu hiệu năng X (X-inefficiency) hoặc hành vi tìm kiếm địa tô (rent-seeking behavior) về phần nhà độc quyền. Sự thiếu hiệu năng X xuất hiện khi nhà độc quyền ít có động cơ sản xuất hàng hoá với mức chi phí thấp nhất do họ không bị đe doạ bởi áp lực cạnh tranh. Hành vi tìm kiếm địa tô xảy ra khi các công ty mở rộng các nguồn tài nguyên để dành độc sự độc quyền bằng cách thuê luật sư, người vận động hành lang… với nỗ lực nhằm nhận được quyền độc quyền do chính phủ cấp cho. Những hoạt động tìm kiếm địa tô này không mang lại lợi ích cho xã hội nói chung và làm lãng phí các nguồn tài nguyên khỏi hoạt động sản xuất. Trong điều khoản của-khả năng biên giới sản xuất được hiển thị dưới đây, một nền kinh tế với một số ngành công nghiệp cạnh tranh (tất cả các giao dịch được thực thi giá) và những người khác độc quyền (người bán hàng là tìm kiếm giá) sẽ sản xuất tại điểm b. Tuy nhiên, người tiêu dùng sẽ được tốt hơn tại một điểm vì lợi ích của x số lượng hàng hóa độc quyền có một giá trị lớn hơn sự mất mát của số tiền y của hàng hoá cạnh tranh. Bởi vì độc quyền, một hạn chế sản xuất từ ​​những gì một ngành công nghiệp cạnh tranh sẽ làm gì, quá nhiều nguồn tài nguyên đang được sử dụng trong ngành công nghiệp cạnh tranh và không đủ trong ngành công nghiệp độc quyền. Như vậy, sự tồn tại của vi phạm độc quyền sản phẩm kết hợp hiệu quả. Vì tỷ lệ thay thế cận biên được không bằng mức biên của chuyển đổi, nền kinh tế sản xuất các hợp sai của sản phẩm. Ngoài việc nói về tổn thất tải trọng về thị trường độc quyền hoàn toàn ta còn phân tích thấy được nhược điểm của nó: Green (màu xanh lá) khu vực = siêu lợi nhuận (AR-AC) Q Pink (màu hồng) khu vực = Trọng phúc lợi giảm (kết hợp tổn thất của nhà sản xuất và người tiêu dùng thặng dư) so với thị trường cạnh tranh Giá cao và đầu ra thấp hơn theo cạnh tranh hoàn toàn. Điều này dẫn đến sự suy giảm thặng dư tiêu dùng và sản xuất mất trọng tải Phân bổ kém hiệu quả. độc quyền là không hiệu quả bởi vì trong allocatively (tất cả vị trí) độc quyền về giá lớn hơn MC. P> MC. Trong một thị trường cạnh tranh giá cả sẽ được người tiêu dùng thấp hơn và nhiều hơn nữa sẽ được hưởng lợi Inefficiency (sự thiếu hiệu năng) độc quyền sản xuất là hiệu quả không hiệu quả bởi vì nó không phải là điểm thấp nhất trên đường cong AC.  X - kém hiệu quả -. Người ta cho rằng độc quyền đã khuyến khích ít hơn để cắt giảm chi phí bởi vì nó không phải đối mặt với cạnh tranh từ firms (công ty). Cho nên khác đường cong AC cao hơn nó nên được. Lợi nhuận Thuần nhà độc quyền làm cho siêu lợi nhuận quản lý chất lượng * (AR - AC), dẫn đến một phân phối không đồng đều của thu nhập.  Giá cao hơn cho nhà cung cấp - Một độc quyền có thể sử dụng quyền lực thị trường và trả giá thấp hơn để các nhà cung cấp của nó. Ví dụ như siêu thị đã bị chỉ trích hoàn trả giá thấp cho nông dân. Tổn thất kinh tế về quy mô - Có thể là nếu độc quyền được quá lớn, nó có thể kinh nghiệm tổn thất về quy mô. - Cao hơn chi phí trung bình, vì nó là quá lớn  Tệ hơn nữa các sản phẩm Thiếu cạnh tranh cũng có thể dẫn đến đổi mới sản phẩm được cải thiện.  Bán lại với giá cao hơn cho các nhà cung cấp có thể. Độc quyền sử dụng lợi nhuận siêu thường của mình để bán lại với giá cao hơn để các nhà cung cấp. Qua đó chúng ta thể nhận biết rõ về sự tổn thất tải trọng của hai bên thị trường sẽ gây ra hậu quả về lợi nhuận và hiểu quả của sự phân phối nguồn lực. Giữa cạnh tranh hoàn toàn không có lợi nhuận kinh tế trong dài hạn, nhưng đối với hãng độc quyền trên thị trường có thể kiếm được lợi nhuận cao hơn so với cạnh tranh. Dễ nhận thấy trong tình trạng độc quyền hạn chế sản lượng để tối đa hoá lợi nhuận. Sự chênh lệch giữa giá và chi phí biên ở mức tối da hoá lợi nhuận của độc quyền phản ánh người tiêu dùng phải trả giá cho một đơn vị đầu ra cao hơn chi phí để sản xuẩt nó. KẾT LUẬN Từ những phân tích trên ta biết được trong thị trường cạnh tranh độc quyền hoàn toàn có những điểm lợi và điểm hại mà nếu không thật sự hiểu biết về nó sẽ gây ra những tổn hại to lớn đối với nền kinh tế nhà nước nói riêng và kinh tế toàn thế giới nói chung. Thị trường độc quyền hoạt động kém hiệu quả hơn so với thị trường hoàn toàn bởi vì công ty độc quyền không luôn thiết lập quy mô sản xuất tối ưu nên chi phí sản xuất cao hơn so với thị trường cạnh tranh hoàn toàn. Lợi nhuận chỉ tập trung vào một số ít người, tạo ra sự chênh lệch thu nhập ngày càng lớn giữa các thành phần dân cư. Tình hình kinh tế thị trường mở cửa, các nền kinh tế hỗ hợp được phổ biến ngày càng rộng rãi trên thế giới trong đó có Việt Nam. Cùng nhau nhìn nhận lại về thị trường độc quyền hoàn toàn và đưa ra những giải pháp quản lý, kiềm chế thị trường cạnh tranh độc quyền hoàn toàn này. TÀI LIỆU THAM KHẢO MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTiểu luận phân tích tổn thất tải trọng trong thị trường độc quyền hoàn toàn.docx
Luận văn liên quan