Nhìn lại chặng đường 86 năm qua, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, con đuờng đi lên chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi hết sức to lớn. Tư Tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong đường lối của Đảng, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới; những thành tựu Đảng, nhà nước và nhân dân ta phấn đấu đạt được sau nhiều năm đổi mới và trong những năm qua đã làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước. Việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế thế giới, giữ vững môi trường hòa bình đã tạo thêm nhiều thuận lợi cho nhân dân ta đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội.
32 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3076 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội – giá trị tư tưởng đó với công cuộc xây dựng đất nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những bức tường dài ngăn cản người lao động trên thế giới hiểu nhau và thương yêu nhau”. Hoặc dưới dạng tổng hợp hơn “muốn cho chủ nghĩa Cộng sản thực hiện được cần phải có công nghệ, đất nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”.
Kiểu định nghĩa trên đây, Hồ Chí Minh thường sử dụng trước năm 1954, khi chủ nghĩa xã hội mới là xu thế tất yếu mà quá trình cách mạng Việt Nam cần đạt tới. Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra một mặt nào đó ( kinh tế, chính trị, văn hóa…) chẳng hạn: “… Chủ nghĩa xã hội ấy là lấy máy xe lửa, ngân hàng… làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ em”. Khi tìm hiểu định nghĩa chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh phải đặt trong tổng thể quan niệm chung của Người về chủ nghĩa xã hội việc tuyệt đối hóa một mặt nào đó dễ đưa đến sai lầm trong hoạt động và chỉ đạo thực tiễn.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về sự phát triển tất yếu của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản.
Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam là nước nhà được độc lập, nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi giành độc lập dân tộc, nhân dân ta sẽ xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi đã tin theo lý luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “ Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho con người và vì con người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những con người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”.
Định nghĩa xã hội bằng cách xác định mục tiêu, chỉ rõ phương tiện, phương hướng để đạt được mục tiêu đó. Đây là kiểu định nghĩa phổ biến mà Hồ Chí Minh thường dùng nhất. Dưới đây là một số trường hợp tiêu biểu, Hồ Chí Minh đặt câu hỏi “chủ nghĩa xã hội là gì”. Người trả lời “là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do”. Cũng tương tự “chủ nghĩa xã hội là gì?” là no ấm, gì nữa? Là đoàn kết, vui khỏe” hoặc thêm vào một mệnh đề mới “chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. Có khi Hồ Chí Minh trả lời một cách trực tiếp về mục đích của chủ nghĩa xã hội: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”.
Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đứng trên lập trường của một người yêu nước tìm con đường giải phóng cho dân tộc mình, Hồ Chí Minh đã kế thừa cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, đồng thời sáng tạo trong xây dựng những đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chính trị
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh công – nông – trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh toàn dân để đem lại quyền lợi cho nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”
Kinh tế
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học – kĩ thuật. Nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao động xã hội cao, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học – kĩ thuật của nhân loại, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân.
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu và 5 thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Văn hóa – đạo đức
Chủ nghĩa xã hội là xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, con người được giải phóng ra khỏi áp bức bóc lột, có cuộc sống vật chất, tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát huy mọi khả năng sẵn có của mình. Đó là một hệ thống quan hệ xã hội công bằng, bình đẳng , không có sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con người được phát triển toàn diện , hài hòa trong sự phát triển của xã hội và tự nhiên.
Nước ta có một nền văn hóa đa dạng, có những giá trị truyền thống cần được gìn giữ và phát huy. Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.
Xã hội
Xã hội không còn người bóc lột người, không còn áp bức, bóc lột, bất công, thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đó là một xã hội được xây dựng trên nguyên tắc công bằng, hợp lý.
Theo Hồ Chí Minh: “Ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”. Quan niệm này của Hồ Chí Minh đã phản ánh sự công bằng xã hội - nguyên tắc phân phối theo lao động trong chủ nghĩa xã hội, đồng thời thể hiện được tinh thần nhân đạo sâu sắc của Người.
Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa các di sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là sự tổng hợp quyện chặt ngay trong cấu trúc nội tại của nó, một hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan hệ xã hội, đó là độc lập, tự do, bình đẳng, dân chủ, công bằng, bảo đảm quyền con người, bác ái, đoàn kết, hữu nghị,…, trong đó có những giá trị tạo tiền đề, giá trị hạt nhân.
Thực tiễn thời đại và đất nước đã có nhiều đổi thay, nhưng những quan niệm về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Hồ Chí Minh vẫn là ngọn đèn pha soi sáng cho Đảng ta trong việc hoàn thiện, bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
II. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Những mục tiêu cơ bản
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ thống quan điểm hết sức đặc sắc về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong phương thức tiếp cận chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có nhiều định nghĩa khác nhau:
Định nghĩa chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội hoàn chỉnh đối lập với chế độ tư bản chủ nghĩa.
Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra các mặt riêng biệt của nó (về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, quan hệ quốc tế…);
Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bắng cách nêu bật mục tiêu (tổng quát và cụ thể) của nó, v.v.
Trong các cách tiếp cận đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, theo Người, mục tiêu là sự thể hiện cô đọng nhất các bản chất đặc trưng, tính ưu việt vốn hàm chứa trong chế độ xã hội tương lai mà chúng ta xây dựng. Điểm then chốt, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh là đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta. Chính thông qua quá trình đề ra các mục tiêu đó, chủ nghĩa xã hội được biểu hiện với việc thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích thiết yếu của người lao động, theo các nấc thang từ thấp đến cao, tạo ra tính hấp dẫn, năng động của chế độ xã hội mới.
Vào những năm hai mươi thế kỷ XX, Hồ Chí Minh xác định, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội là đảm bảo cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no. Nghĩa là, chủ nghĩa xã hội hướng tới bảo đảm các giá trị làm người chân chính trong quá trình phát triển các quan hệ xã hội mang đúng bản chất người cao quý.
Vào những năm năm mươi, sáu mươi, khi miền Bắc trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người xác định rõ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là thoả mãn các nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người: chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc; hoặc ở mức độ khái quát cao hơn: mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, cả đời sống vật chất và cả đời sống tinh thần.
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó cũng chính là mục tiêu tổng quát theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về khát vọng, về mục tiêu cao cả của chế độ xã hội mới - chủ nghĩa xã hội - rất gần với triết lý nhân sinh của Phật giáo: “Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm” (lấy cái tâm của người khác làm cái tâm của chính mình). Vì thế, cách nói và diễn đạt này dễ đi vào lòng người, dễ được chấp nhận, bởi nó không hoàn toàn xa lạ với tâm thức truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân dân. Đó là sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân. Theo Người, muốn nâng cao đời sống nhân dân, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân dân, quan điểm này có ý nghĩa sâu sắc đối với các thế hệ người Việt Nam trong quá trình xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Cách tư duy lấy chủ nghĩa xã hội làm điểm xuất phát tuyệt đối, làm cơ sở cho mọi hoạt động thực tiễn cần phải được bổ sung bằng sự tác động trở lại và chủ nghĩa xã hội cũng phải được làm rõ bởi hàng loạt các quan hệ khác. Mục đích nâng cao đời sống toàn dân là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất xã hội chủ nghĩa của các lý luận chủ nghĩa xã hội và chính sách thực tiễn. Trượt ra khỏi quỹ đạo đó thì hoặc là chủ nghĩa xã hội giả hiệu, hoặc không có gì tương thích với chủ nghĩa xã hội.
Chỉ rõ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử, chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn diện, theo các cấp độ: từ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xã hội đến giải phóng từng cá nhân con người, hình thành các nhân cách phát triển tự do. Quan niệm này của Hồ Chí Minh hoàn toàn thống nhất với quan điểm mác-xít khi nói về xã hội tương lai, với tư cách là một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người và đạt đến chiều sâu nhất, triệt để nhất.
Quá trình đi tới mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, trải qua một thời kỳ quá độ, nhiều bước trung gian, quá độ nhỏ. Đối với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh cho rằng: “Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế, chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp… Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc ”. Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là:
Mục tiêu chính trị: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ chính trị phải là chế độ chính trị dân chủ, do nhân dân lao động là chủ và làm chủ; Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước có hai chức năng: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời nhau, mà luôn luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân; mặt khác, lại yêu cầu phải chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội của quần chúng; củng cố các hình thức dân chủ đại diện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, xử lý và phân định rõ chức năng của chúng.
Hồ Chí Minh xác định rõ dân chủ như một giá trị phổ biến mà loài người mong muốn và đến chế độ xã hội chủ nghĩa giá trị phổ quát này mới đạt đến mức độ hoàn bị nhất. Giá trị dân chủ là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được Người diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, nhưng ẩn chứa nhiều điều lớn lao, hệ trọng: dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân; chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ; bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Mặt khác, Người còn xác định dân chủ như một động lực của sự phát triển: thực hành dân chủ là chiếc chìa khoá vạn năng giải quyết mọi khó khăn; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến bộ và phát triển… Quan niệm này đặt nền tảng và giữ vai trò chủ đạo trong lý luận xây dựng Nhà nước, xây dựng mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền và lãnh đạo Nhà nước.
Mục tiêu kinh tế: nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công-nông nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn diện các ngành mà những ngành chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó “công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước nhà”. Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là vấn đề rất được Hồ Chí Minh quan tâm. Người đặc biệt nhấn mạnh chế độ khoán là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế của các chủ thể trên các quy mô khác nhau.
Mục tiêu văn hóa-xã hội: theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, thực hành vệ sinh phòng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc phục phong tục tập quán lạc hậu…
Về bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Người khẳng định “phải xã hội chủ nghĩa về nội dung”. Để có một nền văn hóa như thế ta phải phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc, đồng thời học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương châm xây dựng nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Hồ Chí Minh nhắc nhở phải làm cho phong trào văn hóa có bề rộng, đồng thời phải có bề sâu. Trong khi đáp ứng mặt giải trí thì không được xem nhẹ nâng cao tri thức của quần chúng, đồng thời Người luôn luôn nhắc nhở phải làm cho văn hóa gắn liền với lao động sản xuất…
Mục tiêu con người: Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất của công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới chính là con người. Trong lý luận xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết về mặt tư tưởng. Người cho rằng: “Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”, tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở mỗi con người là kết quả của việc học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đến trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng; đồng thời Người cũng rất quan tâm đến mặt tài năng, luôn tạo điều kiện để mỗi người rèn luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã hội. Tuy vậy, Hồ Chí Minh luôn gắn tài năng với đạo đức. Theo người, “có tài mà không có đức là hỏng”; dĩ nhiên đức phải đi đôi với tài, nếu không có tài thì không thể làm việc được. Cũng như vậy, Người luôn gắn phẩm chất chính trị với trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ trong đó “chính trị là tinh thần, chuyên môn là thể xác”. Hai mặt đó gắn bó thống nhất trong một con người. Do vậy, tất cả mọi người đều phải luôn luôn trau dồi đạo đức và tài năng, vừa có đức vừa có tài, vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Động lực
a, Khái niệm
Động lực là những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, xã hội thông qua hoạt động của con người.
Động lực của XHCN là yếu tố con người trên cả hai bình diện cộng đồng và cá nhân, tạo nên nguồn năng lượng kích thích sự tự thân vận động làm cho chủ nghĩa xã hội luôn luôn có sức sống và sức hấp dẫn đối với người lao động. Động lực của chủ nghĩa xã hội là một hệ thống rất phong phú
b, Các động lực của chủ nghĩa xã hội.
Để đạt được những mục tiêu được đặt ra , theo Hồ Chí Minh cần phải có những động lực – những nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội thông qua hoạt đông của con người – nhất là động lực bên trong, nguồn nội lực của chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, những động lực đó biểu hiện ở các phương diện: vật chất và tinh thần; nội sinh và ngoại sinh.
Người khẳng định: động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động trong đó nòng cốt là công – nông – trí thức. Người quan niệm “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Người nhận thấy được ở động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân (sức mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng). Phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc, đây là động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Sức mạnh cộng đồng là sức mạnh của tất cả các tầng lớp nhân dân: công nhân, nông dân, và đòn thể, các dân tộc, tôn giáo, đồng bào trong nước và đồng bào nước ngoài. Phát huy sức mạnh con người với tư cách là cá nhân người lao động . Có phát huy sức mạnh của cá nhân mới có sức mạnh của cộng đồng . Để phát huy sức mạnh của cá nhân ,chúng ta cần tác động vào nhu cầu và lợi ích của con người ,đồng thời phải tác động vào chính trị và tinh thần. Người hiểu rằng mọi hành vi của con người luôn đi liền với nhu cầu lợi ích của họ. Để duy trì mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội ,Người chủ trương thực hiện khoán ,thưởng ,phạt đúng đắn trong lao động sản xuất . Bên cạnh đó động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội còn là sự tổng hợp của truyền thống yêu nước,sự đoàn kết cộng đồng,sức lao động sáng tạo của nhân dân,tạo nên một khối đoàn kết vững mạnh,đi lên và phát triển chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam . Người còn khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa là xã hội tiên tiến và ưu việt nhất so với những chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử, luôn coi trọng lợi ích chính đáng của cá nhân con người, nhà nước là của dân,do dân và vì dân . Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công, người quan tâm đến hiệu lực,công tác của đảng, tổ chức, bộ máy nhà nước và sự nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ (chống tham ô, lãng phí, quan liêu,…) từ trung ương đến địa phương.
Thực hiện công bằng xã hội là tạo động lực cho xã hội. Theo Hồ Chí Minh, thực hiện công bằng xã hội không phải là công bằng bình quân. Người căn dặn: “ Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng ; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”.
Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc, lợi dân gắn kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội. Người lấy kinh tế làm nền tảng, bước đệm, cơ sở vững mạnh để đảm bảo sự đứng vững của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa.
Văn hóa, khoa học, giáo dục là một động lực tinh thần không thể thiếu của CNXH. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt càng phải gương mẫu, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống. Mọi nơi, mọi lúc, nhất là trước những cám dỗ vật chất phải tự đấu tranh với chính mình, thực hiện đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính”, không sa ngã, tích cực đấu tranh chống lại những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Qua đó, xây dựng nên con người xã hội chủ nghĩa, có nhận thức về tư tưởng xã hội chủ nghĩa,có suy nghĩ tiến bộ, chống chủ nghĩa cá nhân. Bên cạnh đó, văn hóa, giáo dục và khoa học còn có tác dụng giải trí nâng cao tinh thần, giúp mọi người thoải mái,để sẵn sàng đối mặt với những thử thách, khó khăn trong quá trình xây dựng xã hội mới.
Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Đảng là kim chỉ nam dẫn dắt mọi người, giúp họ nhận thức đúng đắn tình hình đất nước để đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều này đòi hỏi cán bộ lãnh đạo phải thực hành dân chủ tuyệt đối không dược chuyên quyền, độc đoán. Vì quần chúng thật sự có có quyền dân chủ, cán bộ đảng viên phải gương mẫu thì mọi kế hoạch sản xuất sẽ được thắng lợi. Đây là hạt nhân trong hệ động lực của chủ nghĩa xã hội.
Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành quả KH – KT thế giới.
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng. Qua đó, Người nêu cao, phát huy tính làm chủ, ý thức sử dụng vai trò của các nhân tố khao học, dân tộc và cũng luôn chú trọng sự giúp đỡ của các nước trên thế giới.
Bên cạnh chỉ ra những nguồn động lực, Hồ Chí Minh còn cảnh báo, ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của CNXH, làm cho CNXH trở nên trì trệ, xơ cứng, không có sức hấp dẫn. Đó là tham ô, lãng phí, quan liêu, là “bạn đồng minh của thực dân phong kiến”. “ Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta; nó phá hoại đạo đức của ta là cần, kiệm, liêm, chính. Bằng cách đó nó đã phá hoại động lực quan trong nhất của chủ nghĩa xã hội là con người…phải thường xuyên chống chia rẽ bè phái, vì nó làm “giảm sút uy tín và ngăn cản sự nghiệp của đảng, ngăn cản bước tiến của cách mạng “đi lên xã hội chủ nghĩa ,chống chủ quan, bảo thủ…vì nó là kẻ địch hung ác và dữ tợn của chủ nghĩa xã hội, từ bệnh mẹ đẻ ra trăm bệnh khác, còn chủ nghĩa cá nhân thì chủ nghĩa xã hội chưa thắng lợi hoàn toàn được. Tất cả chúng ta phải luôn luôn cảnh giác và chiến thắng chúng mới tạo điều kiện hình thành và phát triển được động lực của chủ nghĩa xã hội.
Về căn bệnh tham ô được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: ăn cắp của công làm của tư; đục khoét của nhân dân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung, của Chính phủ làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình... Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công, gian lận thuế "... Người kết luận: "Trộm cắp tiền bạc của nhân dân, tổn hại kinh tế của Chính phủ cũng là mật thám, phản quốc, nếu không phải là tệ hơn nữa".
Bệnh lãng phí được Người chỉ rõ, là tiêu dùng bừa bãi, lãng phí thời gian, lãng phí tiền của, lãng phí của cải vật chất của nhân dân, của đất nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãng phí là do trình độ non kém, do thiếu nghiệp vụ chuyên môn, do độc đoán đưa ra những quyết định sai lầm. Người kêu gọi phải kiên quyết chống nạn lãng phí ở các cơ quan và trong sinh hoạt của mỗi người, chống cách tiêu dùng bừa bãi của nhân dân và của Nhà nước.
Còn bệnh quan liêu, theo Người, là mất dân chủ, là xa dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin cậy nhân dân, không hiểu biết nhân dân, không yêu thương nhân dân... Có nạn tham ô, lãng phí là có bệnh quan liêu: "Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn". Người cho rằng, bệnh quan liêu chỉ là gieo hạt, vun trồng cho tham ô, lãng phí nảy nở, "vì những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà như không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí. “ Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho tham ô, lãng phí ”.
Chúng là "kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và Chính phủ. Kẻ thù khá nguy hiểm vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, làm hỏng công việc của ta. Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù có cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính". Chủ tịch Hồ Chí Minh coi những tệ nạn đó là vi phạm đạo đức cách mạng, là hành động xấu xa nhất của con người, nó làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà, là một thứ giặc – “ giặc nội xâm ”, “ tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”.
Nguyên nhân sâu xa, bao trùm của các tệ nạn trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rất rõ, đó là chủ nghĩa cá nhân - một thứ trở lực nằm ngay trong mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi con người, là một nguyên nhân gốc gây ra bao khuyết điểm, sai lầm và là trở lực khác. Người nêu rõ, chủ nghĩa cá nhân thường đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích chung, chỉ muốn hưởng thụ, đãi ngộ, còn công việc thì lười nhác, so bì hơn thiệt, công thần, địa vị, kiêu ngạo, tự cao tự đại ... Vì như Người phân tích: "là những ông quan liêu" ... nhưng số người đó coi Đảng như một cái cầu thang để thăng quan, phát tài. Họ không quan tâm đến đời sống của nhân dân mà chỉ lo nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Họ quên rằng mỗi đồng tiền, hạt gạo đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân, do đó mà sinh ra phô trương, lãng phí. Họ tự cho mình có quyền sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi. Tất cả những lỗi lầm nói trên là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân”.
Tác hại của chủ nghĩa cá nhân được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí...Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân. Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó". Người phân tích: Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành ta đi xuống dốc, vì thế càng nguy hiểm. Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng, nó chờ dịp để phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng.
III. Giá trị tư tưởng đó với công cuộc xây dựng đất nước ta hiện nay.
Thực trạng nước ta hiện nay.
Ngày nay, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, thay đổi khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ, khủng bố quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo...vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nuớc phát triển, nhưng cạnh tranh, tranh giành thị truờng, các nguồn nguyên liệu, năng lượng, nguồn lực khoa học công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh tế diễn ra quyết liệt, đặt các quốc gia, nhất là các nước đang và kém phát trển trước những thách thức gay gắt. Ở trong nước, bên cạnh thững thuận lợi cơ bản do những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đã giành được trong sự nghiệp đổi mới làm tăng thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước, chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức to lớn. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Các cân đối kinh tế lớn, ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Một số lĩnh vực xã hội còn có những mặt yếu kém như giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân, quản lý các hoạt động văn hóa, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông; tệ tham nhũng, lãng phí chậm được khắc phục, gây bức xúc trong nhân dân. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hết sức quyết liệt, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc: tuyên truyền vu cáo, xuyên tạc, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, âm mưu gây bạo loạn, bất ổn chính trị. Thêm vào đó, mặt trái của cơ chế thị trường tác động làm suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, đảng viên... làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ. Cụ thể:
Nền kinh tế Việt Nam
Tình hình kinh tế Việt Nam bấy lâu nay có nhiều biến động với nhiều luồng thông tin trái chiều, khiến dân và thậm chí cả giới phân tích rất khó để có thể thực sự định hình được những gì đang diễn ra trong nền kinh tế.
Một mặt là những con số rất lạc quan của chính phủ rằng tăng trưởng sẽ đạt mức trên 5-6% cho cả năm 2012, lạm phát đi xuống một cách đáng kể từ 18% xuống còn 7% kèm theo việc mở rộng những chính sách tiền tệ khiến cho lãi suất ngân hàng hiện giờ giảm chỉ ở mức trên dưới 15%/năm tạo điều kiện vốn cho các doanh nghiệp. Mặt khác, vẫn có những báo cáo liên tiếp về thâm hụt thương mại cùng với các khoản vay khổng lồ của chính phủ khiến cho nợ nước ngoài càng ngày càng cao, hay tỉ lệ nợ xấu trong khối ngân hàng cũng tăng một cách đáng kể.
Sau gần hai thập niên đạt tăng trưởng kinh tế cao, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp nhất, nhưng tình trạng mấy năm gần đây cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang bộc lộ những nguy cơ nghiêm trọng, tác động trực tiếp đến cuộc sống của người dân và tương lai của đất nước. Biểu hiện rõ nhất là quản lý kinh tế yếu kém, các tập đoàn Nhà nước thua lỗ nặng, doanh nghiệp phá sản càng nhiều ngân hàng lãi càng lớn, lạm phát tăng cao, chênh lệch giàu nghèo nới rộng, chất lượng cuộc sống của đại đa số dân chúng giảm sút, nhiều người rơi trở lại tình trạng nghèo trước đây…
Định hướng kinh tế lấy quốc doanh làm chủ đạo đã tạo ra độc quyền và lạm quyền, làm méo mó sự vận hành cần có của nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước đóng góp ít vào tăng trưởng kinh tế nhưng lại nhận nhiều đặc quyền đặc lợi, gây bất công và kìm hãm sự phát triển của khối tư nhân. Nợ nước ngoài và thâm thủng mậu dịch đã và đang gia tăng khiến nền kinh tế bị suy yếu và lệ thuộc. Lạm phát gia tăng cũng làm tăng đói nghèo, gây khó khăn hơn cho cuộc sống của người dân và cả các doanh nghiệp. Đình công tiếp tục tăng cao chứng tỏ quyền lợi của công nhân chưa được bảo vệ thỏa đáng.
Khoa học và công nghệ
Sau khi giành được độc lập về chính trị, nước ta có nguyện vọng sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KT- CN hiện đại để đưa đất nước ta khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Tuy nhiên, việc tiến hành cách mạng KH- CN ở nước ta gặp phải những khó khăn lớn, do nhiều nguyên nhân:
Trước hết, nước ta còn ở t́ình trạng lạc hậu về mặt kinh tế, khoa học và công nghệ.
Về mặt văn hoá, khoa học và công nghệ phần đông dân cư nước ta vẫn ở tình trạng mù chữ, thiếu lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao.
Ngoài những khó khăn trong nước, nước ta còn phải chịu những di sản nặng nề do sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân để lại, đồng thời các cường đế quốc lại đang thực hiện chính sách kìm hãm sự phát triển khoa học và kỹ thuật nhằm duy trì tình trạng bất b́ình đẳng của họ trong sự phân công lao động quốc tế.
Với thực trạng đó, việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học – công nghệ ở nước ta không chỉ được coi là tất yếu khách quan, mà c̣òn là một đ̣òi hỏi bức xúc để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên
Một trong những chuẩn mực đạo đức cơ bản của người cán bộ, công chức, đảng viên (gọi chung là cán bộ, đảng viên) là phải làm tròn bổn phận "công bộc” của nhân dân. Bổn phận cao quý này được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra ngay từ sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi. Sau này trong Di chúc, Người nói rằng: "Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.” Tư tưởng ấy lại được nhắc đến trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2), khóa VIII và Nghị quyết Trung ương bốn, khóa XI hiện nay. Song, hiện nay những chuẩn mực đạo đức cách mạng nói trên đang bị một bộ phận cán bộ, đảng viên vi phạm, phản ánh sự lệch chuẩn đạo đức. Sự vi phạm ngày gia tăng, đúng như nhận định của Hội nghị Trung ương sáu (lần 2) khóa VIII, với ba cái hơn "phổ biến hơn”, "tinh vi hơn” và "nghiêm trọng hơn”. Trong Hội nghị Trung ương 4 khóa XI vừa qua, tình trạng ấy lại được nhấn mạnh một lần nữa!
Về thực trạng biểu hiện lệch chuẩn đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên:
Một là, chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, thực dụng, vụ lợi ... có xu hướng ngày càng phát triển.
Hai là, nạn tham nhũng, đưa và nhận hối lộ, bòn rút, lãng phí của công...diễn ra ở nhiều ngành, nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực, trở thành "quốc nạn”.
Ba là, quan liêu, xa dân, lãnh đạm, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc, những yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân, của doanh nghiệp...
Bốn là, lối sống thiếu trung thực, cơ hội, chạy chọt vì lợi ích cá nhân, như chạy thành tích, chạy bằng cấp, chức quyền, dự án, đề tài ... khá phổ biến. Khi bị phát hiện vi phạm pháp luật, thì chạy tội ...
Năm là, lời nói không đi đôi với việc làm, nói và làm trái với Nghị quyết của Đảng; nói một đằng, làm một nẻo; nói nhiều, làm ít; phát ngôn tùy tiện, vô nguyên tắc...
Sáu là, suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình và quan hệ cá nhân với xã hội; lối sống buông thả, hưởng thụ; tệ nạn nghiện hút, cờ bạc, sa đọa ... có chiều hướng phát triển.
Bảy là, đạo đức nghề nghiệp sa sút, ngay cả trong những lĩnh vực được xã hội tôn vinh, như: Y tế, giáo dục, bảo vệ pháp luật, báo chí...
Như vậy biểu hiện của sự lệch chuẩn thì đã rõ cần có biện pháp chấn chỉnh để làm trong sạch đội ngũ đảng viên hiện nay.
Các yếu tố tác động bên ngoài
Việt Nam hiện nay, "các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta". Chúng tuyên truyền kích động các phần tử cực đoan trong tôn giáo, dân tộc ít người đòi "quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo", đòi quyền tự trị phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Thâm độc và nguy hiểm hơn chúng tìm cách, tạo cớ cho các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Mục tiêu cuối cùng của chúng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta.
Lợi dụng đường lối đổi mới và những mặt trái của xã hội hiện nay, như tình trạng quan liêu, tham nhũng …, các thế lực thù địch đòi "đổi mới triệt để", đòi cải cách thể chế chính trị, xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hạn chế sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đòi "đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập", đòi thực hiện "tam quyền phân lập".
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ rõ: "Nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường thách thức nào". Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" diễn biến phức tạp.
Nhưng với niềm tin của nhân dân vào chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp, với bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng nhất định chúng ta sẽ đập tan âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, xây dựng một nước Việt Nam "Dân giàu, Nước mạnh, Dân chủ, Công bằng, Văn minh”.
Giá trị tư tưởng đó trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất của công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới chính là con người.
Trong bối cảnh Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức như hiện nay, giải pháp quan trọng hàng đầu là nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng và cấp ủy các cấp đối với lĩnh vực xây dựng con người và phát triển văn hóa, xã hội. Cần phải đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng con người và phát triển văn hóa, xã hội trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo của Nhà nước trong việc thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, đổi mới công tác quản lý của các cơ quan giáo dục đào tạo, văn hóa, xã hội, y tế, thể thao nhằm tạo ra hợp lực chung của tất cả các ngành, các cấp, của cả xã hội trong việc thực hiện chiến lược xây dựng con người và phát triển văn hóa. Xây dựng cơ chế phối hợp và chia sẻ trách nhiệm giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa để nâng cao chất lượng và hiệu của việc xây dựng con người, phát triển văn hóa trong mọi lĩnh vực cải cách hành chính, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh và dịch vụ xã hội. Để đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa ba lĩnh vực: phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, cần có cơ chế phối hợp chung giữa các lĩnh vực này. Ở đây, cần có sự chỉ đạo kiên quyết của Đảng và Nhà nước mới có thể tạo ra sự phối hợp và đồng thuận này.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta, nhân dân ta khẳng định kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, mục tiêu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn và được lịch sử phát triển của dân tộc ta gần một thế kỷ qua chứng minh rằng: chỉ có con đường xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho dân tộc ta có nền độc lập thật sự, đất nước ta phát triển ổn định, phồn vinh, nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đó là con đường đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, trong hoàn cảnh mới, Đảng ta tiếp tục tìm tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, được khẳng định trong Cương lĩnh và văn kiện các đại hội của Đảng, là xã hội dân giàu, nuớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân vì dân, do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Đảng ta luôn xác định xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, một cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; vì vậy, nhất định phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, nhiều bước phát triển, không thể đơn giản, chủ quan, nóng vội.
Để thực hiện thành công mục tiêu xã hội xã hội chủ nghĩa, kế thừa và phát triển các quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra các phương hướng và nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung tâm để từng buớc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, chất lượng, hiệu quả, khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, phát triển mạnh các ngành, các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nhất là những ngành có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững, nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia có hiệu quả vào dây chuyền sản xuất và mạng lưới phân phối toàn cầu. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phát triển nông - lâm – ngư nghiệp một cách toàn diện, hiệu quả, bền vững gắn với giải quyết đồng bộ các vấn đề của nông dân, nông thôn. Phát triển nhanh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, điện, nuớc, các công trình xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng đồng bằng, trung du và miền núi, ven biển, đảo và hải đảo, thành thị và nông thôn.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, cơ chế thị truờng được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được coi trọng, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể, ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường, định hướng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
Ba là, chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng, giữ vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Đấu tranh chống tư tưởng, văn hoá hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Bốn là, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu cao; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị ngày càng hiện đại; để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Năm là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất nước; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở tất cả các cấp, trên tất cả các lĩnh vực; bảo đảm tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; mọi cán bộ, công chức đều là công bộc của nhân dân. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh để tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Xây dựng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trang việc tập hợp, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm Nhà nước thực sự là của nhân dân, nhà nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội, thực hiện các cam kết quốc tế; giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nuớc và nhân dân; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; có tổ chức bộ máy tinh gọn, hợp lý, trong sạch, vững mạnh; có đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực cao; có cơ chế kiểm soát, ngăn ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; kiên định chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng; thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc; có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, có sức chiến đấu cao. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
Những phương hướng và nhiệm vụ trên là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo của Đảng ta những tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay và trong tương lai.
KẾT LUẬN
Nhìn lại chặng đường 86 năm qua, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, con đuờng đi lên chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi hết sức to lớn. Tư Tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong đường lối của Đảng, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới; những thành tựu Đảng, nhà nước và nhân dân ta phấn đấu đạt được sau nhiều năm đổi mới và trong những năm qua đã làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước. Việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế thế giới, giữ vững môi trường hòa bình đã tạo thêm nhiều thuận lợi cho nhân dân ta đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, nước ta cũng đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào.
Kinh tế vẫn trong tính trạng kém phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
Khoa học và công nghệ còn ở trình độ thấp.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là rất nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội vẫn chưa được khắc phục.
Các thế lực thù địch âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trụ ở nước ta. An ninh, trật tự và an toàn xã hội ở một số vùng và địa phương chưa bảo đảm vững chắc.
Những năm tới là cơ hội lớn để đất nước ta tiến lên, tuy khó khăn còn nhiều. Đòi hỏi bức bách của toàn dân tộc ta lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn.
*** Hết ***
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_tthcm_0607.docx