Tiểu luận So sánh lợi thế kinh tế ở Việt Nam

Để giảm thách thức và tận dụng được cơ hội do Trung Quốc và ASEAN mang lại, Việt Nam phải chuyển dịch nhanh cơ cấu xuất khẩu sang các nước này, phải có khả năng cung cấp ngày càng nhiều mặt hàng công nghiệp cạnh tranh được trên thị trường khu vực và thế giới. Muốn vậy phải xác định được những ngành có lợi thê so sánh, chuyển hướng chiến lược cho phù hợp với tình hình mới va tận dụng ngoại lực để vừa làm tăng nội lực vừa nhanh chóng tăng năng lực cạnh tranh. Tìm lợi thế so sánh động và chuyển hướng chiến lược Lợi thế so sánh tĩnh là lợi thế có ngay bây giờ, có ngành đã được phát huy, cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế nhưng cũng có ngành chưa được phát huy do môi trường hoạt động của Doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Lợi thế so sánh động là lợi thế tiềm năng sẽ xuất hiện trong tương lai gần hay xa khi các điều kiện về công nghệ, về nguồn nhân lực và khả năng tích lũy tư bản cho phép. Nếu có chính sách tích cực theo hướng tạo ra nhanh các điều kiện đó sẽ làm cho lợi thế so sánh động sớm chuyển thành sức cạnh tranh hiện thực. Việt Nam cần chuyển chiến lược từ thay thế nhập khẩu sang xúc tiến xuất khẩu những sản phẩm nguyên chiếc mà biện pháp cụ thể là giảm giá thành những sản phẩm đó bằng cách bãi bỏ thuế nhập khẩu linh kiện, bộ phận

doc45 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4266 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận So sánh lợi thế kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội chiếm 40%GDP (vốn trong nước chiếm 65%, vốn bên ngoài 35%) ( Nguồn Trong nội bộ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã có sự chuyển dịch ngày càng tích cực hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp khu vực nông thôn đã tăng từ 17,3% năm 2001 lên 19,3% năm 2007. Trên cơ sở đó, đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội nông thôn mà biểu hiện rõ nhất là thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu hộ nông thôn theo hướng ngày càng tăng thêm các hộ làm công nghiệp, thương mại và dịch vụ; trong khi số hộ làm nông nghiệp thuần tuý giảm dần. Tỷ lệ hộ nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp) đã giảm 9,87%; tỷ lệ hộ công nghiệp tăng lên 8,78%. Năm 2007, số hộ công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn có 3,6 triệu hộ, tăng 62% so với năm 2000. Trong cơ cấu các thành phần kinh tế: Kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Về cơ cấu vùng kinh tế: Trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc gia, đã hình thành 6 vùng kinh tế: vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có 3 vùng kinh tế trọng điểm là vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước. Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các khu công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu. Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh tế toàn cầu: Thể hiện ở tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày càng tăng, nghĩa là hệ số mở cửa ngày càng lớn, từ 34,7% năm 1992 lên 47% năm 2001, và đến năm 2005 là trên 50%. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2001 – 2005 đã đạt 111 tỉ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch là 16%/năm), khiến cho năm 2005, bình quân kim ngạch xuất khẩu/người đã đạt 390 USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm Kim ngạch xuất khẩu (tỉ USD) Tỷ lệ tăng giảm (%) 2006 40 24 2007 50 21.5 2008 65 29.5 Bảng 1.3 : Kim ngạch xuất khẩu năm 2006-2008 NHẬN XÉT - Kim ngạch xuất khẩu năm 2008 đạt 65 tỉ USD, tăng 25 tỉ USD tương ứng với 5,5% so với năm 2006. Sau khi mở cửa hội nhập với thế giới, việt nam tăng cường xuất khẩu đa dạng các loại mặt hàng, tăng cường đóng góp vào tổng thu nhập quốc dân. Sau đây là ví dụ về xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam : Bảng 1.4: Giá trị xuất khẩu hàng may Việt nam 1991-1998. (Đơn vị: triệu USD) Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Giá trị XK toàn quốc 2.087,1 2.580,7 2.985,0 4.054,3 5.200,0 7.255,8 8.850,0 8.910,0 Giá trị XK ngành may Việt nam 116,0 180,0 350,0 550,0 750,0 1.150,0 1.250,0 1.310,0 Tỷ lệ so với XK toàn quốc (%) 5,6 7 11,7 13,6 14,4 15,8 14,1 14,7 (Nguồn: Dự án qui hoạch tổng thể ngành công nghiệp Dệt- May đến năm 2010, tr. 17.) NHẬN XÉT : - Qua biểu đồ ta thấy giá trị xuất khẩu hàng may Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt, tăng lên đáng kể trong những năm gần đây. Năm 1991, là 116,0 tr.USD chiếm 5,6% so với tỷ lệ xuất khẩu toàn quốc. Đến năm 1996 con số đó đã tăng lên là 1.150,0 tr.USD, chiếm 15,8% và đến năm 1998 là 1.310,0 tr.USD, tăng 160 tr.USD so với năm 1996. Hàng may mặc Việt Nam đang dần khẳng định được chỗ đứng của mình trên thị trường khu vực và quốc tế. Với chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Chính phủ, không chỉ hàng may mặc mà nhiều ngành sản xuất khác phục vụ xuất khẩu cũng đạt tỷ trọng cao. Bên cạnh đó chất lượng hàng may mặc của chúng ta cũng không thua kém các nước như Anh, Pháp, … cùng với việc luôn có sự thay đổi trong cả mẫu mã và chủng loại thì hàng Việt Nam luôn giữ vững được vị thế và ngày càng khẳng định được thương hiệu của mình hơn trên thị trường quốc tế. Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau hơn 20 năm đổi mới là một trong những nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất đưa đến các kết quả, thành tựu tăng trưởng kinh tế khả quan, tạo ra những tiền đề vật chất trực tiếp để chúng ta giữ được các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như thu chi ngân sách, vốn tích luỹ, cán cân thanh toán quốc tế…, góp phần bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế – xã hội theo hướng bền vững. Các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương trình về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội cho các vùng khó khăn, các chương trình tín dụng cho người nghèo và chính sách hỗ trợ trực tiếp đã mang lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 17,2% năm 2006 xuống còn 14,7% năm 2007, và năm 2008 còn 13,1%. Chỉ số phát triển con người (HDI) đã không ngừng tăng, được lên hạng 4 bậc, từ thứ 109 lên 105 trong tổng số 177 nước. Nhiều sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản… đã có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đều tăng trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI đã có bước phát triển tích cực, tăng mạnh từ năm 2004 đến nay. Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Số vốn FDI ( Tỷ USD) 3.2 3.0 3.2 4.5 6.8 10.2 20.3 Bảng 1.5 : Số vốn FDI tăng từ năm 2001-2007 NHẬN XÉT - Qua biểu đồ, nhìn chung tổng số vốn FDI đầu tư vào nước ta có tốc độ tăng đều qua các năm. Năm 2002 số vốn là 3.0 tỷ USD đến năm 2007 lên tới 20.3 tỷ USD, tăng 17.3 tỷ USD so với 5 năm trước đó. Thu hút được số vốn FDI đầu tư lớn như vậy là một thành công lớn của chúng ta trong những năm gần đây. Nhờ mở cửa thu hút đầu tư, tăng cường các chính sách ưu đãi đầu tư, tạo điều kiện hết sức thuận lợi từ nhân công, hàng rào thuế quan, đến các chính sách thuế của Chính phủ đều là nhân tố góp phần phát triển kinh tế đầu tư của đất nước. Hướng tới năm 2020 Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia thuộc top các nước có nền Công nghiệp phát triển. - Đặc biệt năm 2007 tổng số vốn FDI bằng tổng mức thu hút FDI của cả giai đoạn 5 năm 2001-2005, chiếm 1/4 tổng vốn FDI vào Việt Nam trong suốt hơn 20 năm vừa qua. Năm 2008, tuy kinh tế toàn cầu có nhiều khó khăn lớn trong xu thế suy thoái, song đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký tại Việt Nam đạt 64,011 tỉ USD, tăng gấp đôi năm 2007. Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2008 diễn ra đầu tháng 12, tại Hà Nội, tổng cam kết từ các nhà tài trợ lên tới 5,014 tỉ USD (thấp hơn 1 chút so với năm 2007: 5,4 tỉ USD). Giải ngân vốn ODA được 2,2 tỉ USD, vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra và cao hơn mức năm 2007 (2,176 tỉ USD). III.Những bất lợi của Việt Nam 1.Những bất lợi về điều kiện tự nhiên - Nước ta nằm trong khu vực gần xích đạo,nắng lắm mưa nhiều thường xuyên gặp phải các thiên tai như bão,lũ,hạn hán….dẫn đến ảnh hưởng rất nhiều tới mặt kinh tế. - Do vùng biển của nước ta rộng và dài,biên giới rộng nên gặp nhiều khó khăn về an ninh quốc phòng và lãnh thổ … - Tuy về tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng nhưng do xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu nên chưa có kế hoạch khai thác hợp lí gây lãng phí tài nguyên . - Về lực lượng lao đông của nước ta tuy dồi dào về số lượng nhưng về mặt chất lượng còn hạn chế, tình trạng thừa thầy thiếu thợ rất phổ biến, mặt khác ý thức kỉ luật của lao động nước ta còn chưa cao vì vậy các nhà đầu tư nước ngoài còn hạn chế. - Nước ta là một trong những nước ở đông Nam Á có rất nhiều phong tục tập quán,bên cạnh những nét bản sắc văn hoá là những phong tục mang tính chất cổ hủ lạc hậu gây ra ảnh hưởng sấu tới văn hoá Việt Nam trực tiếp ảnh hưởng tới khách du lịch quốc tế tới Việt Nam. 2.Những bất lợi về điều kiện tự tạo - Về chính sách kinh tế còn gặp nhiều khó khăn,các chính sách về hội nhập vẫn chưa giải quyết hết được các nhu cầu của doanh nghiệp và người dân. Quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới, bên cạnh việc tạo ra nhiều thuận lợi cho nền kinh tế nước ta phát triển nó cũng đặt nền kinh tế nước ta trước không ít những khó khăn. Việc hội nhập kinh tế sẽ giúp chúng ta có thể tiếp cận được với nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến của các nước đi trước, điều này sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế của chúng ta phát triển một cách nhanh hơn. Hội nhập cũng giúp ta tiếp cận được với các thị trường rộng lớn, nhiều tiềm năng, các điều kiện thương mại được đối sử một cách bình đẳng...Qua đó tạo thuận lợi cho việc giao thương hàng hoá của ta với các nước khác. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nêu trên chúng ta cũng phải đối mặt với những khó khăn mà việc hội nhập kinh tế tạo nên như: hàng rào thuế quan phải được cắt giảm phù hợp với quy định chung, do vậy nguồn thu ngân sách sẽ theo đó mà giảm xuống; các tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá, mẫu mã, vấn đề an toàn sản xuất...vv cũng phải được tuân thủ theo quy định chung. Đặc biệt là sự cạnh tranh sẽ diễn ra mạnh mẽ khi mà sự bảo hộ của nhà nước đối với các hàng hoá, ngành nghề...v.v không còn các quy định đối với hàng hoá, các hãng sản xuất của nước ngoài tại Việt Nam sẽ bị dỡ bỏ. - Chính sách phát triển kinh tế ở các vùng các địa phương chưa đồng bộ, các cơ chế chưa phù hợp. - Về nhân lực : Phân bố nhân lực giữa các địa phương các vùng chưa phù hợp, vì những nơi có điều kiện về tài nguyên thiên nhiên là những nơi xa xôi hẻo lánh rất cần các lao động có trình độ chuyên môn cao ,nhưng các lao động này lại tập trung ở các thành phố lớn và các vùng đồng bằng gây lãng phí tài nguyên. - Một bộ phận công nhân chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về khoa học kỹ thuật, đồng thời là những công nhân đang hoạt động sản xuất trong các dây chuyền cũ nên khi tiếp cận những kỹ thuật mới thì không bắt nhịp kịp hoặc không vận hành được các trang thiết bị mới dẫn đến năng xuất lao động giảm ảnh hưởng đến sự phát triển chung. - Sự chuyển dịch cơ cấu của nước ta còn gặp rất nhiều khó khăn do nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp,các chính sách chuyển dịch chưa mang lại hiểu quả cao do điều kiện thực tế chưa phù hợp. - Năng lực quản lý sản xuất, kinh doanh chưa đáp ứng được trong điều kiện tự do, thương mại hóa, đặc biệt trong khâu marketing, dự báo dự tính thị trường. - Bộ máy quản lý Nhà nước còn cồng kềnh, quan liêu, trì trệ, bảo thủ chưa thông tho.áng làm nản lòng các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. - Theo quan điểm địa lý chính trị và địa lý quân sự, nước ta có vị trí đặc biệt quan trọng ở khu vực Đông Nam Á: Do nằm ở nơi tiếp giáp giữa Đông Nam Á (lục địa) và Đông Nam Á (hải đảo), một khu vực giàu tài nguyên, một thị trường có sức mua đang tăng, một vùng kinh tế rất năng động. Như vậy, đây là nơi rất hấp dẫn với các thế lực đế quốc thù địch, mặt khác đây cũng là khu vực rất nhạy cảm trước những biến chuyển trong đời sống chính trị thế giới. - Vấn đề an ninh – quốc phòng còn đặt ra trên đất liền Việt Nam có đường biên giới rất dài với các nước láng giềng (4500km): Dọc biên biên giới với Trung Quốc và Lào núi liền núi, sông liền sông, không có những trở ngại lớn về tự nhiên, (ngược lại) có các thung lũng, đèo thấp thông với các nước láng giềng; Với Cămpuchia, không có biên giới tự nhiên, mà là châu thổ mênh mông trải dài từ Cà Mau đến tận Biển Hồ (việc xác định mốc biên giới giữa hai nước còn là vấn đề cần đàm phán để thống nhất). - Vấn đề an ninh – quốc phòng còn đặt ra với đường biên giới trên biển: Bờ biển nước ta dài (3260km), giáp với rất nhiều nước như Trung Quốc, Đài Loan, Inđônêxia, Malaixia, Philipin, Brunây, Xingapo, Thái Lan, Cămpuchia. Biển Đông rất giàu tài nguyên tôm, cá,... Thềm lục địa rất giàu tài nguyên khoáng sản (dầu khí...), lại án ngữ đường biển quốc tế nối hai đại dương lớn Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương. Vì vậy, biển Đông có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nước ta về mặt chiến lược đối với kinh tế, an ninh – quốc phòng. Nét khá độc đáo của vị trí địa lý nước ta là: Nằm ở nơi gặp gỡ, giao thoa của nhiều hệ thống tự nhiên, của nhiều nền văn hoá lớn trên thế giới và các luồng di cư trong lịch sử; Ở vị trí cầu nối giữa Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo. Cũng chính vì thế, đã làm cho thiên nhiên nước ta trở nên đa dạng và phong phú mà nhiều nơi trên thế giới không có được; Cũng tại khu vực này trong chiến tranh (nóng - lạnh) còn là nơi tập trung nhiều mâu thuẫn lớn, trong xây dựng lại là nơi hội tụ nhiều cơ hội phát triển.Mặt khác thì về mặt an ninh quốc phòng tuy nước ta có truyền thống yêu nước, đấu tranh cho tự do, giải phóng dân tộc nhưng về vấn đề an ninh quốc phòng hiện nay của nước ta còn phát triển quá chậm so với các nước khác nên có thể dẫn đến việc không đảm bảo nền hòa bình cho đất nước trong tương lai. Phân tích bản đồ kinh tế Đông Á cho thấy Việt Nam đang đi sau khá xa các nước chung quanh về trình độ phát triển công nghiệp, thể hiện trong sự cách biệt về tỷ lệ hàng công nghiệp, đặc biệt là tỷ lệ sản phẩm máy móc các loại trong tổng xuất khẩu, thể hiện trong chỉ số cạnh tranh của những ngành công nghiệp chủ yếu và trong cơ cấu phân công lao động giữa Việt Nam với các nước này. Ngoài ra, Việt Nam phải nhập siêu nhiều với hầu hết các nước đó. Không kể một số nước mới gia nhập ASEAN, Việt Nam là nước đi sau cùng trong quá trình công nghiệp hóa ở vùng Đông Á. Nhưng chiến lược đuổi bắt của Việt Nam trong quá trình đó đang trực diện hai thách thức lớn: Thứ nhất là ảnh hưởng của kinh tế Trung Quốc. Kinh tế Trung Quốc vừa lớn về quy mô vừa nhanh về tốc độ tăng trưởng, giai đoạn phát triển và cơ cấu tài nguyên, cơ cấu kinh tế lại tương đối gần với Việt Nam. Trung Quốc ngày càng cạnh tranh mạnh trong hầu hết các loại hàng công nghiệp. Thách thức thứ hai là mặc dù cơ cấu và sức cạnh tranh của công nghiệp còn yếu, Việt Nam phải sớm thực hiện tự do hóa thương mại với các nước trong khu vực. Đến nửa sau của năm 2006 về căn bản phải hoàn thành chương trình cắt giảm thuế trong khuôn khổ thực hiện Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và chậm lắm là năm 2015 phải hoàn thành chương trình tự do thương mại với Trung Quốc trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa nước này với khối ASEAN. Đối với Việt Nam, sự lớn mạnh của kinh tế Trung Quốc đang trở thành một thách thức lớn và FTA Trung Quốc-ASEAN sẽ làm cho thách thức đó càng mạnh hơn. Mặt khác, AFTA và sự trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc không phải chỉ là thách thức mà còn là cơ hội cho thị trường của hàng xuất khẩu Việt Nam (năm 2004, ASEAN nhập khẩu hơn 450 tỷ và Trung Quốc nhập khẩu 561 tỷ USD), nhất là trong thể chế tự do thương mại. Tuy nhiên, hiện nay, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước ASEAN đã phát triển là những nước chủ yếu tận dụng được cơ hội của thị trường Trung Quốc. ASEAN thì là nơi tranh giành thị phần giữa Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan... Việt Nam mới chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc và ASEAN hàng nguyên liệu và nông phẩm; hàng công nghiệp thì rất ít IV. Phân tích ví dụ về lợi thế cạnh tranh hàng nông sản Việt Nam Những lợi thế. Thứ nhất: So với các mặt hàngcông nghiệp xuất khẩu thi tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản rất thấp, do đó thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu sẽ cao hơn nhiều. Thứ hai: Ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản là ngành sử dụng nhiều lao động vào quá trình sản xuất - kinh doanh,nên giải quyết vấn đề tạo việc lam cho nhiều lao động Thứ ba: Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nước ta rất thuận lợi cho việc phát triển sản xuất một số loại rau quả vụ đông có hiệu quả như cà chua, bắp cải,tỏi, khoai tây… Thứ tư: Một số ít nông sản được các nước phát triển ở châu âu, Bắc Mỹ ưa chuộng như nhãn, hạt điều, dứa, lạc lại có thể trồng ở Việt Nam trên các đất bạc màu, đồi núi trọc (như điều) hay trên đất phèn, mặn (như dứa), lạc vụ 3 xen canh, nên không bị các cây trồng khác cạnh tranh, mà trên thực tế vẫn còn có khả năng mở rộng sản xuất. Thứ năm: Cac nước Đông Âu, và Trung Quốc vốn là thị trường truyền thống với quy mô lớn va tương đối dễ tinh đối với các mặt hàng nông sản của Việt Nam. Thứ sau: Nhiều tư liệu sản xuất dùng trong quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản vẫn còn phải nhập khẩu, do vậy mở cửa hội nhập kinh tế, tự do hoa thương mại sẽ làm cho gia nhập khẩu mặt hàng này rẻ hơn, làm cho giá thành sản xuất và chế biến các loại hàng nông, lâm, thủy sản của nước ta giảm xuống một lượng đang kể do đó sẽ tạo thêm ưu thế cạnh tranh. Thứ bảy: Thể chế chính trị ổn định, môi trường đầu tư và hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng được cải thiện và điều chỉnh thích ứng dần với tiến trình tự do hóa thương mại trong khu vực và toàn cầu. 2.Những bất lợi. Thứ nhất: Nhìn chung, tuy Việt Nam đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất hàng hoa tập trung nhưng khối lượng hàng hóa còn nhỏ bé, thị phần trên thế giới thấp, chất lượng chưa đồng đều và ổn định. Thứ hai: Phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử dụng có năng suất và chất lượng thấp hơn so với các nước trên thế giới và các đối thủ cạnh tranh trong khối ASEAN. Thứ ba: So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc hậu, chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Thứ tư: Năng lực quản ly sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại, đặc biệt là khâu marketing, dự tính dự báo thị trường. Thứ năm: Tuy chủng loại hàng hóa xuất khẩu của ta đa dạng hơn nhưng nhìn chung thì diện mặt hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về chủng loại,về chất lượng Thứ sau: Bộ máy quản lý hành chính Nhà nước vẫn còn quan liêu, trì trệ, chưa thông thoáng và bảo thủ đã làm nản lòng các nhà đầu tư kinh doanh trong và ngoài nước. Thứ bảy: Trong quá trình tự do hóa thương mại,một số doanh nghiệp kinh doanh hàng nông, lâm ,thủy sản làm ăn thua lỗ, không có khả năng cạnh tranh sẽ bị phá sản theo quy luật. 3.Một số ví dụ về hàng nông sản 3.1 Điều Kim ngạch xuất khẩu điều năm 2010 đạt 196.000 tấn, tương đương 1,14 tỷ USD, tăng 10,8% về lượng và 34,8% về giá trị so với năm trước. Vị trí dẫn đầu thế giới 4 năm liên tiếp. Điều trồng nhiều nhất Đông Nam Bộ.Hạt điều của Việt Nam đang có mặt trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, thị trường tiêu thụ hạt điều lớn của Việt Nam là Hoa kỳ, Trung Quốc,… 3.2 Gạo Xuất khẩu năm 2010 đạt 6,88 triệu tấn, kim ngạch 3,23 tỉ đô la Mỹ, tăng 15,4% về lượng và 21,2% về giá trị so với năm 2009. Hiện nay xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới và thị trường là Philippines, bangladesh… Hai khu vực trồng nhiều lúa gạo nhất của nước ta là Đồng bằng sông Cửa Long và Đồng bằng sông Hồng. NHẬN XÉT - Nhìn từ biểu đồ ta thấy, sản lượng gạo xuất khẩu 6 tháng đầu năm nhìn chung có sự thay đổi theo chiều hướng tăng đáng kể. Tháng 2 sản lượng đạt khoảng gần 400 nghìn tấn, đến tháng 7 đã tăng lên hơn hai lần, đạt 900 nghìn tấn, tương đương với giá trị gần 400 triệu USD. Trong tháng 3, 4, 5 sản lượng bình quân đạt khoảng 700 nghìn tấn, không có sự biến động nhiều. Tập trung vào xuất khẩu hàng nông sản, chủ yếu là xuất khẩu gạo, Việt Nam đầu tư vào công nghệ máy móc hiện đại. Mặt khác, nước ta có truyền thống trồng lúa nước từ lâu đời, thời tiết, khí hậu tương đối thuận lợi, góp phần làm tăng sản lượng và chất lượng thì luôn được đảm bảo. Hai khu vực Đồng bằng Sông Hồng và Sông Cửu Long có địa chất tương đối ổn định, đất đai hàng năm được phù sa sông bồi đắp nên cây trồng ở đây luôn tươi tốt và đạt năng suất cao hàng năm. Trong thời gian tới, Việt Nam phấn đấu sẽ đạt mức sản lượng tối đa, vươn lên vị trí thứ nhất về xuất khẩu gạo so với Philippines. 3.3 Hồ tiêu: Năm 2010 VN XK tiếu đứng thứ nhất thế giới: Sản lượng XK đạt 110.000 tấn, kim ngạch 390 triệu USD, tăng 17% giá trị. Chiếm 50% sản lượng XK, 47% về sản lượng sản xuất thế giới. Trồng nhiều ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Thị trường xuất khẩu chính: Mỹ, Đức, và các tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất. NHẬN XÉT - Nhìn trên biểu đồ (phần biểu đồ màu xanh lục) sản lượng hạt tiêu của Việt Nam đạt 47%, chiếm tỷ trọng phần đa trong tổng số lượng hạt tiêu xuất khẩu của thế giới trong năm 2010. So với các nước như Srilanka, hay Malaysia sản lượng chỉ chiếm từ 4 – 5%. Điều này cho ta thấy được, sản lượng hạt tiêu của Việt Nam luôn đứng đầu thế giới trong xuất khẩu, và vượt xa so với các nước khác trong cùng xuất khẩu. Tập trung trồng nhiều ở vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, nơi có địa hình đất đai màu mỡ với đặc trưng là đất đỏ badan do tự nhiên ban tặng, tận dụng được lợi thế này chúng ta ngoài trồng cây hồ tiêu còn trồng được cây điều, cây ca cao,… cũng cho sản lượng cao. Bên cạnh lợi thế về mặt tự nhiên, còn có sự đầu tư của chính phủ với các chính sách phát triển giao thông đi lại, máy móc thiết bị hiệ đại, công nghệ chăm sóc cây trồng chuyên nghiệp,… cũng góp phần làm tăng sản lượng các mặt hàng nông sản xuất khẩu. 3.4 Cà phê: - Năm 2010 đạt sản lượng khoảng 1,15 triệu tấn, kim ngạch khoảng 1.74 tỷ USD, tăng 4,5% về lượng và 1,5% về kim ngạch so với kế hoạch đầu năm. - Cà phê hiện trồng nhiều nhất ở Tây nguyên. - Thị trường XK chính của Cà phê: Đức và Hoa Kỳ. 3.5 Cao su: - Năm 2010, xuất khẩu đạt 782.200 tấn, kim ngạch trên 2.3 tỷ USD. - Hiện nay diện tích xếp thứ 6 thế giới, sản lượng xếp thứ 5 thế giới và xuất khẩu đứng thứ 4 thế giới. - Diện tích trồng ở Đông Nam bộ (64%), Tây Nguyên (24,5%), duyên hải miền Trung (10%) và vùng Tây Bắc 10.200 ha (1.5%). 3.6Thủy sản - Năm 2010 xuất khẩu trên 5,03 tỷ USD. - Với sự tham gia của 969 doanh nghiệp, Thuỷ sản Việt Nam đã xuất khẩu đến 162 thị trường - Các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chính như tôm 2.1 tỷ USD cá tra 1,44 tỷ USD, cá ngừ 293 triệu USD (5,3)... - Dự báo năm 2011, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sẽ giữ vững 5 tỷ USD. C. Nhận xét và một số giải pháp để phát triển kinh tế theo lợi thế so sánh Ở Việt Nam I. Nhận xét Nhìn chung, lợi thế kinh tế của Việt nam có rất nhiều điều kiện phát triển. Tận dụng được những lợi thế đó Chính phủ đã phát huy một cách nhanh chóng, có hiệu quả các biện pháp phát triển kinh tế. Ngoài ra, cần có những chính sách phát triển một cách toàn diện hơn cả về mặt tự nhiên và tự tạo. Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỉ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30 - 35% lao động xã hội.Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt khoảng 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực. Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỉ lệ đô thị hóa đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%. 1.Ưu điểm về lợi thế kinh tế ở Việt Nam Về lợi thế tự nhiên - Việt Nam nằm trong điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sự phát triển kinh tế đó chính là vị trí địa lý thuận tiện cho việc giao lưu, trao đổi và buôn bán với các nước trên thế giới. Địa hình Việt Nam đa dạng, bao gồm đồi núi, đồng bằng, bờ biển giúp cho việc phát triển cả về nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Về nông nghiệp: phát triển trồng lúa màu ở vùng đồng bằng, chăn nuôi gia súc lớn: như trâu, bò, dê... ở vùng đồi núi hay là trồng cây lấy gỗ, cây lưu niên, cây ăn quả quả. Về công nghiệp: xây dựng các nhà máy, xí nghiệp gần với nguồn nguyên liệu, gần với đường giao thông để thuận lợi cho việc sản xuất và buôn bán. Về dịch vụ: ở vùng đồng bằng kinh tế phát triển, số lượng người lao động cao thì phát triển dịch vụ về các mặt hàng tiêu dùng, ở vùng có nhiều bờ biển đẹp rất thuận lợi cho việc khai thác dịch vụ liên quan về biển hay là ở những vùng có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp thì phát triển dịch vụ đi thưởng ngoạn cho du khách...... Khí hậu: Việt Nam nằm trong vành đai nội chí tuyến, quanh năm có nhiệt độ cao và độ ẩm lớn thuận lợi cho việc phát triển trồng trọt với đa dạng chủng loại cây lương thực, rau, màu và chăn nuôi với nhiều loại gia súc, gia cầm mang lại hiệu quả kinh tế cao cho ngành nông nghiệp. Với khí hậu này thì không chỉ mang lại thuận lợi cho ngành nông nghiệp mà còn đối với nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều kiện đời sống và việc làm cũng của người lao động ổn định. Tài nguyên thiên nhiên: Việt nam là một trong những nước mà có lượng tài nguyên thiên nhiên nhiều, phong phú và đa dạng. Đất đai ở Việt Nam rất đa dạng, có độ phì cao, thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp, Quần thể động vật ở Việt Nam cũng phong phú và đa dạng, Có nhiều khoáng sản quý giá như than đá, quặng, sắt, chì, dầu mỏ...góp phần phát triển công nghiệp đặc biệt là công nghiệp nặng như công nghiệp khai thác khoáng sản và chế biến phục vụ cho nhu cầu của thị trường. - Nguồn lao động ở Việt Nam. Về số lượng:  Việt Nam chúng ta đang có nguồn nhân lực dồi dào với dân số cả nước gần 86 triệu người (Tính đến ngày ngày 1/4/2009, dân số của Việt Nam: 85.789.573 người), nước đông dân thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực. Trong đó số người trong độ tuổi lao động tăng nhanh và chiếm một tỉ lệ cao khoảng 67% dân số cả nước. Về chất lượng: Năm 2008 nước ta có 275 trường Trung cấp chuyên nghiệp, 209 trường cao đẳng, 160 trường Đại học và có tới 27.900 trường phổ thông, 226 trường dân tộc nội trú…Nhìn vào những con số này cho thấy lực lượng trí thức và công chức thực sự là một nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Hơn nữa, lao động Việt Nam lại cần cù, chăm học hỏi và sáng tạo trong tìm tòi áp dụng công nghệ mới vào quá trình lao động. Về những lợi thế tự tạo - Hệ thống chính trị ổn định với Đảng Cộng sản Việt nam lãnh đạo và chính phủ điều hành, không xảy ra tình trạng xung đột, lật đổ, đảo chính giữa các đảng phái chính trị vì vậy tạo điều cho nền kinh tế được phát triển bền vững. - Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hoá công nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế sâu và rộng nên chính phủ có những chính sách kích thích hay " trải thảm đỏ" mở cửa đón các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào trong nước. - Với chính sách cải cách kinh tế kịp thời chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có định hướng của Xã hội chủ nghĩa giúp nền kinh tế phát triển bước qua sự suy thoái kinh tế. - Nhà nước có nhận định chính xác về chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc gia đó là giảm tỷ lệ cơ cấu kinh tế nông nghiệp tăng cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp và dịch vụ bước đầu đã có chuyển biến tích cực và có hiệu quả giúp cho nền kinh tế có tốc độ phát triển cao. - Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 6 ở Đông Nam Á và lớn thứ 59 trên thế giới trong các nền kinh tế thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế xét theo quy mô tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa năm 2009 và đứng thứ 128 xét theo tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa bình quân đầu người. Đây là nền kinh tế hỗn hợp, phụ thuộc cao vào xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài. . Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, ASEAN. Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do đa phương với các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Việt Nam cũng đã ký với Nhật Bản một hiệp định đối tác kinh tế song phương. 2.Nhược điểm về lợi thế kinh tế ở Việt Nam - Do ảnh hưởng gió mùa và sự phức tạp về địa hình nên Việt Nam thường gặp bất lợi về thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán (trung bình một năm có 6-10 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán đe dọa). Điều đó làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta như là phòng chống và khôi phục thiệt hại sau bão lụt xảy ra. Nó không chỉ ảnh hưởng tới mỗi cá nhân, hộ gia đình mà còn đối với toàn xã hội. - Tài nguyên thiên nhiên ở nước ta rất dồi dào song chưa khai thác hiệu quả dẫn đến thất thoát tài nguyên một cách trầm trọng. Và chỉ chú ý đến lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Như nước ta chỉ khai thác khoáng sản và xuất khẩu thô ra nước ngoài điển hình là than đá và dầu khí... mà chưa có các nhà máy xi nghiệp để chuyên chế xuất gây ra tình trạng lãng phí rất lớn. Mà trong khi đó tài nguyên là có hạn, đến một lúc nào đó thì sẽ cạn kiệt và không có khả năng hồi phục được. - Nguồn nhân lực của Việt Nam thì dồi dào và đa phần là lao động trẻ. Tuy nhiên chất lượng lao động của nước ta còn chưa cao, số công nhân có trình độ văn hóa, tay nghề, kĩ thuật rất ít. Trình độ văn hoá tay nghề thấp nên đa số công nhân không đáp ứng tốt yêu cầu công việc. Điều này dẫn đến sự mất cân đối về lao động ở các doanh nghiệp. Doanh nghiệp không thiếu người nhưng lại thiếu những công nhân có tay nghề để đảm bảo những khâu kĩ thuật quan trọng trong dây chuyền sản xuất. Hệ quả kéo theo của vấn đề này là đồng lương công nhân bị thấp đi, đời sống không được đảm bảo, địa vị công nhân trong đời sống xã hội cũng không cao. Với tình hình đó nguồn lực công nhân chưa thể đóng vai trò chủ đạo trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Như chúng ta đã biết, trong gần 86 triệu người ở Việt Nam thì nông dân chiếm gần khoảng 73% dân số cả nước. Điều này cho thấy nông dân vẫn là lực lượng lao động xã hội chiếm tỉ lệ cao nhất. Nông dân ta bao đời nay vẫn lấy nghề trồng lúa là nghề chính. Họ vẫn đang sản xuất một cách tự phát, manh mún. Họ vẫn cứ nghĩ rằng trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần học cũng làm được, thế là cứ từ đời này nối tiếp đời kia họ tự trồng như vậy. Nhìn vào thực tế sản xuất của nông dân ta thấy rằng dù đã mấy nghìn năm phát triển xã hội nhưng cách trồng lúa của người Việt hôm nay cũng chưa tiến bộ hơn cách trồng lúa của người Việt xưa là mấy, vẫn còn tồn tại cái cảnh “ con trâu đi trước cái cày theo sau”. Mặc dù bây giờ đã có sự liên kết nhà khoa học với  nhà nông nhưng cũng chưa tạo đựơc những đột phá đem lại hiệu quả. Hiện nay, nông dân đã mở ra nhiều ngành nghề để tạo việc làm và thu nhập nhưng hiệu quả kinh tế vẫn chưa cao nguyên nhân là còn thiếu áp dụng các khoa học kĩ thuật vào trong sản xuất vì vẫn nặng với cái kiểu tư duy “nghĩ sao làm vậy”. Rõ ràng nguồn lực nông dân dồi dào nhưng chất lượng vẫn còn yếu kém . Về nguồn nhân lực công nhân thì hiện nay số lượng giai cấp công nhân Việt Nam có khoảng 5 triệu người, chiếm 6% dân số cả nước.Như vậy lực lượng công nhân Việt Nam còn quá ít. Đã vậy công nhân có tay nghề cao lại chiếm tỷ lệ thấp so với đội  ngũ công nhân nói chung. Số công nhân có trình độ văn hóa, tay nghề, kĩ thuật rất ít. Theo thống kê công nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở nước ta chiếm khoảng 3,3% đội ngũ công nhân nói chung. Tỉ lệ này khiến chúng ta phải suy nghĩ. Chính vì trình độ văn hoá tay nghề thấp nên đa số công nhân không đáp ứng tốt yêu cầu công việc. Điều này dẫn đến sự mất cân đối về lao động ở các doanh nghiệp. Doanh nghiệp không thiếu người nhưng lại thiếu những công nhân có tay nghề để đảm bảo những khâu kĩ thuật quan trọng trong dây chuyền sản xuất. Hệ quả kéo theo của vấn đề này là đồng lương công nhân bị thấp đi, đời sống không được đảm bảo, địa vị công nhân trong đời sống xã hội cũng không cao. Với tình hình đó nguồn lực công nhân chưa thể đóng vai trò chủ đạo trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhìn vào những con số về số sinh viên và cử nhân ra trường hàng năm cho thấy lực lượng trí thức và công chức thực sự là một nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Nhưng thực tế vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề. Hàng năm lượng sinh viên ra trường lớn nhưng số sinh viên có việc làm lại ít. Theo thống kê có đến 63% sinh viên ra trường không có việc làm, số có việc làm thì cũng có người làm việc không đúng ngành được học. Thêm vào đó là một số đơn vị nhận người vào làm phải mất 1-2 năm đào tạo lại.Việc này ảnh hưởng rất lớn đến tình hình phát triển kinh tế chung của đất nước do lực lượng lao động trẻ, nòng cốt còn quá yếu kém và không phù hợp với công việc mà họ được đào tạo. Nguồn nhân lực giá rẻ không còn được xem là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Chất lượng nguồn nhân lực thấp trở thành một rào cản phát triển kinh tế. Số người lao động qua đào tạo đang chiếm một tỷ lệ thấp, chất lượng cũng chưa đáp ứng được những công việc đòi hỏi kiến thức và kỹ năng. Đào tạo đại học và nghề chưa theo sát với nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề nhân lực là một trở ngại lớn đối với nhiều doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam. Cơ sở hạ tầng là một trong những trở ngại lớn nhất của phát triển kinh tế tại Việt Nam. Cơ sở hạ tầng Việt Nam bị đánh giá là yếu kém, thiếu thốn. Việc nâng cấp hạ tầng vật chất của Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót và chậm trễ. Nhất là trong việc phát triển cơ sở hạ tầng trọng yếu, như các tuyến đường liên tỉnh, cầu… Những hạn chế về cơ sở hạ tầng tại Việt Nam theo đánh giá bởi các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đe doạ đối với xuất khẩu và sản xuất. Chừng nào Việt Nam còn chưa cải thiện hạ tầng và cơ sở hậu cần thì Việt Nam còn tụt hậu. Chi phí vận tải ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Việt Nam chưa có cảng biển mang tầm cỡ quốc tế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chi phí sản xuất hàng hóa ở Việt Nam, vì phải vận chuyển qua cảng trung gian. Vấn đề bất cập trong cơ sở hạ tầng hiện nay là thiếu một quy hoạch phát triển đồng bộ, chi phí đầu tư cao, chất lượng đầu tư thấp và thất thoát lớn trong quá trình đầu tư. Tình trạng ách tắc giao thông, giá đất cao, xây dựng cơ sở hạ tầng, đường giao thông đắt đỏ tại các đô thị lớn như Hà Nội và Tp. HCM là một trong những bước cản lớn cho phát triển của 2 thành phố lớn nhất nước này. II.Một số giải pháp và kiến nghị Thứ nhất là đối với lợi thế về điều kiện tự nhiên: - Đất đai phì nhiêu nên chú trọng vào việc trồng trọt và chăn nuôi . Nhà nước, chính quyền địa phương và người dân nên có những chiến lược hoặc chính sách khoanh vùng để phát triển nông nghiệp lâu dài và bền vững. Những vùng đất có hàm lượng phù sa lớn như ở đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long nên có chính sách khoanh vùng trồng lúa. Tránh việc lấn chiếm đất để xây dựng cơ sở hạ tầng. Ở những vùng đất đỏ ba gian như trung du miền núi phía bắc, ở tây nguyên và vùng tây nam bộ phát triển những loại cây trồng có giá trị phục vụ cho công nghiệp chế biến như cây chè ở Thái Nguyên, cây cao su ở Tây nguyên và cây điều, cây ca cao ở Tây nam bộ.... Việt Nam có nhiều vùng đồi núi thoai thoải rất phù hợp cho việc chăn thả gia súc, đặc biệt là gia súc lớn mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hơn nữa việc kết hợp " 3 nhà": nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà nông cũng rất hiệu quả cho việc phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Do đó mô hình này cũng nên được nhân rộng ra. Vì nó không những mang lại lợi ích cho nông dân mà còn đối với doanh nghiệp chế biến và phân phối sản phẩm, với nhà nước. - Việt nam có bờ biển dài và đẹp thì phát triển du lịch kinh tế biển Như đã giới thiệu ở trên Việt Nam có bờ biển dài 3.260km không kể các đảo. Đây là một trong những lợi thế to lớn mà thiên nhiên ưu đãi cho Việt Nam. Với những bờ biển đẹp trải dài từ bắc vào nam. Đặc biển có những bờ biển được xếp hạng là một trong những bải biển đẹp nhất hành tinh như bải biển ở Nha Trang. Nhờ vào lợi thế biển thì loại hình dịch vụ du lịch tham quan nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí đã và đang được các tỉnh có bờ biển tích cực mở rộng và đưa vào khai thác. Để loại hình du lịch biển này mang lại lợi ích tối đa Nhà nước và địa phương nên tích cực quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước nhằm thu hút khách du lịch. Đi kèm với việc quảng bá thì việc đầu tư vào các công trình như khách sạn, nhà hàng hay các khu resort nghỉ dưỡng cũng nên đẩy mạnh; Thông thường khách du lịch thường chú ý đến phong cách phục vụ do đó cần phải đào tạo đội ngũ các nhà quản lý và nhân viên tốt đảm bảo chất lượng. Như vậy việc phát triển du lịch biển không chỉ dựa vào lợi thế mà tự nhiên ban tặng mà còn phải kết hợp với nhiều loại hình dịch vụ khác thì hiệu quả phát triển du lịch kinh tế biển mới thực sự là một trong những nguồn lợi thế quan trọng của đất nước. Ngoài việc phát triển du lịch thì loại hình đánh bắt thuỷ sản ngoài khơi và việc nuôi trong thuỷ sản trên biển, trên các vùng đất cát cũng thu về một nguồn lợi rất lớn. Phục vụ cho việc chế biến thuỷ sản xuất khẩu. - Việt nam có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp kết hợp với di tich lịch sử và văn hoá ở từng vùng miên nên triển khai mở rộng dịch vụ du lịch dịch vụ. Mỗi vùng trên nước ta đều có những địa điểm và và thắng cảnh đẹp. Để tận dụng được lợi thế này các địa phương nên áp dụng các dịch vụ du lịch này, vừa quảng bá địa phương mình với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước và nước ngoài. Như vậy mọi người đều biết đến địa phương mình mà còn thu hút khách du lịch đến tham quan mang lại lợi ích về mặt kinh tế cho địa phương. Hiện nay việc triển khai áp dụng biện pháp này chưa hiệu quả cho nên các địa phương phải biết tận dụng các lợi thế này để pháp triển để giới thiệu lịch sử, văn hoá của địa phương. Đặc biệt là việc phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống của địa phương, vừa duy trì được ngành nghề truyền thống vừa tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương. - Cần tăng cường cảnh báo các thiên tai nhằm giảm tối đa những tổn thất có thể gây ra cho kinh tế. Việc thiên tai, lũ lụt thường xuyên diễn thường xuyên. Chính phủ cần nền xây dựng các trạm thuỷ văn hiện đại để dự báo kịp thời các thiên tai để chính quyền địa phương và người dân kịp thời phòng tránh, giảm thiểu tối đa các thệt hại. Chủ động khắc phục hậu quả mà thiên tai gây ra, khôi phục sinh hoạt của người dân và việc sản xuất trở lại hoạt động bình thường. - Cần xấy dựng nhiều các khu công nghiệp, các khu chế biến và khai thác khoáng sản. Cần quy hoạch hợp lý, và nên xây dựng ở những vùng có gần nguyên liệu phục vụ cho việc sản xuất. - Khai thác một cách có hiệu quả đi đôi với cải tạo tư nhiên, … tránh làm tổn hại đến môi trường tự nhiên, gây ô nhiễm môi trường. - Phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải về các vùng sâu vùng xa. Nâng cao chất lượng lao động để đáp ứng với sự đòi hỏi của nên kinh tế - Về cơ sở vật chất kỹ thuật: phát triển cơ sở hạ tầng tiên tiến, hiện đại hơn phù hợp với công nghệ hiện đại đang tiến hành nhập khẩu từ nước ngoài, .. - Về lao động: phát huy nguồn lao động chất lượng cao; phân bố lao động một cách hợp lí theo cơ cấu kinh tế. - Nâng cao chất lượng dạy và học trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp và Dạy nghề. Nhà trường không chỉ đào tạo các ngành nghề phù hợp với các nhu cầu của xã hội mà còn phải giáo dục cho sinh viên về ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp ngay khi ngồi ở ghế nhà trường. Việc tìm hiểu nhu cầu của các tổ chức, doanh nghiệp đòi hỏi đối với người lao động nói chung và sinh viên mới ra trường nói riêng như thế nào để nhà trường đưa ra những phương pháp giáo dục mới mang lại hiệu quả cao cho sinh viên - Tổ chức các cuộc tư vấn, hướng nghiệp về nghành nghề cho giới trẻ để họ tìm được những công việc phù hợp trình độ và năng lực của bản thân. Việc tổ chức tư vấn này là rất quan trọng đối với người tìm việc làm và đối với doanh nghiệp. Người lao động có thể tìm được việc làm phù hợp với sở thích, năng lực của bản thân. Doanh nghiệp thì tìm được đúng và đủ nhân viên cho các vị trí còn thiếu. Cần có sự kết hợp giữa các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, các trường dạy nghề và doanh nghiệp như tổ chức các cuộc hội thảo, các cuộc trao đổi hay cho sinh viên đi tham quan công việc, hoặc thực tập ngay chính doanh nghiệp. Việc tổ chức tư vấn này nên cần được triển khai khi người lao động đang ngồi trên ghế phổ thông, định hướng cho các em về nghề nghiệp trong tương lai. Khi sinh viên chuẩn bị ra trường thì nên hướng cho họ tìm việc đúng với ngành nghề mà mình được đào tạo. Thường xuyên mở hội chợ về giới thiệu việc làm hay các sàn giao dịch việc ..... để người lao động đến tìm hiểu để biết được trình độ và kinh nghiệm của mình đến đâu, có đáp ứng với yêu cầu của công việc hay không. Từ đó người lao động có ý thức tự trao dồi kiến thức cho bản thân. - Thường xuyên tổ chức trau dồi kiến thức cũng như tay nghề cho người lao động trước và trong quá trình làm việc để đảm bảo cho chất lượng công việc được hiệu quả. Trước khi vào một tổ chức nào đó để làm việc thì người lao động cần có kiến thức kỷ năng cơ bản để đảm cho công việc. Nhưng quá trình làm việc thì việc củng cố và bổ sung kiến thức cũng là điều không thể thiếu cho người lao động. Bởi trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ngày càng phát triển, công nghệ máy móc phục vụ cho quá trình sản xuất cũng trở nên hiện đại hơn, công việc ngày càng khó khăn phức tạp hơn. Đòi hỏi trình độ của người lao động phải được nâng cao. - Nâng cao tình thần tự giác và tự chủ của người lao động trong quá trình làm việc. Xu hướng làm việc đi sớm về muộn ở một số doanh nghiệp vẩn xảy ra ảnh hưởng đến chất lượng công việc. Do đó cần phải xây dựng tinh thần tự giác và tự chủ động của người lao động ngay từ khi lao động mới vào làm việc. Đề ra các quy tắc, quy định xử phạt công bằng để đảm bảo quyền lợi cho cả người lao động và cả doanh nghiệp. - Rèn luyện tính làm việc có kỷ luật và tác phong công nghiệp cho toàn bộ người lao động. Thứ ba là các chính sách của chính phủ để phát triển kinh tế - Giảm các thủ tục hành chính khi tổ chức, cá nhân muốn xây dựng, mở rộng việc sản xuất kinh doanh hay là các công ty nước ngoài đầu tư ở Việt Nam. - Chính phủ cần đặt ưu tiên vào ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiệm vụ điều hành ổn định kinh tế vĩ mô trong thời gian tới tiếp tục rất phức tạp và khó khăn, đòi hỏi Chính phủ và các cơ quan chức năng phải bám sát tình hình, có những chính sách, giải pháp chỉ đạo điều hành kịp thời và linh hoạt. Các định hướng chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ trong cả năm cần được công bố ngay từ đầu năm để cho người dân và doanh nghiệp được biết. Những dự kiến thay đổi cụ thể về chính sách ở từng thời điểm cụ thể trong năm chỉ nên công bố khi chắc chắn sẽ thực hiện. Cùng với thông tin về quyết định chính sách, các thông tin kinh tế vĩ mô (như nhập siêu, bội chi ngân sách, dự trữ ngoại hối, cán cân thanh toán, nợ quốc gia…) phải được công khai, minh bạch ở mức cần thiết để người dân và doanh nghiệp tránh bị động trong sản xuất kinh doanh. Cần có cơ chế phối hợp đồng bộ, toàn diện hơn nữa giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là sự phối kết hợp chặt chẽ ngay từ khâu hoạch định chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá, chính sách tỷ giá và các chính sách khác để giải quyết và đạt được các mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường ngoại tệ. Chính phủ cũng cần nâng cao năng lực dự báo và tăng cường phối hợp trao đổi thông tin giữa các cơ quan dự báo và cơ quan giám sát để đảm bảo thống nhất khi công bố. - Đối với vấn đề bội chi ngân sách, chính phủ cần xác định rõ lộ trình và giải pháp cho việc giảm bội chi và tiến tới cân đối ngân sách một cách tích cực. Cần cải cách lại cơ chế cấp phát ngân sách và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi nhằm đảm bảo chi ngân sách có hiệu quả. Chi ngân sách cần gắn liền với công khai, minh bạch và dân chủ. Xây dựng và áp dụng cơ chế thưởng phạt cũng như xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước. Đối với vấn đề kiểm soát nhập siêu, cần đặt trong tổng thể của tất cả các chính sách từ chính sách tài khóa, tiền tệ đến chính sách tỷ giá, từ việc chuyển đổi cơ cấu xuất khẩu đến phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ vì nhập siêu bản chất là vấn đề cơ cấu kinh tế. - Thực hiện các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng và hấp thụ vốn đầu tư của nền kinh tế. Để thực hiện điều này, cần tập trung vào tái cơ cấu doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các DNNN, theo hướng rà soát lại hệ thống doanh nghiệp DNNN, kiên quyết cắt bỏ các DNNN làm ăn thua lỗ. Bên cạnh đó, cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn đầu tư từ ngân sách. Nghiên cứu lại việc phân bổ và sử dụng nguồn lực theo hướng nguồn lực cần phải được phân bổ đến những ngành có độ lan tỏa lớn, có giá trị gia tăng cao. Ưu tiên hỗ trợ những doanh nghiệp có phương án kinh doanh khả thi và những doanh nghiệp có khả năng tiếp cận được với công nghệ hiện đại để giúp họ trang bị lại thiết bị, cải tiến công nghệ nhằm bắt kịp với nền sản xuất của thế giới. - Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh. Khi cùng chung sống trong một môi trường kinh tế và chính sách kinh tế, các doanh nghiệp dù là doanh nghiệp nhà nước hay ngoài nhà nước cần có được sự bình đẳng như nhau về cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, khi nền kinh tế ngày càng thị trường hóa sâu hơn đòi hỏi phải tách biệt giữa chức năng kinh doanh và chức năng hỗ trợ chính sách kinh tế của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Điều này sẽ vừa nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp này vừa không gây ra những méo mó trong nền kinh tế. Ở khía cạnh khác, để tạo môi trường đầu tư minh bạch có tính cạnh tranh, cần tách biệt vai trò của chính phủ là chủ sở hữu ra khỏi vai trò điều hành chính sách - Để đảm bảo tăng trưởng trước mắt cũng như lâu dài cần giải quyết các “nút thắt” của nền kinh tế, đó là cơ sở hạ tầng và công nghiệp phụ trợ yếu kém; chất lượng nguồn nhân lực thấp; hệ thống tài chính còn bất ổn và mang tính đầu cơ; bộ máy hành chính cồng kềnh, kém hiệu quả. Thực tế cho thấy, việc thực hiện các chính sách để giải quyết các “nút thắt” này luôn mang lại những tín hiệu tốt cho dài hạn và không làm méo mó toàn bộ nền kinh tế trong ngắn hạn. Do vậy, một khi nền kinh tế đã phục hồi trở lại, cần chuyển sang ưu tiên tập trung giải tỏa các “nút thắt” trên. - Nhà nước cần mở cửa thu hút đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước vào các vùng sâu, vùng xa, những vùng kinh tế chưa phát triển.Việc thu hút vốn đầu từ là rất quan trọng nhưng đầu tư ở vùng sâu vùng xa lại quan trọng hơn. Việc đầu tư mang lại hiệu quả thì nhà nước cần có những chính sách thông thoáng kích thích nhà đầu tư. Một trong những điều đó chính là chính sách của địa phương dành cho doanh nghiệp và việc phát triển cơ sơ hạ tầng như đường xá giao thông, mạng lưới điện... - Phát triển đồng đều các ngành kinh tế ở các vùng miền. Phát triển kinh tế không phải chỉ tập trung ở mỗi các các thành phố lớn mà còn phải phát triển ở vùng nông thôn, trung du và miền núi. - Để giảm thách thức và tận dụng được cơ hội do Trung Quốc và ASEAN mang lại, Việt Nam phải chuyển dịch nhanh cơ cấu xuất khẩu sang các nước này, phải có khả năng cung cấp ngày càng nhiều mặt hàng công nghiệp cạnh tranh được trên thị trường khu vực và thế giới. Muốn vậy phải xác định được những ngành có lợi thê so sánh, chuyển hướng chiến lược cho phù hợp với tình hình mới va tận dụng ngoại lực để vừa làm tăng nội lực vừa nhanh chóng tăng năng lực cạnh tranh. Tìm lợi thế so sánh động và chuyển hướng chiến lược Lợi thế so sánh tĩnh là lợi thế có ngay bây giờ, có ngành đã được phát huy, cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế nhưng cũng có ngành chưa được phát huy do môi trường hoạt động của Doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Lợi thế so sánh động là lợi thế tiềm năng sẽ xuất hiện trong tương lai gần hay xa khi các điều kiện về công nghệ, về nguồn nhân lực và khả năng tích lũy tư bản cho phép. Nếu có chính sách tích cực theo hướng tạo ra nhanh các điều kiện đó sẽ làm cho lợi thế so sánh động sớm chuyển thành sức cạnh tranh hiện thực. Việt Nam cần chuyển chiến lược từ thay thế nhập khẩu sang xúc tiến xuất khẩu những sản phẩm nguyên chiếc mà biện pháp cụ thể là giảm giá thành những sản phẩm đó bằng cách bãi bỏ thuế nhập khẩu linh kiện, bộ phận - Phát huy mạnh những lợi thế vốn có, khắc phục những hạn chế còn tồn tại. thực hiện được như vậy thì chúng ta mới thực sự phát triển một cách toàn diện những lợi thế kinh tế để phát triển đất nước. Kết Luận Với những nỗ lực kích thích kinh tế trong năm 2010 và sự phục hồi kinh tế đang ngày càng rõ rệt của nền kinh tế thế giới , nền kinh tế Việt Nam càng có nhiều cơ hội để phát triển nền kinh tế hơn nữa dựa vào những lợi thế so sánh tự nhiên và những lợi thế so sánh tự tạo.Các chính sách của Nhà nước đang ngày càng được hoàn thiện sẽ là một lợi thế so sánh mà chúng ta nên chú trọng và xem xét kỹ lưỡng vì nó sẽ vô cùng hiệu quả nếu vận dụng đúng cách và cũng vô cùng nguy hiểm và trở thành bất lợi nếu bị sử dụng không đúng. Việc nghiên cứu lợi thế so sánh của nước ta hiện nay so với các nước khác là một yêu cầu tất yếu khách quan.Nhờ quá trình nghiên cứu và tìm hiểu này, chúng em muốn phần nào đó chỉ rõ các mặt lợi thế của Việt Nam ta để từ đó ngày càng phát huy và giữ gìn các mặt lợi thế đó.Mặt khác cũng muốn nêu rõ một số nhận xét và kiến nghị để có thể nhìn rõ các mặt còn yếu, hạn chế của kinh tế Việt Nam để khắc phục và giúp cải thiện nền kinh tế đất nước. Do đề tài nghiên cứu là lĩnh vực rộng, phức tạp và với kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế, cho nên bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết. Vì vậy, chúng em rất mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của các Thầy, Cô, hay những người có quan tâm đến đề tài này, để bài làm của chúng em được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn. Danh sách nhóm 4 Lớp LCD5QL1 1. Nguyễn Văn Nhất 2. Lê Hoàng Phương – nhóm trưởng 3. Phạm Thị Minh Phương 4. Trần Thị Thu Phương 5. Vũ Thị Thu Phương 6. Đoàn Ngọc Phương 7. Đào Mai Phương 8. Bùi Đức Quân 9. Trần Văn Quân 10. Trần Thị Thanh Quý

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận so sánh lợi thế kinh tế ở việt nam.doc
Luận văn liên quan