Tiểu luận tài chính tiền tệ - Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam

Chương I :thực trạng nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam Chương II :nguyên nhân dẫn đến nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam Chương III :ảnh hưởng của nền kinh tế tiền mặt đến các vấn đề kinh tế xã hội Chương IV :giải pháp và triển vọng giải quyết các vấn đề này

doc36 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3094 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận tài chính tiền tệ - Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong các hộ gia đình các mục tiêu hỗ trợ khác được xác định trong Đề án là phấn đấu 70% các trung tâm thương mại ,siêu thị ,nhà hang ,khách sạn …có lắp đặt các thiết bị chấp nhận thẻ thanh toán vào cuối năm 2010 ,năm 2020 là 95% . Một mục tiêu khác là tăng cường việc lập và sử dụng tài khoản cá nhân trong dân cư .Dự kiến đến năm 2010 Việt Nam sẽ có 20 triệu tài khoản loại này để thực hiện việc trả lương cho cán bộ hưởng lương ngân sách qua tài khoản (70%) và 50% công nhân lao động trong doanh nghiệp tư nhân. Cũng theo Ngân hàng nhà nước dự kiến đến năm 2020 ,90% chi tiêu từ ngân sách và 90% thanh toán dịch vụ công cộng là được thực hiện qua tài khoản . Dựa vào các số liệu ở trên cho thấy nền kinh tế tiền mặt có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như các mặt khác của đời sống con người .Chúng ta có thể dùng nó như một chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế của một quốc gia cũng như trình độ phát triển khoa học công nghệ và đời sống người dân .Cũng chính vì vậy cho nên nhóm chúng em đã quyết định chọn đề tài này ,mong muốn góp phần giúp mọi người có thể hiểu được vai trò cũng như một số trở ngại do nền kinh tế tiền mặt gây ra một cách có hệ thống. CHƯƠNG III: Nguyên nhân dẫn đến “nền kinh tế tiền” mặt ở Việt Nam Việt Nam là một trong những quốc gia đứng đầu thế giới về thị phần thanh toán bằng tiền mặt.Lý giải về tình hình trên các chuyên gia kinh tế đã đưa ra những nguyên nhân chính sau: 1) Sự yếu kém của các ngân hàng trong việc triển khai các hình thức thanh toán điện tử: Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, hiện nay người dân Việt Nam có khoảng 15 triệu tài khoản ngân hàng trong đó chủ yếu là tài khoản tiết kiệm. Điều đó chứng tỏ đại bộ phận người tiêu dùng Việt Nam chưa được tiếp cận với các hình thức thanh toán qua tài khoản ngân hàng. Ước tính, hiện nay 90% các khoản chi tiêu cá nhân tại Việt Nam được thanh toán bằng tiền mặt.Điều này thể hiện tiền mặt có một vai trò to lớn như thế nào đối với các tác nhân của nền kinh tế.Chúng ta cũng có thể dễ dàng thấy được sự khan hiếm của các hình thức thanh toán điện tử trong nền kinh tế bằng cách đánh giá tiềm lực thực tế của các ngân hàng trong việc thực hiện các giao dịch này.Với khoảng 85 triệu dân và với tốc độ tăng chi tiêu thực tế hàng tháng của mỗi người dân là khoảng 62%(số liệu của tổng cục thống kê),nhưng cho đến nay chúng ta cũng mới phát hành khoảng 2 triệu thẻ ATM và gần 100 nghìn thẻ quốc tế; trên toàn quốc mới có 1.900 máy ATM được lắp đặt...Điều này chính là một minh chứng rõ nét cho sự yếu kém trong hoạt động của các ngân hàng,đồng thời cũng thể hiện sự chậm trễ trong việc đổi mới các phương thức thanh toán của các ngân hàng ở Việt Nam.Tuy nhiên chúng ta cũng phải hiểu được rằng ngân hàng cũng đang gặp rất nhiều khó khăn để gia tăng các loại hình thanh toán bằng điện tử: Thứ nhất,tuy giao dich điện tử của ngân hàng có nhiều tiện ích nhưng nó cũng bị hạn chế rất nhiều bởi Việt Nam chưa hoàn chỉnh luật thương mại điện tử,dẫn đến các hoạt động của ngân hàng chưa được bảo vệ bởi các hệ thống pháp lý.Chính điều này làm nảy sinh tâm lý e dè của khách hàng khi sử dụng các hoạt đông thanh toán điện tử.Bên cạnh đó việc thiếu một hệ thống pháp ly hoàn chỉnh làm cho các ngân hàng không thể đàu tư thỏa đáng vào thương mại điện tử. Ngoài ra các ngân hàng cũng gặp khó khăn không nhỏ trong việc triển khai các hoạt động thanh toán điện tử.Lý do là còn thiếu sự liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ như điện tử,viễn thông.. đối với ngân hàng.Các hệ thống thanh toán còn rất thiếu đồng bộ và thể hiện nhiều sự yếu kém trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của nền kinh tế.Một minh chứng rõ nét là việc hệ thống thanh toán cốt lõi là hệ thống thanh toán liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước, mặc dù được cải thiện rất nhiều sau khi hoàn tất giai đoạn I của Dự án hiện đại hệ thống thanh toán, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu gia tăng về hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng. Theo thiết kế ban đầu, hệ thống thanh toán liên ngân hàng có khả năng xử lý 4.500 giao dịch/ngày. Nhưng từ khi đi vào hoạt động đến này, hệ thống thường xuyên lâm vào tình trạng quá tải với số lượng giao dịch bình quân lên tới 10.000 giao dịch/ngày.Bên cạnh đó các ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển hệ thống khách hàng.Lý do là nhiều cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ như các siêu thị,khách sạn,nhà hàng lớn cũng chưa sẵn sàng hợp tác với ngân hàng về thanh toán thẻ. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan, chúng ta phải thừa nhận một thực tế: việc phát triển các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt rất chậm. Mặc dù các ngân hàng mở nhiều dịch vụ, nhưng những dịch vụ này chưa tác động tích cực đến thanh toán không dùng tiền mặt.Cơ sở vật chất kĩ thuật của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam thiếu đồng bộ và vẫn chưa có hệ thống kĩ thuật thống nhất từ hội sở chính đến các chi nhánh. Phần mềm và chương trình ứng dụng của các ngân hàng không tương thích nhau. Sự thiếu đồng bộ về hệ thống kỹ thuật là khó khăn khi các ngân hàng liên kết với nhau để cùng phát triển dịch vụ mới. Ví dụ hiện nay có 3 liên minh thẻ nhưng chưa thực hiện kết nối với nhau: liên minh giữa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và 17 ngân hàng thương mại cổ phần, Công ty Chuyển mạch tài chính quốc gia Banknet, hệ thống VNBC (có 4 ngân hàng tham gia) làm gây nên sự lãng phí đối với nền kinh tế và khó khăn lớn trong sử dụng thẻ của khách hàng. Chất lượng, tiện ích và tính đa dạng về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chưa phong phú. Khả năng đáp ứng nhu cầu của nhiều loại đối tượng sử dụng còn hạn chế. Các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt chưa đạt được tính tiện ích và phạm vi thanh toán để có thể thay thế cho tiền mặt. Phương thức giao dịch chủ yếu tiếp xúc trực tiếp và mặt đối mặt. Để được nhận một sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, các chủ thể tham gia thường phải đến các điểm giao dịch của ngân hàng. Phương thức giao dịch từ xa, dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại như giao dịch qua internet, qua mobile, homebanking... chưa phát triển hoặc mới chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ hẹp.Ngoài ra,chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên của các ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về trình độ.Thái độ phục vụ và đạo đức nghề nghiệp còn gây nhiều bức xúc cho khách hàng. Bên cạnh đó, nhận thức của người dân về thẻ cũng như công tác bảo mật thẻ còn thấp nên dễ bị kẻ gian lợi dụng lấy tiền từ tài khoản và từ thẻ. Thời gian qua có nhiều vụ kiện giữa người sử dụng thẻ với các ngân hàng trong việc mất tiền từ tài khoản của các chủ thẻ gây tâm lý lo ngại hoang mang trong dân chúng, dẫn tới nhiều khó khăn trong công tác phát triển thẻ của các ngân hàng. 2)Tâm lý sử dụng tiền mặt của người dân Việt Nam: Hiện nay thói quen sử dụng tiền mặt vẫn còn rât lớn đối với người tiêu dùng Việt Nam.Theo số liệu của tổng cục thống kê thì tỷ trọng của tiền mặt trong lưu thông vẫn chiếm từ 20%-22% tổng khối lượng tiền tệ lưu chuyển.Một nguyên nhân của việc này là do người dân có thói quen dùng tiền mặt trong chi tiêu hàng ngày.Họ cảm thấy việc dùng tiền mặt vẫn tiện dụng hơn so với thanh toán điện tử.Môt thực tế rõ ràng là thanh toán thẻ khó có thể thay thế một cách hiệu quả trong việc mua bán trao đổi hàng ngày như đi chợ, mua xăng, trả tiền điện, nước… Thực tế cũng đã chứng minh phải cần một thời gian rất dài nữa thì người Việt Nam mới có thể từ bỏ thói quen tiêu tiền mặt.Điều đó xảy ra khi hình thành nên mạng lưới siêu thị và trung tâm mua bán rộng lớn,có mặt tại mọi vùng miền.Bạn thử tưởng tượng khi trên đường đi làm về tiện thể mua một chút đồ ăn và đồ tiêu dùng chỉ trị giá một vài chục nghìn thì liệu có thể thanh toán bằng credit hay debit card được hay không .Hơn nữa tại Việt Nam hiện nay chỉ có rất ít các siêu thị và trung tâm mua bán có lắp đặt hệ thống thanh toán thẻ,chính vì thế dù người tiêu dùng có không muốn dùng tiền mặt thì cũng gặp rất nhiều khó khăn. Một lý do khác là Việt Nam là một nước đang phát triển,thu nhập bình quân đầu người là 1024 USD,khoảng 17,4 triệu đồng(số liệu của tổng cục thống kê năm 2008) chỉ thuộc hàng trung bình kém trên thế giới.Trong khi đó chi tiêu bình quân của tại Việt Nam khoảng 735,68 nghìn đồng/người một tháng.Chính vì thu nhập và chi tiêu của người dân Việt Nam còn thấp nên nhu cầu sử dụng thẻ ATM và các hình thức thẻ khác là không cao. Ngoài ra đa số dân cư Việt Nam sống ở vùng nông thôn nên việc tiếp cận đối với các hình thức thương mại điện tử còn gặp nhiều khó khăn.Nguyên nhân là các ngân hàng không thể mở rộng các chi nhánh ở các vùng nông thôn và miền núi,trên thực tế chỉ có 4 ngân hàng quốc doanh là có số lượng chi nhánh nhiều nhất,tuy nhiên các ngân hàng này lại chậm trễ trong việc triển khai các hoạt động phát triển các hoạt động phát hành thẻ. 3)Thông tin về các hình thức thanh toán điện tử chưa đến được với đông đảo người tiêu dùng: Để trả lời câu hỏi tai sao các tác nhân trong nền kinh tế Việt Nam lại sử dụng tiền mặt quá nhiều trong chi tiêu và đầu tư chúng ta đi tìm lời giải cho câu hỏi ngược lại:tại sao có quá ít người sử dụng các hình thức thanh toán điện tử như debit card, credit card..,mặc dù sử dụng chúng mang lại cho người tiêu dụng những thuận tiện to lớn.Qua tìm hiểu của các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng và thanh toán,nguyên nhân chủ yếu là do người dân,các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế chưa hiểu việc thanh toán bằng tiền mặt là gì và nó mang lại những lợi ích nào.Trong tâm lý của họ việc thanh toán sau mỗi thương vụ mau bán theo kiểu “tiền trao cháo múc” mang lại cho họ sự an tâm cao nhất. Không nói đâu xa, ngay ở khu vực Hà Nội, nơi tập trung nhiều người dân có thu nhập khá và cao ở trong nước mà còn chưa hiểu rõ thế nào là phương thức thanh toán không dùng tiền mặt và cũng chưa thấy được lợi ích mà nó mang lại. Không chỉ người dân, mà nhiều công nhân làm trong các nhà máy cũng không mấy quan tâm đến vấn đề này. Điều đáng nói, ngay cả những người có tri thức cũng ít biết đến phương thức thanh toán không dùng tiền mặt. Đa số người dân mở tài khoản chi nhằm mục đích gửi và rút tiền còn những tính năng khác của thẻ như thanh toán khi đi mua sắm, du lịch... thì ít người biết đến và sử dụng. Người dân vẫn chưa tin vào những tiện ích của việc thanh toán bằng thẻ, và họ cho rằng thanh toán bằng tiền mặt theo kiểu "ăn chắc mặc bền" sẽ nhanh và tiện hơn. Ngay cả doanh nghiệp, đối tượng rất nhạy cảm đối với những thay đổi của xã hội cũng ít biết đến và sử dụng phương thức thanh toán này. Ông Lương Văn Sơn, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Công ty Cơ khí xây dựng nói, việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán đem lại những tác hại nhất định như không an toàn, mất thời gian đi lại để thanh toán… những không mấy doanh nghiệp nhận thức được vấn đề này. Họ thường e ngại về tính an toàn khi sử dụng hình thức thanh toán khác. Khi giao dịch, các doanh nghiệp thường yêu cầu thanh toán bằng tiền mặt theo kiểu “tiền giao, cháo múc” và còn cho biết sẽ giảm giá nếu như đối tác thanh toán bằng tiền mặt. Ngoài ra,chính vì các ngân hàng không đâỷ mạnh các hoạt động marketing,quảng cáo và phát triển thương hiệu dẫn đến khách hàng dễ nhầm lẫn các sản phẩm của các ngân hàng với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy mà họ dễ dàng từ bỏ một sản phẩm dịch vụ mang thương hiệu này để đến với một sản phẩm có thương hiệu khác,làm thiệt hại đến lợi nhuận của các ngân hàng. Bên cạnh đó,chính vì thiếu thông tin về thanh toán điện tử mà người tiêu dùng và các doanh nghiệp còn giữ thái độ e dè trong sủ dụng thẻ vì họ cho rằng sử dụng tiền mặt còn rẻ hơn sử dụng các hình thức thanh toán của ngân hàng.Trên thực tế chúng ta cũng phải thừa nhận rằng các ngân hàng thương mại hiện nay vẫn duy trì chi phí thanh toán ở mức cao đối với các loại hình thanh toán,đặc biệt là thanh toán trong hệ thống liên ngân hàng.Điều này thể hiện ngay cả trong các chi phí thấy được như:phí phát hành thẻ,phí rút tiền..hay những chi phí ẩn như chi phí hao mòn giầy…Các thủ tục hành chính cũng phần nào gây những bất tiện nhất định cho khách hàng,như thủ tục lập tài khoản,tốn rất nhiều thời gian và nhiều thủ tục cho người tiêu dùng. 4)Do hệ thống luật pháp còn nhiều thiếu sót và đặc trưng riêng của nền kinh tế đang phát triển: Thứ nhất,nền kinh tế nước ta chưa thực sự phát triển: đây là nền kinh tế xuất phát từ đặc điểm sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo quy mô nhỏ, lẻ, với loại hình này thì khả năng tiếp nhận phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt là rất khó khăn. Ngoài ra, một bộ phận rất lớn của nền kinh tế không chính thức là kinh tế ngầm liên quan tới hoạt động buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại, tham nhũng..., luồng luân chuyển tiền tệ phục vụ các hoạt động này có thể rất lớn. Đối với những người tham gia các giao dịch này, cho dù phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt có thuận tiện thì đó vẫn không phải là phương tiện thanh toán được lựa chọn, xuất phát từ nhu cầu che dấu nguồn gốc giao dịch và danh tính của đối tượng tham gia. Thứ hai,hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán chưa hoàn thiện, mặc dù trong thời gian vừa qua hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán đã cải thiện nhiều, song vẫn được đánh giá là chưa đầy đủ và đồng bộ, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến thanh toán điện tử và thương mại điện tử. Ví dụ như đối với giao dịch điện tử, chưa đủ cơ sở để các ngân hàng tổ chức triển khai các kênh giao dịch điện tử vì chưa tạo được một cơ chế tổng hợp điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử trong ngành ngân hàng, chưa có sự chấp nhận đồng bộ giao dịch điện tử, chứng từ điện tử giữa các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan (như Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan,…). Ngày 19 tháng 11 năm 2005 vừa qua Luật Giao dịch điện tử đã được Quốc hội thông qua, đây là một bước tiến mới mang tính đột phá của Việt Nam trong ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển kinh tế xã hội. Nó tạo nên một nền tảng hành lang pháp lý cho các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia sâu rộng vào các hoạt động thương mại điện tử, cung cấp các dịch vụ thanh toán cho các chủ thể tham gia kinh doanh trực tuyến trên mạng trong phạm vi toàn xã hội. Tuy nhiên, để luật này đi vào cuộc sống là cả một quá trình phấn đấu không chỉ của riêng ngành ngân hàng mà của toàn xã hội. Hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh vực thanh toán vẫn còn những điểm cần phải tiếp tục được chỉnh sửa, thay thế để có thể phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu của người sử dụng. Một số văn bản còn thể hiện nhiều bất cập và chưa phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, với tốc độ phát triển mạnh mẽ về công nghệ thông tin và sự ra đời của hàng loạt các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, nền tảng pháp lý cần được hoàn chỉnh gấp để bao hàm cả các loại hình tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không phải là ngân hàng, các tổ chức công nghệ thông tin cung ứng những sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho các ngân hàng, các tổ chức làm dịch vụ thanh toán, chẳng hạn như những công ty cung cấp giải pháp công nghệ qua mạng Internet, các công ty kinh doanh dịch vụ thẻ, các tổ chức chuyên làm dịch vụ thanh toán bù trừ...Ngoài ra còn thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành hữu quan, chính quyền địa phương các cấp trong việc tạo ra môi trường kinh tế, xã hội thuận lợi cho việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Vẫn còn nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam,đánh giá chính xác nguyên nhân sẽ giúp ta tìm ra được giải pháp cho vấn đề này. CHƯƠNG II:Thiệt hại của nền kinh tế tiền mặt 1)Thiệt hại kép của”nền kinh tế tiền mặt” đối với đời sống kinh tế-xã hội: Trong suy nghĩ của nhiều người dânViệt Nam, việc tiêu dùng tiền mặt không hề có tác động tiêu cực đến cuộc sống của họ mà trái lại đem đến cho họ sự thuận tiện trong các hoạt động thanh toán.Nhưng trên thực tế, nền kinh tế tiền mặt có rất nhiều tác động tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như tới các khía cạnh của đời sống xã hội. - Thiệt hại thứ nhất là chi phí cho việc thanh toán bằng tiền mặt từ khâu in ấn, vận chuyển, tính đếm, bảo quản, thất thoát khá tốn kém. Đối với các đồng tiền mệnh giá nhỏ, thì việc in, vận chuyển, tính đếm còn hơn nhiều.Trên thực tế,năm 2006 khi chính phủ phát hành tiền polyme và tiền xu đã tốn rất nhiều chi phí trong khi mang lại hiệu quả mang lại không cao. Tiền polyme đòi hỏi chi phí sản xuất lớn hơn và quy trình in ấn phức tạp hơn so với loại tiền cotton thông thường.Do chi phí giấy, mực, chế bản tiền polymer của Việt Nam mua từ nhà cung cấp độc quyền của công nghệ in tiền polymer của Nhà máy in tiền quốc gia của Australia (NPA),Hơn hai mươi nước trong đó có Việt Nam phải mua giấy từ hãng độc quyền là Securency, cộng thêm việc tăng chi phí lao động giờ làm (so cùng một lượng tiền giấy cotton, việc in tiền polymer tốn nhiều công lao động hơn), giá thành làm tiền polymer đắt hơn tiền cotton.Tuy nhiên tiền polyme vẫn chưa đạt tiêu chuẩn, còn nhiều nhược điểm, thiếu sót gây nên tâm lí e ngại cho người dân khi dùng tiền. Người dân cảm thấy sử dụng loại tiền mới này chưa quen và gặp nhiều bất tiện. Phải một thời gian sau đó tiền polyme và tiền xu mới dần dần phổ biến hơn trong đời sống hằng ngày.Việc phát hành tiền polyme và tiền xu không cải thiện được nhiều tốc độ lưu thông tiền tệ trong khi đó nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế tiền mặt. -Thiệt hại thứ hai có lẽ còn tốn kém hơn nhiều và không thể đo đếm được, đó là rất dễ dung dưỡng cho kinh tế ngầm, cho buôn gian bán lận, trốn thuế, cho tham nhũng tiêu cực phát sinh, phát triển và rất khó kiểm soát. Đây cũng là một trong những cản trở cho các cuộc điều tra, phát hiện các hiện tượng trên.Thông qua cuộc khảo sát vào năm 2003, kết quả cho thấy:tại 750 doanh nghiệp Việt Nam ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam thì các doanh nghiệp tư nhân có trên 500 công nhân có khoảng 63% số giao dịch của họ được tiến hành qua hệ thống ngân hàng; những doanh nghiệp có ít hơn 25 công nhân thì tỷ lệ này là 47%; với doanh nghiệp nhà nước mới chỉ hơn 80% giao dịch được thực hiện qua ngân hàng; hầu hết các doanh nghiệp cả nhà nước lẫn tư nhân đều trả lương bằng tiền mặt. Tại các hộ kinh doanh thì 86,2% số hộ kinh doanh vẫn chi trả hàng hoá bằng tiền mặt; 75% số hộ kinh doanh chi trả dịch vụ bằng tiền mặt; 72% số hộ kinh doanh tư nhân nộp thuế bằng tiền mặt; Nền kinh tế tiền mặt là một môi trường tốt cho các hoạt động kinh tế ngầm diễn ra và phát triển. Bởi lẽ trong nền kinh tế mà hoạt động thanh toán chủ yếu thông qua tiền mặt thì việc quản lý các luồng tiền hay các hoạt động kinh doanh, đầu tư gặp rất nhiều khó khăn. Các nhà quản lý không thể nắm hết thông tin về những luồng tiền đi vào đi ra hay những giao dịch diễn ra hằng ngày.Tại Việt Nam tình trạng lừa đảo trong kinh doanh và trốn thuế đang rất phổ biến đặc biệt nạn tham nhũng đã trở thành quốc nạn.Có một số công chức nhà nước lợi dụng chức vụ quyền hạn nhận hối lộ và tiếp tay cho những hoạt động phi pháp. Trên thực tế cơ quan điều tra còn gặp nhiều trở ngại để đưa những hiện tượng này ra ánh sáng. Lý do là vì thu nhập của các công chức nhà nước chưa hoàn toàn được minh bạch hoá.Nhiều người trong số họ chưa có tài khoản tiền gửi ở ngân hàng nên những thu nhập thêm ngoài tiền lương không được công khai về con số cũng như nguồn gốc. Trong lĩnh vực kinh tế ngầm còn có hoạt động rửa tiền gây thất thoát lớn cho nền kinh tế. Vấn đề này sẽ được đề cập kĩ hơn ở phần sau của bài tiểu luận. - Thiệt hại thứ ba là khó kiểm soát chính xác thu nhập để thực hiện Luật Thuế thu nhập đối với cá nhân có thu nhập cao. Đại đa số dân cư, công chức, viên chức thuộc chính phủ, các lao động của các doanh nghiệp chưa tiếp cận với các phương tiện và dịch vụ thanh toán vì hệ thống thanh toán điện tử chưa thực sự đồng bộ và hoàn thiện, chưa đáp ứng được nhu cầu thanh toán. Việc kiểm soát chính xác thu nhập của từng người dân là bất khả thi. Vì thế khó có thể định được mức thuế thu nhập cho những người có thu nhập cao. Ở Việt Nam, tình trạng những người có thu nhập cao không công khai thu nhập thực tế của mình để trốn thuế đang diễn ra rất phổ biến. -Thiệt hại thứ tư mà "nền kinh tế tiền mặt" gây ra là chưa bảo đảm cho sự an toàn của đồng tiền mỗi khi thanh toán, vận chuyển, bảo quản..., kể cả đối với các cơ quan, doanh nghiệp, người sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng. Đã có không ít các vụ thụt két, cướp tiền của người đi lĩnh tiền hay nộp tiền vào ngân hàng; tạo thuận lợi cho tình trạng rửa tiền.... Tất cả các giao dịch từ mua bán những hàng hoá có giá trị nhỏ đến những hàng hoá có giá trị khổng lồ đều thông qua tiền mặt. Những giao dịch lớn lên tới hàng trăm triệu đồng hay hàng tỉ đồng thì việc giao dịch như thế liệu có đảm bảo an toàn hay không? Chính từ điều này đã tạo cơ hội cho các phần tử xấu thực hiện những phi vụ cướp tiền, ảnh hưởng không tốt tới trật tự an toàn xã hội và gây tâm lý hoang mang cho người dân.Người giữ nhiều tiền mặt khi đi trên đường phố cũng không an toàn. Trong nền kinh tế tiền mặt hoạt động rửa tiền cũng được dung dưỡng phát triển làm lãng phí nguồn lực kinh tế của xã hội đồng thời làm sai lệch các thống kê của nền kinh tế. 2.Tình trạng rửa tiền trong nền kinh tế tiền mặt. -Khái niệm rửa tiền: Rửa tiền là việc biến đổi thu nhập phi pháp thành tài sản mà các cơ quan công quyền không thể truy ra nguồn gốc phi pháp ấy. Rửa tiền không phải là một hiện tượng mới. Theo nhiều sử gia, thương nhân Trung Quốc đã biết “rửa tiền” hơn ba ngàn năm trước để tránh thuế của triều đình. Tuy nhiên, hoạt động này đã bùng nổ với toàn cầu hóa, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng về kinh tế và xã hội, đặc biệt ở các nước đang phát triển hoặc chuyển tiếp. Có nhiều hình thức cũng như địa chỉ rửa tiền được giới tội phạm quốc tế chọn lựa. Những công ty ma, những sòng bạc, nhà hàng, tiệm kim hoàn, đại lý mua bán xe ô tô, các nhà môi giới tác phẩm nghệ thuật, các hoạt động xuất nhập khẩu...đều là những địa chỉ rửa tiền quen thuộc. Tuy nhiên, quân cờ được ưu chuộng nhất vẫn là ngân hàng Thuỵ Sĩ, với chất lượng dịch vụ tốt và nguyên tắc tôn trọng bí mật khách hàng nổi tiếng vẫn được xem là điểm đến tốt nhất của các ông trùm, của các tổ chức tội phạm quốc tế, tuy rằng ngay từ thập niên 1980, nhà cầm quyền Thuỵ Sĩ và các ngân hàng đã nhận thức được mối nguy hiểm bị các tổ chức tội phạm quốc tế lợi dụng và do đó đã xây dựng các kênh thông tin và khai các mối liên lạc hợp tác chặt chẽ với các cơ quan phòng chống rửa tiền quốc tế. -Những người cần rửa tiền: Có thể xếp những người rửa tiền (ngoài các tổ chức khủng bố, một hiện tượng tương đối mới) làm ba nhóm: Những người buôn lậu (ma túy, vũ khí, lao động bất hợp pháp…). Những người tham nhũng. Những người muốn tránh thuế, nói chung là những người muốn giữ kín thu nhập thật sự (dù là hợp pháp) của mình.  Tiền bẩn có thể từ các doanh nghiệp làm ăn công khai, chẳng hạn khi họ chuyển tiền từ nước này sang nước khác để tránh thuế. Có hai phương pháp để làm việc này. Một là khai gian giá trị những dịch vụ mà bản chất là hợp pháp. Hai là khai (như trong hóa đơn) một dịch vụ hoàn toàn không có (kể cả việc lập công ty ma). Trong các nguồn tiền cần rửa thì có lẽ nguồn kinh doanh là phản ánh tính toàn cầu hóa nhiều nhất, mà một trong những biểu hiện là việc khai man giá chuyển giao (transfer price) để tránh thuế của các công ty xuyên quốc gia. -Thực trạng rửa tiền ở Việt Nam: Theo nhận định của Thượng tướng Lê Thế Tiệm Uỷ viên TW Đảng, thứ trưởng Bộ Công an: Tội phạm rửa tiền đã xuất hiện ở Việt Nam và tiềm ẩn nhiều phức tạp. Bước đầu Cơ quan Công an Việt nam đã điều tra một số vụ việc rửa tiền thông qua việc đầu tư các loại dự án... Để ngăn chặn loại tội phạm này, chính phủ Việt Nam đã có nhiều biện pháp tích cực, trong đó đã thành lập Ủy ban quốc gia phòng chống tội phạm về rửa tiền. Thử làm một phép so sánh giữa nền kinh tế tiền mặt của nước ta với một nền kinh tế không sử dụng tiền mặt như Mỹ để thấy được nguy cơ phát sinh tình trạng rửa tiền ở một nền kinh tế tiền mặt là lớn hơn. Trong nền kinh tế của Mỹ và các nước công nghiệp phát triển khác, các giao dịch lớn chủ yếu được thực hiện qua hệ thống ngân hàng, các tổ chức và cá nhân không sử dụng tiền mặt để thực hiện các giao dịch lớn. Họ đã quen gửi tiền vào ngân hàng và giao dịch thanh toán mọi thứ qua hệ thống này. Lâu dần, các chính phủ dựa theo tập quán này để thực hiện các biện pháp giám sát, kiểm soát hữu hiệu về thuế bằng cách quy định bắt buộc mọi giao dịch lớn đều phải thực hiện qua hệ thống ngân hàng. Hậu quả là toàn xã hội trở nên xa lạ với hiện tượng dùng tiền mặt để mua nhà, mua xe... hoặc những loại tài sản khác có giá trị lớn. Việc dùng một số lượng tiền mặt lớn (vài chục ngàn, vài trăm ngàn USD) để mua bán, giao dịch đều bị xem là những hiện tượng bất thường và không được những người làm ăn đàng hoàng chấp nhận. Không người lương thiện nào dám bán một tài sản có giá trị lớn của mình để nhận lại một số tiền mặt lớn. Không người lương thiện nào giám giữ một số lượng lớn tiền mặt trong nhà. Trừ khi chứng minh được là thắng canh bạc lớn tại các sòng bạc, một người tự nhiên có trong tay một số tiền mặt vài chục ngàn, vài trăm ngàn đô la Mỹ chắc chắn sẽ bị nghi ngờ về một nguồn gốc bất minh của số tiền đó. Hầu như chỉ có giới tội phạm, các tay buôn bán ma tuý, buôn lậu vũ khí mới có trong tay những khoản tiền mặt lớn như thế. Ở các nước này, đồng tiền mặt, với số lượng lớn và tập trung được xem là đã bị nhuộm bẩn. Ngược lại, trong những nền kinh tế đang phát triển, trong đó có Việt Nam, tiền mặt là phương tiện thành toán phổ biến nhất. Không chỉ tiền mặt bản xứ, vàng, đô la Mỹ cũng được sử dụng rộng rãi trong việc mua bán các loại hàng hoá, tài sản có giá trị lớn. Việc mua bán các tài sản, hàng hoá như nhà cửa xe cộ, đất đai với giá trị tương đương hàng tỉ đồng, hàng trăm, hàng ngàn lượng vàng, hàng trăm ngàn USD không phải là chuyện hiếm.Các giao dịch như thế đều được xã hội mặc nhiên thừa nhận, hơn nữa còn tỏ ra tiện lợi, nhanh chóng Vì thế hoạt động rửa tiền được dung dưỡng và phát triển.Theo luật, đồng bạc do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành có hiệu lực thanh toán không hạn chế trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nhà nước cũng chưa có quy định nào về việc hạn chế thanh toàn tiền mặt cho các giao dịch có giá trị lớn. Đồng tiền mặt, do vậy, đã hợp pháp và “sạch” ngay từ khi nó còn ở ngoài hệ thống ngân hàng. Một khi nó đã được sạch ngay từ khi nằm ngoài hệ thống ngân hàng, vậy cần gì phải “rửa” nó bằng cách đưa vào trong ngân hàng để rồi có thể bị “lộ tẩy”? -Hậu quả của tình trạng rửa tiền và chính sách phòng chống: Sự phân bố tài nguyên do rửa tiền không chỉ theo tín hiệu lợi nhuận, mà phần lớn là để trốn tránh luật pháp. Hoạt động rửa tiền vừa lãng phí nguồn lực kinh tế của xã hội (vào các hoạt động tội phạm sinh ra tiền bẩn, thay vì vào các hoạt động sản xuất thật sự hữu ích), vừa bóp méo sự phân bố các nguồn lực ấy. Ngoài những ảnh hưởng về phân bố tài nguyên, luồng tiền bẩn cũng sẽ làm sai lệch các thống kê kinh tế. Ngoài ra, ảnh hưởng của mỗi loại tiền bẩn có khác nhau (chẳng hạn tiền bẩn do tham nhũng có ảnh huởng khác tiền bẩn do buôn lậu). Thiếu những con số chính xác, tất nhiên là chính sách kinh tế (nhất là về tiền tệ, như việc điều chỉnh lãi suất) sẽ không thể đúng liều lượng và hữu hiệu được. Tiền bẩn và hoạt động rửa tiền cũng ảnh hưởng sâu sắc đến phân bố thu nhập (tạo bất công) và làm chao đảo sự tín nhiệm của xã hội vào các thị trường tài chính. Nhìn từ quan điểm tăng trưởng vĩ mô, có thể đây là tai hại nguy hiểm nhất. Biện pháp chống rửa tiền trong nền kinh tế: Như vậy, nếu với mục tiêu chống rửa tiền, biện pháp giám sát các lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng ở một mức nhất định có thể chỉ ngăn chặn được phần ngọn mà chưa đánh thẳng vào phần gốc, chưa kể có thể gây ra những tác động phụ không mong muốn đối với những người gửi tiền lương thiện nhưng ngại phiền phức và cả đối với hệ thống ngân hàng nước ta đang lỗ lực thu hút nguồn tiền mặt....Việc phân biệt tiền sạch, tiền bẩn cho mục tiêu chống rửa tiền cần phải được thực hiện ngay từ các giao dịch ngoài hệ thống ngân hàng. Chính các giao dịch có giá trị lớn ngoài hệ thống ngân hàng mới cần được giám sát và kiểm soát trước nhất. Việc mua nhà, mua đất, mua xe muốn được đóng thuế trước bạ hợp lệ, tức là muốn được công nhận hợp pháp, phải được thanh toán thông qua ngân hàng. Điều này sẽ khuyến khích việc dân chúng gửi tiền vào và thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Cần phải xây dựng cho cộng đồng xã hội tập quán thanh toán không dùng tiền mặt. Một hệ thống giám sát phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm rửa tiền, chỉ có thể trở nên hữu hiệu nếu được xây dựng trên nền móng đó. Chính điều đó mới quyết định kết quả thành công của biện pháp chống rửa tiền, cho dù đó sẽ phải là một nỗ lực lâu dài. Nền kinh tế tiền mặt, từ lâu vốn được xem là thiên đường của bọn rửa tiền, sẽ chỉ kết thúc vai trò đó khi nó không còn là một nền kinh tế tiền mặt. CHƯƠNG III:GIẢI PHÁP CHO NỀN KINH TẾ TIỀN MẶT 1.Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hệ thống ngân hàng -Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý bao gồm các luật,quy định liên quan đến các chủ thể tham gia thanh toán nói chung trong nền kinh tế cũng như hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Định hướng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý bao gồm :phân định rõ quyền hạn trách nhiệm của các bên tham gia hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ,trên cơ sỏ đó kiểm soát rủi ro pháp lý thích hợp, đảm bảo phù hợp với các chuẩn mực thông lệ quốc tế đựoc các định chế tài chính,tiền tệ quốc tế khuyến nghị hoặc đựơc áp dụng chung ở nhiều quốc gia khác,tạo lập một môi trường cạnh tranh công bằng, đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường và tiếp cận dịch vụ ,hình thành cơ chế bảo vệ khách hàng hữu hiệu và đảm bảo quy trình giải quyết tranh chấp hiệu quả khách quan ,hạn chế thanh toán bằng tiền mặt đối với những đối tượng có sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm tăng khả năng kiểm soát việc sử dụng nguồn ngân sách. -Rà soát,bổ sung,chỉnh sửa cơ chế chính sách ,các văn bản liên quan đến hoạt đọng thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phù hợp với lộ trình thực hiện những cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tề,ngân hàng như Hiệp định thương mại Việt Mỹ ( BTA ),Hiệp định AFTA hiệp định khung về thương mại,dịch vụ ASEAN (AFAS) và những cam kết với Tổ chức thương mại thế giới (WTO) -Xây dựng,sửa đổi bổ sung các luật,văn bản dưới luật của Chính phủ,Ngân hàng Nhà nước một cách đồng bộ,nhất quán và hoàn chỉnh về lĩnh vực thanh toán để tạo điều kiện phát triển các dịch vụ,phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, đặc biệt là các dịch vụ, phương tiện thanh toán hiện đại dựa trên việc ứng dụng công nghệ thông tin, đồng thời từng bước hạn chế thanh toán tiền mặt. +Đối với các giao dịch thanh toán từ xa qua các thiết bị điện tử như thanh toán qua điện thoại di động,Internet … hoàn thiện cơ sở pháp lý hiện hành nhằm tạo điều kiện về mặt cơ chế,chính sách cho loại hình thanh toán này phát triển. -Củng cố và phát huy vai trò của bộ máy quản lý nhà nước bắng cách tăng cường chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của bộ phận chuyên trách lập cơ chế chính sách chung để phát triển hoạt động thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước +Kiện toàn bộ máy tổ chức, nhân sự của Vụ Thanh toán.Tăng cường cán bộ có trình độ,kinh nghiệm trong lĩnh vực thanh toán , đào tạo các cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực thanh toán. +Phát huy vai trò của Hội đồng thanh toán để các thành viên trong Hội đồng có cơ hội tham gia ý kiến với Ngân hàng Nhà nước khi xây dựng chiến lược , định hướng, chính sách phát triển thanh toán cũng như trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của Ngân hàng Nhà nước. 2.Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công a.Quản lý chi tiêu trong khu vực Chính phủ bằng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt -Từng bước yêu cầu thanh toán không dùng tiền mặt với các khoản chi tiêu của chính phủ, tiến tới áp dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt đối với hầu hết các khoản chi của của những người có chức vụ, các khoản chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư xây dựng cơ bản.Phấn đấu đến cuối năm 2010, tất cả các Bộ, cơ quan ngang Bộ , các cấp chính quyền tỉnh thành phố đều thực hiện chi tiêu công bằng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt.Từ 2011 – 2020 sẽ triển khai mở rộng đến các đối tượng là Sở, Ban, ngành, các cấp chính quyền huyện, xã trên phạm vi toàn quốc. b.Trả lương qua tài khoản - Yêu cầu trả lương vào tài khoản đối với các cán bộ, công viên,viên chức làm việc trong bộ máy nhà nước,khuyến khích người lao động trong các doanh nghiệp nhận lương và chi tiêu qua tài khoản.Triển khai từ những cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có điều kiện trước,từ các thành phố lớn trước rồi mở rộng dần sau.Ngân hàng Nhà nước sẽ phối hợp với các Bộ, ngành và Uỷ ban Nhân dân tỉnh,thành phố lên kế hoạch triển khai thực hiện, đồng thời phối hợp với các ngân hàng thương mại nghiên cứu và xác định khả năng đáp ứng nhu cầu của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và lựa chọn được một số tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có khả năng. - Phấn đấu đến cuối năm 2010 tất cả các cơ quan, đơn vị hưởng lương từ ngân sách nhà nước và 70% các loại hình doanh nghiệp tại các thành phố, tỉnh đều sử dụng dịch vụ ngân hàng để trả lương cho cán bộ , nhân viên. c.Chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản . - Đưa dịch vụ ngân hàng và dịch vụ thanh toán đến các đối tượng có trình độ thấp, vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thông qua viạc chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản. + Tạo thuận lợi nhất cho đối tượng khi rút tiền, chuyển tiền, thanh toán các dịch vụ (điện thoại, điện nước,…)và mua sắm hàng hoá.Trong trường hợp đối tượng già yếu, đi lại khó khăn thì đơn vị thực hiện dịch vụ này có trách nhiệm chi trả bằng tiền mặt tại nhà cho đối tượng. + Không thu bất kỳ một khoản tiền nào của đối tượng khi thực hiện phương thức chi trả này. + Đảm bảo các thủ tục quyết toán chi trả theo quy định. - Bộ Lao động – Thưong binh và xã hội phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính triển khai ở những nơi có điều kiện trước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng . - Lựa chọn tổ chức thực hiện dịch vụ thanh toán đáp ứng đầy đủ, tốt nhất các mục tiêu, yêu cầu của việc chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản. 3.Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực doanh nghiệp. - Trang bị kiến thức, thông tin cho doanh nghiệp về những đặc điểm, tiện ích, rủi ro của từng loại phương tiện thanh toán và dịch vụ thanh toán, trên cơ sở đó các doanh nghiệp lựa chọn các đối tượng, phạm vi và chủng loại của sản phẩm dịch vụ thanh toán phù hợp với nhu cầu của mình;Ngân hàng và các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán tạo thuận lợi trong việc mở tài khoản, tạo ra sự gắn kết giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán với các chủ thể kinh doanh trong việc cung cấp dịch vụ trọn gói, phát triển các loại hình thanh toán điện tử… - Yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt trong phạm vi, đối tượng nhất định ; có chính sách cụ thể đối với chủ thể kinh doanh để khuyến khích thanh toán qua ngân hàng. - Tập trung phát triển các dịch vụ thanh toán điện tử, tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển thương mại điện tử. - Nghiên cứu xác định nhu cầu và khả năng thanh toán không dùng tiền mặt của các doanh nghiệp, trước mắt tập trung vào các tập đoàn và các Tổng công ty lớn và tiến hành trên 3 thành phố lớn là Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh. - Nghiên cứu để ban hành quy đinh về các giao dịch thanh toán giữa các doanh nghiệp với doanh nghiệp phải thực hiện qua ngân hàng trên phạm vi toàn quốc; hầu hết các trung tâm thương mại, các cửa hàng lớn ở thành thị đều phải có thiết bị chấp nhận thẻ: phát triển thanh toán điện tử phù hợp với kế hoạch tổng thể phát triển thưong mại điện tử. 4.Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư. a.Phát triển các phương tiện, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt hiện đại theo hướng tăng số lượng, chất lượng và chủng loại vủa các sản phẩm dịch vụ thanh toán với độ tin cậy cao và với giá cả phù hợp; nghiên cứu và tập trung phát triển các sản phẩm dịch vụ có hàm lượng trí tuệ và công nghệ cao, phù hợp với sự phát triển công nghệ thông tin;xây dựng quy trình nghiệp vụ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong thanh toán; ứng dụng các phần mềm chuẩn mua của nước ngoài,xúc tiến xây dựng các phần mềm trong nước có tính mở và dễ sử dụng; tạo lập và phát triển các chuẩn mực chung phù hợp với thông lệ quốc tế. - Cải thiện các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt truyền thống như séc, lệnh chi, nhờ thu theo hướng thúc đẩy nhanh tốc độ thanh toán, đơn giản hoá thủ tục sử dụng, đảm bảo tính an toàn và bảo mật trên cơ sở ứng dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại trong khâu xử lý giao dịch. - Thực hiện các biện pháp để tăng tính an toàn và bảo mật trong việc sử dụng các phương tiện thanh toán, đặc biệt là các phương tiện thanh toán địên tử hiện đại như thẻ thanh toán, như yêu cầu áp dụng các chuẩn mực kỹ thuật có độ an toàn cao đối với các nhà cung ứng dịch vụ thanh toán, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan theo hướng rõ ràng, minh bạch về quyền và trách nhiệm của các bên, đề xuất xây dựng các tổ chức chuyên trách tập hợp và cung cấp thông tin liên quan đến các phương tiện thanh toán bị mất cắp, bị gian lận…;tăng cường vai trò giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các phương tiện thanh toán và hệ thống thanh toán.Hiện nay thẻ tín dụng đang hướng đến chuẩn EVM (sử dụng thẻ CHIP) trong thanh toán, loại thẻ này tích hợp nhiều công nghệ bảo mật tiên tiến. - Tạo lập được sự hiểu biết và cung cấp thông tin cơ bản và đầy đủ về những lợi ích, chi phí cũng như rủi ro gắn với mỗi loại phương tiện hoặc dịch vụ thanh toán nào đó, theo đó khách hàng tự do tiếp cận và lựa chọn sản phẩm dịch vụ và phưong tiện thanh toán phù hợp với nhu cầu của mình. - Khuyến khích,tạo điều kiện cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán tập trung đầu tư cơ sỏ hạ tầng máy móc thiết bị phục vụ cho các giao dịch thanh toán hiện đại, tập trung chủ yếu cho dịch vụ thẻ và tạo điều kiện phat triển thanh toán qua internet, mobile.Xu hướng này sẽ cho phấp các ngân hàng có thẻ cung cấp 24/7 ngày các dịch vụ cơ bản như chuyển tiền, thanh toán,kiểm tra và truy vấn thông tin cho mọi khách hàng không giới hạn về thời gian và không gian. Tiếp cận nhanh chóng với công nghệ hiện đại trên thế giới theo cách thức “đi tắt, đón đầu’. Trong quá trình đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại cần gắn với công nghệ, chuẩn mực và các quy định có tính nguyên tắc phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. - Gia tăng các tiện ích đi kèm dịch vụ,phương tiện thanh toán hiện đại, dần thay thế dịch vụ đơn mục đích bằng những dịch vụ đa mục đích(như sử dụng thẻ cho nhiều mục đích thanh toán, chi trả hoá đơn định kỳ, vấn tin, rút tiền mặt…thay cho việc sử dụng thẻ chỉ để rút tiền mặt). b.Phát triển mạng lưới chấp nhận các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt -Tăng cường chấp nhận các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong thanh toán của các tổ chức, cá nhân bằng việc tăng cường mạng lưới chấp nhận phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt theo tiến trình phát triển của hệ thống thương mại dịch vụ để hỗ trợ các giao dịch thanh toán mặt đối mặt, cũng như giao dịch thanh toán từ xa trong thương mại điện tử phục vụ cho các giao dịch thanh toán mua hàng hoá, dịch vụ không mang tính định kỳ tại khách sạn, nhà hàng, siêu thị...Phát triển mạng lưới chấp nhận thanh toán không dùng tiền mặt tại điểm bán:Tập trung phát triển mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ ở hệ thống phân phối hàng hoá bán lẻ hiện đại (bao gồm các siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tự chọn …), ngành dịch vụ khách sạn, nhà hàng, hàng không. Đến năm 2010, 70% trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn và 60% nhà hàng, khách sạn lớn tại các tỉnh, thành phố trọng điểm sẽ trở thành đơn vị chấp nhận thẻ và các phương tiện thanh toán hiện đại. Từ năm 2011 đến năm 2020 triển khai mở rộng trên phạm vi toàn quốc. - Phát triển các thoả thuận thanh toán cho các giao dịch thanh toán định kỳ qua tài khoản như thanh toán tiền điện, nước, phí dịch vụ công cộng, bảo hiểm…Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán tiếp cận trực tiếp tới các cơ quan chủ quản các ngành nêu trên để phát triển thanh toán bằng uỷ nhiệm thu. - Tại các cửa hàng nhỏ nên lựa chọn lắp đặt POS. POS có thể chấp nhận thanh toán cả thẻ ATM trong nước và thẻ quốc tế, như vậy khi các cửa hàng được trang bị hầu hết hệ thống này thì khách hàng có điều kiện để lựa chọn phưong thức thanh toán bằng thẻ nhanh chóng và tiện lợi.Hoặc với dịch vụ Mobile Banking khách hàng có thể chuyển khoản thanh toán cho người bán ngay tại quầy không cần thiết bị chấp nhận thẻ và người bán có thể ngay lập tức kiểm tra giao dịch thanh toán. 5.Phát triển các hệ thống thanh toán a.Hoàn thiện và phát triển hệ thống thanh toán liên ngân hàng - Thiết kế mở rộng phạm vi triển khai giai đoạn 2 Dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán do World Bank tài trợ và phát triển các hệ thống thanh toán quan trọng có tính hệ thống theo các chuẩn mực quốc tế được Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) khuyến nghị nhằm giảm thiểu rủi ro hệ thống, tăng cường hiệu quả trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Các hệ thống thanh toán liên ngân hàng và hệ thống thanh toán quan trọng khác phải được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước hoặc nguồn vay ODA, do Ngân hàng Nhà nước vận hành, quản lý và giám sát. Các hệ thống thanh toán nội bộ của từng tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cần được đầu tư và hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường dịch vụ thanh toán. - Tập trung phát triển hệ thống thanh toán liên ngân hàng vì đây là hệ thống thanh toán xương sống của nền kinh tế. Việc thiết kế mở rộng hệ thống đáp ứng nhu cầu cho các thành viên phải phù hợp với các chuẩn quốc tế áp dụng cho các hệ thống thanh toán và quyết toán. Các giải pháp phần mềm hệ thống cần đảm bảo độc lập giữa xử lý số liệu và truyền dữ liệu, đảm bảo tính bảo mật hệ thống, tích hợp dữ liệu và tính liên tục trong hoạt động… - Phát triển hệ thống ngân hàng cốt lõi của Ngân hàng Nhà nước bao gồm các module ứng dụng nhiều tiện ích, trước mắt tập trung vào module kế toán tập trung để nâng cao tính hiệu quả của hệ thống thanh toán liên ngân hàng. - Hệ thống thanh toán liên ngân hàng có giao diện với các hệ thống thanh toán bán lẻ, hệ thống quyết toán chứng khoán và ngoại hối khi những hệ thống này sẵn sàng, thực hiện quyết toán tổng tức thời và quyết toán ròng trong ngày cũng như quyết toán DVP (chuyển giao kèm thanh toán). - Hệ thống thanh toán điện tử Kho bạc Nhà nước cần được kết nối với hệ thống thanh toán liên ngân hàng để tăng tính hiệu quả và thuận tiện cho quan hệ thanh toán giữa hệ thống kho bạc và ngân hàng. - Hệ thống thanh toán của các tổ chức tín dụng cần được kết nối với hệ thống thanh toán liên ngân hàng qua cổng giao diện. - Nâng cấp liên tục hệ thống thanh toán liên ngân hàng để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế đến năm 2020, thực hiện đánh giá hệ thống thanh toán liên ngân hàng theo định kỳ để có giả pháp nâng cấp và mở rộng hệ thống. Có thể được thực hiện dưới hình thức huy động vốn ODA và đề nghị Chính phủ đưa vào danh mục huy động vốn ODA. - Phấn đấu đến năm 2010 tất cả các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố sẽ kết nối với hệ thống thanh toán liên ngân hàng để cung cấp các dịch vụ thanh toán trên địa bàn. b.Xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ tự động phục vụ cho các giao dịch bán lẻ - Phát triển hệ thống thanh toán bán lẻ, trung tâm thanh toán bù trừ bán lẻ trên cơ sở khuyến khích sự tham gia góp vốn và vận hành của khu vực tư nhân trên cơ sở đáp ứng các quy đinh của Ngân hàng Nhà nước nhằm giảm thiểu rủi ro hệ thống và đảm bảo sự hoạt động ổn định, an toàn của hệ thống tài chính. Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện việc quản lý và giám sát các hệ thống này. - Thiết lập Trung tâm Thanh toán bù trừ tự động Quốc gia(TTBTQG) tại Hà Nội thực hiện xử lý bù trừ hối phiếu/séc, vận hành hệ thống Bank Giro và giao diện với trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất. Trung tâm TTBTQG sẽ kết nối trực tiếp và có giao diện với hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vận hành.Trung tâm TTBTQG đóng vai trò là trung tâm xử lý thông tin thanh toán bù trừ và gửi lệnh TTBT về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để Ngân hàng Nhà nước thực hiện quyết toán giao dịch cho các ngân hàng thông qua tài khoản của các ngân hàng mở tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông qua hệ thống thanh toán liên ngân hàng. c.Xây dựng trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất Các ngân hàng hoặc các nhà cung cấp dịch vụ cần triển khai các hệ thống gồm: POS, máy ATM hoặc có thể là dịch vụ internet banking.Xây dựng trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất với một thương hiệu thống nhất, kết nối các hệ thống máy ATM của các liên minh thẻ hiện hành thành một hệ thống thống nhất nhằm tăng tính thuận tiện cho người sử dụng dịch vụ thẻ ngân hàng, đảm bảo thẻ do một ngân hàng phát hành có thể sử dụng ở nhiều máy ATM của các ngân hàng khác, tạo điều kiện cho các ngân hàng nhỏ với tiềm lực tài chính hạn chế có thể tham gia vào thị trường thẻ, đồng thời giảm nhẹ gánh nặng đầu tư hạ tầng kỹ thuật cho các ngân hàng lớn.Cần có thời gian và đầu tư thích đáng,tránh lãng phí, cần có quy hoạch thông qua chính sách tránh tại 1 điểm có 3 đến 5 máy ATM chẳng hạn. Hiện nay các ngân hàng đang khẩn trương tiến hành các kết nối thông qua các công ty trung gian làm dịch vụ chuyển mạch như Smartlink, Banknet, trong 1-2 năm nữa hệ thống này sẽ hoàn thiện. d.Kết nối hệ thống thanh toán bù trừ và quyết toán chứng khoán với hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc gia - Hoàn thiện cơ chế thanh toán bù trừ và quyết toán chứng khoán theo hướng kết nối giữa hệ thống quyết toán chứng khoán với hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc gia,nhằm đảm bảo cơ chế chuyển giao gắn với thnah toán, giảm rủi ro trong quyết toán các giao dịch trên thị trường chứng khoán khi mà các giao dịch này phát triển với quy mô lớn trong tương lai, đồng thời đảm bảo hiệu quả cho hoạt động thị trường mở, cũng như các giao dịch tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước. - Thực hiện kết nối giữa hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc gia với hệ thống thanh toán bù trừ và quyết toán chứng khoán, tạo mối liên kết trực tiếp giữa Sở Giao dịch với Trung tâm lưu ký chứng khoán nhằm đảm bảo sự linh hoạt, chủ động và hiệu quả trong hoạt động cho vay tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước, góp phần tăng hiệu quả trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia trên cơ sở thúc đẩy tính khả dụng và tốc độ luân chuyển của các giấy tờ có giá được cầm cố cho hoạt động tái cấp vốn. - Hoàn thiện hệ thống thanh toán bù trừ và quyết toán chứng khoán (tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, cổ phiếu được niêm yết…). 6.Giải pháp hỗ trợ để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt a.Thông tin,tuyên truyền và phổ biến kiến thức về thanh toán không dùng tiền mặt Tuyên truyền, quảng bá, phổ biến kiến thức, cung cấp thông tin để các tổ chức, cá nhân nắm bắt được các tiện ích và hiểu rõ về các rủi ro, biện pháp bảo đảm an toàn trong việc sử dụng các phương tiện dịch vụ thanh toán qua ngân hàng,trên cơ sở đó lựa chọn phương tiện, dịch vụ thanh toán phù hợp. Tuyên truyền trên báo chí, đặc biệt là những tớ báo lớn. Tuyên truyến qua đài phát thanh và truyền hình: lựa chọn chương trình và thời gian thích hợp để thông tin tuyên truyền tới nhiều người nhất. Tuyên truyền trên mạng internet, nhất là những website có số lượng người truy cập nhiều nhất và thường xuyên nhất. b.Thúc đẩy sự phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt bằng các chính sách ưu đãi về thuế, phí trong lĩnh vực thanh toán, giá thuê đất,thuê mặt bằng cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán c.Khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt bằng chính sách thuế giá trị gia tăng. d.Tăng cường nguồn nhân lực để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt - Tăng cường cán bộ có trình độ, kiến thức, năng lực vào các bộ phận chịu trách nhiệm lập chính sách và đề xuất chiến lược, định hướng phát triển hoạt động thanh toán của nền kinh tế, về số lượng và chất lượng; - Có chương trình đào tạo cơ bản và đào tạo chuyên sâu,nhằm tạo ra các chuyên gia trên lĩnh vực thanh toán. Đối với các chương trình đào tạo cơ bản có thể tiến hành ngay trong nước; tuy nhiên với những kiến thức chuyên sâu cần tổ chức đào tạo ở nước ngoài để học tập kinh nghiệm. - Đào tạo kiến thức về công nghệ thông tin nói chung và các công nghệ ứng dụng trong thanh toán nói riêng cho các cán bộ làm việc trong lĩnh vực thanh toán. - Phối hợp với các tổ chức quốc tế mời chuyên gia giảng dạy và đào tạo kiến thức về từng lĩnh vực của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. - Phối hợp với các ngân hàng thương mại, lập chương trình khảo sát và thực tập tại các ngân hàng thương mại nhằm nâng cao kiến thức thực tiễn cho các cán bộ lập chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. - Trang thiết bị tin học cho phép truy cập internet cho các đội ngũ cán bộ chuyên sách trong bộ máy quản lý nhà nước nhằm tạo điều kiện tiếp cận thông tin,trên cơ sở đó nắm bắt được xu thế phát triển của hoạt động thanh toán trên thế giới phục vụ cho việc lập chiến lược, chính sách phát triển thanh toán. e.Giải pháp về tài chính phục vụ phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. - Huy động nguồn vốn trong nước, kết hợp nguốn vốn ODA và vay thương mại trên thị trường vốn quốc tế để đầu tư, nâng cấp, phát triển các hệ thống thanh toán cũng như phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. - Nguồn vay ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển nhà nước để đầu tư máy móc kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt của các tổ chức cung ứng dịch vụ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1)Website ngân hàng nhà nước Việt Nam:Khởi động đề án không dùng tiền mặt trên quy mô lớn ( 2)Website ngân hàng nhà nước Việt Nam:Thoát khỏi nền kinh tế tiền mặt( 3) 4) 5)Đề án thanh toán không dùng tiền mặt(theo quyết định của thủ tướng chính phủ số 291/2006/QĐ-TTg ngày 29 tháng 12 năm 2006) 6)Monetary economics From Wikipedia, the free encyclopedia( 7) The Federal Reserve System’s Influence on Research in Monetary Economics- LAWRENCEH.WHITE* 8)Một số bài viết phân tích khác trên Internet.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam.doc
Luận văn liên quan