Nền hành chính nhà nước là bộ phận trọng yếu của hệ thống chính trị của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong xã hội. Quản lý hành chính nhà nước là biểu hiện quan trọng và tập trung nhất của toàn bộ hoạt động của nhà nước trong qua trình phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Đối tượng quản lý hành chính nhà nước là toàn dân, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, tinh thần, tư tưởng,.
Chính vì tầm quan trọng đó đã đòi hỏi phải cải cách nền hành chính nhà nước. Đó không chỉ là sự đòi hỏi từ bên ngoài đối với nền hành chính nhà nước mà còn là sự đòi hỏi của chính bản thân nền hành chính. Đó cũng chính là cách thức làm cho bộ máy hành chính nhà nước hoạt động có hiệu quả, nhằm xây dựng nền hành chính đáp ứng đòi hỏi của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển bền vững với các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Chương trình cải cách tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 ban hành kèm theo Quyết định số 136/QĐ-TTG ngày 17-09-2001 của Thủ tướng Chính Phủ đã đưa ra mục tiêu chung là: xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo cuả Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Theo quyết định số 94/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 4 năm 2006 phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính giai đoạn 2006-2010 cũng có nội dung cải cách như: cải cách về thể chế, cải cách về tổ chức, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công, hiện đại hoá nền hành chính nhà nước.
Tuy nhiên, dù bằng bất cứ hình thức hay phương pháp nào cũng đều nhằm mục đích làm cho bộ máy hành chính nhà nước hoạt động có hiệu quả, nhằm xây dựng nền hành chính đáp ứng đòi hỏi của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển bền vững với các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Do phạm vi của tiểu luận rất rộng lớn và phức tạp, trình độ nhận thức cũng như về thời gian còn hạn chế, mặc dù đã có nhiều cố gắng song không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự đóng góp và nhận xét chân thành quý báu của các Thầy Cô và các bạn học viên, tiểu luận này hoàn thiện hơn.
Cũng thông qua tiểu luận luận này, xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các Thày cô, các bộ phận quản lý đào tạo của Học Viện Hành chính Quốc gia cũng như của Trường Đại học Lâm nghiệp đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành khoá học.
19 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 2262 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tài phán hành chính trong quản lý hành chính Nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống hành chính nhà nước là tổng thể các cơ cấu tổ chức và định chế nhà nước có chức năng thực thi quyền hành pháp, quản lý công việc hàng ngày của nhà nước. Nó được tạo thành bởi một hệ thống các pháp nhân có quyền lập quy, có thẩm quyền ra những quyết định hành chính và quản lý điều hành, tổ chức, kiểm tra các tổ chức và các hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước và của công dân. Xét về nội dung công việc của hành chính nhà nước, cần phân biệt rõ hành chính điều hành và hành chính tài phán.
Hành chính điều hành thực hiện chức năng quản lý hàng ngày dựa trên các nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Quốc hội, có nhiệm vụ và quyền hạn dự đoán tình hình, ra quyết định về mặt (kế hoạch, chính sách cụ thể, chủ trương, biện pháp, ...), tổ chức chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra. Về mặt pháp luật đó là những văn bản dưới luật để thực hiện chức năng quản lý. Về mặt chính trị là phục tùng và phục vụ chính trị, chấp hành và thực hiện những quyết định mang ý nghĩa chính trị của cơ quan có thẩm quyền. Trong việc thực hiện các chức năng quản lý đó, hành chính điều hành phải thể hiện, giữ gìn, phát huy đầy đủ bản chất của một nhà nước dân chủ, pháp quyền, tôn trọng các quyền con người và quyền công dân đã được quy định trong pháp luật. Mọi sự vi phạm quyền con người và quyền công dân, dưới dạng hành động thực tế, trái với pháp luật nói chung và luật hành chính nói riêng đều xem là hành vi bất hợp pháp.
Trong tiểu luận này tôi xin được đưa ra một tình huống để minh hoạ cho nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước Việt nam, phân biệt hành chính điều hành và hành chính tài phán để làm rõ công việc của hành chính nhà nước.
Vì thời gian và trình độ có hạn, tiểu luận này không thể tránh khỏi những hạn chế và sai sót. Rất mong nhận được sự đóng góp và nhận xét chân thành quý báu của các Thầy Cô, các chuyên gia và các bạn học viên, để tôi hoàn thiện hơn tiểu luận này.
I. TÌNH HUỐNG
1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống:
Xuất phát từ nguyện vọng chung là muốn có điện sinh hoạt, ngày 17 tháng 12 năm 1997 các hộ nông dân thuộc xã Đa Lợi và xã An Nĩnh – huyện Chí Linh – tỉnh Hải Dương đã thống nhất thành lập Ban điện và cử 5 người có trách nhiệm giao dịch, liên hệ với các cơ quan chức năng và ngành điện lực thuộc khu vực nói trên. Trong ban đại diện có ông Trần Văn Quân làm tổ trưởng và bà Nguyễn Thị Hạnh làm thủ quỹ, đều trú tại xã An Nĩnh, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Sau khi ban đại diện được thành lập, các xã đã họp và các hộ dân đã tự nguyện đóng góp mỗi hộ 200.000 đồng để Ban điện có kinh phí sử dụng giao dịch, liên hệ với các cơ quan chức năng làm đường dây tải điện sinh hoạt cho các hộ dân. Từ cuối năm 1997 đến năm 1999, các xã nói trên đã thu được số tiền đóng góp tự nguyện của các hộ dân là 42.800.000đồng. Các hộ dân đã nhất trí giao số tiền này cho Ban điện quản lý, sử dụng số tiền trên cho các chi phí trong các quan hệ giao dịch, liên hệ với các cơ quan chức năng để sớm có điện cho hộ dân sử dụng; nếu không thực hiện được thì Ban điện phải hoàn trả 100% số tiền các hộ dân đã đóng góp.
Thực hiện cam kết nói trên, Ban điện làm đơn, tờ trình và đã giao dịch, làm việc với các cơ quan chức năng ở địa phương và ngành điện Trung ương để xin xây dựng đường dây tải điện. Do vậy đến dịp tết năm 1999, đường dây điện đã được xây dựng xong, các hộ dân ở hai xã nói trên đã có điện thắp sáng, đáp ứng nguyện vọng của các hộ dân.
2. Diễn biến của tình huống:
Đến năm 2000, do khiếu nại của một số người ở hai xã nói trên về việc Ban điện sử dụng số tiền đóng góp của các hộ trong hai xã không đúng nguyên tắc, ngày 05-12-2000, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân huyện Chí Linh ra Quyết định số 1068/QĐ - CT chuyển hồ sơ vụ khiếu kiện đến Công an huyện Chí Linh để tiến hành điều tra theo pháp luật. Ngày 12-11-2001, Công An huyện Chí Linh có Báo cáo kết thúc điều tra số 311 với nội dung: căn cứ vào Quyết định số 94/1998/BTC ngày 30 tháng 06 năm 1998 của Bộ Tài Chính quy định về chế độ công tác phí, Công an huyện Chí Linh chỉ chấp nhận các khoản chi sau đây theo chế độ công tác phí hiện hành đối với cán bộ, viên chức được cử đi công tác:
- Tiền đi lại ngủ nghỉ của hai ông Quân và bà Hạnh là 10.700.000đồng .
- Tiền mở đường để lắp đặt đường dây nhánh là: 12.350.000 đồng
Tổng cộng số tiền hai khoản trên là: 23.050.000 đồng.
Số tiền còn lại là 19.750.000 đồng, Công An huyện Chí Linh không chấp nhận vì không có đủ chứng từ hợp lệ theo quy định của Bộ tài Chính.
Ngày 22 tháng 8 năm 2001, Công An Huyện Chí linh kết hợp với Uỷ Ban nhân dân huyện Chí Linh tổ chức cuộc họp với các hộ dân thuộc hai xã Đa Lợi và An Nĩnh. Tại cuộc họp này, đại diện của 210/214 hộ tham gia họp biểu quyết đồng ý không thu hồi khoản tiền 19.750.000 đồng giao cho ông Quân và bà Hạnh sử dụng để đi liên hệ xây dựng đường dây tải điện, đại diện của 4/214 số hộ tham gia cuộc họp đề nghị thu hồi và xử lý theo pháp luật.
Ngày 27 tháng 08 năm 2001, Công An huyện Chí Linh tiếp tục tổ chức cuộc họp với các hộ dân thuộc hai xã nêu trên. Cũng tại cuộc họp này, 208/214 hộ dân tham gia biểu quyết không thu hồi số tiền đã giao cho ông Quân và bà Hạnh sử dụng để liên hệ xây dựng đường dây tải điện; đại diện của 2/214 hộ không có ý kiến, đại diện của 4/214 hộ đồng ý thu hồi để xây dựng quỹ của xã.
Căn cứ kết quả điều tra và ý kiến của nhân dân hai xã, Công an huyện Chí Linh kết luận chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Quân và bà Hạnh nên đã chuyển hồ sơ đến Uỷ ban Nhân dân huyện Chí Linh để giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày 02-01-2002, Uỷ ban nhân dân huyện Chí linh đã ra Quyết định số 01/2002/QĐ-UB thu hồi sung vào ngân sách huyện Chí Linh để đầu tư xây dựng một số công trình tập thể theo đề nghị của hai xã với tổng số tiền là 19.750.000đồng (là số tiền đóng góp xây dựng đường dây điện của nhân dân hai xa thuộc huyện Chí Linh) mà hai ông bà Quân và Hạnh bị kết luận là chi không có chứng từ theo quy định của Bộ Tài chính.
Sau khi nhận được quyết định trên của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh ngày 10-01-2002 và ngày 24-01-2002 ông Quân và bà Hạnh đã làm đơn khiếu nại. Nhưng hết thời gian giải quyết khiếu nại lần đầu mà khiếu nại không được giải quyết, nên vào ngày 15 và 16-05-2002 đã khởi kiện Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh tại Toà án nhân dân huyện Chí Linh và Toà án nhân dân huyện Chí Linh đã thụ lý vụ án.
Ngày 22-08-2002, Toà án nhân dân huyện Chí Linh đã ra Quyết định số 02/QĐ-HC đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân.
Ông Quân và bà Hạnh kháng cáo quyết định đình chỉ nói trên.
Tại Quyết định phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 22-08-2002 Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương đã huỷ Quyết định sơ thẩm số 02/QĐ-HC ngày 22-08-2002 của Toà án nhân dân huyện Chí Linh và chuyển hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân huyện Chí Linh để giải quyết lại với lý do: Toà án cấp sơ thẩm đã không xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự ...; lý do để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết không rõ ràng; việc thu thập chứng cứ không đúng nguyên tắc...
Ngày 28-11-2002, Tào án nhân dân huyện Chí Linh ra Quyết định số 03/QĐ-ĐC-HC đình chỉ việc giải quyết vụ án vì Quyết định số 01//2002/QĐ-HC ngày 02-01-2002 không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân.
Ông Quân và bà Hạnh Kháng cáo.
Tại Quyết định phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương giữ lại quyết định sơ thẩm số 03/QĐ-ĐC-HC nagỳ 28-11-2002 của Toà án nhân dân huyện Chí Linh về phần đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính với lý do: “Quyết định số 01/2002/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh bị khởi kiện không phải là loại quyết định thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án”. Ngoài ra, tại quyết định số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 Toà án nhân dân Tỉnh Hải Dương còn sửa lại quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về án phí đối với Ông Quân và bà Hạnh.
Tại Quyết định số 03/KN-AHC ngày 30-06-2003, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương và đề nghị Toà Hành chính toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng huỷ Quyết định sơ thẩm số 03/QĐ-ĐC-HC ngày 28-11-2002 của Toà án nhân dân huyện Chí Linh, Quyết định phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương, chuyển hồ sơ vụ kiện về cấp sơ thẩm xét xử từ đầu theo thủ tục chung” với các lý do chính sau:
Quan hệ tài chính giữa nhân dân hai xã trong việc liên hệ xây dựng đường dây điện với Ban điện là quan hệ dân sự; trường hợp nhân dân tự nguyện đóng góp để liên hệ làm đường điện sinh hoạt của nhân dân hai xã Đa Lợi và An Lĩnh là việc làm tự nguyện của dân, các hộ không yêu cầu Ông Quân và bà Hạnh phải nộp lại số tiền đã chi phí. Do vậy, ủa ban nhân dân căn cứ vào Nghị định số 24/1999/NĐ-CP ngày 06-04-1999 của Chính Phủ để ra Quyết định số 01/2002/QĐ-UB nagỳ 02-01-2002 để thu hồi vào ngân sách huyện khoản tiền 19.750.000đồng mà Ông Quân và bà Hạnh chi không có hoá đơn chứng từ là không đúng pháp luật, cần xem xét huỷ quyết định trên.
Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh là thu hồi tài sản. Tuy về từ ngữ trong quyết định hành chính và điều luật có khác nhau nhưng về nội dung của việc thu hồi sung ngân sách huyện là giống nhau. Vì chỉ có tịch thu tài sản mới sung công quỹ. Do vậy quyết định của Uỷ ban nhân dân về thu hồi số tiền 19.750.000đồng là mà Ông Quân và bà Hạnh chi phí là quyết định hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân theo quy định tại (khoản 7 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính). Toà án nhân dân Tỉnh Hải Dương ra Quyết định phúc thẩm số 01/ QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 giữ nguyên quyết định sơ thẩm trên vì cả hai cấp đều cho rằng quyết định hành chính số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện không thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân là không đúng pháp luật.
Tại quyết định số 01/GĐT-HC ngày 06-08-2003 Hội đồng xét xử giám đốc thẩm của Toà hành chính tối cao đã quyết định: Bác kháng nghị số 03/KN-AHC ngày 30-06-2003 của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên Quyết định hành chính phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003 của án nhân dân tỉnh Hải Dương.
Tại Quyết định số 09/KH-AHC ngày 25-11-20003 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định số 01/QĐ-PT-HC ngaỳ 06-08-2003 của Hội đồng xét xử Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử huỷ các quyết định của cấp xét xử cơ thẩm, xét xử phúc thẩm và quyết định giám đốc thẩm nêu trên của Hội đồng xét xử Toà án nhân dân tối cao để chuyển hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm để xét xử lại theo thủ tục chung với các lý do chính như sau:
Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh áp dụng Nghị định số 24/1999/NĐ-CP ngày 16-04-1999 của Chính Phủ để ra Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002 để thu hồi 19.750.000 đồng sung vào ngân sách của huyện Chí Linh mà Ông Quân và bà Hạnh đã chi không đúng pháp luật và can thiệp quá sâu vào vào quan hệ dân sự giữa Ban điện và các hộ dân.
Xét về thẩm quyền: Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh là thu hồi tài sản. Tuy về từ ngữ dùng trong quyết định hành chính trên đều có và điều luật có khác nhau nhưng về nội dung của việc thu hồi lại sung ngân sách huyện là tịch thu tài sản. Vì trong thực tế có tivhj thu tài sản mới có sung công quỹ, còn thu hồi tài sản thì phải trả cho người có quyền sở hữu. Trong trường hợp vụ việc này, Uỷ ban nhân dân Chí Linh không đầu tư bằng nguồn ngân sách cho nhân dân liên hệ xin đường điện, mà nhân dân tự nguyện đóng góp nên. Do đó, chính các hộ dân mới là người định đoạt số tiền mà họ đã giao cho Ban điện chứ không phải Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh. Vậy Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh thực chất là quyết định tịch thu tài sản của ông Quân và bà Hạnh có được từ việc thảo thuận của các hộ dân. Do vậy, Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh là quyết định hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo quy định tại khoản 7 điều 11, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Tại quyết định số 02/2004/HĐTP-HC ngày 27-03-2004 của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm của Toà án nhân dân tối cao đã quyết định: bác kháng nghị số 09/KN-AHC của Viện trưởng Viện liểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên quyết định giám đốc thẩm số 01/GĐT-HC ngày 06-08-2003 của Toà Hành chính.
II. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG:
1. Phân tích xử lý tình huống:
Theo Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh là quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, xét về hình thức (tiêu đề) của Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh thì đây là quyết định về việc thu hồi tiền đóng góp làm đường điện cho hai xã Đa Lợi và An Nĩnh chi sai mục đích sung vào ngân sách huyện Chí Linh” Còn nội dung của quyết định là “thu hồi sung vào ngân sách huyện khoản tiền mà Ông Quân và bà Hạnh chi sai mục đích không có chứng từ hợp pháp (từ nguồn đóng góp xây dựng đường điện của nhân dân xã Đa Lợi và xa An Nĩnh) là 19.750.000 đồng để đầu tư xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo đề nghị của hai xã nói trên. Như vậy xét về cả hình thức và nội dung thì Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh không phải quyết định tịch thu tài sản (của ông Quân và bà Hạnh) nên việc khiếu kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính. Số tiền trên không phải là tài sản riêng của Ông Quân và bà Hạnh mà là tiền của nhân dân hai xã đóng góp mà có và tự nguyện giao cho Ban điện để liên hệ làm đường điện cho hai xã nói trên. Ông Quân và bà Hạnh chỉ được giao quản lý, sử dụng số tiền tiền này. Vì vậy, nếu người có thẩm quyền đã có đủ căn cứ để xác định Ông Quân và bà Hạnh chi tiêu số tiền trên không đủ chứng từ hợp pháp thì có quyền buộc các ông này nộp lại (thu hồi lại), số tiền trên. Trong trường hợp này, Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh đã quyết định thu hồi lại số tiền 19.750.000 đồng, mà Uỷ ban nhân dân huyện cho rằng Ông Quân và bà Hạnh chi không đủ chứng từ hợp pháp, sung vào ngân sách huyện để đầu tư xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo yêu câud của hai xã nói trên. Vì vậy không thể đồng nhất khái niệm thu hồi tài sản với khái niệm tịch thu tài sản đối với số tiền nói trên với lý do “thu hồi sung vào ngân sách huyện” có nghĩa là tịch thu tài sản.
Toà án nhân dân huyện Chí Linh (tại quyết định hành chính sơ thẩm số 03/QĐ-ĐC-HC ngày 28-11-2002); Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương (tại quyết định hành chính phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003) và Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao (tại Quyết định số 01/GĐT-HC ngày 06-08-2003) đã căn cứ vào điểm g, khoản 1 Điều 41 Pháp lênh Thủ tục giải quyết các vụ án để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án với lý do việc khiếu kiện của Ông Quân và bà Hạnh đối với Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà bằng vụ án hành chính là có căn cứ và đúng pháp luật.
Như vậy, Ông Quân và bà Hạnh chỉ là những người được giao quản lý và sử dụng tiền. Do đó nếu người có thẩm quyền đã có đủ căn cứ để xác định Ông Quân và Bà Hạnh chi tiêu số tiền này mà không đủ chứng từ hợp pháp thì có quyền buộc ông Quân và bà Hạnh nộp lại số tiền trên.
Việc Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao đã ra quyết định số 01/GĐT-HC ngày 06-08-2003 đình chỉ việc giải quyết vụ án với lý do việc khiếu kiện của Ông Quân và bà Hạnh không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính là có căn cứ và đúng pháp luật.
2. Cơ sở lý luận:
Trước sự phát triển của lực lượng sản xuất, của quá trình nhận thức tự nhiên của con người dẫn đến sự phân công lao động xã hội theo hướng chuyên môn hoá. Xã hội phát triển, mâu thuẫn xã hội nảy sinh đến mức không thể giải quyết được, nhà nước ra đời là kết quả của sự phát triển nội tại xã hội. Cùng với sự ra đời của nhà nước là sự ra đời của pháp luật, pháp luật ra đời để điều hoà các mâu thuẫn giai cấp và là công cụ điều hành của giai cấp thống trị đối với xã hội.
Nhà nước, xét về mặt bản chất, là tổ chức quyền lực chính trị, có tính giai cấp, thực hiện chức năng giai cấp. Thông qua nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị được hợp pháp hoá thành ý chí nhà nước. Thông qua nhà nước, giai cấp hoặc liên minh giai cấp thực hiện sự thống trị xã hội trên các mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng.Bản chất giai cấp của nhà nước cũng được thể hiện thông qua các quan hệ đối ngoại.
Bản chất nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt nam là biểu hiện cụ thể bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thể hiện tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân và tính thời đại: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam mang tính giai cấp công nhân dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp nông dân với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức, được dẫn dắt bởi chủ nghĩa Mác- Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhà nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng công sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, tổ chức phát huy đầy đủ quyền làm chủ trong mọi lĩnh vực cuộc sống. Trong mọi hoạt động của nhà nước đều phấn đấu nhằm đạt mục đích dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Hình thức nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam là nhà nước đơn nhất. Chế độ chính trị của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam phản ánh bản chất dân chủ của nhà nước, thể hiện ở quyền làm chủ của nhân dân trong việc thiết lập lên các cơ quan quyền lực nhà nước, tham gia giải quyết các công việc của nhà nước, xã hội theo phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Mục đích cuối cùng của Nhà nước là phục vụ cho lợi ích nhân dân, của dân tộc, của quốc gia.
Bộ máy nhà nước ta là hệ thống, thống nhất các cơ quan quyền lực nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc chung thống nhất, nhằm thực hiện chức năng, niệm vụ chung của nhà nước. Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phân nhiệm, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nhằm tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn, lẫn lộn chức năng giữa chúng.
Pháp luật là hệ thống các quy phạm (quy tắc hành vi hay quy tắc xử sự ) có tính bắt buộc chung và thực hiện lâu dài, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận), thể hiện bởi các biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy nhà nước. Pháp luật là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có nhà nước. Ở nước ta hiện nay, pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với kinh tế, xã hội, hệ thống chính trị, đạo đức và tư tưởng... phù hợp với kinh nghiệm lịch sử và chủ nghĩa Mác – Lê nin và quan điểm của Đảng ta. Nguồn quan trọng và cơ bản nhất của pháp luật nước ta hiện nay là các văn bản quy phạm pháp luật.
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, là quản lý công việc của Nhà nước. Trong quản lý nhà nước, hoạt động quản lý hành chính là hoạt động đa dạng trung tâm, chủ yếu; vì hoạt động hành chính là hoạt động tổ chức và điều hành để thực hiện quyền lực nhà nước trong quản lý xã hội. Quản lý hành chính Nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước tức là hoạt động chấp hành và điều hành. Chủ thể quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan, cán bộ. công chức hành chính nhà nước trong hệ thống Chính Phủ từ Trung ương đến cơ sở. Do đó quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do các cơ quan trong hệ thống Chính phủ từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, nhằm duy trì phát triển cao các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, thoả mãn nhu cầu hợp pháp của con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Hệ thống hành chính nhà nước là tổng thể các cơ cấu tổ chức và định chế nhà nước có chức năng thực thi quyền hành pháp, quản lý công việc hàng ngày của nhà nước. Nó được tạo thành bởi một hệ thống các pháp nhân có quyền lập quy, có thẩm quyền ra những quyết định hành chính và quản lý điều hành, tổ chức, kiểm tra các tổ chức và các hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước và của công dân. Xét về nội dung công việc của hành chính nhà nước.
Hành chính điều hành thực hiện chức năng quản lý hàng ngày dựa trên các nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Quốc hội, có nhiệm vụ và quyền hạn dự đoán tình hình, ra quyết định về mặt (kế hoạch, chính sách cụ thể, chủ trương, biện pháp, ...), tổ chức chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra. Về mặt pháp luật, đó là những văn bản dưới luật để thực hiện chức năng quản lý. Về mặt chính trị là phục tùng và phục vụ chính trị, chấp hành và thực hiện những quyết định mang ý nghĩa chính trị của cơ quan có thẩm quyền. Trong việc thực hiện các chức năng quản lý đó, hành chính điều hành phải thể hiện, giữ gìn, phát huy đầy đủ bản chất của một nhà nước dân chủ, pháp quyền, tôn trọng các quyền con người và quyền công dân đã được quy định trong pháp luật. Mọi sự vi phạm quyền con người và quyền công dân, dưới dạng hành động thực tế, trái với pháp luật nói chung và luật hành chính nói riêng đều xem là hành vi bất hợp pháp.
Pháp luật công nói chung và luật hành chính nói riêng mang tính một chiều, không bình đẳng giữa hai bên: một bên là cơ quan nhà nước hay chức trách nắm công quyền và một bên là công dân, có quyền và nghĩa vụ được ghi trong Hiến Pháp và pháp luật, phải tuân thủ pháp luật và chịu sự quản lý của cơ quan hành chính nhà nước. Về mặt pháp lý, quan hệ giữa cơ quan nhà nước với công dân cũng như giữa cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp dưới là quan hệ không bình đẳng, là quan hệ quyền uy, phụ thuộc, phục tùng. Mặt khác, cơ quan hành chính nhà nước sinh ra để phục vụ dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Nhiệm vụ của các cơ quan hành chính là phục vụ nhân dân một cách vô tư, đúng pháp luật, liên tục, hàng ngày, không cửa quyền, lạm quyền, trì trệ và tham nhũng. Để đảm bảo tính dân chủ cao của nền hành chính và xét xử kịp thời những vi phạm pháp luật hành chính của các cơ quan, các công chức hành chính đối với công dân, sự ra đời của tài phán hành chính chính là một tất yếu khách quan.
Hành chính tài phán có chức năng giải quyết các khiếu kiện hành chính của công dân đối với các quyết định và hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước theo trình tự tố tụng tư pháp. Hành chính tài phán cần phải có một cơ quan chứcnăng có thẩm quyền xét xử những hành vi vi phạm pháp luật hành chính theo trình tự tố tụng xét xử của toà án, không phải theo kiểu xử lý nội bộ hoặc xử lý giữa các cơ quan hành chính với nhau.
Tài phán hành chính ở nước ta hiện nay có những đặc điểm của tài phán hành chính nói chung vừa phản ánh những nét đặc thù phù hợp với bản chất và đặc tính của nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam:
- Tài phán hành chính là tổ chức hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính phát sinh khi có đơn khởi kiện vụ án hành chính giữa cơ quan công quyền và công dân, tổ chức.
- Hoạt động tài phán hành chính phải tuân theo trình tự thủ tục do pháp luật tố tụng hành chính quy định chứ không phải tuân theo thủ tục hành chính.
- Cơ quan tài phán hành chính ở nước ta là Toà hành chính thuộc hệ thống tào án nhân dân.
- Đối tượng của tài phán hành chính ở nước ta là các quyết định hành chính bị công dân khởi kiện sau khi được cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục hành chính nhưng không thoả mãn yêu cầu của họ.
- Bên bị khởi kiện trong vụ án hành chính luôn là cơ quan nhà nước hoặc cán bộ công chức nhà nước.
Thẩm quyền xét xử hành chính của toà án: Tại Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được sửa đổi bổ sung thì thẩm quyền giải quyết các vúan hành chính như sau:
- Khiếu kiện quyết định xử phạt hành chính;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp tháo dỡ nhà ở, công trình, vật liệu kiến trúc kiên cố khác;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng; cơ sở giáo dục ...
- Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất kinh doanh.
- Khiếu kiện hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng thu, trưng mua, tịch thu tài sản;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc thu phí, lệ phí;
- Các khiếu kiện khác theo quy định pháp luật.
Như vậy, áp dụng vào tình huống nêu trên ta thấy: Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh là quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, xét về hình thức (tiêu đề) của Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh thì đây là quyết định về việc thu hồi tiền đóng góp làm đường điện cho hai xã Đa Lợi và An Nĩnh chi sai mục đích sung vào ngân sách huyện Chí Linh” Còn nội dung của quýêt định là “thu hồi sung vào ngân sách huyện khoản tiền mà Ông Quân và bà Hạnh chi sai mục đích không có chứng từ hợp pháp (từ nguồn đóng góp xây dựng đường điện của nhân dân xã Đa Lợi và xa An Nĩnh) là 19.750.000 đồng để đầu tư xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo đề nghị của hai xã nói trên. Như vậy xét về cả hình thức và nội dung thì Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-02-2002 của Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh không phải quyết định tịch thu tài sản (của ông Quân và bà Hạnh) nên việc khiếu kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính. Số tiền trên không phải là tài sản riêng của Ông Quân và bà Hạnh mà là tiền của nhân dân hai xã đóng góp mà có và tự nguyện giao cho Ban điện để liên hệ làm đường điện cho hai xã nói trên. Ông Quân và bà Hạnh chỉ được giao quản lý, sử dụng số tiền tiền này. Vì vậy, nếu người có thẩm quyền đã có đủ căn cứ để xác định Ông Quân và bà Hạnh chi tiêu số tiền trên không đủ chứng từ hợp pháp thì có quyền buộc các ông này nộp lại (thu hồi lại), số tiền trên. Trong trường hợp này, Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh đã quyết định thu hồi lại số tiền 19.750.000 đồng, mà Uỷ ban nhân dân huyện cho rằng Ông Quân và bà Hạnh chi không đủ chứng từ hợp pháp, sung vào ngân sách huyện để đầu tư xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo yêu câud của hai xã nói trên. Vì vậy không thể đồng nhất khái niệm thu hồi tài sản với khái niệm tịch thu tài sản đối với số tiền nói trên với lý do “thu hồi sung vào ngân sách huyện” có nghĩa là tịch thu tài sản.
Toà án nhân dân huyện Chí Linh (tại quyết định hành chính sơ thẩm số 03/QĐ-ĐC-HC ngày 28-11-2002); Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương (tại quyết định hành chính phúc thẩm số 01/QĐ-PT-HC ngày 02-01-2003) và Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao (tại Quyết định số 01/GĐT-HC ngày 06-08-2003) đã căn cứ vào điểm g, khoản 1 Điều 41 Pháp lênh Thủ tục gải quyết các vụ án để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án với lý do việc khiếu kiện của Ông Quân và bà Hạnh đối với Quyết định số 01/2002/QĐ-UB ngày 02-01-2002 Uỷ ban nhân dân huyện Chí Linh không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà bằng vụ án hành chính là có căn cứ và đúng pháp luật.
III. NHỮNG KIẾN NGHỊ
Trong giai đoạn vừa qua cải cách hành chính đã thu được những thành công nhất định, tạo ra những bước chuyển cơ bản hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở nước ta. Tuy nhiên nền hành chính của nước ta vẫn còn nhiều hạn chế như: Chức năng nhiệm vụ quản lý của bộ máy hành chính trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định rõ và phù hợp, hệ thống thể chế hành chính chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất, tổ chức bộ máy con cồng kềnh, nhiều tầng nấc, phân tán, chưa thông suốt, đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính, quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, bộ máy hành chính ở địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với dân, không nắm chắc những vấn đề nổi cộm trên địa bàn, lúng túng, bị động khi xử lý các tình huống phức tạp.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, tôi xin được đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước:
1. Hoàn thiện hơn hệ thống thể chế hành chính, cơ chế chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước hết là các thể chế về kinh tế, về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính.
2. Xoá bỏ về cơ bản các thủ tục mang tính rườm rà, quan liêu, gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân.
3. Xác định và thực hiện được các quy định mới về phân cấp quản lý hành chính giữa Nhà nước giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương.
4. Đào tạo, lựa chọn, sử dụng đội ngũ công chức có chất lượng, cơ cấu hợp lý chuyên nghiệp, hiện đại. Cán bộ, công chức phải có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành công vụ, tận tuỵ phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân.
5. Nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động tài phán hành chính để bảo vệ hoặc phục hồi quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan nhà nước và tổ chức, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước.
KẾT LUẬN
Nền hành chính nhà nước là bộ phận trọng yếu của hệ thống chính trị của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong xã hội. Quản lý hành chính nhà nước là biểu hiện quan trọng và tập trung nhất của toàn bộ hoạt động của nhà nước trong qua trình phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Đối tượng quản lý hành chính nhà nước là toàn dân, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, tinh thần, tư tưởng,...
Chính vì tầm quan trọng đó đã đòi hỏi phải cải cách nền hành chính nhà nước. Đó không chỉ là sự đòi hỏi từ bên ngoài đối với nền hành chính nhà nước mà còn là sự đòi hỏi của chính bản thân nền hành chính. Đó cũng chính là cách thức làm cho bộ máy hành chính nhà nước hoạt động có hiệu quả, nhằm xây dựng nền hành chính đáp ứng đòi hỏi của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển bền vững với các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Chương trình cải cách tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 ban hành kèm theo Quyết định số 136/QĐ-TTG ngày 17-09-2001 của Thủ tướng Chính Phủ đã đưa ra mục tiêu chung là: xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo cuả Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Theo quyết định số 94/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 4 năm 2006 phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính giai đoạn 2006-2010 cũng có nội dung cải cách như: cải cách về thể chế, cải cách về tổ chức, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công, hiện đại hoá nền hành chính nhà nước...
Tuy nhiên, dù bằng bất cứ hình thức hay phương pháp nào cũng đều nhằm mục đích làm cho bộ máy hành chính nhà nước hoạt động có hiệu quả, nhằm xây dựng nền hành chính đáp ứng đòi hỏi của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển bền vững với các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Do phạm vi của tiểu luận rất rộng lớn và phức tạp, trình độ nhận thức cũng như về thời gian còn hạn chế, mặc dù đã có nhiều cố gắng song không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự đóng góp và nhận xét chân thành quý báu của các Thầy Cô và các bạn học viên, tiểu luận này hoàn thiện hơn.
Cũng thông qua tiểu luận luận này, xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các Thày cô, các bộ phận quản lý đào tạo của Học Viện Hành chính Quốc gia cũng như của Trường Đại học Lâm nghiệp đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành khoá học.
HỒ SƠ BÀN GIAO SÁCH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_qlnn_chuyen_vien_20114_7356.doc