Tiểu luận Tài trợ mua ô tô ở Trung Quốc
Sự thông thạo của GM trong việc cho vay tài chính ô tô thông thường và những khu
vực then chốt phụ thuộc theo sau để thực hiện kinh doanh tại Trung Quốc sẽ cho phép
doanh nghiệp vực dậy và hoạt động. Hãng có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề cho vay ô
tô trong các thị trường đang phát triển với cơ sở hạ tầng chưa hiệu quả. Hợp tác với các cơ
quan tư nhân và nhà nước như Fannie Mae, các công ty con của GMAC (GMAC
Mortgage và GMAC commercial mortgage và Residential Funding Corporation) đã làm
tăng thêm sự thông thạo trong việc chứng khoán hóa vốn cho vay có lợi nhuận, (thế chấp)
sự bảo quản tiền cho vay, sự mua bán và lợi tức thu nhận được đã tạo cho hãng những kĩ
năng cần thiết để làm việc với các đối tác thứ 3 và các đơn vị nh à nước. Cuối cùng, sự tồn
tại của thị trường ở nhiều nước khác trong khu vực thái bình dương đã tạo cho hãng
nguồn nhân lực cần thiết cho việc mở rộng sang Trung Quốc. Những văn phòng này được
bố trí nhân sự nước ngoài từ Trung Quốc và các nước khác nhằm có sự hiểu biết sâu sắc
cho thị trường Trung Quốc hơn là nhân lực của chính GMAC.
11 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2364 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tài trợ mua ô tô ở Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 0 -
Tiểu luận
Tài trợ mua ô tô ở Trung Quốc
- 1 -
“Tại Trung Quốc, việc tài trợ mua ô tô cũng giống như sự hợp nhất của Nam và Bắc
Triều Tiên. Tất cả mọi người muốn điều đó xảy ra. Nhưng trước khi nó xảy ra, cần phải xét
đến các nguy cơ tiềm ẩn.”
Mike Dunne, automotive news 2000
Trung Quốc và WTO
Sau 15 năm đàm phán, Trung Quốc chính thức trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 12 năm 2001. Trong suốt quá trình đàm phán,
Trung Quốc đã dần dần thông thoáng hơn trong các chính sách thương mại và đầu tư, và xem
việc gia nhập chính thức này như một biểu tượng lớn. Hơn hết, việc trở thành thành viên của
WTO cho thấy đây là lời cam kết của Trung Quốc về việc thiết lập những luật lệ rõ ràng,
không phân biệt đối xử trong hoạt động kinh doanh trong và ngoài nước. Ví dụ như luật bảo
hộ bản quyền và thương hiệu của Trung Quốc có hiệu lực vào tháng 10 năm 2001 theo tiêu
chuẩn quốc tế. Nhiều công ty đã thiết lập chiến lược từ những năm 1990 dựa trên giả định
rằng Trung Quốc sẽ gia nhập WTO và hiện nay họ đã sẵn sàng thực hiện những kế hoạch đó.
Trung Quốc không sẵn lòng trong cải cách về chính trị nhưng đã thực hiện những thay
đổi đáng kể trong cam kết về cải cách cấu trúc kinh tế. Sự sửa đổi trong hiến pháp năm 1999
đã hợp pháp hóa nguồn vốn tư hữu và cho phép những công ty tư nhân có quyền hợp pháp
như các công ty nhà nước theo sự phát triển của cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp tư nhân
chiếm 40% GDP và giải quyết việc làm cho 30% lao động ở Trung Quốc. Bộ phận này tạo
nhiều công ăn việc làm mới, chiếm khoảng 38% toàn bộ lượng việc làm chính thức của
Trung Quốc và 56% trong số đó là các công việc ở khu vực thành thị. Trong khi đó một số
viên chức nhà nước lại rơi vào tình trạng thất nghiệp.
Kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh nhất trong vòng 10 năm qua với GDP thực hằng
năm tăng trung bình 10,8%. Trong khi trung bình GDP trên đầu người dưới 1000$, người dân
ở thành thị (như ở Thượng Hải và Quảng Đông) có thu nhập trên 3000$ (đánh dấu việc tiêu
dùng có chiều hướng gia tăng một cách đáng kể). Các hộ gia đình ở thành thị có đủ khả năng
có tivi màu (96% có tivi màu), điện thoại bàn (76%), điện thoại di động (28%). Một cuộc
sống có chất lựơng như vậy cũng dần dần được mở rộng ra các vùng nông thôn. Hơn nữa,
người tiêu dùng trẻ ở thành thị đang có xu hướng thay đổi quan điểm mua sắm. Họ chấp nhận
thanh toán giao dịch bằng thẻ tín dụng.
Trung Quốc tạo nên một kết quả ngoạn mục khi gia nhập vào nền kinh tế toàn cầu
trong cả lĩnh vực thương mại và đầu tư. Hoạt động thương mại của Trung Quốc với nước
ngoài gấp 4 lần so với năm 1990 đạt 474 tỉ đô la, nhiều hơn 100 tỉ đô la so với Mỹ. (Năm
2001, Trung Quốc vẫn là quốc gia thâm hụt thương mại lớn nhất đối với Mỹ, khoảng 83 tỷ đô
la). Trong khi việc gia giảm các rào cản thương mại đã giúp ít nhiều hơn cho việc mua bán
hàng hóa nước ngoài ở Trung Quốc trong tương lai, thì với sự đổ xô của các công ty Mỹ và
Châu Âu đến Trung Quốc sản xuất và xuất khẩu hàng hóa, có thể làm cho nước này tiếp tục
- 2 -
thâm hụt cán cân thương mại với các quốc gia này. Tuy nhiên, đối với các nước Châu Á,
Trung Quốc lâm vào tình trạng thâm hụt thương mại từ năm 2000 và sẽ là nguồn cầu lớn khi
các thị trường được tự do hóa.
Vào thập niên 90, Trung Quốc đã tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI)
nhiều hơn các nước khác trên thế giới, ngoại trừ Mỹ. Nguồn đầu tư này có lúc lên đến hơn 60
tỷ đô la Mỹ mỗi năm trong vòng 5 năm qua thì Trung Quốc đã chiếm 1 phần bằng các nước
Châu Á còn lại (Hình 1). Vốn FDI được đổ vào những khu vực (trong 1 vùng hay 1 quốc gia)
nơi có những lợi thế cạnh tranh – một ít được rót vào các khu vực có nguồn lao động dồi dào,
một ít đầu tư vào các khu vực có trình độ công nghệ phát triển. Với việc dẫn đầu về thu hút
vốn đầu tư, Trung Quốc có thể trở thành trung tâm nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ trong khu
vực. Các quốc gia khác như Nhật Bản sẽ phải tự thay đổi quan điểm nhằm tập trung vào các
lĩnh vực nghiên cứu, phát triển, thiết kế, phần mềm, và các sản phẩm sản xuất có tính chính
xác cao.
Hình 1 :
Một nỗ lực có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế của Trung Quốc là việc giữ ổn định
tiền tệ trong vòng 5 năm qua. Trong khi chính thức được xem là đồng tiền thả nổi có kiểm
soát, đồng nhân dân tệ đã kiềm chế hiệu quả đồng đô la Mỹ. Điều này giúp Trung Quốc tránh
được sự biến động thất thường của tiền tệ, thông thường rất khó tránh khỏi ở các thị trường
mới nổi (đã từng làm khủng hoảng nền kinh tế các nước Mexico, Indonesia, Nga, Brazil,
Aghentina). Tuy nhiên, do việc gia tăng nguồn dự trữ ngoại tệ, nguồn vốn tư bản chảy vào
mạnh và các thặng dư hiện tại cũng như áp lực từ các nước châu Á (đặc biệt là Nhật Bản),
đồng nhân dân tệ đã chịu một áp lực không nhỏ. Với việc tự do hóa hoạt động thương mại
sau khi gia nhập WTO, việc tăng giá trị của đồng Nhân dân tệ (renminbi) sẽ làm xấu hơn
nữa các cú shock đối với các doanh nghiệp trong nước khi phải cạnh tranh với các hàng hóa
nhập khẩu hay các doanh nghiệp xuất khẩu khi phải cạnh tranh trong thị trường toàn cầu
(thường là cạnh tranh về giá). Nhà cầm quyền Trung Quốc đã thừa nhận sự cần thiết của việc
tự do hóa tài chính và tiền tệ nhưng những tác hại của việc tăng giá đồng tiền trong ngắn hạn
- 3 -
sẽ hầu như có thể giữ cho cơ chế tiền tệ không thay đổi. Điều này dẫn đến giảm rủi ro về tiền
tệ cho các nhà đầu tư.
Phải thừa nhận rằng các tập đoàn lớn trên thế giới sẽ được hưởng lợi từ các biện pháp
tự do hóa đã được cam kết và thực hiện.(Bảng 1). Ví dụ, Hiệp Hội Điện Ảnh đã ước tính việc
loại bỏ các rào cản trong việc phân phối phim sẽ thu về 80 triệu đô la lợi tức cộng thêm 120
triệu đô la từ việc mua bán hay cho thuê video và không còn bị ảnh hưởng của nạn sao chép
tràn lan. Vài lĩnh vực như ngân hàng và bảo hiểm mong đợi sẽ có những thay đổi lớn khi thị
trường mở cửa. Các công ty bảo hiểm nước ngoài hiện tại có thể hoạt động ra khỏi phạm vi 2
thành phố đã được quy định và mong muốn sẽ mở rộng hoạt động trên phạm vi cả nước vào
năm 2005. Phần lớn quyền sở hữu trong các doanh nghiệp Trung Quốc là hợp lý. Đây là mấu
chốt để chọn lựa, tìm kiếm các đối tác kinh doanh.
Bảng 1 : Các cam kết của Trung Quốc khi gia nhập WTO
Năm 2001 :
Sau khi trở thành thành viên, Trung quốc phải cho phép
các Ngân hàng nước ngoài kinh doanh nội tệ tại các thành
phố mới.
Năm 2002
Trung Quốc sẽ bỏ rào cản cho các công ty luật nước ngoài
họat động và về số văn phòng có thể mở cửa.
Năm 2004 Các công ty nước ngoài được phép cung cấp các dịch vụ
bảo hiểm sức khỏe và nhóm cho người dân Trung Quốc
Năm 2005
Mỹ sẽ loại bỏ hạn ngạch dệt may Trung Quốc nhưng sẽ
thông qua việc kiểm tra để tránh làn sóng nhập khẩu ồ ạt.
Năm 2006
Trung quốc giảm thuế nhập khẩu ô tô từ 80% đến 100%
hiện tại xuống còn 25%
Năm 2007
Các công ty nước ngoài có thể nắm giữ 49% trong liên
doanh về các lĩnh vực truyền thông.
Nhiều mặt hàng nhập khẩu hiện nay không còn phải đối mặt với rào cản thuế quan (số
còn lại sẽ bỏ thuế vào năm 2010) hoặc miễn hẳn thuế (rất nhiều hạn ngạch được loại bỏ trong
quá trình hội nhập và một số khác sẽ được loại bỏ vào năm 2005), và khi quyền phân phối và
kinh doanh sẽ được như mong đợi thì câu hỏi chính được đặt ra là sẽ thay đổi vào thời điểm
nào. Phần lớn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đều khá thực tế trong việc không mong chờ
những thay đổi đáng kể ngay tức khắc và vì thế họ đều trang bị cho mình những kế hoạch lâu
dài. Trong vài lĩnh vực, sự cạnh tranh đã nóng lên, đáp ứng mong đợi của người tiêu dùng về
việc ngày càng nhiều sự lựa chọn hơn và giá cả rẻ hơn.
Sự chuyển đổi cần được xem xét trong bối cảnh thay đổi chính trị, một trong những
thay đổi chậm ở nhiều quốc gia trong đó có Trung Quốc. Có nhiều ảnh hưởng bất lợi khi gia
- 4 -
nhập WTO được dự đoán về vấn đề sản lượng đầu ra và việc làm trong các lĩnh vực như nông
nghiệp, dịch vụ tài chính và các ngành công nghiệp ít cạnh tranh nói chung do các doanh
nghiệp nhà nước nắm giữ. Ví dụ như việc làm trong ngành nông nghiệp sẽ giảm còn 11 triệu
nhân công, và sự chia sẻ đáng kể trong số 1,7 triệu nhân công trong 4 ngân hàng nhà nước có
nguy cơ xảy ra. Những điều này khiến cho chính phủ phải có những biện pháp cẩn trọng
trong việc cho phép sự thay đổi trong môi trường hậu WTO. Hơn nữa bất cứ sự thay đổi sâu
sắc nào cũng thường phải đối mặt với sự chống đối từ các chính quyền địa phương, những
người bảo hộ cho những lợi ích của địa phương đó.
Có một số ví dụ về những thách thức phải đối mặt khi thực hiện những giao ước WTO
ở các vùng và các ngành công nghiệp. Các công ty muốn khai thác thị trường viễn thông di
động lớn nhất thế giới được hứa hẹn cho phép chiếm 49% tiền đầu tư cho các doanh nghiệp
nội địa. Tuy nhiên, các công ty nhận chờ đợi phê chuẩn của chính phủ từ 270 đến 310 ngày
và với khoảng thời gian này thì bất cứ 1 đối tác nào cũng muốn nâng lên 70% của 1 tỷ nhân
dân tệ. Nghĩa là số lượng thành viên liên doanh sẽ ít hơn mong đợi và đương nhiên nó trở
thành công ty nhà nước một cách hợp lý. Tương tự, các ngân hàng cũng cùng cảnh ngộ. Theo
thỏa thuận với WTO, các ngân hàng nước ngoài có thể cung cấp các dịch vụ ngân hàng bằng
tiền nhân dân tệ cho các khách hàng là các công ty Trung Quốc vào năm 2004 và cho người
tiêu dùng Trung Quốc năm 2007. Sự điều chỉnh mới này qui định mỗi ngân hàng nước ngoài
chỉ được mở 1 chi nhánh mỗi năm, căn cứ vào đó thì nhiều ngân hàng phải bắt đầu từ vạch
xuất phát (chỉ có 158 chi nhánh ngân hàng nước ngoài tồn tại vào năm 2001) và cho thấy
hàng chục nghìn chi nhánh được nắm giữ bởi những tổ chức trong nước (ví dụ ngân hàng
Trung Quốc có 15,200 chi nhánh). Việc này đang làm các ngân hàng nước ngoài nản chí. Các
chi nhánh nước ngoài buộc phải có 1 tỉ nhân dân tệ để phục vụ đa dạng các dich vụ, một con
số được xem như là 1 sự phân biệt đối xử với những công ty hy vọng phát triển trong lĩnh vực
này. Các mặt hàng xuất khẩu đã thấy đươc sự trì trệ trong vấn đề cấp giấy chứng nhận sản
phẩm của họ khi bước vào thị trường Trung Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực nhạy cảm như
nông nghiệp.
Mong rằng các tranh luận và các vấn đề được nêu ra sẽ được quan tâm đến trong thời
gian tới, tuy có thể mất rất nhiều thời gian. Cũng giống như Mỹ và đối tác thương mại của họ
(Liên minh Châu Âu và Canada) vẫn tồn tại các bất đồng trong cơ cấu tổ chức của WTO.
Mức độ thử thách tùy thuộc vào quy mô rộng lớn của nền kinh tế của Trung Quốc và khả
năng thu hút tính cạnh tranh khi là thành viên WTO. Mối quan tâm của các nhà chính trị là
khoảng cách ngày càng lớn giữa người giàu và người nghèo (đặc biệt là giữa thành thị và
nông thôn) và cái giá cho việc cải cách nhà nước sẽ làm cho xã hội mất ổn định và ảnh hưởng
tới tính hợp pháp của cấu trúc chính trị.
Trung Quốc đã rất có sức hút thương mại với các nước phương tây từ 2000 năm qua.
Làn sóng đầu tư gần đây nhất vào năm 1979 khi mà Trung Quốc mở cửa và lên đến đỉnh
điểm là khi Trung Quốc trở thành thành viên thứ 143 cua WTO. Các công ty tiếp tục nghiên
cứu lợi ích khi một phần cư dân Trung Quốc tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ của họ.
- 5 -
Sự phát triển của nền kinh tế của Trung Quốc chắc chắn sẽ lớn mạnh. Việc tăng cường
đầu tư sẽ làm cho Trung Quốc trở thành nơi sản xuất sản phẩm cho thị trường thế giới vì các
công ty toàn cầu sẽ đưa những thực tiễn làm việc tốt nhất vào thị trường mới nổi lớn nhất
này. Đối với Mỹ, điều này làm họ mất đi 600,000 việc làm và làm tăng thiếu hụt thương mại
với Trung Quốc và dẫn đến mối quan hệ giữa 2 cường quốc ngày càng căng thẳng. Đối với
các tập đoàn, việc đầu tư lớn có ý nghĩa khi các nỗ lực ở Trung Quốc có thể mang lại được
lợi nhuận, họ không kiếm lợi nhuận dựa trên vốn tư bản (các công ty đa quốc gia dự tính là
15%).
Các công ty này thích đầu tư vào Trung Quốc để khai thác thị trường nội địa một cách
tự do (chẳng hạn như có quyền điều khiển sự phân phối hay khả năng cung cấp tài chính)
nhưng vẫn sẽ đối mặt với nhiều thử thách như trước khi gia nhập WTO. Họ sẽ không thể mở
rộng sản phẩm và dịch vụ (trừ các thương hiệu nổi tiếng) nếu không có sự điều chỉnh các
điều kiện trong thị trường nội địa. Trong khi các nhà đầu tư nước ngoài đang có ưu thế trong
lĩnh vực nước giải khát, phim ảnh, các dịch vụ cá nhân thì các công ty trong nước vẫn chiếm
ưu thế về các mặt hàng như ti vi, máy giặt, tủ lạnh bất kể sự tồn tại của các công ty đa quốc
gia về các mặt hàng này. Các công ty đa quốc gia có thể mang vào Trung Quốc các nghiên
cứu của họ nhưng các hãng trong nước đã sao chép các nghiên cứu này và với những thuận
lợi vốn có giúp họ có thể cạnh tranh hiệu quả. Trong khi một số công ty Trung quốc gặp khó
khăn trên thị trường quốc tế do thiếu một số nhân tố thành công như thương hiệu toàn cầu, thì
một số khác lại chiếm ưu thế trong lĩnh vực sản phẩm tiện nghi. Quingdao Haier- một nhà sản
xuất các thiết bị chiếm 40% thị trường tủ lạnh nhỏ và đang có kế hoạch mở rộng sang thị
trường Mỹ để mang lại hiệu quả hơn tại thị trường trong nước.
Những thay đổi của thị trường ô tô tại Trung Quốc
Cuộc chiến giữ giá của thị trường ô tô ở Trung Quốc bị phá vỡ vào những tháng đầu
tiên của năm 2002 do người tiêu dùng trì hoãn việc mua xe trong năm 2001và các mặt hàng
nhập khẩu sẽ được giảm thuế nhập khẩu theo thỏa thuận với WTO. Thuế nhập khẩu trong
lĩnh vực ô tô được giảm nhiều nhất so với các lĩnh vực khác (từ 80% xuống 50% ở hiện tại và
giảm xuống 25% vào năm 2006).
Người tiêu dùng đã chờ đợi ô tô giá rẻ từ lâu và bây giờ điều đó đã thành hiện thực
nhờ vào việc gia nhập WTO. Ví dụ, chiếc Buick có giá bán trước khi gia nhập WTO là
13.855 $ giảm xuống còn 12.040$ sau khi vào WTO, và có thể sẽ giảm nữa vì các nhà sản
xuất nội địa sẽ giảm giá để cạnh tranh. Cuộc chiến bắt đầu vào ngày 12/01/2000, khi hãng xe
Tianjin giảm giá chiếc xe hạng nhỏ Xiali xuống còn từ 9000 đến 23000 yuan (trước đó là
1.084$ đến 2.771$). Hơn 3600 chiếc đã được bán trong vòng 4 ngày sau khi giảm giá. Hãng
Chang’an Suzuki, một liên doanh giữa Chang’an Motor và Suzuki Nhật Bản, đã giảm giá đến
20%. Cac nhà phân tích dự đoán rằng các ô tô nội địa có giá dưới 150.000 yuan (18.070$) sẽ
phải giảm giá mặc dù các hãng như Shanghai GM Motor và Shanghai Volkswagen vẫn giữ
giá và để người bán được hưởng hoa hồng. Thậm chí với việc giảm giá, những chiếc xe có
thể so sánh được thì giá vẫn cách biệt so với Châu Âu.
- 6 -
Các nhà sản xuất ô tô ở Trung Quốc đang nổ lực hết mình trong việc cạnh tranh. Khi
chính phủ Trung Quốc dần bỏ các quy định về mẫu xe thì các hãng GM, Honda, VW, Ford và
Toyota có kế hoạch cho xuất xưởng các mẫu xe hướng đến chất lượng và giá cả hợp lý cho
người tiêu dùng. Chẳng hạn như hãng Ford sẽ thực hiện hợp đồng sản xuất mẫu xe Ikon vào
năm 2003, hiện tại sản xuất tại Ấn độ với giá dưới 12.000$. Với sự tự do này, các hãng xe có
thể tập trung vào các mong muốn của người tiêu dùng hơn bao giờ hết.
Cuối cùng, giá thấp và sự phong phú trong chọn lựa sẽ làm nền công nghiệp ô tô phát
triển. Các chuyên gia dự đoán việc kinh doanh ô tô sẽ tăng lên 900.000 chiếc vào năm 2002
và đạt được 2 triệu chiếc vào năm 2005. Cần chú ý rằng vào năm 1999, dự tính đạt được vượt
qua con số 2,75 triệu chiếc (nhưng thực tế chỉ đạt 565,000 chiếc).
Cấu trúc thị trường hiện tại cho tài chính ô tô Trung Quốc
Vào năm 2000, khoảng 600,000 chiếc ô tô được bán tại Trung Quốc và chỉ 16% trong
đó được tài trợ, 2/3 trong số 16% đó là vốn vay ngân hàng dành cho công ty taxi (một kiểu
B2B). Còn lại 25.000 chiếc đựơc tài trợ bởi các cá nhân và các công ty tư nhân. Hãy làm sự
so sánh, GM và Ford đã cung cấp tài chính cũng vào khoảng đó cho bang Maryland vào năm
2000. Người mua ở Mỹ bỏ ra từ 65% đến 93% của toàn đơn vị.
Trung Quốc hiện tại có thị trường tài chính ô tô rất nhỏ cho người tiêu dùng tín dụng
nói chung vì nhiều lý do. Tài chính ô tô không được chính phủ cho phép vào trước năm 1998.
Hiện tại chỉ có 4 ngân hàng nhà nước và 2 ngân hàng tư nhân được chính phủ ủy quyền cho
vay với lãi suất do chính phủ quy định. Trong đó có ngân hàng “Bank of China” - ngân hàng
lâu đời nhất Trung Quốc và ngân hàng “China Construction Bank”. Các ngân hàng này quy
định rất khắc khe trong việc cho vay như :
(1) Có tài sản kí quỹ khác ngoài ô tô (nhà hay tiền gửi ngân hàng) khoảng 100% hay
120% trên tổng số tiền vay.
(2) Có người bảo đảm.
(3) Chứng minh thu nhập và đóng thuế (không chỉ khắt khe, nhiều ngân hàng Trung
Quốc còn dựa vào báo cáo về thu nhập và thuế để có sự đánh giá khả năng trả nợ
vay).
(4) Chứng nhận đăng kí kết hôn
(5) Bảng đánh giá giá trị của chiếc xe.
(6) Ngân hàng sẽ ủy nhiệm việc mua xe thông qua đại lý do họ phê chuẩn.
Điều này làm cho khoảng 1/3 người muốn mua xe từ bỏ ý định. Với những yêu cầu
khắc khe như thế nhưng kết quả ban đầu không có gì hứa hẹn : tỷ lệ vỡ nợ năm 1998 vào
khoảng 10% đến 30%.
Hơn nữa, cơ sở hạ tầng vẫn chưa được phát triển cho lĩnh vực tài chính ô tô. Phần lớn
các cơ quan điều tiết ô tô không cho phép các công ty giữ vật thế chấp hay các quyền lợi an
- 7 -
toàn đối với những chiếc ô tô đã qua đăng ký sử dụng dưới danh nghĩa cá nhân, cũng như
không hề có các luật lệ hay quy tắc bảo vệ các công ty bảo hiểm khi đầu tư dưới hình thức
cho vay hay bảo hiểm rủi ro khoản tiền cho vay. Các thủ tục thu hồi tài sản không được biên
soạn thành luật. Ở những nơi có luật thì cục an ninh cộng đồng phải tác động đến việc thu hồi
và quyết định giá trị thanh lí của phương tiện.
Sự khác biệt về vùng, địa phương rất quan trọng. Trong khi nền công nghiệp vẫn còn
trong giai đoạn mới phát triển, Thượng Hải đã phát triển về hệ thống tín dụng cũng như số
lựơng khách hàng sử dụng thẻ tín dụng. Cư dân thành thị ở phía đông đóng vai trò quan trọng
trong quá trình thay đổi do sự giàu sang và những quan niệm mới hướng đến việc mua hàng
bằng tín dụng. Sự quan tâm của nước ngoài vào thị trường tài chính ô tô được xác định là có
tiềm năng dài hạn do việc gia nhập WTO mang lại : nhu cầu và hoạt động trong lĩnh vực tài
chính ô tô. Trong khi những qui định của chính phủ tạo điều kiện gia nhập thị trường ở thời
điểm trước tháng 1 năm 2002, thì việc thiết lập hoạt động vẫn còn nhiều thách thức. Ví dụ
như qui định của chính phủ hướng đến việc ủy quyền cho vay đồng nhân dân tệ. Nhưng
nguồn dự trữ nhân dân tệ thì khan hiếm và các ngân hàng nước ngoài không được dùng đến
quỹ nhân dân tệ này. Hơn nữa các công ty nước ngoài có thể gặp phải sự cạnh tranh trong
nước từ những cơ quan nhà nước đã tồn tại và mới thành lập cũng như là các tổ chức tư nhân.
Ủy ban kế hoạch và phát triển quốc gia (SDPC) đã cho hay rằng Trung Quốc sẽ thành lập
công ty tài chính ô tô đầu tiên vào đầu năm 2002. Yafei Auto Chain Geberal Store – với tỷ lệ
vỡ chưa tới 2% và chiếm 90% thị trường – là một chuỗi đại lý ô tô được nhiều ưu đãi từ
chính quyền Bắc Kinh và được hưởng sự hỗ trợ từ công ty bảo hiểm nhân thọ Trung Quốc.
Ký hiệp ước với WTO sẽ làm cho thuế nhập khẩu ô tô trong khoảng 70% đến 80%
giảm xuống còn trong khoảng 50% đến 60%. Năm 2002, những chiếc xe ô tô mui kín (sedan)
có thể đạt 120.000 chiếc nếu mức thuế giảm còn 50%. Năm 2006, thuế giảm thêm 25% - đủ
để đưa ô tô lên tầm trung của Trung Quốc.
Những thay đổi được mong đợi của thị trường trong lĩnh vực tài chính ô tô ở Trung
Quốc
Các thông tin trên đều cho thấy tài chính ô tô ở thế kỷ 21 là việc kinh doanh sinh lợi cả
ở cấp vi mô lẫn vĩ mô. Năm 1999, chỉ 1% tổng chi tiêu của Trung Quốc là lấy từ tiền vay tín
dụng. Trong nỗ lực phát triển kinh tế, chính quyền Trung Quốc tuyên bố hướng đến tỷ lệ tiêu
dùng tín dụng gần với các nước phương tây (trung bình từ 20% đến 25% tiêu dùng là tiền tín
dụng).
Trung bình thu nhập của hộ gia đình tại 35 thành phố lớn nhất Trung Quốc hơn 2172$
với GDP bình quân đầu người là 1100$, GDP tại Thượng Hải, Bắc Kinh,Quảng Đông là trên
2000$. Phần lớn các chuyên gia nhận thấy rằng mua xe theo cách thông thường và mua xe
theo cách vay tài chính sẽ phát triển nhanh chóng khi GDP đạt trên 2000$.
Các đánh giá đầu thống nhất cho rằng thị trường tài chính ô tô – cả cho cá nhân hay
kinh doanh – năm 2002 chiếm 20% trong số 830.000 chiếc đựơc bán (khoảng 166.000 chiếc)
- 8 -
và con số này mong chờ tăng 40% đến 60% trong vòng 5 năm. Kết quả thị trường sẽ đạt được
là 3,25 tỷ đô la. Trong khi đây không phải là 1 con số lớn so với chuẩn của Châu Âu thì nó đủ
để so sánh với các thị trường đặc thù khác trên thế giới (như Brazil) và nó cho phép dự đoán
chính xác chi phí để phát triển thị trường.
Sự việc đề cập trên cho thấy rằng việc không thích mang nợ của người tiêu dùng
Trung Quốc đang mất dần – ít nhất là đối với các thành phố phía nam và đông. Những ước
lượng việc cho vay tiêu dùng có thể được ngoại suy từ các bằng chứng tương tự như sau :
Vào năm 1995, 15.000 cá nhân ở Thượng Hải vay mượn 570 triệu giá trị thế chấp và năm
1999 có 680.000 cá nhân vay mượn 54 tỷ yuan giá trị thế chấp.
Nền công nghiệp phụ thuộc nhiều vào những thông tin chính xác, hợp thời cũng như là
sự thông suốt trong hệ thống quản lý. Dịch vụ thông tin tín dụng ở Thượng hải được xem như
là một nguồn đáng tin cậy cho hơn 1 triệu người dân Trung Quốc. Luật chiếm hữu vật thế
chấp và sự tiếp thị lại các phương tiện xe cộ đã xuất hiện tại Thượng Hải và Bắc Kinh mặc
dù còn mới.
Các lựa chọn cho việc xâm nhập và phát triển thị trường
Có 4 cách để các công ty tài chính ô tô thành lập tại Trung Quốc :
Nhà sản xuất ô tô thành lập công ty con về dịch vụ tài chính ô tô.
Các ngân hàng Trung Quốc có thể thành lập các cơ quan về tài chính ô tô.
Các cơ quan tài chính phi ngân hàng thuộc sở hữu của các tập đoàn có thể thành lập
công ty tài chính ô tô
Các tập đoàn tài chính quốc tế có thể cung cấp dịch vụ tài chính cho bộ phận kinh
doanh của các công ty ô tô.
Bản dự thảo về luật đầu tư nước ngoài đang được lưu hành. Các công ty như VW credit,
Ford Credit, Peugeot/Citroen Credit và GMAC đã đệ trình đơn xin giấy phép kinh doanh.
Trong đó, công ty nào có truyền thống đảm trách đa dạng hóa việc cho vay tài chính ngoài
lĩnh vực tài chính ô tô sẽ năng động trong giai đoạn xâm nhập và phát triển nhanh một khi họ
đã xâm nhập vào thị trường.
Vị thế của GMAC
GMAC và các thế lực tài chính khác trong thị trường ô tô có sự bất lợi về mối quan hệ
với các công ty trong nước vì thị trường vẫn giành cho họ đến tháng 1 năm 2002. Trước đây
GMAC với vai trò là cố vấn cho GM Thượng Hải JV chuyên sản xuất các tiện ích đã lần lượt
tạo được mối quan hệ với các cơ quan cho vay thuộc chính quyền địa phương (China
Construction Bank và Shanghai Bank). Hiện tại GMAC có 1 công ty tại Thượng Hải có vai
trò điều tra thị trường và hỗ trợ cho các hoạt động của GM
- 9 -
Vị thế cạnh tranh của GMAC so với các công ty nước ngoài khác là:
GM là công ty có vốn đầu tư FDI lớn nhất vào Trung Quốc và có quan hệ tốt với chính
phủ Trung Quốc.
GM có nhiều đối tác sản xuất lớn – SGM, Jinbei GM (sản xuất chiếc bán tải Chevrolet
s-10 và chiếc thể thao đa dụng Blazer), Wuling (GM có cô phần của nhà sản xuất ô tô
mini lớn nhất tại thị trương Trung Quốc). Các đối tác này phân phối phần lớn các xe
FDI cho thị trường – chỉ sau VW, Ford Motor credit và Peugeot
GM có nhiều đối tác trong mạng lưới GM (Isuzu,Suzuki,Fiat,Fuji Heavy industries)
Sự thông thạo của GM trong việc cho vay tài chính ô tô thông thường và những khu
vực then chốt phụ thuộc theo sau để thực hiện kinh doanh tại Trung Quốc sẽ cho phép
doanh nghiệp vực dậy và hoạt động. Hãng có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề cho vay ô
tô trong các thị trường đang phát triển với cơ sở hạ tầng chưa hiệu quả. Hợp tác với các cơ
quan tư nhân và nhà nước như Fannie Mae, các công ty con của GMAC (GMAC
Mortgage và GMAC commercial mortgage và Residential Funding Corporation) đã làm
tăng thêm sự thông thạo trong việc chứng khoán hóa vốn cho vay có lợi nhuận, (thế chấp)
sự bảo quản tiền cho vay, sự mua bán và lợi tức thu nhận được đã tạo cho hãng những kĩ
năng cần thiết để làm việc với các đối tác thứ 3 và các đơn vị nhà nước. Cuối cùng, sự tồn
tại của thị trường ở nhiều nước khác trong khu vực thái bình dương đã tạo cho hãng
nguồn nhân lực cần thiết cho việc mở rộng sang Trung Quốc. Những văn phòng này được
bố trí nhân sự nước ngoài từ Trung Quốc và các nước khác nhằm có sự hiểu biết sâu sắc
cho thị trường Trung Quốc hơn là nhân lực của chính GMAC.
Cho dù có rất nhiều cơ hội trong và ngoài nước thì các thách thức vẫn tồn tại. Tỷ giá
tín dụng của Ford và GM bị đánh giá thấp bởi Moody’s and Standard & Poor’s vào năm
2001, đẩy các hãng ô tô ra khỏi các tờ báo thương mại. Các khoản vay với lãi xuất thấp hoặc
không có lãi xuất và các hợp đồng cho vay giá thấp để thúc đẩy doanh số vào năm 2001 đã đe
dọa đến vấn đề tài chính của bộ phận tín dụng của các hãng ô tô. Chẳng hạn như sự thành
công lớn của GMAC bắc Mỹ với 0% huy động vốn trong năm 2001 trong chiến dịch “keep
american rolling” đã ngốn sạch nguồn vốn đáng kể. Thực sự GMAC đã hết sạch tiền mặt cho
thị trường lớn – sự tiếp nhận đầu tư và các yêu cầu đầu tư từ công ty mẹ, thì GM phải đối mặt
với khả năng không được cấp vốn viện trợ và giảm lượng tiền mặt đầu tư vào các sản phẩm
trong tương lai. Ford thậm chí còn gặp phải vấn đề trầm trọng hơn đã làm cho hãng có được
sách lược đầu tư gần đây.
Ý nghĩa của hoạt động toàn cầu
Các công ty tài trợ tư bản trong thị trường ô tô vì 2 lý do :
Hỗ trợ phân phối ô tô và xe tải đến cho người tiêu dùng
Tăng cường vòng quay đầu tư và nguồn tiền mặt của cổ đông.
- 10 -
Trong khi vẫn còn những rủi ro cao và sự thiếu hụt lợi nhuận ngắn hạn, thì thị trường
ô tô Trung Quốc vẫn có giá trị vì những tiềm năng mua bán của thị trường và những tiềm
năng về tài chính trong lĩnh vực thế chập và tài trợ ô tô. Câu hỏi hiện tại là: làm sao phân
phối trên sự tin cậy và sự ủy thác. Và hãng Ford đã chọn lựa thái độ chờ đợi vào thời điểm
này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_dich_8323.pdf