Tiểu luận Thị trường mô tô Việt Nam

- Thực hiện chính sách ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hoá. Sử dụng chính sách này, Chính phủ vừa khuyến khích được các công ty sản xuất và lắp ráp xe sử dụng hàng nội đồng thời tạo động lực cho ngành công nghiệp sản xuất phụ tùng trong nước phát triển. Việc sử dụng chính sách ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hoá này là hoàn toàn tự nguyện, Nhà nước không được ép buộc các doanh nghiệp phải thực hiện và chính sách này phải không được mâu thuẫn với chính sách ưu tiên nhập khẩu linh kiện xe thay vì nhập khẩu xe nguyên chiếc.

doc14 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2554 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thị trường mô tô Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ TÀI CHÍNH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH MARKETING THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LỚP 12CTC – NHÓM 10 GV: Lê Minh Phương Mai MÔN KINH TẾ VI MÔ BÀI TIỂU LUẬN THỊ TRƯỜNG MÔ TÔ VIỆT NAM Thành viên: Ngô Thị Ngọc Nhi Trịnh Thị kim Ming Nguyễn Thị Mỹ Toàn Trần Thị Minh Nguyệt Trần Thị Hạnh Nhi Nguyễn Ngọc Ngân Phạm Nguyễn Phượng Nghi Phạm Xuân Đắc (nhóm trưởng) sdt 0966774698 Trần Minh Thành Huỳnh Thị Mĩ Hiền e-mail nhóm: gandafl3000@yahoo.com NĂM HỌC: 2012-2013 Lý do lựa chọn đề tài Thị trường mô tô là một thị trường cạnh tranh độc quyền( nội dung thuộc kinh tế vi mô) phù hợp với yêu cầu của bài tiểu luận đặt ra. Qua sự trình bày của nhóm người đọc sẽ biết được thế nào là cạnh tranh độc quyền. Do vấn đề về thị trường mô tô Việt Nam còn khá mới mẻ, ít được đề cập đến nên nó là miền đất mới đầy bí ân, cuốn hút sự tò mò của nhóm. Việc tìm kiếm thông tin, tư liệu nghiên cứu về thị trường này cũng không hề đơn giản. Đây chính là những thử thách đầu tiên giúp các thành viên trong nhóm làm quen với cách học tập ở môi trường mới( học tập – nghiên cứu). Ngoài ra mô tô là một sản phẩm hiện đại, mang tính thẩm mĩ cao, được nhiều người ưa thích nên rất cuốn hút người đọc. Vì thế thông qua bài này nhóm muốn đem lại những hiểu biết mới về mô tô cho mọi người. Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về thị trường và tình hình thị trường. phân tích thực trạng cạnh tranh trên thị trường. Chỉ ra những thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân đồng thời đề xuất các giải pháp giúp doanh nghiệp phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình cũng như phát triển thị trường trong tương lai. Cơ sở lý thuyết Thị trường: Khái niệm: - Thị trường theo nghĩa hẹp: là tập hợp các thỏa thuận thông qua đó người bán và người mua tiếp cận nhau để mua bán hàng hóa và dịch vụ. - Theo nghĩa rộng: thị trường bao gồm tất cả các khách hàng hiện tại và tương lai có cùng một nhu cầu, mong muốn và có khả năng mua, bán, trao đổi một hàng hóa, dịch vụ cụ thể để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn đó. Nói cách khác thị trường diễn tả sự tương tác giữa người sản xuất và người tiêu dùng, giữa người mua, người bán để hình thành giá cả và sản lượng hàng hóa giao dịch. Tóm lại, thị trường diễn tả sự tương tác giữa người tiêu dùng( tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho cá nhân) với người sản xuất( các công ty, doanh nghiệp) để thông nhất về giá mua, giá bán, lượng mua, lượng bán và các bên đều đạt được mục đích của mình Phân loại: theo mức độ chiếm lĩnh thị phần: Có bốn loại thị trường: thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh độc quyền, thị trường độc quyền nhóm và thị trường độc quyền. Cạnh tranh độc quyền(bán cạnh tranh) Khái niệm: Là một thị trường có vô số ngời mua, vô số người bán, mua những sản phẩm giống hệt nhau hoặc khác nhau chút ít(dị biệt), người mua, người bán có chút ít thế lực độc quyền để có thể kiểm soát sản lượng và giá cả sản phẩm của mình. Đặc điểm: Có rất nhiều người mua, người bán( tuy nhiên không đủ điều kiện để trở thành thị trường cạnh tranh hoàn toàn) Sản phẩm không đồng nhất mà mang tính dị biệt, khả năng thay thế cao nhưng không thể thay thế hoàn toàn(còn thị trường độc quyền là không thể thay thế ). Mỗi doanh nghiệp có một tỷ trọng nhỏ so với thị trường, nhưng tính dị biệt của sản phẩm làm cho nó có chút ít thế lực độc quyền, có thể kiểm soát sản lượng và giá cả sản phẩm của mình. Nhiều người bán tự do gia nhậpvà rút lui khỏi ngành. 2.2 Giải thích các thuật ngữ, lý thuyết liên quan: Cầu: số lượng hàng hóa mà người mua muốn mua và có khả năng mua ở những mức giá khác nhau trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, trong một khoảng thời gian nhất định. Cung: là lượng hàng hóa, dịch vụ nhà sản xuất sẵn lòng cung và có khả năng cung ứng tại mỗi mức giá, trong một khoảng thời gian nhất định, với các yếu tố khác không đổi. Thuế tiêu thụ đặc biệt: là sắc thuế đánh vào các mặt hàng chưa thực sự thiết yếu đối với cuộc sống, những mặt hàng xa xỉ, cao cấp. Thuế nhập khẩu: là loại thuế của một quốc gia đánh hay vùng lãnh thổ đánh vào hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài trong quá trình nhập khẩu. Thuế VAT(Value Added Tax): nghĩa là thuế giá trị gia tăng, nó là một loại thuế gián thu được đánh vào người tiêu dùng cuối cùng mặc dù chủ thể đem nộp cho cơ quan thuế là doanh nghiệp. Thuế gián thu: là một bộ phận cấu thành nên giá của sản phẩm. Thuế gián thu là hình thức thuế gián tiếp qua một đơn vị trung gian (thường là các doanh nghiệp) để đánh vào  người tiêu dùng.Thuế gián thu là thuế mà người chịu thuế và người nộp thuế không cùng là một. Mô tô: là xe gắn máy có bình xăng ở phía trước và là dạng xe thể thao. Trích nguyên văn thông tư của luật giao thông đường bộ: “Xe mô tô hai bánh là xe cơ giới có hai bánh, di chuyển bằng động cơ có dung tích xi lanh từ 50cm3 trở lên và tổng trọng lượng toàn xe không vượt quá 400 ki-lô-gam”. GDP (Gross Domestic Product): là tổng sản phẩm nội địa hay giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Thực trạng Quá trình hình thành và phát triển của thị trường mô tô Sự hình thành và những khó khăn gặp phải của thị trường: Từ khi sản phẩm xe máy du nhập vào Việt Nam hình thành nên thị trường xe máy thì lúc đó những chiếc xe mô tô cũng được du nhập vào Việt Nam. Dần dần thị trường xe máy được mở rộng và phát triển thành một mặt hàng thiết yếu thì xe mô tô cũng bắt đầu cũng được chú ý đến như là một sản phẩm cao cấp của xe gắn máy. Tuy mới chỉ là những sản phẩm đơn lẻ số lượng ít nhưng đó chính là mầm mống của sự ra đời thị trường mô tô Việt Nam sau này. Thời điểm đó (2006 trở về trước – khi chưa gia nhập WTO), nhà nước đánh thuế( thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế VAT, …) cao, hạn chế cấp phép để hạn chế nhập khẩu mô tô cộng với điều kiện về khoa học, công nghệ, kỹ thuật cũng như cơ sở vật chất, hạ tầng làm cho giá cả đầu vào bị đẩy lên rất cao. Làm thị trường mô tô gặp muôn vàn khó khăn gần như không phát triển. Chỉ có một số lượng rất ít những sản phẩm xe được nhập về. Thị trường mô tô chưa được chú trọng đầu tư, xu hướng sử dụng xe mô tô của người dân chưa nhiều, do vóc dáng, địa hình(đường xá) chưa chuẩn, điều kiện kinh tế còn khó khăn trong khi chi phí mua một chiếc xe mô tô rất cao do chụi nhiều loại thuế. Ngoài chi phí mua xe thì việc bảo dưỡng xe và vận hành phương tiện cũng tiêu tốn không ít tiền bạc. Tuy nhiên vào thời điểm đó vẫn có một số ít doanh nghiệp được cấp phép nhập khẩu, sản xuất lắp ráp mô tô như công ty Hồng Đà,… Đây chính là tiền đề cho sự phát triền của mô tô sản xuất, lắp ráp trong nước sau này. Đến năm 2006, việc Việt Nam gia nhập WTO là một bước ngoặt mở đầu cho sản phẩm mô tô đến với người dân Việt. Tuy các loại thuế chưa được giảm bớt hay xóa bỏ, nhưng đã mở cửa hơn cho các doanh nghiệp nhập xe cũng như linh kiện để sản xuất lắp ráp. Tiếp đó tuy là thị trường mới mẻ nhưng đã có nhiều hãng đã xuất xe sang thị trường Việt Nam làm sự cạnh tranh giữa các showroom nhâp khẩu được đẩy lên cao phục vụ nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. VD: Honda, Yamaha, Kawasaki, harlay, chopper… Kể tử năm 2008, khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra. Nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng, các công ty bị giảm doanh thu, lợi nhuận; người dân cũng khó khăn, thu nhập giảm. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường xe mô tô Việt Nam. Khiến thị trường mô tô lâm vào tình trạng ảm đạm. Tình hình hiên tại: Các vấn đề về cung của thị trường: Về vốn đầu tư: So với đầu tư vào đại bộ phạn các thị trường khác vốn đầu tư vào thị trường mô tô là cao hơn rất nhiều, có thể nói là rất lớn. Về sản phẩm: đặc điểm của thị trường là sản phẩm mang giá trị rất cao. Mỗi mô tô có đến hàng ngàn, có khi chục ngàn chi tiết, bộ phận khác nhau. Các chi tiết, phụ tùng lại được sản xuất với những công nghệ có đặc điểm khác biệt. Chi tiết, phụ tùng của mỗi chiếc xe không phải lúc nào cũng có thể dùng chung với các loại xe khác. Về mạng lưới tiêu thụ: Do đặc tính sản phẩm mang giá trị cao nên cần thiết phải được hưởng các dịch vụ chăm sóc sau bán hàng khá thường xuyên như bảo dưỡng, sửa chữa. Chính vì thế nên từ khi ra đời thì sản phẩm mô tô đã chọn cách tiêu thụ sản phẩm của mình thông qua các đại lý, showroom mà không bán trực tiếp. Chẳng hạn như Công ty TNHH MOTORROCK là thành viên của REBELUSA Motor Corp, chuyên phân phối lẻ các nhãn hiệu mô tô nổi tiếng trên thế giới như: HONDA, YAMAHA, KAWASAKI, AQUILA, REBELUSA, VISITOR, BENELLI, MEGELLI, ROYAL ENFIELD …, và cung cấp phụ tùng chính hãng, với hệ thống gồm 15 showroom, 50 đại lý ở khắp các tỉnh thành trên cả nước. Thị trường bao gồm 2 sản phẩm hàng hóa là xe nhập khẩu nguyên chiếc và xe sản xuất, lắp ráp trong nước. Một số hãng đang thịnh hành: Rebel usa, Honda, Suzuki, Yamaha, Kawasaki, Visitor, Benelli… Với các dòng xe như: Notus, CB, Hotway, Phoenix, Visitor, Stealer, Chopper, CBR, Harlay Davision… Xe sản xuất, lắp ráp trong nước có thế mạnh về giá cả rẻ hơn phù hợp hơn với thu nhập của người dân. Còn với ưu thế về chất lượng, thương hiệu cũng như thị phần sãn có mình các hãng xe nước ngoài đã và đang gần như thống trị thị trường mô tô Việt với sản phẩm xe nhập của mình. Theo số liệu thống kê sơ bộ của tổng cục hải quan, nhập khẩu xe gắn máy nguyên chiếc các loại vào Việt Nam trong tháng 8/2012 đạt 3.305 chiếc, tương đương kim ngạch 7,56 triệu USD, tăng lần lượt 84,6% và 116% so với một tháng trước đó. Kim ngạch nhập khẩu xe máy nguyên chiếc 4 tháng gần đây Lượng (chiếc) Giá trị (USD) Tháng 4/2012 2.000 2.000.000 Tháng 5/2012 2.000 3.000.000 Tháng 6/2012 4.000 7.000.000 Tháng 7/2012 (ước tính) 2.000 4.000.000 Nguồn: Tổng cục Thống kê Về phần xe sản xuất trong nước tuy giá trị thì không cao bằng nhưng số số lượng xe bán ra cũng không phải là ít. DOANH SỐ BÁN RA TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2011 VÀ DỰ KIẾN DOANH SỐ NĂM 2012 Của Rebel USA Năm Doanh số bán(xe) Năm 2006 2800 Năm 2008 3600 Năm 2010 4500 Năm 2011 5500 Năm 2012 6000(dự kiến) Một doanh nghiệp khác là Piaggio Việt Nam công bố chỉ sau 3 tháng kể từ ngày bán chiếc xe đầu tiên được sản xuất tại Việt Nam đã có 10.000 xe xuất xưởng. Năm 2009, Piaggio Việt Nam đã bán được 22.300 chiếc xe, tức là khoảng 3.500 - 4.000 chiếc/tháng. Kể từ 8 tháng đầu năm nay, tổng nhập khẩu xe gắn máy vào nước ta đã giảm 50,3% về số lượng và 36,3% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái, xuống còn 24.582 chiếc, trị giá 43,3 triệu USD. Diễn biến cùng chiều với xe nguyên chiếc, kim ngạch nhập khẩu linh kiện, phụ tùng xe vào Việt Nam trong 8 tháng đầu năm cũng giảm 24,4% so với cùng kỳ năm ngoái xuống còn 362 triệu USD. Các vấn đề về cầu của thị trường: Về xu hướng: theo khảo sát về thị trường thì người chơi xe đang dần có xu hướng chuyển sang các dòng Naked bike(naked có nghĩa là trần trụi, các tay đua xe đã tháo bỏ hết những thứ đựơc xem là cồng kềnh để chỉ còn 1 đúng nghĩa 1 chiếc xe dùng để “đua”) dễ điều khiển, gọn gàng và phù hợp hơn với điều kiện cơ sở vật chất hạ tầng Việt Nam hơn như Kawasaki Z1000, Honda CB1000r… Lý giải điều này, anh Tùng ở cửa hàng Saigon Moto nhận xét: “Dòng Sport bike là dòng xe đua có thân dài. Khi điều khiển, người lái phải đổ nhiều về phía trước nên chỉ phù hợp cho những đường đua tốc độ cao. Với điều kiện đường xá ở Việt Nam thì dòng Naked là một lựa chọn sáng suốt, bởi vì xe dễ điều khiển hơn trong thành phố và tư thế ngồi cũng thoải mái hơn. Đó là xu hướng chung của giới trẻ, còn đối với những người đã đứng tuổi thì Harley Davidson là lựa chọn hàng đầu vì kiểu dáng cổ điển, động cơ mạnh mẽ và tiếng pô trầm đặc trưng”. Hiện nay, thị trường có khá nhiều dòng xe phục vụ cho nhu cầu đa dạng của người sử dụng Việt Nam như dòng sportbike, naked, off-road, hầm hố cổ điển như Harley Davidson. Trước đây, thị trường mô tô thể thao Việt Nam lại bị khuấy động bởi những loại mô tô nhỏ, tuy nhiên những mẫu xe được chuộng trong thời gian trước như CB125R hoặc Phoenix 125R của Rebel giờ không còn là “mốt”. Người tiêu dùng chuộng những tên tuổi lớn như Honda, Kawasaki, Ducati… nhiều hơn. Anh Nguyễn San Miên Nhiệm, chủ nhân chuỗi cửa hàng Motor Sport chia sẻ: “Việt Nam là một nước đang phát triển, càng ngày càng nhiều người làm ăn khấm khá nhờ đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều đó dẫn đến việc gia tăng nhu cầu trải nghiệm những “hương vị mới” trong cuộc sống và thú chơi mô tô là một ví dụ điển hình. Nhận thấy được tiềm năng đó, khá nhiều showroom đã được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu lớn của người tiêu dùng. Đặc biệt, sự xuất hiện gần đây của “ông lớn” Benelli với tuổi đời hơn 100 năm càng làm khuấy động thêm các mẫu xe độc và lạ tranh nhau nhập khẩu về Việt Nam.” Tuy nhiên đã gọi là chơi xe thì ai cũng muốn mình sở hữu một chiếc mô tô khủng, độc, chất lượng cao, thương hiệu nổi tiếng, uy tín và người chơi thường có tâm lý hướng ngoại… vì thế một chiếc mô tô có giá cao từ 10 000USD đến vài chục ngàn USD là chuyện bình thường. Và vì không phải ai cũng đủ tiền để mua được chiếc xe ưng ý nên trên thị trường giá cả của các dòng xe rất đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu về chất lượng, mẫu mã cũng như giá cả phù hợp. Dòng xe, loại xe Giá Piaggio Beverly 143 triệu đồng Ducati 15 000 – 70 000 USD Vulcan 900 Custom 17 000 USD CB175R Extreme  76.590.000 đồng CB250R Extreme 85.590.000 đồng Ngoài ra, các dòng mô tô khủng có dung tích động cơ từ 400 đến 18.000 cc, với giá bán khoảng 20.000-52.000 USD, được nhập khẩu nguyên chiếc, cũng đã góp mặt đa dạng ở showroom. Sự xuất hiện ngày càng nhiều của những dòng xe máy đắt tiền được nhập khẩu nguyên chiếc, mà giá bán không kém một chiếc ô tô hạng trung, không chỉ phản ánh nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng, mà còn phản ánh cả nhu cầu muốn khẳng định vị thế của người sở hữu những chiếc xe này. Theo thống kê của ngành hải quan, năm 2009, có khoảng 115.000 chiếc xe với giá trị 132 triệu USD đã được nhập khẩu vào Việt Nam; còn tính tới hết ngày 15/12/2010, đã có 92.654 chiếc xe nguyên chiếc được nhập khẩu, với giá trị 117 triệu USD. Theo các chuyên gia nước ngoài, không có nước nào giống thị trường xe gắn máy Việt Nam: càng ùn tắc giao thông thì lượng xe tiêu thụ càng tăng vọt, giá cũng giữ mức cao. Chỉ trong năm 2007, có ít nhất đến 3 liên doanh xe máy trong nước lần lượt khởi công xây dựng thêm nhà máy mới.  Giám đốc một doanh nghiệp sản xuất xe máy trong nước cho rằng: “So với mức trên thì ở nước ta phải đến 32 triệu xe máy thì mới bão hòa, còn hiện nay mới hơn 17 triệu chiếc thì chưa là vấn đề...” vì thế lượng cầu kỳ vọng của mô tô cũng không phải là nhỏ. Những dấu hiệu lạc quan về sự phát triển của thị trường: Bất chấp những khó khăn của khủng hoảng kinh tế thế giới, các nhà nhập khẩu mô tô Việt Nam vẫn duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Chỉ tính riêng trong những tháng gần đây, mỗi tháng đã có trên dưới 5 mẫu mô tô được các đơn vị chuyên nhập khẩu và phân phối đưa về thị trường trong nước. Từ các dòng mô tô thể thao phân khối lớn của Honda, Kawasaki, hay Yamaha cho đến những chiếc siêu mô tô đắt tiền như Ducati, BMW, Harlay. Tuy nhiên điều đáng mừng nhất của thị trường mô tô chính là việc phong trào chơi mô tô phân khối lớn đang nở rộ khắp các tỉnh thành trên cả nước. các câu lạc bộ chơi mô tô xuất hiện ngày càng nhiều cùng với số lượng thành viên không ngừng tăng lên. Cạnh tranh ngày càng khốc liệt: Những tín hiệu lạc quan từ thị trường mô tô cùng với nhu cầu đa dạng của khách hàng khiến sự cạnh tranh giữa các showroom nhập khẩu mô tô được đẩy lên cao. Tại thị trường Việt Nam đã xuất hiện ít nhất 5 showroom chuyên nhập khẩu và phân phối các dòng mô tô phân khối lớn là Saigonmoto, Motosport, Ducati Việt Nam, Motorrock và Benelli. Tuy nhiên vì các lý do như đã nêu ở mục 3.1 thì xe nhập đã chiếm lĩnh hầu hết thị phần ở thị trường xe mô tô Việt Nam nên sự cạnh tranh giữa các sản phẩm nhập chưa tạo ra những chuyển biến tích cực cho người mua. Với lịch sử lâu đời, ưu thế vượt trội về chất lượng, mẫu mã, thương hiệu các dòng xe nhập đã và đang chi phối mạnh mẽ thị trường. Có thể dễ dàng thấy được sự chiếm lĩnh của các mặt hàng xe nhập trên thị trường mô tô hiện nay nhưng hiện nay các sản phẩm sản xuất lắp ráp trong nước với ưu thế về giá cả cũng đã cạnh tranh mạnh mẽ với các loại xe nhập. Năm 2007, bộ công thương chính thức cho phép một số công ty được phép sản xuất xe gắn máy và đến năm 2010 chính là dấu mốc quan trọng đánh dấu bởi Rebel usa, đây là doanh nghiệp tiên phong trong ngành xe gắn máy tại Việt Nam chính thức được S&T Motor (Hàn Quốc) chuyển giao giấy phép và công nghệ lắp ráp dòng xe thể thao phân khối lớn Hyosung Aquila GT650. Lần đầu tiên một dòng xe phân khối lớn có dung tích xi lanh trên 600cc được doanh nghiệp trong nước lắp ráp theo quy chuẩn quốc tế. Ngoài ra còn một số dòng xe khác như chopper, visitor, CB, Notus… mang thương hiệu Việt Nam được thiết kế phù hợp với vóc dáng người Việt và giá cả phù hợp với mức thu nhập trung bình của người dân. Ngoài ra hiện nay còn có một xưởng xe độ đầu tiên ở Việt Nam của Rebel. Chuyên sản xuất độc theo yêu cầu của khách hàng. Điều này thể hiện trình độ khoa học, công nghệ, kỹ thuật cũng như cở sở vật chất của ngành công nghiệp sản xuất xe gắn máy của nước ta ngày càng phát triển hoàn toàn có thể thay thế cho các sản phẩm ngoại nhập. Chưa kể Rebel đã thực hiện dự án sản xuất lắp ráp xe chuyên dụng phục vụ cho ngành CSGT, kiểm soát quân sự, Giao thông công chánh, các công ty vệ sĩ với nhiều chủng loại. Như vậy với sự cạnh tranh giữa các sản phẩm xe nhập với nhau, giữa xe nhập và sản xuất lắp ráp trong nước(giá cả, chất lượng ngày càng được nâng cao, đang dần thay thế xe ngoại nhập). Đây là một dấu hiệu tích cực đối với người tiêu dùng, giúp thị trường ngày càng được mở rộng và phát triển. Thị trường mô tô hiện nay là một thị trường cạnh tranh độc quyền: Đây là thị trường cạnh tranh độc quyền bởi các đặc điểm sau: Thị trương mô tô có hai loại sản phẩm được mua bán trên thị trường là xe nhập khẩu nguyên chiếc và xe sản xuất, lắp ráp trong nước. Hai sản phẩm này đều là xe mô tô và mang các chức năng tương tự nhau nhưng có một số đặc điểm khác nhau và vẫn có thể thay thế nhau. Là một thị trường có nhiều người mua, người bán(các công ty sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu và mỗi công ty đó lại có rất nhiều đại lý, showroom để phân phối sản phẩm đến người mua chưa kể số lượng các dòng xe để người mua lựa chọn cũng rất là nhiều). Với lợi thế về công nghệ, chất lượng, thương hiệu và thị phần sẵn có. Các hãng nước ngoài đã nhanh chóng chiếm lĩnh hầu hết thị trường mô tô Việt Nam(vd: Honda, Suzuki, Benelli…). Những thuận lợi và khó khăn để phát triển thị trường mô tô Thuận lợi: Nhà nước đã nới lỏng các chính sách hạn chế sử phát triển của ngành và ban hành một số chính sách tích cực với thị trường. Khoa học kỹ thuật, cơ sở vật chất hạ tầng ngày càng được nâng cao, phát triển. Nền kinh tế cũng như đời sống nhân dân cũng ngày càng được nâng cao. Các doanh nghiệp ngày càng phát triển và lớn mạnh. Vẫn đứng vững trước những biến động của thị trường. WTO với các quy định của mình đã tạo ra những chuyển biến to lớn đến thị trường. Các hãng mô tô du nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều mang lại nhiều sự lựa chọn hơn. Thu nhập của người dân ngày càng cao, nhu cầu, thị yếu về thẩm mĩ, thể hiện bản thân cũng theo đó mà cầu kì hơn và mô tô đáp ứng được điều đó. Khi muốn mua một sản phẩm phục vụ nhu cầu đi lại đẹp hơn, tốt hơn, sang trọng hơn xe máy mà không phải là ô tô thì sựa lựa chọn hầu như sẽ là xe mô tô. Sự cạnh tranh của thị trường phần nào có những lợi ích cho người mua. Ngoài xe nhập giá cao thì các sản phẩm xe sản xuất trong nước với cùng chủng loại, chất lượng có giá mềm hơn nhiều. Chưa kể các dòng xe nhập cũng bắt đầu có những loại giá rẻ(vd: Suzuki mới đây tung các dòng xe giá rẻ chỉ trên dưới 200 triệu đồng, có loại chỉ vài chục triệu) Người chơi xe ngày càng có kinh nghiệm trong việc chơi xe. Họ còn thường xuyên trao đổi giao lưu với nhau, giúp đỡ nhau về kinh nghiệm mua xe. Điều này giúp cho chất lượng sản phẩm khi mua về luôn đạt cao nhất có thể. Đây cũng là một thị trường có doanh thu rất cao vì thế lợi nhuận của nó rất hấp dẫn. Khó khăn: Là một thị trường sinh sau đẻ muộn so với các thị trường khác và so với các nước khác trong khu vực, nhà nước vẫn còn muốn bảo hộ thị trường xe máy trong nước nên chưa quan tâm đúng mức, đầu tư đúng với tiềm năng của nó. Một chiếc xe đến với người mua còn chụi rất nhiều loại thuế: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế VAT, thuế nhập khâu… chưa kể các chi phí vận hành bảo dưỡng cũng không phải là nhỏ. Thị trường mô tô là một thị trường mới mẻ, sản xuất nhỏ, lại có ít nhà sản xuất lắp ráp, thiếu nhà cung cấp nội địa về linh kiện, phụ tùng. Vì thế các nhà cung cấp còn phụ thuộc rất nhiều vào các sản phẩm xe nhập. Xu hướng sử dụng xe mô tô của người dân Việt Nam chưa nhiều(do điều kiện về kinh tế, nhu cầu…). Vóc dáng, địa hình(đường xá), hệ thống giao thông vận tải, giấy tờ, thủ tục để điều khiển được một chiếc mô tô còn nhiều hạn chế. Năm 2012, khủng hoảng kinh tế thế giới(nợ công châu Âu) làm nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng khiến các công ti giảm doanh thu, lợi nhuận…; người dân cũng gặp khó khăn do thu nhập giảm. Các nhân tố chủ quan (phía doanh ngiệp): một số doanh nghiệp còn chưa kịp đổi mới, đưa ra giải pháp để phát triển theo kịp sự thay đổi mau lẹ của nền kinh tế. Xe sản xuất, lắp ráp trong nước mới chỉ cạnh tranh được với phân khúc thị trường xe giá rẻ chứ chưa cạnh tranh nổi với phân khúc giá cao của xe nhập. Ngày càng có nhiều hãng xe du nhập vào thị trường Việt Nam như: Suzuki, Benelli, Medeli…. Đó đều là những hãng được đánh giá sẽ khuấy động thị trường mô tô Việt. Sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp còn khá chênh lệch. Để có thể tham gia thị trường thì phải có một nguồn vốn lớn, thu hồi vốn chậm, trình độ khoa học kỹ thuật và cơ sở vật chất hạ tầng phải cao… Với ưu thế của mình các sản phẩm xe nhập đã chiếm lĩnh phần lớn thị phần, làm giá cả bị đẩy lên cao gây thiệt thòi cho người mua. Giải pháp để mở rộng và phát triển thị trường Một số kiến nghị đối với nhà nước: Thực hiện chính sách ưu tiên về linh kiện xe nhập khẩu. Việc dành những ưu tiên trong nhập khẩu các linh kiện đối với các công ty sẽ tạo điều kiện cho các công ty này có điều điện giảm giá thành cho mỗi chiếc xe, nâng cao sức cạnh tranh(cạnh tranh về giá) so với các đối thủ trên thị trường. Từ đó sẽ góp phần đẩy manh hoạt động phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty. Thực hiện chính sách ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hoá. Sử dụng chính sách này, Chính phủ vừa khuyến khích được các công ty sản xuất và lắp ráp xe sử dụng hàng nội đồng thời tạo động lực cho ngành công nghiệp sản xuất phụ tùng trong nước phát triển. Việc sử dụng chính sách ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hoá này là hoàn toàn tự nguyện, Nhà nước không được ép buộc các doanh nghiệp phải thực hiện và chính sách này phải không được mâu thuẫn với chính sách ưu tiên nhập khẩu linh kiện xe thay vì nhập khẩu xe nguyên chiếc. Tạo điều kiện để các công ty sản xuất có thể mở rộng quy mô sản xuất, lắp đặt các dây chuyền sản xuất mới phục vụ cho việc tăng công suất sản xuất. Như các chính sách về thuế đối với việc nhập khẩu công nghệ lắp ráp hiện đại, khuyến khích các công ty mở rộng sản xuất ở những thị trường ngoài thành phố. Tách thuế tiêu thụ và thuế nhập khẩu: giảm bớt được số lượng các mức thuế cao, giảm số lượng mức thuế nhập khẩu. Thực hiện quy luật làm tròn thuế: vd 1%,2% làm tròn về 0% hoặc 3%,4% về 5%. Giảm bớt các loại phí, lệ phí, thủ tục không cần thiết liên quan đến việc mua bán và sử dụng xe mô tô. Tăng các loại phí cần thiết như bảo trì đường bộ, phí bảo hiểm… để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ. Nghiên cứu, áp dụng rào cản thương mại quốc tế theo khuôn khổ WTO để bảo hộ sản phẩm sản xuất, lắp ráp trong nước. Nhằm hạn chế phần nào sự chi phối của các sản phẩm xe nhập tới thị trường trong nước, đảm bảo lợi ích người dân. Phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp, sử dụng các sản phẩm xe mô tô sản xuất, lắp ráp trong nước vào an ninh quốc phòng, bảo vệ trật tự xã hội. Đấu tranh ngăn chặn hiên tượng buôn lậu và gian lận thương mại. Về phía doanh nghiệp: Chuyên môn hóa, hợp tác trong sản xuất. Đẩy mạnh việc khảo sát, dự báo tình hình sản xuất và nhập khẩu mô tô, nhu cầu phổ thông, nhu cầu xe cao cấp để điều tiết sản xuất phù hợp. Xây dựng chính sách giá cả hợp lý. Chú trọng vấn đề bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh việc đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao, xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đẩy mạnh các biện pháp hỗ trợ cho việc tiêu thụ sản phẩm: marketting, quảng cáo sản phẩm, thành lập các câu lạc bộ mô tô, tư vấn khách hàng, có bảo hành, chương trình bảo dưỡng định kì… Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay thì khó khăn là điều không thể tránh khỏi vì thế doanh nghiệp còn phải áp dụng các biện pháp: sản xuất cầm chừng, tinh lọc nhân sự, giảm sản lượng để giảm tối đa chi phí đầu vào và đảm bảo lượng cung không bị dư thừa. Đề xuất của nhóm: Phát huy những ưu điểm thuận lợi của thị trường để phát triển nó: tận dụng tối đa các ưu đãi của nhà nước, tranh thủ khoảng thời gian từ nay cho đến 2020 trước khi các chính sách hạn chế nhập khẩu, bảo hộ thị trường trong nước hết hiệu lực. Nghiên cứu, mở thêm các xưởng sản xuất xe độ phục vụ nhu cầu chơi xe độc của giới chơi xe. Đa năng hóa xe mô tô để thêm sự lựa chọn cho người sử dụng xe máy và ô tô. Và điều quan trọng nhất mà nhóm đưa ra là nhà nước cần cân nhắc kĩ sự được mất của các chính sách về thuế để không rơi vào tình trạng như thị trường ô tô(các doanh nghiệp ỷ y vào sự bảo hộ của các chính sách thuế, chỉ thấy cái lợi trước mắt của việc lắp ráp linh kiện mà không chụi đẩy mạnh nâng cao công nghệ, chất lượng của sản phẩm và hậu quả là khi không còn sự bảo hộ của nhà nước nữa thì hoàn toàn bất lực không cạnh tranh nổi với các sản phẩm nhập ngoại). Các doanh nghiệp cần xác định rõ, xây dựng chiến lược trong dài hạn. Phải nâng cao về công nghệ, khoa học, kĩ thuật không nên chỉ vì lợi ích trước mắt mà phụ thuộc quá nhiều vào việc lắp ráp và các chính sách có lợi từ nhà nước. Nếu doanh nghiệp xác định chỉ tham gia một thời gian rồi rút khỏi thị trường thì trường thì việc tận dụng các chính sách của nhà nước để tối đa hóa lợi nhuận trong ngắn hạn thì cũng không phải là một giải pháp tồi. Tuy nhiên điều này chỉ mang lại một khoản doanh thu lớn trong tức thời và đóng góp không nhiều cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Vì lợi ích lâu dài cho toàn nhân loại thì các doanh nghiệp cũng phải chú ý đến cả các vấn đề về môi trường. Con người là nhân tố quan trọng và quyết định nhất đến sự thành bại trong sự phát triển của doanh nghiệp, thị trường cho nên các doanh nghiệp cần phải chú trọng ưu tiên hàng đầu cho việc này và phải ngày càng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Kêt luận Có thể nói thị trường mô tô Việt Nam đang trải qua những bước đi đầu tiên đầy khó khăn, thách thức. Sự phát triển của ngành không phải chị do nhu cầu mà còn liên quan rất nhiều đến chính sách thuế quan của nhà nước trong việc định hướng phát triển. Hơn nữa do xu thế khách quan, tất yếu của toàn cầu hóa kinh tế thế giới mà trước mắt là những cam kết thực hiên AFTA và WTO. Thị trường mô tô Việt Nam phải có những bước đi đúng đắn để phát triển cùng với xu thế hội nhập. Cạnh tranh độc quyền của thị trường tuy không chuyển biến trong một sớm một chiều nhưng dần dần cạnh tranh sẽ quyết liệt hơn và lợi ích của người mua ngày càng được cải thiện, thị trường sẽ ngày càng được mở rộng và phát triển, đóng góp ngày càng lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Đề tài này đã tổng kết được một phần nhỏ những vấn đề chủ yếu, quan trọng nhất và các vấn đề liên quan của thị trường đến công tác phát triển thị trường. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển thị trường. Hi vọng rằng, với những giải pháp trên sẽ đóng góp được một phần nhỏ vào sự phát triển của thị trường. Tuy nhiên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế trong quá trình nghiên cứu và làm bài. Chúng em chân thành cảm ơn và mong nhận được sự góp ý của cô cũng như tất cả những ai quan tâm tới đề tài này nhằm hoàn thiện đề tài hơn nữa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTIỂU LUẬN THỊ TRƯỜNG MÔ TÔ VIỆT NAM.doc
Luận văn liên quan