Tiểu luận Thực trạng môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến sản xuất của ngành may mặc của nước ta và biện pháp phát triển

Ta thấy rằng cấu trúc ngành dệt may là một ngành phân tán với rất nhiều các doanh nghiệp sản xuất vơi quy mô khác nhau như May 10 , My Nhà Bè, May Việt Tiến, May Thăng Long Nhưng trong các doanh nghiệp này không có doanh nghiệp nào thống trị về thị trường trong nước dẫn tới thị trường cạnh tranh là rất lớn. Cạnh tranh càng gay gắt làm cho giá thành sản phẩm giảm xuống Bởi các doanh nghiệp may cạnh tranh chủ yếu bằng giá vì ưu thế của sản phẩm may lẩn xuất với quy mô và số lượng lớn .

pdf40 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6839 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến sản xuất của ngành may mặc của nước ta và biện pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ểu ma trận khác nhau để phân tích môi trường kinh doanh sao cho đạt kết qu¶ vµ hiÖu qu¶ cao nhÊt. 1.5 C¸ch thøc khai thac m«i tr­êng kinh doanh Như trên đã phân tích chúng ta thấy rõ ảnh hưởng sâu rộng của môi trường kinh doanh đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc nói riêng. Đồng thời chúng ta cũng thấy rõ tầm quan trọng và sự cần thiết phải phân tích môi trường kinh doanh. Để phân tích môi trường kinh doanh mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành tuỳ thuộc vào mặt hàng hay lĩnh vực kinh doanh cũng như khả năng của từng doanh nghiệp mà có các biện pháp khai thác moi trường kinh doanh khác nhau. Nhưng tổng quát nhất để khai thác môi trường kinh doanh các doanh nghiệp, các ngành cần phải tiến hành các bước sau: 1.5.1 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin về môi trường kinh doanh Người Trung Quốc có câu “ Muốn làm giàu,thông tin phải đi đầu” câu nói ấy cho thấy tầm quan trọng của “thông tin” khi giải quyêt hay tiến hành bất cứ công việc gì. Đặc biệt trong môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt, thì việc có được nguồn thông tin đáng tin cậy, kịp thời, đầy đủ sẽ giúp doanh nghiệp thành công trong kinh doanh. Thông tin là cơ sở là nguồn gốc của các hoạch định về chiến lược và kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin về môi trường kinh doanh là việc làm hết sức cần thiết và cần phải đặt lên hàng đầu. Để tổ chức và xây dựng hệ thống thông tin 1 cách hiệu quả thì trước hết doanh nghiệp cần phải xác định nhu cầu về các loại thông tin cần thiết, sau đó đến mức độ và thời gian cần, rồi căn cứ vào khả năng tài chính của doanh nghiệp để tiến hành thu thập, phân tích, xử lý, đánh giá thông tin. Đối với doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc, trước khi quyết định sản xuất lô quần áo kiểu gì, mẫu mã thế nào, sẽ bán với mức giá nào… thì cần phải tiến hành nghiên cứu thị trường, khách hàng nhằm xác định các thông tin về thị trường, khách hàng có nhu cầu về quần áo như thế nào, khả năng thanh toán của họ ra sao, các sản phẩm may khác có khả năng thay thế sản phẩm của doanh nghiệp mình, dung lượng thị trường, các doanh nghiệp cung cấp vải sợi… Trước hết doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống thông tin về bản thân doanh nghiệp. Những thông tin đó bao gồm doanh thu bán hàng, dịch vụ,chi phí để sản xuất 1sản phẩm, hàng tồn kho, lưu lượng tiền mÆt, kho¶n ph¶I thu, kho¶n ph¶I tr¶… Hầu hết các thông tin này đều được đưa lên mạng nội bộ của doanh nghiệp. Việc xây dựng hệ thống thông tin về doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp chủ động nắm chắc tiềm lực của doanh nghiệp để sẵn sàng huy động và có biện pháp sử dụng hợp lý và có hiệu quả nhằm phát huy tối đa lợi thế của doanh nghiệp. Hai là doanh nghiệp cần xây dựng hệ thống thông tin về môi trường bên ngoài. Đó là hệ thống thông tin về môI trường vĩ mô và môi trường tác nghiệp. Do đây là môi trường đa yếu tố nên cùng một lúc có thể có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều quan trọng doanh nghiệp phải biết đánh giá xem trong những nhân tố đó thì đâu là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn đối với doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc ở nước ta, yếu tố thời tiết mà điển hình là các mùa trong năm ảnh hưởng quyết định đến việc sản xuất ra loại quần áo của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phả căn cứ vào từng mùa mà lên kế hoạch s¶n xuÊt cho phï hîp. Xây dựng hệ thống thông tin không phải một lần là xong mà là quá trình thường xuyên của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải không ngừng hoàn thiện hệ thống thông tin nhằm khai thác một cách tối đa và hữu hiệu. Đó là tài sản vô giá của doanh nghiÖp. 1.5.2 Lựa chọn phương thức thâm nhập và mở rộng thị trường. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói chung và doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc nói riêng thị trường chính là đầu ra của doanh nghiệp. Bán được hàng đồng nghĩa với sản phẩm của doanh nghiệp được thị trường chấp nhận. Khi đó doanh nghiệp sẽ thu hồi được vốn và có lãi. Do vậy để tồn tại và phát triển doanh nghiệp cần phảI biết các phương thức thâm nhập thị trường. Việc lựa chọn các phương thức thâm nhập thị trường đúng đắn có ý nghĩa hết sức to lớn giúp doanh nghiệp giảm được chi phí kinh doanh, chiếm lĩnh được thị trường,vượt qua rào cản của đối thủ cạnh tranh, phong tục tập quán của khách hàng… Đối với các doanh nghiệp sản xuất may mặc có thể lựa chọn các phương thức thâm nhập thị trường như: Mở các đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, ký các hợp đồng gia công xuất khẩu sang thị trường nước ngoài một cách trực tiếp hoặc qua trung gian… Thứ hai doanh nghiệp phảI nắm rõ các loại chi phí hình thành nên giá bán của mỗi laọi sản phẩm. Trên cơ sở đó để tìm kiếm nguồn đầu vào với chi phí thấp nhất nhằm hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời tìm kiếm thị trường đầu ra lớn, ổn định và có tiềm năng. Thứ ba là trong cạnh tranh doanh nghiệp cần phải nắm chắc các đối thủ cạnh tranh của mình về quy mô, số lượng, khả năng cạnh tranh, phương thức cạnh tranh… để có các biện pháp đối phó phù hợp. 1.5.3 Lùa chän c¬ héi kinh doanh Khi doanh nghiệp có đủ thông tin mình cần, lựa chọn được phương thức thâm nhập thị trường đúng đắn thì doanh nghiệp cần phải tiến hành lựa chọn kinh doanh. Các nhà quản trị doanh nghiệp căn cứ vào thông tin họ thu thập được để xác định cơ hội hay nguy cơ đối với doanh nghiệp để lựa chọn cơ hội kinh doanh tốt nhất. Cơ hội không phải tồn tại mãi mãi mà nó qua đi rất nhanh. Điều quan trọng là doanh nghiệp phải biết nắm bắt cơ hội để đẩy mạnh và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Ví dụ việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ rộng lớn cho các sản phẩm may mặc của chúng ta. Việc gia nhập này sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc nếu họ nhận thức được điều đó và có các biện pháp khai thác thông qua việc đổi mới mẫu mã, nâng cao chất lượng để thích nghi, mở rộng thị phần của doanh nghiệp. Tuy nhiên đó cũng có thể là nguy cơ đối với những doanh nghiệp không chịu đổi mới sản xuất, mặt hàng… nên không có khả năng cạnh tranh. Để phân tích được môi trường kinh doanh và lựa chọn được cơ hội kinh doanh, các nhà quản trị doanh nghiệp dùng một số kiểu ma trận như: ma trận đánh giá các yếu tố ngoại vi, ma trận đánh giá các yếu tố nội vi, ma trận cơ hội-nguy cơ, ma trận phân tích mặt mạnh, yếu, cơ hội và nguy cơ… 1.4.5 Xây dựng chiến lược kinh doanh Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp chính là mục đích và hướng đi của doanh nghiệp. Việc xây dựng được một chiến lược kinh doanh đúng đắn quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh giúp doanh nghiệp nhanh chóng thích nghi với những thay đổi của điều kiện môI trường. Việc xây dựng chiến lược kinh doanh là một tiến trình gồm ba giai đoạn: hoạch định chiến lược, thực hiện và kiểm soát chiến lược. Trên cơ sở chiến lược, các nhà quản trị, nhà lãnh đạo doanh nghiệp lập kế hoạch kinh doanh cho từng tháng, từng quý, từng thời kì. Ví dụ các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc lập kế hoạch sản xuất quần áo may sẵn cho mùa hè. Do đặc điểm của mùa hè thời tiết, khí hậu khác các mùa khác nên sản xuất quần áo phảI phù hợp với khí hậu mùa hè. Nó phảI đảm bảo sao cho người mặc cảm thấy thoáng mát, dễ chịu. Có như vậy sản phẩm của doanh nghiệp mới bán được và doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển. 1.5.5 Hoµn thiÖn c¸c ho¹t ®éng nghiÖp vô kinh doanh BÊt k× doanh nghiÖp nào muốn chiến lược và kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp trở thành hiện thực phảI thông qua hoạt động kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc cũng vậy, để thực hiện chiến lược kinh doanh của mình, doanh nghiệp phải tiến hành các công việc cụ thể như sau: mua vảI từ nhà cung cấp nào, số lượng bao nhiêu loại vải gì, sản xuất lượng quần áo bao nhiêu cho vụ tới, dự trữ là bao nhiêu, tổ chức bán hàng như thế nào, phương thức thanh toán ra sao… Để thực hiện được các hoạt động nghiệp vụ trên đòi hỏi doanh nghiệp phải có một đội ngũ nhân viên có tính chuyên môn có tính chuyên nghiệp cao trong từng hoạt động nghiệp vụ. Ví dụ như phải có đội ngũ thợ may giỏi, nhanh nhậy trước biến động của tình hình kinh doanh, chỉ đạo tốt có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình, nắm bắt cơ hội thị trường, đưa về cho doanh nghiệp mình những hợp đồng làm ăn lớn. 1.5.6 Góp phần hoàn thiện môI trường kinh doanh Môi trường kinh doanh tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các ngành kinh tế. Tuy nhiên hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không phải lệ thuộc một chiều vào môi trường kinh doanh mà nó có sự tác động qua lại. Hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp đều có những ảnh hưởng ở một mức độ nào đó đến các yếu tố của môI trường kinh doanh. Chẳng hạn việc dùng thuốc nhuộm để nhuộm vả có thể gây ô nhiễm môi trường, các vải phế liệu từ quá trình cắt may có thể là rác thải ảnh hưởng đến cảnh quan môi trường… nếu doanh nghiệp không có biện pháp xử lý đúng đắn. Trong điều kiện kinh doanh mới “Chi phí môi trường” đang là vấn đề đáng để các doanh nghiệp phải quan tâm. Do vậy các doanh nghiệp cần phải xây dựng cơ sơ vật chất kỹ thuật phù hợp với yêu cầu vệ sinh của môi trường, theo hướng văn minh, hiện đại để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi con người, nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. II. THỰC TRẠNG MTKD ẢNH HƯỞNG TỚI SẢN XUẤT NGÀNH MAY MẶC Ở NƯỚC VÀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN 2.1.Sản xuất hàng may mặc ở Việt Nam. Dệt may là một trong những ngành có tốc độ phát triển nhanh nhất ở Việt Nam trong những năm qua cả về số doanh nghiệp, số lao động thu hút vào ngành cũng như kim ngạch xuất khẩu. Theo báo cáo gần đây nhất của bộ thương mại, Việt Nam có khoảng 1050 doanh nghiệp dệt may, nhiều gấp 5-6 lần 10 năm trước đây.Đây là ngành thu hút 1 lượng lao động lớn khoảng hơn 2 triệu lao động, kim ngạch xuất khẩu trung bình 23,8%/năm trong giai đoạn 1991-2000. Kim ngạch xuát khẩu của dệt may tăng lên đáng kể: Năm 2001 là2 tỷ USD, 2002 là 2,7 tỷ USD , năm 2003 là 3,6 tỷ USD và năm 2006 là gần 6 tỷ USD tăng 22% so với cùng kì và góp 15% vào tổng kim ngạch xút khẩu của cả nước . May mặc là sản phẩm đa dạng , nhiều chủng loại và nhu cầu liên tục tăng lên cùng với xu hướng tăng trưởng của nền kinh tế. Trong 10 năm trở lại đây ngành may của nước ta đã chứng tỏ là một ngành công ngiệp mũi nhọn của nền kinh tế đóng góp nhiều vào GDP của cả nước.Trước đây sản xuất hàng may gia công là chính , công nghệ lạc hậu, mẫu mã đơn giả ,kiểu dáng chưa phong phú. Nhưng khoảng từ năm 2002 trở lại đây ngành may mặc của ta đã có những bước tiến vượt bậc. Các công ty may mặc đã bắt đầu đưa công nghệ mới vào trong sản xuất, đa dạng hóa chủng loại, mẫu mã sản phẩm sản xuất . Vì vậy sản phẩm của các công ty may của nước ta không những chiếm lĩnh được thị trường trong nước mà còn vươn ra thị trường thế giới. Tuy nhiên thực trạng hiện nay các doanh nghiệp may của ta phần lớn xuất khẩu ra thị trường nước ngoài mà bỏ ngỏ thị trường trong nước . Trong khi đó thị trương trong nước lại là một thị trường to lớn. Nhu cầu may mặc của thị trường nội địa là 389000 tấn sản phẩm/ năm. Nếu biết khai thác thì đây sẽ là một thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng. Mặt khác các doanh nghiệp của ta chưa chú ý đến vấn đề xây dựng thương hiệu. Do vậy khả năng cạnh tranh khi hội nhập nền kinh tế thế giới là rất kém. Do đó để hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì các doanh nghiệp của ta cần phải xây dựng chiến lược và hướng đi đúng đắn cho doanh nghiệp mình trong đó phân tích MTKD là một việc làm hết sức cần thiết. 2.2.Sự ảnh hưởng của MTKD đến sản xuất của ngành may mặc ở nước ta và biện pháp phát triển. 2.2.1.Môi trường vĩ mô . Môi trường vĩ mô là môi trường của toàn ngành kinh tế quốc dân ,có ảnh hưởng đến các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc nói riêng và toàn ngành dệt may nước ta nói chung. Đây là môi trường đa yếu tố. Mỗi yếu tố có thể ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc mặc cách độc lập hoặc trong mối liên hệ với các yếu tố khác. Để phân tích được sự ảnh hưởng của môi trường vĩ mô tới hoạt động của ngành sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc ta lần lượt xem xét các yếu tố sau: a)Yếu tố kinh tế. Yếu tố kinh tế có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuât hàng may mặc. Các yếu tố kinh tế bao gồm một phạm vi rất rộng, ảnh hưởng tới sức mua và cơ cấu chi tiêu của người tiêu dùng. Các yếu tố kinh tế là: tốc độ tăng trưởng GDP, lãi suất đầu tư,tỷ lệ lạm phát, chính sách tài chính, tín dụng , tiền lương, thu nhập bình quân đầu người…Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ đầu tư, thu nhập của dân cư ó ảnh hưởng rất quan trọng.Trước đây sức mua của người dân trong nước với hàng may mặc không cao do nước ta tuy có thị trường rộng lớn nhưng nhưng súc mua lại hạn chế do hơn 80% dân số ở nông thôn có thu nhập thấp. Thu nhập bình quân đầu người vào khoảng 500-600 USD/năm. Thu nhập thấp buộc người dân phải đắn đo trước khi ra quyết định mua quần áo. Tuy nhiên phân hóa thu nhập lại không đồng đều. Việc phân hóa thu nhập sẽ chỉ ra cho các nhà sản xuất các đoạn thị trường khác nhau để sảc xuất ra sản phẩm cho phù hợp. Những người có thu nhập thấp họ chỉ cốt sao mặc ấm, mặc bền, giá cả phải chăng. Vì vậy, nó đòi hỏi các nhà sản xuất không ngừng áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật để nâng cao năng suất, giảm giá thành sản phẩm. Còn đối với một bộ phận dân cư có thu nhập cao thì giá cả không phải vấn đề họ quan tâm. Đối với họ chất lượng , mẫu mã, kiểu dáng quần áo là đòi hỏi hàng đầu, quần áo mặc lên người phải đẹp, mốt, phải thể hiện được phong cách, sự quí phái của họ. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc phải đầu tư vào thiết kế để tạo ra các kiểu dáng, mẫu mã đẹp. Đặc biệt phải tạo dựng được thương hiệu cho doanh nghiệp mình đồng thời không ngừng củng cố và phát triển để thương hiệu đó nổi tiếng nhằm thu hút khách hàng. Thật vậy, trong xu hướng hiện nay, nhiều người khi mua họ chỉ quan tâm đến thương hiệu quần áo đó là gì. Do vậy, song song với việc xây dựng thương hiệu các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc cần có biện pháp để chống hàng giả, hàng nhái để bảo vệ thương hiệu của doanh nghiệp mình. Trong những năm gần đây, kinh tế nước ta luôn giữ mức tăng trưởng cao (năm 2006 khoảng 8.2%), đời sống người dân đã được cải thiện đáng kể. Do đó đòi hỏi ăn mặc đẹp đó là lý do tất yếu. Các sản phẩm may mặc cần phải đa dạng hóa chủng loại để phục vụ đầy đủ các nhu cầu khác nhau trong xã hội. Khi đó, tăng nhu cầu về mặt hàng cao cấp, sản phẩm có chất lượng, mẫu mã kiểu dáng mới, bắt mắt… khi đó hàng may mặc không chỉ đơn thuần là đáp ứng nhu cầu là hàng may mặc mà còn là may hàng thời trang. Lãi suất cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến đầu tư vào sản xuất ngành may mặc của Việt Nam. Trong những năm qua, tỷ lệ lãi suất của chủng ta khá ổn định vì vậy mà đã thu hút được các nhà đầu tư vào ngành này. Tuy vốn đầu tư vào ngành này không cần nhiều như các ngành khác nhưng nếu có tỷ lệ lãi suất hợp lý sẽ kích thích các nhà đầu tư đầu tư vào vốn, công nghệ, thiết kế… làm cho cung hàng hóa về may mặc ngày càng phong phú, đa dạng mẫu mã, chất lượng, giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh. Vì vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc cần phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực cũng như chuẩn bị tốt các yếu tố khác nhằm thu hút sự đầu tư từ bên ngoài. b.Yếu tố chính trị, pháp lý Trong kinh doanh hàng may mặc, môi trường chính trị, pháp lý có ảnh hưởng mạnh đến các quyết định của doanh nghiệp. Ở nước ta, nền kinh tế là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước do vậy, vai trò của nhà nước đối với hoạt đọng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là rất lớn. Ở Việt Nam,trong những năm qua, dệt may được xác định là ngành công nghiệp mũi nhọn nên được Đảng và nhà nước quan tâm. Do vậy, đã có rất nhiều chế độ, chính sách , văn bản pháp luật, qui định...hỗ trợ và tạo điều kiện để phát triển ngành công nghiệp may mặc. Luật đầu tư nước ngoài ra đời tạo điều kiện cho ngành thu hút được vốn đầu tư nước ngoài. Quyết định 908/QĐ-TTg ngày 26/7/2001 đã tháo gỡ cụ thể cho ngành như: cho phép chuyển nhượng 20 trong số 29 mã dệt may vào thị trường EU từ cấp hạn ngạch sang cấp giấy phép tự động ,giảm 50% phí đấu thầu hạn ngạch hạ phí hạn ngạch để tăng khả năng cạnh tranh, ưu đãi về thuế theo quy định hiện hành trong lĩnh vực gia công hay sản xuất hàng xuất khẩu, miễn thuế trong vòng một năm toàn bộ lệ phí hải quan và lệ phí hạn ngạch xuất khẩu…Trước đó thủ tướng chính phủ đã phê duyệt quyết định 55/2002/QĐ về chiến lược phát triển và một số cơ chế chính sách hỗ hợp cho ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010.Theo đó ngành dệt may sẽ được tạo điều kiện phát triển để trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm mũi nhọn về xuất khẩu, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu trong nước, tạo công ăn việc làm cho xã hội, nâng cao khả năng canh tranh hội nhập vững chắc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, Việt Nam được đánh giá là nước có nền chính trị , an ninh ổn định. Đó là cơ hội và điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư vào Việt Nam.Trên thực tế, so với nhiều ngành khác vốn đầu tư để đổi mới thiét bị máy móc trong ngành may mặc tăng khá nhanh. Hiện nay tổng vốn đầu tư của Vinatex khoảng 4000 tỷ đồng . Tuy nhiên so vớ yêu cầu còn thấp. Trong 10 năm tới theo tính toán của các nhà kinh tế thì đầu tư cho ngành dệt may Việt Nam phải ở mức2-4 tỷ USD mới đạt mục tiêu tăng tốc do chính phủ đạt ra. Hiện nay trong đầu tư của ngành, tình trạng đầu tư khong hợp lý, thiếu đồng bộ còn khá phổ biến. Hầu hết các doanh nghiệp chỉ muốn đầu tư vào máy móc để sản xuất ra những mặt hàng quen thuộc, tiêu thụ nhanh. Điều đó dẫn tới các sản phẩm may mặc của chúng ta rất đơn điệu. Nhiều doanh nghiệp chỉ đầu tư thiết bị máy móc hiện đại đắt tiền mà chưa chú ý đến đào tạo cán bộ quản lý và sử dụng dẫn đến tình trạng lãng phí. Vì vậy để thu hút nguồn vốn đàu tư nước ngoài vào ngành đòi hỏi nhà nước ta phải tạo dựng một nền chính trị ổn định, hành lang pháp luật thông thoáng, rõ ràng minh bạch. Đồng thời các doanh nghiệp trong ngành cần phải có sự đầu tư hợp lý , đồng bộ để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước nhoài thuận lợi trong đầu tư nhằm phát triển kinh doanh. Với phương châm coi ngành sản xuất may mặc là ngành công nghiệp mũi nhọn, nhà nước và chính phủ ta phải có các chính sách nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc phát triển: Chính phủ cần phải quy hoạch vùng trồng bông , ban hành một số chính sách hỗ trợ ngành trồng bông như hỗ trơ vốn dự trữ hạt giống , vốn đầu tư,nghiên cứu khoa học và công nghệ…Mặt khác nhà nước có thể giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị cho các doanh nghiệp trong ngành cũng như tăng cường hơn nữa công tác quản lý thị trường, xử lý nghiêm minh các trường hợp làm hàng giả hàng nhái nhằm bảo vệ người tiêu dùng cũng như uy tín của các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc. c)Yếu tố văn hóa- xã hội –dân cư. Mặc là một nhu cầu không thể thiếu của mỗi con ngừơi, do vậy may mặc gắn liền với cuộc sống của mỗi chúng ta. Vì vậy sản phẩm may mặc chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố văn hóa-xã hội –dân cư. Trước hết là yếu tố văn hóa.Văn hóa được hiểu là một hệ thống giá trị, quan niệm niềm tin, truyền thống và các chuẩn mực hành vi đơn nhất với một nhóm người cụ thể nào đó được chia sẻ một cách tập thể. Việt nam là một nước có nhièu dân tộc (54 dân tộc) mà mỗi dân tộc lại có một nền văn hóa đặc trưng. Nền văn hóa của mỗi vùng có ảnh hưởng đến sinh hoạt cũng như thói quen sử dụng hành may mặc. Với các dân tộc thiểu số thì nhu cầu này rất thấp, họ chủ yêu tự cung tự cấp, sử dụng hàng may sẵn rất ít. Ngược lại ở vùng dân cư đồng bằng nhu cầu lại khá cao.Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc cần phải xác định thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mình đó là ở đồng bằng, nơi dân cư tạp trung đông đúc , khả năng tiêu thụ cao. Để hạ giá thành sản phẩm , thỏa mãn tốt hơn nhu cầu may mặc của dân cư thì các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc cần đặt các cơ sở sản xuất gần khu dân cư dể giảm chi phí vận chuyển. Hơn nữa văn hoá nước ta còn đa dạng theo vùng, miền. Nhìn chung thị trường nội địa tương đối dễ tính , chỉ có dân cư ở thành phố, thị xã mới có sự lựa chọn kĩ càng về kiểu dáng , mẫu mã , chất liệu màu sắc ,thời trang . Đa số ở thành thị người tiêu dùng có xu hướng tiêu dùng hàng may mặc cao cấp nhập khẩu từ Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật bản và một số hàng nội địa của các thương hiệu nổi tiếng như Việt Tiến ,Thành Công, May 10…Còn phần lớn ở nông thôn vẫn theo xu hướng’’Ăn chắc mặc bền’’. Do vậy may sẵn là hình thức chủ yếu vì nhanh gọn , tiện lợi, đơn giản, giá rẻ ,phong phú, đa dạng về mẫu mã, chủng loại. Sự khác nhau về văn hóa sẽ dẫn tới sự khác nhau trong phong cách tiêu dùng. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp may mặc trước khi đưa ra sản phảm cần phải nghiên cứu thị trường, văn hóa của các dân tộc các vùng ,miền phân đoạn thị trường...để sản xuất sản phẩm phù hợp với văn hóa từng nơi. Văn hóa là vấn đề khó nhận ra và hiểu thấu đáo nhưng là tác động thường xuyên tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường văn hóa đôi khi trở thành hàng rào ngăn cản sự xâm nhập của sản phẩm vào thị trường mới . Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc ,sản phẩm của họ sản xuất ra chủ yếu là xuất khẩu sang thị trường nước ngoài như EU ,MỸ, Nhật Bản…Văn hóa của các nước này có ảnh hưởng rất lớn đến việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Để sản phẩm có thể tiêu thụ ở các thị trường này thì đòi hỏi trước khi triển khai sản phẩm các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kĩ tâm lý, thói quen tiêu dùng, ăn mặc, phong tục tập quán của dân cư nước đó. Chẳng hạn đối với các nước hồi giáo ăn mặc khá kín đáo. Nếu chúng ta xuất khẩu vào thị trường này những sản phẩm không kín đáo thì sản phẩm sẽ bị tẩy chay, không bán được . Hai là yếu tố dân cư. Việt Nam là nước đông dân với hơn 80 triệu người. Điều này tạo ra cho các doanh nghiệp may mặc một thị trường tiêu thụ rộng lớn .Với mỗi giới tính ,độ tuổi, sở thích , lối sống, phong tục tập quán, thu nhập khác nhau sẽ hình thành nên xu hướng tiêu dùng sản phẩm may mặc khác. Nó đòi hỏi sự khác biệt về kiểu dáng mẫu mã, chất lượng, màu sắc khác nhau trong sản phẩm may mặc .Với khoảng 85 triệu người và thu nhập trên 600 USD/năm thị trường nội địa đã tạo ra một nhu cầu rất lớn cho ngành sản xuất hàng may mặc. Mặt khác với quy mô dân số lớn và cơ cấu dân số trẻ, nó cung cấp một nguồn lao động dồi dào với giá nhân công rẻ. Điều này tạo diều kiện cho các doanh nghiệp may mặc có thể giảm giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường. Xã hội ngày càng phát triển cùng với nó xu hướng mặc của người dân cũng thay đổi theo. Đó là cơ hội cho các doanh nghiệp may mặc gia tăng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng . Trên thực tế để phát triển sản phẩm đòi hỏi các doanh nghiệp cần phẩi tìm hiểu kĩ nền văn hóa mà doanh nghiệp sẽ tung sản phẩm của mình tại đó , khai thác triệt để thị trường nội địa, nắm bắt nhanh chóng sự thay đổi trong xu hướng tiêu dùng để đưa ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường. d)Yếu tố tự nhiên. Các yếu tố tự nhiên có thể là điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc . Ở Việt Nam khí hậu rất đa dạng theo từng vùng , điều này đã quyết định đến sản phẩm may mặc trên thị trường. Ở những vùng có điều kiện khí hậu khác nhau ứng với từng mùa vụ khác nhau đòi hỏi phải cung cấp những sản phẩm khác nhau cho phù hợp. Chẳng hạn đối với mùa hè do thời tiêt nóng bức các doanh nghiệp phải sản xuất những sản phẩm thoáng, mát. Ngược lại mùa đông sản phẩm may mặc phải ấm áp .Với 4 mùa trong năm , đây là điều kiện để các doanh nghiệp đa dạng hóa sản phẩm may mặc,tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng mọi nhu cầu của mọi tầng lớp dân cư. Ngoài ra tài nguyên thiên nhiên nước ta khá phong phú và đa dạng. Khí hậu đất đai của nước ta rất thích hợp để trồng các loại cây như bông , đay…là một trong những loại nguyên liệu cho ngành may mặc.Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp.Bên cạnh đó còn có những nguồn nguyên liệu hóa học tạo thành sợi tổng hợp , sợi nhân tạo phục vụ và thay thế sợi tự nhiên khi không đáp ứng kịp thời nhu cầu. Môi trường tự nhiên của nước ta rất thuận lợi đẻ phát triển ngành may mặc.Tuy nhiên nó chỉ trở thành cơ hội khi các doanh nghiệp biết khai thác một cách hợp lý. Muốn vậy các doanh nghiệpcần phải lên kế hoạch sản xuất kinh doanh cho từng mặt hàng cụ thể, cho từng mùa vụ trong năm. Đồng thời phải tận dụng nguồn nguyên liệu phong phú, sẵn có trong nước để sản xuất sản phẩm nhằm giảm giá thành sản phẩm. e)Yếu tố công nghệ. Đây là yếu tố mang đầy kịch tính, thường xuyên thay đổi và có ảnh hưởng quan trọng, trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp may mặc.Trong thời đại hiện nay, khi mà khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, mỗi công nghệ mới phát sinh sẽ làm thay đổi cách thức sản xuất sản phẩm, tạo ra các sản phẩm có chất lượng tốt giá thành hạ. Nước ta xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, trình độ khoa học công nghệ, kĩ thuật lạc hậu so với thế giới. Chính vì vậy mà các sản phẩm của nền kinh tế trong đó có may mặc của nước ta rất khó khăn trong việc cạnh tranh với các sản phẩm của các nươc tiên tiến trên thế giới. Ngày nay công nghệ được coi như vũ khí cạnh tranh. Sự thay đổi về công nghệ có thể làm cho các sản phẩm hiện đang sản xuất trở thành lỗi thời trong khoảng thời gian ngắn. Sự phát triển của công nghệ lầm rút ngắn chu kì sống của sản phẩm. Vì vậy công nghệ ảnh hưởng rất lớn tới hoạt dộng sản xuất hàng may mặc của nước ta. Các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc của nước ta trong những năm gần đây đã nhận rõ tầm quan trọng của công nghệ trong sản xuất. Các doanh nghiệp liên tục nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại của nước ngoài để thay thế thiết bị lạc hậu trước đây. Từ chỗ sản xuất bằng máy khâu đạp bằng chân đã được thay thế bằng dây chuyền máy may tự động hiện đại hay trang bị máy ép thân 1 loại may có thể thay thế cho 10 lao động trong khâu là…Đến năm 1999 ngành đã đổi mới được 95% máy móc thiết bị, năm 2003 toàn ngành có khoảng 190000 máy may hiện đại. Nhờ có công nghệ hiện đại, các donah nghiệp của ta đã nầng cao được năng suất lao động chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường khu vực và thế giới. Công nghệ có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp may mặc. Do vậy để phát triển ngành này thì vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư những dây chuyền thiết bị công nghệ hiện đại. Bên cạnh đó phải tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn để nâng cao tay nghề cũng như trình độ kĩ thuật để vận hành được tốt máy móc thiết bị hiện đại đó. Sự phát triển của khoa học công nghệ và kĩ thuật đặt ra cho ngành may mặc Việt Nam trước những áp lực và thách thức to lớn. Trong điều kiện hội nhập hiện nay các doanh nghiệp của nước ta cần phải mở rộng giao lưu , làm ăn với các doanh nghiệp nước ngoài để tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ ,cũng như kinh nghiệm sản xuất tiên tiến của các doanh nghiệp bạn nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh ngiệp mình. f) Yếu tố toàn cầu hóa. Ngày 11/1/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp của ta nói chung và đối với các doanh nghiệp sản xất hàng may mặc nói riêng.Với việc trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới, Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi về thuế , một số quy định, hàng rào ngăn cản việc xuất khẩu sẽ bị xóa bỏ. Điều này tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho các sản phẩm của chúng ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. May mặc là sản phẩm xuất khâu chủ yếu của nước ta. Do vậy khi hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sản phẩm này. Trên thực tế tham gia vào APTA, thực hiện tiến trình CEPT, Việt Nam sẽ có điều kiện xuát khẩu hàng may mặc vào thị trường với khoảng 400 triệu dân của khu vực ASEAN với sự đòi hỏi chất lượng sản phẩm không quá cao như thị trường châu ÂU , châu MỸ . Tuy nhiên nó cũng đạt ngành may mặc Việt Nam trươc thách thức đó là đó là ngành may mặc của chúng ta hiện nay đang đựoc bảo hộ ở mức cao sẽ phải giảm dần xuống mức 5% vào năm 2006 và tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan. Mặt khác trở thành thành viên của tổ chức thương mại WTO, các doanh nghiệp của chúng ta sẽ có thị trường tiêu thụ rộng lớn, không có bất cứ rào cản nào, chúng ta sẽ được huởng lợi từ môi trường đầu tư, hàng rào hạn ngạch sẽ bị xóa bỏ, việc xuất khẩu các sản phẩm may mặc sang thị truường EU, MỸ,NHẬT…sẽ không bị khống chế quota, sẽ không có bất kì sự phân biệt đối xử nào. Đồng thời xu thế chuyển dịch ngành may mặc từ các nước phát triển và đang phát triển ở trình độ cao sang các nước đang phát triển ở trình độ thấp là một tất yếu tạo cơ hội cho ngành may mặc của nước ta vì giá lao động ở các nước này càng cao . Mặt khác họ tập trung phát triển những ngành công nghệ tiên tiến mang lại hiệu quả kinh tế cao. Vì thế đó là cơ hội rất tốt cho ngành may mặc của ta tiếp cận với công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp mình. Bên cạnh những mặt thuận lợi , thách thức đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc của ta là không nhỏ. Các doanh nghiệp của chúng ta sẽ phải cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp của các nước bạn vì ngành vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng cũng như chất lượng cho hàng may mặc xuất khẩu , chưa có đội ngũ thiết kế phù hợp với nhu cầu , thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường thế giới. Do vậy 70% sản phẩm xuất khẩu là được sản xuất theo hình thức gia công chính vì vậy lợi nhuận mang lại không cao . Hơn nữa gia nhập WTO, hàng rào hạn ngạch bảo hộ bị xóa bỏ , hàng rào bảo vệ thi trường nội địa bằng thuế sẽ giảm xuống tới mức tối đa . Thuế nhập khẩu hiện hành 40%với vải , 50% với hàng may mặc sẽ bị giảm xuống còn bình quân khoảng 15%. Trong khi đó rào cản của nước ngoài sẽ được dựng lên như vấn đề bảo vệ môi trường , chống bán phá giá. Chẳng hạn việc Mỹ áp đặt chế độ giám sát chống bán phá giá đặc biệt đối với 5 nhóm hàng may mặc của ta là quần ,áo ,áo len ,đồ lót ,quần áo bơi sẽ làm kim nghạch xuất khẩu hàng dệt may giảm một nửa và khoảng 80% doanh nghiệp dệt may Việt Nam có nguy cơ bị phá sản. Môi trường toàn cầu hóa có ảnh hưởng to lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp may mặc. Vì vậy để tồn tại và phát triển trong môi trường hội nhập thì vấn đề đặt ra đối với các doang nghiệp may là không ngừng áp dụng khoa học công nghệ đẻ nâng cao chất lượng sản phẩm. Chú trọng đầu tư vào phòng thiết kế để tạo ra các sản phẩm đáp ứng thị trường quốc tế. Đồng thời phải thường xuyên điều tra, nghiên cưú để nắm bắt được nhu cầu thị hiếu cũng như văn hóa tiêu dùng sản phẩm dệt may của từng thị trường bên ngoài để xây dựng chiến lược sản xuất hàng may mặc cho phù hợp. Chính phủ, bộ Thương Mại phải tăng cường hỗ trợ tạo điều kiện cho nghành phát triển .Vận động chính quyền Mỹ sớm chấm dứt chế độ theo dõi đặc biệt đối ngành dệt may của ta cững như áp dụng biện pháp chống bán phá giá . 2.2.2.Môi trường ngành a)Nhà cung cấp. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần phải quan hệ với các nhà cung ứng khác nhau. Những người cung ứng là các doanh nghiệp và các cá nhân đảm bảo cung ứng các yếu tố đầu vào cần thiết để doanh nghiệp có thể xuất được các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ nhất định. Đối với doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc nhà cung ứng của họ chính là các doanh nghiệp cung cấp vải , sợi, máy khâu, kim, chỉ thị trường lao động…Bất kỳ 1 sự biến đổi nào từ phía người cung ứng sớm hay muộn, trực tiếp hay giản tiếp cũng sẽ tác động đến việc sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp may. Các nhà cung ứng chính là người cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho doanh nghiệp, do vậy ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm ,đến khả năng của sản phẩm trên thị trường. Mặc dù nhà nước ta đã có chiến lược phát triển hàng dệt may đến năm 2010 trong đó có nội dung phát triển các vùng trồng bông và cây công nghiệp cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt và từ đó cung cấp cho công nghiệp may sẵn. Tuy nhiên trong những năm qua vấn đề nguyên liệu đầu vào luôn là bài toán nan giải cho các doanh nghiệp may mặc. Hiện nay các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc phải chịu sự chi phối của thị trường nguyên liệu thế giới bởi 80% nguyên liệu sử dụng là nhập khẩu, 20% là thu mua trong nước. Mặc dù quỹ đất trồng bông của nước ta là khá lớn xấp xỉ 200000 ha nhưng năng suất trồng bông của ta mới chỉ đáp ứng được 10%- 15% nhu cầu dệt. Đặc biệt với bông xơ tổng hợp ta phải nhập khẩu 100%. Năm 2002 ta phải nhập 49000 tấn bông và hàng năm phải nhập khẩu 400-450 triệu m vải phục vụ nhu cầu may xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Điều này khiến các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc của ta thu động trong khâu đầu vào. Cụ thể : - Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc có chất lượng cao hoặc ra công cho đơn đặt hàng nước ngoài hoặc sản xuất để xuất khẩu khi gia công thì chủ yếu nguồn nguyên liệu do họ cung ứng, khi hết hợp đồng thì nguồn nguyên liệu này cũng hết. Khi muốn sản xuất tiếp để xuất khẩu thì phải nhập nguyên liệu từ thị trường nước ngoài nên tính chủ động không cao, đôi khi bở lỡ cơ hội kinh doanh. -Đối với nguồn nguyên liệu trong nước, khả năng sản xuất vải thông dụng của Việt Nam là không có. Một số loại vải lanh, phin của Việt Nam sản xuất không nhiều và chỉ có thể tiêu thụ ở thị trường nông thôn và miền núi. Mặt khác chất lượng nguyên liệu đầu vào của ta rất kém. Sợi bông của ta ngắn ,chất lượng thấp nên dệt được vải cấp thấp.Điều đó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm may mặc, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Do các doanh nghiệp may mặc của ta phụ thuộc rất nhiều vào các nhà cung ứng .Vì vậy các nhà cung ứng thường gây áp lực về giá cả ,chất lượng nguồn đầ vào.Để đảm bảo nguồn cung ứng ổn định, có chất lượng, giá cả phải chăng thì vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp may mặc là : Đa dạng hóa nhà cung ứng , tăng cường mối quan hệ kinh tế tạo điều kiện lẫn nhau trong việc tạo nguồn nhiên liệu như tăng cường đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu ngay tại thị trường nội địa, quy hoạch vùng trồng bông, dâu nuôi tằm, hợp tác chặt chẽ với các ngành nông – lâm nghiệp để giải quyết vấn đề nguyên liệu .Các doanh nghiệp may mặc có thể liên kết với các công ty dệt trong tổng công ty dệt may Việt Nam Vinatex. Tháng 4 /2007 Hiệp hội dệt may VIệt Nam đã tổ chức hội chợ triển lãm nguyên phụ liệu tại thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời nên đặt hàng theo hợp đòng đã ký trước để có đủ nguyên liệu cho sản xuất sản phẩm . b) Khách hàng . Khách hàng là các tổ chức dịch vụ ,các doanh nghiệp, các cá nhân giúp cho doanh nghiệp có thể tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mình tới người tiêu dùng cuối cùng . Thị trường khách hàng của các doanh nghiệp sản xuất hàng mặc rất rộng lớn bao gồm mọi lứa tuổi, giới tính, mức thu nhập ,sở thích tiêu dùng, vị trí trong xã hội …Đó là cơ hội để các doanh nghiệp may đa dạng hóa chủng loại mẫu mã của doanh nghiệp mình. Khách hàng có ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp khách hàng chính là người nuôi sống doanh nghiệp, là đích mà doanh nghiệp hướng tới. Khách hàng quyết định doanh nghiệp sản xuất loại quần áo gì, kiểu dáng ra sao. Sở thích, xu hướng mặc của khách hàng quyêt định đến sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải căn cứ vào thu nhập của người tiêu dùng đẻ quyết định gía bán sao cho người mua có thể chấp nhận. Đối với các doanh nghiệp may mặc của ta việc xây dựng kênh phân phối gặp nhiều hạn chế. Chỉ có một số công ty có nhà phân phối riêng ,còn lại hầu hết là không có hoặc không đáng kể . Các doanh nghiệp chủ yếu phân phối qua các đại lý siêu thị trên phạm vi rộng . Tuy nhiên ở các siêu thị này không phải chỉ có sản phẩm của doanh nghiệp mà họ luôn có xu hướng đa dạng hóa kinh doanh . Do vậy các nhà phân phối luôn gây áp lực cho doanh nghiệp . Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng may mạc ở nước ta, sản phẩm sản xuất ra chủ yếu là để xuất khẩu . Tuy nhiên hiện nay việc xuất khẩu trực tiếp la rất ít. Phần lớn chúng ta xuất khẩu qua trung gian nên lợi nhuận không cao 70% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU được thực hiện qua các khâu trung gian là Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc…Hơn nữa ở các thị trường EU ta mới chỉ tập trung vào các mặt hàng dễ làm như áo jacket, sơ mi, còn những mặt hàng có giá trị, đòi hỏi kỹ thuật cao như complet, sơ mi cao cấp thì ít doanh nghiệp sản xuất được. Để thu hút được nhiều khách hàng, bán được nhiếu sản phẩm đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra các sản phảm có kiểu dáng đẹp, xây dựng hệ thống kênh phân phối hợp lý ,chấm dứt việc gia công cho nước ngoài, tổ chức sản xuất từ A->Z, chú trọng xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp mình để tạo uy tín cho sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước. Bên cạnh đó cần tổ chức tốt khâu Marketing ,điều tra ngiên cứu thị trường và khách hàng và nắm bắt nhu cầu và điều chỉnh sản xuất cho phù hợp . c) Sản phẩm thay thế . Là sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành hoặc các ngành hoạt động kinh doanh cùng chức năng đáp ứng nhu cầu giống nhau của khách hàng. Ngày nay khi đời sống người dân được nâng cao thì nhu cầu về sản phẩm may mặc có nhiều thay đổi. Những sản phẩm may sẵn của các doanh nghiệp được sản xuất hàng loạt về kiểu dáng, kích thước chủng loại, màu sắc…sẽ không còn phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng nếu không được cải thiện trong khâu thiết kế mẫu mã và sẽ bị canh tranh gay gắt từ các sản phẩm thay thế . Thứ nhất đó là các sản phẩm may mặc của các công ty may thời trang cả trong và ngoài nước .Các công ty này có ưu thế hơn về thương hiệu ,chất lượng sản phẩm, kiểu dáng phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng nhất là giới trẻ .Các sản phẩm thời trang này gây áp lực đối với sản phẩm may sẵn về kiểu dáng ,chất lượng ,mẫu mã do họ rất chú trọng vào khâu thiết kế tạo ra các sản phẩm độc đáo ,đặc thù. Hai là các dịch vụ may đo của các cửa hàng may đo tư nhân .Ưu thế của loại sản phẩm này nó có thể đáp ứng được nhu cầu của mọi đối tượng với các nhu cầu khác nhau. Với sản phẩm may đo này người tiêu dùng có thể chủ động trong việc lựa chọn chất liệu, mầu sắc kiểu dáng …phù hợp với mình. Khi đời sống người dân được nâng cao, xu hướng tự thể hiện mình là rất quan trọng. Người tiêu dùng thường mong muốn qua việc “Mặc “của mình có thể nói lên tính cách, cái “tôi” của người tiêu dùng . Do đó xu hướng tìm tới các cửa hàng may thời trang và may đo tư nhân là rất lớn. Có thể nói áp lực cạnh tranh từ các sản phẩm thay thế là rất lớn .Các sản phẩm thay thế này sẽ ảnh hưởng đến giá bán của sản phẩm, đến khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường …Vì vậy để tồn tại và phát triển trong môi trừơng có nhiều sản phẩm có thể thay thế nhau ,các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc cần phải biết lợi dụng quy mô sản xuất hàng loạt của mình để giảm giá thành nhằm cạnh tranh qua giá. Bên cạnh đó cần tăng cường thiết kế, đổi mới sản phẩm tạo dựng uy tín doanh nghiệp nhằm lôi kéo khách hàng . d)Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn . Với thị trường có quy mô rộng lớn và sự tăng trưởng về nhu cầu hàng năm cao, mặt khác sản phẩm may là sản phẩm khó thay thế nên may mặc là ngành thu hút rất nhiều nhà đầu tư lớn. Là ngành có khả năng thu lợi nhuận cao nên ngành sản xuất quần áo may sẵn không chỉ là sự canh tranh của các doanh nghiệp trong nước ,các hãng nhập ngoại mà còn có các đối thủ tiềm ẩn . Việc các đối thủ tiềm ẩn xuất hiện nhiều hay ít với hình thức cạnh tranh qua giá ,chất lượng .thương hiệu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Các đối thủ này có thể xuất phát từ trong nước hoặc từ nước ngoài .Việc xuất hiện các đối thủ tiềm ẩn sẽ đe dọa đến thị phần, lợi nhuận, khách hàng …của doanh nghiệp hiện tại. Cụ thể : -Nước ta là nước đông dân và thu nhập của người dân ngày một tăng lên làm cho nhu cầu sản phẩm may ngày càng lớn cả về số lượng ,mẫu mã ,chất lượng. Do vậy đây là ngành tương đối hấp dẫn cho các nhà đầu tư bỏ vốn để phát triển .Việc xuất hiện các đối thủ phụ thuộc vào các rào cản gia nhập ngành mà các doanh nghiệp phải vượt qua. +Về mặt công nghệ : Hiện nay ngoài một số công ty như NHà Bè ,Việt Tiến ,May 10 …thì hầu hết các doanh nghiệp may Việt Nam đều có công nghệ lạc hậu so với khu vực và thế giới. Do vậy nêu xuất hiện đối thủ mới có công nghệ tiên tiến hơn thì cạnh tranh sẽ nghiêng về phía các doanh nghiệp này . +Về mặt tài chính : Để tham gia vào thị trường quần áo may sẵn đòi hỏi doanh nghiệp phải có quy mô lớn để không những cạnh tranh về chất lượng mà còn cạnh tranh về chi phí sản xuất. Bởi quy mô lớn các doanh nghiệp sẽ đạt được lợi thế kinh tế theo quy mô ,do vậy giảm giá thành sản xuất ,tăng khả năng cạnh trang bằng giá .Vốn lớn là rào cản quan trọng đối với các đối thủ tiềm ẩn . +Về mặt thuơng mại :Thương hiệu sản phẩm là vấn đề hạn chế của các doanh nghiệp may nước ta. Đa số các công ty sản xuất sản phẩm có chất lượng là nhận đơn đặt hàng gia công ,rất ít công ty có thương hiệu riêng của cho sản phẩm của mình mà khách hàng biết tới .Việc xây dựng thương hiệu mới cho các doanh nghiệp mới khi gia nhập thị trường là hết sức khó khăn.Mặt khác các doanh nghiệp may hiện tại có hệ thống kênh phân phối rộng khắp ,đó cũng là rào cản đói với các đối thủ mới ra nhập ngành . +Về mặt nguồn lực :Việt Nam có giá nhân công tương đối rẻ ,đây được coi là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp muốn ra nhập ngành may.Mặc dù nhà nước đã có nhiều chính sách phát triển các vùng trồng nhiên liệu nhưng phần lớn nguyên liệu của ngành vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài đây là rào cản cho sự ra nhập ngành của các đối thủ tiềm ẩn. - Quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa diễn ra nhanh chóng với hàng loạt các hiệp định thỏa thuận thương mại giữa các nước thành viên trong tổ chức trong đó có vấn đề tự do hóa thương mại.Với hiệu lực của hiệp định thương mại tự do Đông Nam Á (AFTA) và việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ là thách thức mà các doanh nghiệp may phải đối mặt .Với trình độ công nghệ sản xuất cao và có nguồn vốn đầu tư lớn thì việc các doanh nghiệp nứơc ngoài xâm nhập vào thị trường Việt Nam là không mấy khó khăn trong việc thỏa mãn nhu cầu về sản phẩm cao cấp của người dân. Các doanh nghiệp nước ngoài khai thác thị trường quần áo may sẵn mà các doanh nghiệp trong nước còn bỏ ngỏ. Một trong những đối thủ phải kể đến đó là Trung Quốc , Ấn Độ ,Thái Lan. Để tạo hàng rào ngăn cản việc xuất hiện các đối thủ tiềm ẩn đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc hiện tại phải không ngừng củng cố cơ sở vật chất hệ thống kênh phân phối cũng như khai thác triệt để thị trường trong nước, phát triển thị trường quốc tế. e) Đối thủ cạnh tranh hiện hữu. Đây là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của ngành.Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc của ta chủ yếu xuất khẩu mà chưa chú ý đến thị trường nội địa. Sản phẩm may mặc của các công ty xuất khẩu chủ yếu sang Nhật,EU , Hoa Kỳ.Nhật Bản là một trong thị trường xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất Việt Nam bằng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 1997 Việt Nam là một trong 7 nước đứng đầu về xuất khẩu sang Nhật nhưng thị phần trong những năm gần đây có xu hướng giảm đi do sự cạnh tranh của các sản phẩm may mặc của Trung Quốc ,Ấn Độ ,Thái Lan. Thị phần và khách hàng của các doanh nghiệp may Việt Nam còn khá nhỏ chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có : Mới chiếm 0,95% thị trường EU ; 2,9% thị trường Nhật ;3,2% thị trường Mỹ và xấp xỉ 1% tổng thương mại dệt may toàn thế giới .Dệt may Việt Nam chưa thâm nhập vào mạng lưới phân phối của các thị trường lớn nên thường phải xuất khẩu qua trung gian các doanh nghiệp may mặc nước ngoài có ưu thế hơn về năng suất lao động và giá cả .Điều nay gây bất lợi lớn cho các doanh nghiệp của ta trong điều kiện cạnh tranh.Chính vì vậy các doanh nghiệp may Việt Nam cần chú ý hơn tới thị trường may mặc trong nước. Tuy nhiên trong nhũng năm qua các doanh nghiệp may của ta chỉ chú trọng xuất khẩu mà bỏ ngỏ thị trừơng trong nước với khoảng 85 triệu dân với nhu cầu may mặc ngày càng tăng. Ngoại trừ 2 công ty may 19/5 và may 26 thì hầu hết các doanh nghiệp đều có tỷ trọng doanh thu tiêu thụ trên thị trường nội địa thấp. Công ty may 10 đạt tỷ trọng cao nhất cũng chỉ có 18% năm 1999 và 21,5% vào năm 2000 ,cá biệt có những công ty không có hàng tiêu thụ nội địa ,các công ty còn lại co tỷ trọng tiêu thụ nội địa dưới 10%. Các doanh nghiệp của ta đã để cho hàng may mặc của Trung Quốc chiếm lĩnh thị trường từ nông thôn đến thành thị . Sản phẩm may của Trung Quốc tràn sang chiếm lĩnh thị trường bằng nhiều con đường ,dưới nhiều hình thức khác nhau kể cả buôn bán bất hợp pháp gồm chăn, ga ,gối .đệm ,quần áo với giá rẻ mầu sắc kiểu dáng đa dạng nên chất lượng không cao nhưng vẫn được người tiêu dùng Việt Nam chấp nhận .Giá một chiếc áo sơ mi cộc tay xuất khẩu của Việt Nam từ 65000-70000 /chiếc, dài tay từ 100000-130000/chiếc trong khi của Trung Quốc chỉ có 35000-40000/chiếc đối với áo cộc tay và 75000-80000/chiếc đối với áo dài tay. Theo thống kê thí hàng Trung Quốc chiếm 60% thị trường nội địa. Để bảo vệ thị trường trong nước cũng như tăng thị phần tiêu thụ đòi hỏi các doanh nghiệp may của ta phải chú trọng hơn nữa đến phát triển thị trường trong nước. Đa dạng hóa thị trường theo hướng “Năng nhặt.chặt bị “, không tập trung quá nhiều vào một thị truờng ,chú trọng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm giảm giá thành sản xuất để cạnh tranh với hàng nước ngoài ,kích thích nhu cầu tiêu dùng hàng nội địa , phối hợp với cục quản lý thị trường để xử lý hàng giả hàng nhái gây ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập để cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp may mặc phải thổi hồn vào từng sản phẩm để tạo ra sản phẩm khác biệt, phải tác động vào tính dân tộc tạo nên làn sóng’ người Việt dùng hàng việt ; trong xu hướng tiêu dùng của người dân trong nước. Ta thấy rằng cấu trúc ngành dệt may là một ngành phân tán với rất nhiều các doanh nghiệp sản xuất vơi quy mô khác nhau như May 10 , My Nhà Bè, May Việt Tiến, May Thăng Long…Nhưng trong các doanh nghiệp này không có doanh nghiệp nào thống trị về thị trường trong nước dẫn tới thị trường cạnh tranh là rất lớn. Cạnh tranh càng gay gắt làm cho giá thành sản phẩm giảm xuống Bởi các doanh nghiệp may cạnh tranh chủ yếu bằng giá vì ưu thế của sản phẩm may lẩn xuất với quy mô và số lượng lớn . Hơn nữa rào cản rút lui của ngành may mực là rất lớn.Vốn đầu tư mua máy mócc thiết bị nhiều. Mặt khác may mặc là ngành có thiết bị đặc thù (máy may ,máy cắt, máy vắt sổ…) nên muốn rút lui khỏi ngành và chuyển hướng kinh doanh là rất khó khăn khi mà những máy móc này ngoài việc cản xuất hàng may mặc thì không dùng được vào việc gì khác. May mặc lại là ngành sử dụng rất nnhiều lao động nên khi rút khỏi ngành phải đối mặt với việc hàng nghìn công nhân bị mất việc nên ảnh hưởng rát lớn đến đời sống người dân. Trong khi đó may mặc lại là ngành có vị thế lớn cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam nên sức ép từ phía chính phủ là rất lớn đối với các doanh nghiệp. Các rào cản rút lui này làm cho cạnh tranh càng gay gắt. Đòi hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh phải thường xuyên nghiên cứu thị trường , khách hàng, đối thủ cạnh tranh về tiềm lực, sản phẩm mới …để có chiến lược cạnh tranh thích hợp. KẾT LUẬN Qua phân tích trên cho chúng ta thấy tầm quan trọng cũng như vai trò to lớn của việc phân tích môi trường kinh doanh tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp may nước ta. Vì vậy các doanh nghiệp may muốn tồn tại , đứng vững trong canhtranh cũng như ngày càng phát triển thì việc phân tích môi trường kinh doanh phải là việc làm thường xuyên của các doanh nghiệp. Bài viết đã phần nào phân tích được tác động của một số yếu tố của môi trường kinh doanh tới hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp may mặc cũng như đưa ra được một số giải pháp cho các doanh nghiệp . Tuy nhiên đây là đề tài tương đối rộng nên việc sai sót cần bổ sung là điều cần thiết. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình quản trị doanh nghiệp thương mại, đồng chủ biên :PGS.TS Hoàng Minh Đường và PGS .TS Nguyễn Thừa Lộc. 2. Giáo trình Marketing căn bản, chủ biên PGS .TS Trần Minh Đạo. 3. Giáo trình quản trị chiến lược,chủ biên PGS.TS Lê Văn Tâm. 4. Tạp chí thị trường và giá cả tháng 1/2007 5. Tạp chí phát triển kinh tế số 185 tháng 3/2006 6. Tạp chí kinh tế và dự báo số 399 tháng 7/2006 7. Báo thương mại 8. Internet 9. Thời báo kinh tế Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf260_569.pdf
Luận văn liên quan