Thứ nhất, về công tác quản lý. Từ khi Nhà nước chuyển việc quản lý bằng các chỉ
tiêu, mệnh lệnh sang quản lý thông qua các công cụ gián tiếp mà chủ yếu là thuế thì công tác
quản lý đã trở nên linh hoạt hơn rất nhiều. Cơ chế là đúng đắn, tuy nhiên không phải lúc nào
việc quản lý cũng thông suốt mà không gặp phải sai sót gì, một thực tế cho thấy là tình trạng
xin-cho giữa các đơn vị cấp trên và cấp dưới vẫn còn tồn tại, một số cán bộ quản lý cấp trên
chưa thực sự làm hết chức trách quản lý của mình cho nên đã để xảy ra nhiều thất thoát cho
Nhà nước. Vấn đề được đặt ra ở đây là cần có sự quản lý chặt chẽ, phân định trách nhiệm rõ
ràng nhằm tránh tình trạng khi sự việc xảy ra thì không ai chịu trách nhiệm
45 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4076 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng và giải pháp của việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuế suất không thống nhất, nảy sinh vướng mắc trong
quá trình thực hiện. Ví dụ, sản phẩm cơ khí tiêu dùng áp dụng mức thuế suất 10%, sản phẩm
cơ khí là tư liệu sản xuất áp dụng mức thuế suất 5%, trên thực tế có những sản phẩm cơ khí
không thể phân định được rõ ràng là dùng cho tiêu dùng hay dùng cho sản xuất.
Luật thuế GTGT hiện hành quy định mức thuế suất 5% và 10% (trừ mức thuế suất
0% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu). Việc quy định các mức thuế suất này là
phù hợp với thực tiễn thời gian qua khi nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, có tính
đến việc kế thừa của Luật thuế doanh thu (11 mức thuế suất từ 0,5%-30%).
[Type text] Page 22
Đối tượng áp dụng thuế suất 5% là nhóm các mặt hàng sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản
chưa qua chế biến ở khâu thương mại và một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu của người dân
như nước sạch, thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế, giáo cụ phục vụ giảng dạy và học tập; một số
hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu và chất
kích thích tăng trưởng vật nuôi, cây trồng, thức ăn gia súc và dịch vụ trực tiếp phục vụ sản
xuất nông nghiệp. Trước đây, các hàng hoá, dịch vụ này có mức thuế suất thuế doanh thu
thấp (0,5% đến 1%) nên khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT cần thiết áp dụng mức thuế
suất 5%. Đây là những sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân nên tiếp tục áp
dụng mức thuế suất 5% trong một thời gian nữa.
Những năm đầu thực hiện Luật thuế GTGT, nước ta bị tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính-tiền tệ Châu Á, một số doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh những mặt hàng
đang ở mức thuế suất 10% gặp khó khăn về tiêu thụ hàng hoá sản xuất ra do sức mua xã hội
giảm sút nên Chính phủ đã trình Quốc hội điều chỉnh một số hàng hoá, dịch vụ từ mức thuế
suất 10% xuống mức thuế suất 5% (ví dụ sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất; khuôn đúc các
loại; ván ép nhân tạo; sản phẩm bê tông công nghiệp gồm dầm cầu bê tông, dầm và khung
nhà bê tông, cọc bê tông, cột điện bê tông, ống cống tròn bê tông, hộp bê tông các loại, pa-
nen và các loại cấu kiện bê tông cốt thép đúc sẵn phi tiêu chuẩn, bê tông thương phẩm; lốp
và bộ săm lốp cỡ từ 900-20 trở lên...).
Thực tiễn những năm qua cho thấy: ngoài các hàng hoá, dịch vụ được điều chỉnh thuế
suất từ 5% sang 10% có tình hình sản xuất kinh doanh phát triển, hiệu quả kinh doanh tốt,
các hàng hoá, dịch vụ hiện đang áp dụng thuế suất 5% cũng có tình hình sản xuất kinh doanh
tốt và có khả năng xem xét để chuyển từ diện áp dụng mức thuế suất 5% sang thuế suất
10%. Việc chuyển lại thuế suất 10% đối với những hàng hoá, dịch vụ này nhằm đảm bảo
tính liên hoàn của thuế giá trị gia tăng, hạn chế các trường hợp phải hoàn thuế do có mức
thuế suất đầu vào lớn hơn mức thuế suất đầu ra.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay cần thiết tiếp tục duy trì
mức thuế suất 5% đối với hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp hoặc hàng
hoá, dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân bởi các lý do sau:
Sản phẩm nông nghiệp do cơ sở trực tiếp sản xuất bán ra thuộc diện không chịu thuế GTGT
nên cơ sở sản xuất không được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào. Vì vậy, cần tiếp tục duy
[Type text] Page 23
trì ở mức thuế suất 5% đối với một số hàng hoá, dịch vụ đầu vào chỉ phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp trong một thời gian nữa để góp phần giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm nông nghiệp trên thị trường;
Trong giai đoạn đầu hội nhập lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn sẽ bị tác động mạnh,
đặc biệt trong điều kiện hiệu quả sản xuất nông nghiệp ở nước ta chưa cao, thu nhập và mức
sống của người dân, nhất là nông dân còn thấp. Mặt khác, theo cam kết với Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) thì nhiều sản phẩm nông nghiệp được tiếp tục duy trì chính sách bảo hộ
trong thời hạn 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO;
Hiện nay mặt bằng giá thế giới một số vật tư nguyên liệu là đầu vào của sản xuất tăng
mạnh, nhất là đầu vào của sản xuất nông nghiệp, từ đó ảnh hưởng lớn đến giá thành sản
phẩm sản xuất trong nước, đời sống của người dân.
Thời gian thực hiện Luật thuế GTGT vừa qua cho thấy còn có vướng mắc do tiêu chí
phân định một số hàng hoá, dịch vụ chưa rõ ràng trong việc áp dụng các mức thuế suất 5%,
10%: Việc xác định mức thuế suất vừa theo sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ vừa theo công
dụng sản phẩm, vừa theo tính chất lý hoá của sản phẩm. Ví dụ, sản phẩm cơ khí tiêu dùng thì
áp dụng thuế suất 10%, sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất là 5%, trên thực tế có những sản
phẩm cơ khí không thể phân định được rõ ràng là dùng cho tiêu dùng hay dùng cho sản xuất.
2.3 Về điều kiện được khấu trừ, được hoàn thuế
Khấu trừ, hoàn thuế là việc doanh nghiệp được trừ hoặc được hoàn lại số thuế đã trả
khi mua hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Đây là một nội dung cơ bản,
đặc thù riêng có, thể hiện tính ưu việt của thuế giá trị gia tăng, từ đó đã khắc phục việc thu
trùng của thuế doanh thu trước đây, khuyến khích xuất khẩu.
Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ sung quy định căn cứ khấu trừ,
hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào là hoá đơn giá trị gia tăng mua hàng hoá, dịch vụ. Thực
tiễn quản lý thuế thời gian qua cho thấy quy định nêu trên chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, dễ bị
lợi dụng khấu trừ khống hoặc hoàn thuế khống thông qua việc sử dụng hoá đơn ghi chép
không trung thực với thực tế giao dịch và các loại hoá đơn bất hợp pháp khác để gian lận
trong khấu trừ, làm giảm số thuế giá trị gia tăng phải nộp hoặc tăng số thuế giá trị gia tăng
[Type text] Page 24
được hoàn khống rút tiền ngân sách, gây bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng
nộp thuế, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Trong thời gian vừa qua đã xuất hiện một loại
tội phạm kinh tế mới - tội phạm mua, bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp để chiếm đoạt tiền
thuế giá trị gia tăng của Nhà nước như một số đối tượng đã lợi dụng sự thông thoáng của
Luật doanh nghiệp và quy định về điều kiện được khấu trừ thuế, được hoàn thuế nêu trên để
thành lập doanh nghiệp nhằm mục đích mua, bán hoá đơn kiếm lời bất chính (doanh nghiệp
ma)....
Luật thuế GTGT quy định phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng đối với các loại
hình doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ. Căn
cứ để khấu trừ thuế là hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT nên trong quá trình thực hiện Luật thuế GTGT
một số doanh nghiệp đã lợi dụng quy định này, sử dụng hoá đơn giả, hoá đơn ghi chép
không trung thực nội dung kinh tế phát sinh và các loại hoá đơn bất hợp pháp khác để kê
khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào nhằm trốn, lậu thuế không những gây thất thu cho NSNN
mà còn ảnh hưởng tới môi trường đầu tư, tạo sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các đối
tượng nộp thuế.
Trong thời gian vừa qua đã xuất hiện một loại tội phạm kinh tế mới - tội phạm mua,
bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp để chiếm đoạt tiền thuế GTGT của Nhà nước như một số
đối tượng đã lợi dụng sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp, thành lập doanh nghiệp
nhằm mục đích mua, bán hoá đơn kiếm lời bất chính (doanh nghiệp ma), một số cơ sở kinh
doanh đã mua hoá đơn bất hợp pháp để kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào.....
Trước năm 2003, để được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào, cơ sở sản xuất, kinh
doanh hàng xuất khẩu không bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng nên trong quá trình
thực hiện một số cơ sở kinh doanh hàng xuất khẩu đã lợi dụng quy định này lập hồ sơ xuất
khẩu hàng hoá khống, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp (hoá đơn giả, hoá đơn ghi nội dung
mua bán khống...) qua đường biên giới đất liền (đặc biệt là biên giới với Trung Quốc) để
hoàn thuế GTGT đầu vào nhằm chiếm đoạt tiền của Nhà nước.
Để ngăn chặn tình trạng này, thời gian qua các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan
bảo vệ pháp luật, cơ quan thuế đã phối hợp để tăng cường các biện pháp quản lý, như: phối
hợp trong việc cung cấp thông tin, điều tra, xử lý các vụ vi phạm,…; Luật sửa đổi, bổ sung
[Type text] Page 25
một số điều của Luật thuế GTGT năm 2003 đã quy định điều kiện để khấu trừ, hoàn thuế
GTGT đầu vào đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu là phải thanh toán qua ngân hàng. Quy
định này đã góp phần ngăn chặn được việc khấu trừ, hoàn thuế GTGT khống.
riêng cơ quan thuế đã áp dụng nhiều biện pháp quản lý hóa đơn, như yêu cầu doanh
nghiệp đóng dấu, mã số thuế trên hoá đơn, kiểm tra đối chiếu hoá đơn giữa doanh nghiệp
bán với các doanh nghiệp mua và ngược lại, gây tốn kém nhiều thời gian và chi phí, nhưng
mới chỉ hạn chế được phần nào mà chưa thể chặn đứng được tình trạng gian lận nêu trên.
Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, để được khấu trừ thuế giá trị gia tăng (VAT) cho
hàng xuất khẩu, một trong những chứng từ bắt buộc mà doanh nghiệp phải có là chứng từ
thanh toán qua ngân hàng. Tuy nhiên, trên thực tế, không ít trường hợp doanh nghiệp xuất
khẩu hàng ra nước ngoài, nhưng lô hàng không được chấp nhận do không bảo đảm chất
lượng. Trong phần lớn những trường hợp này, doanh nghiệp xuất khẩu hàng phải lựa chọn
phương án tối ưu là tiêu hủy hàng ngay tại cửa khẩu nước ngoài, vì nếu thuê phương tiện
mang hàng ngược trở lại Việt Nam sẽ bị lỗ nhiều hơn. Do hợp đồng thương mại không được
thực hiện, nên doanh nghiệp không thể có được chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Vừa bị
mất toàn bộ số vốn đầu tư sản xuất số hàng bị hủy, vừa bị mất trắng chi phí thuê phương tiện
vận chuyển hàng hóa ra nước ngoài, doanh nghiệp lại không được hoàn thuế giá trị gia tăng
đã nộp cho số hàng bị tiêu hủy ấy. Đó là thiệt thòi lớn cho doanh nghiệp. Nếu không cho kê
khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào và không được hoàn thuế trong những trường hợp
này thì sẽ tạo thêm nhiều khó khăn cho người xuất khẩu.
Bên cạnh đó, những quy định hướng dẫn trong Nghị định số 123/2008/NĐCP chưa đề
cập tới những hàng hóa mua vào nhằm phục vụ sản xuất, kinh doanh hoặc hàng hóa bán ra
nhưng bị tổn thất. Số thuế không được khấu trừ buộc doanh nghiệp phải hạch toán vào giá
thành sản phẩm. Điều này làm giảm tính cạnh tranh, tạo thêm khó khăn cho doanh nghiệp
trong việc khắc phục hậu quả tổn thất, tốn kém thêm chi phí.
2.4 Về hình thức văn bản
Thuế giá trị gia tăng được thể hiện tại 3 văn bản Luật khác nhau là Luật thuế giá trị
gia tăng năm 1997, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng năm
[Type text] Page 26
2003, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị
gia tăng năm 2005. Mặt khác, năm 2006, Luật quản lý thuế (đã được Quốc hội thông qua, có
hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2007) đã quy định các nội dung về quản lý thuế như đăng ký, kê
khai, nộp thuế, xử lý vi phạm để thay thế cho các quy định về quản lý thuế trong các luật,
pháp lệnh thuế đã được ban hành trước đây, trong đó có Luật thuế giá trị gia tăng. Với nhiều
văn bản Luật cùng quy định về thuế GTGT nên chưa tạo thuận lợi cho việc tra cứu, áp dụng
pháp luật.
[Type text] Page 27
PHẦN 3: NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
LUẬT THUẾ GTGT TẠI VIỆT NAM
3.1 Về chính sách
3.1.1 về đối tƣợng chịu thuế
Như chúng ta đã biết, thuế GTGT là một loại thuế gián thu điển hình mang tính trung
lập cao. Tại mỗi khâu của quá trình sản xuất, khoản thuế phải nộp được chuyển sang khâu
tiếp theo cho đến người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy nó không ảnh hưởng gì đến quyết
định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên lý thuyết thì như vậy, vì nếu như các khâu
này bị đứt đoạn tức là có trường hợp nào đó được liệt vào đối tượng không chịu thuế GTGT
thì ưu điểm tránh đánh thuế trùng lắp không còn ý nghĩa nữa. Lúc này doanh nghiệp không
phải kê khai nộp thuế đầu ra nhưng cũng không kê khai khấu trừ thuế đầu vào. Điều đó
khiến cho việc dự đoán những tác động của thuế đối với hoạt động của doanh nghiệp gặp
nhiều khó khăn, vì thế các đối tượng không chịu thuế GTGT chỉ nên giới hạn trong một số ít
các trường hợp.
Điều 5 luật thuế GTGT quy định có 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc diện không
chịu thuế. Số lượng như vậy là quá nhiều, trong khi mục tiêu của chính sách thuế GTGT là
mở rộng diện chịu thuế và thu hẹp các đầu mối. Một số mặt hàng đưa vào diện này còn chưa
hợp lý, chưa thực sự khuyến khích xuất khẩu gây gián đoạn trong công tác thu nộp thuế và
khó khăn cho doanh nghiệp. Lấy một ví dụ đó là thiết bị máy móc, phương tiện vận tải
chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được, nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho
doanh nghiệp,… từ trước đến nay thuộc diện không chịu thuế GTGT, thiết nghĩ, khi mới áp
dụng luật thuế này, trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn, các doanh
nghiệp hầu hết đều ít vốn nên quy định này sẽ giúp doanh nghiệp không phải bỏ ra một
lượng vốn ứng trước. Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các hình thức
huy động vốn cho doanh nghiệp cũng nhiều hơn, thuận tiện hơn, thì việc không đánh thuế
đối với mặt hàng này không những làm cho luật thuế không được thông thóang mà còn gây
gián đoạn đối với các khâu sau, phức tạp hóa trong tính toán thuế của doanh nghiệp.
Chính sách hiện hành cũng quy định hàng hóa thủy sản chưa qua chế biến không chịu
thuế GTGT, do đó nếu các doanh nghiệp thu mua trực tiếp của người sản xuất không có hóa
[Type text] Page 28
đơn thì được lập hóa đơn mua hàng Nông - lâm - thủy sản nhưng không được khấu trừ thuế
GTGT đầu vào. Khi xuất bán cho các nhà máy chế biến thủy sản, doanh nghiệp phải kê khai
nộp thuế GTGT 5% vào ngân sách nhà nước. Từ đặc điểm này, một số doanh nghiệp đã mua
bán hóa đơn GTGT khống để làm chứng từ đầu vào khấu trừ thuế GTGT, chiếm đoạt 5%
tiền thuế.
Ngoài ra, khi bàn về đối tượng chịu thuế, không chịu thuế của luật thuế GTGT thì
Điều 5 và Điều 8 của luật đã quy định rõ ràng những đối tượng nào không phải chịu thuế,
đối tượng chịu thuế suất 0%, 5%, 10%. Trong bối cảnh nền kinh tế mở cửa và hội nhập như
hiện nay thì không những chỉ có những đối tượng như vậy mà còn xuất hiện nhiều đối tượng
mới, vậy những trường hợp này thì sẽ xử lý như thế nào? Điều này tạo ra sự thiếu công bằng
trong việc áp thuế và không bao quát hết các hàng hóa, dịch vụ.
*** Rắc rối dịch vụ “lƣỡng cƣ”
Thực tế có nhiều dịch vụ vừa diễn ra ở Việt Nam, vừa diễn ra ở nước ngoài. Với phần
dịch vụ ở nước ngoài, doanh nghiệp có thể cũng bị áp thuế giá trị gia tăng. Do vậy, để bảo
đảm nguyên tắc không đánh thuế trùng, các quy định của pháp luật phải bảo đảm có thể
phân tách được phần dịch vụ diễn ra ở Việt Nam để đánh thuế, phần dịch vụ diễn ra ở nước
ngoài sẽ không bị đánh thuế.
Có nhiều dịch vụ loại này. Chẳng hạn, một số doanh nghiệp Việt Nam thực hiện dự
án trồng rừng cao su ở Lào và Cam-pu-chia tiến hành khảo sát, thăm dò ở nước sở tại.
Nhưng, phần tổng hợp, lập báo cáo lại được tiến hành ở Việt Nam. Trường hợp này cần
được phân biệt rõ.
Một số doanh nghiệp cung cấp những dịch vụ “lưỡng cư” khác cũng gặp nhiều khó
khăn trong việc làm thủ tục hoàn thuế giá trị gia tăng. Điển hình là những trường hợp dịch
vụ xuất khẩu phục vụ vận tải quốc tế, như các dịch vụ của ngành hàng không trong khu vực
cảng quốc tế, sân bay, các dịch vụ của ngành hàng hải. Với những dịch vụ này, doanh
nghiệp sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu phải xuất trình chứng từ thanh toán thu tiền dịch
vụ qua ngân hàng để được hoàn thuế giá trị gia tăng.
[Type text] Page 29
3.1.2 Về thuế suất
Trong thời gian qua, việc xây dựng hệ thống chính sách thuế thường chú trọng nhiều
đến mục tiêu tài chính (do áp lực của việc thoã mãn nhu cầu chi ngân sách nhà nước) và
mục tiêu kinh tế (do yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và xu thế hội nhập với nền kinh tế
khu vực cũng như thế giới). Mục tiêu xã hội lại được thực hiện bằng cách lồng ghép trong
chính sách thuế làm mất đi tính trung lập. Tính công bằng thực hiện tương đối ổn định giữa
các thành phần kinh tế trong nước nhưng lại thường không ổn định khi thực hiện giữa các
doanh nghiệp trong nước và nước ngoài (do hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài giảm).
Vì vậy chính sách thuế thường xuyên thay đổi về thuế suất, hệ thống thuế suất khá phức
tạp. Từ khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, số lượng mức thuế suất giảm đi rất nhiều so
với 11 mức thuế suất trước kia của thuế doanh thu, mặt khác lại còn thường xuyên được xem
xét sửa đổi (giảm từ 4 mức thuế suất xuống còn 3 mức thuế suất như hiện nay), bởi vậy đã
thu được nhiều thành công đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cũng xuất hiện
nhiều hạn chế cần phải xem xét của hệ thống nhiều mức thuế suất này.
Trước hết, việc có nhiều mức thuế suất làm cho công tác xây dựng chính sách của các
cơ quan có chức năng gặp nhiều khó khăn. Lúc này, muốn tạo ra một sắc thuế thật công
bằng thì cơ quan hoạch định chính sách phải xây dựng các tiêu chuẩn phân loại hàng hóa,
dịch vụ để từ đó mà áp vào các nhóm thuế suất khác nhau. Điều này không phải lúc nào
cũng được thực hiện thuận lợi vì sự khác nhau giữa các loại hàng hóa là rất khó phân định,
sẽ có nhiều ý kiến phản hồi từ các đối tượng chuyển đến, đặt ra một vấn đề là lại phải tốn
một khoản chi phí nhất định để tổ chức trả lời giải thích cụ thể.
Tiếp theo là đối với các doanh nghiệp, không phải doanh nghiệp nào cũng chỉ sản
xuất kinh doanh một loai hàng hóa nhất định và cũng không phải tất cả nguyên liệu đầu vào
của các doanh nghiệp đều chịu một mức thuế suất như nhau, bởi vậy nên công tác tính toán
thuế của họ sẽ trở nên rất phức tạp với nhiều mức thuế suất. Giữa các khâu của quá trình sản
xuất thuế phải thu khác nhau làm cho đối tượng nộp thuế bị phân biệt đối xử. Chính vì lý do
như vậy mà khi doanh nghiệp xác định hướng sản xuất kinh doanh của mình phải hao tốn
thêm một lượng chi phí để xây dựng chiến lược mặt hàng, tính toán thuế cho từng sản phẩm,
từng giai đoạn.
[Type text] Page 30
3.1.3 về phƣơng pháp tính thuế
Phương pháp tính thuế là yếu tố quyết định đến việc thuế tính có bị trùng lắp, chồng
chéo hay không. Hiện nay, ở nước ta đang thực hiện hai phương pháp tính thuế là phương
pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp.
>>> Phƣơng pháp khấu trừ thuế:
Số thuế GTGT = Thuế GTGT __ Thuế GTGT đầu vào
phải nộp đầu ra đƣợc khấu trừ
Trong đó:
Thuế GTGT = Giá tính thuế của hàng hóa, * Thuế suất thuế GTGT
đầu ra dịch vụ bán ra của hàng hóa, dịch vụ đó
>>> Phƣơng pháp trực tiếp :
Số thuế GTGT = GTGT của hàng hóa, * Thuế suất thuế GTGT
phải nộp dịch vụ chịu thuế của hàng hóa, dịch vụ đó
Trong đó:
GTGT của hàng hóa, = Doanh số của hàng hóa, __ Giá vốn của hàng hóa,
dịch vụ dịch vụ bán ra dịch vụ bán ra
Hiện nay, có ý kiến cho rằng áp dụng 2 phương pháp tính thuế dẫn đến hai "sân
chơi", không đảm bảo công bằng giữa đối tượng nộp thuế theo 2 phương pháp khác nhau.
Thực ra khi áp dụng nhiều phương pháp như quy định hiện hành thì sẽ có những hạn
chế và bất hợp lý, gây ra sự không thống nhất về giá tính thuế, đối với phương pháp khấu trừ
thì giá là giá chưa có thuế GTGT, còn phương pháp trực tiếp là giá đã có thuế GTGT, điều
này làm cho tính liên hoàn của thuế GTGT bị đứt đoạn, không công bằng giữa các địa bàn
tỉnh. Do quy định Cục thuế tỉnh xác định tỷ lệ % GTGT tính trên doanh thu làm căn cứ tính
thuế, dẫn đến mỗi tỉnh ban hành một biểu tỷ lệ thuế suất riêng không thống nhất trong cả
nước. Điều này làm mất đi ý nghĩa của thuế GTGT vì đối tượng nộp thuế trong trường hợp
này không quan tâm đến tỷ lệ GTGT trên doanh thu mà họ chỉ quan tâm đến doanh thu và số
thuế phải nộp.
[Type text] Page 31
Ngoài ra, tính thuế theo phương pháp trực tiếp không khắc phục được hiện tượng trùng thuế
vốn là ưu điểm nổi bật của thuế GTGT. Theo công thức của phương pháp trực tiếp thì giá
bán và giá vốn của hàng hóa đều đã là giá có thuế GTGT, trong trường hợp nếu doanh số
bán ra lớn hơn giá vốn (thường phổ biến) thì phần chênh lệch đã bị đánh trùng thuế.
Tuy nhiên, việc áp dụng đồng thời phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia
tăng bên cạnh phương pháp khấu trừ là để phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam: Hiện
nay có trên hơn 1,5 triệu hộ kinh doanh với quy mô nhỏ, trình độ quản lý kinh doanh và
hạch toán thấp, chưa có đủ điều kiện thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ, số thuế
GTGT nộp của đối tượng này chỉ chiếm gần 20% tổng số thu về thuế GTGT. Và đây cũng là
biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ hóa đơn chứng từ. Tuy nhiên,
phương pháp này vẫn không tránh khỏi những hạn chế vốn có của nó.
3.1.4 Về chế độ hóa đơn chứng từ
Một trong những khó khăn vướng mắc lớn nhất trong quá trình thực hiện luật thuế
GTGT ở nước ta là vấn đề về hóa đơn chứng từ. Do đặc điểm của luật thuế GTGT là tăng
cường hạch toán kinh tế và thực hiện chặt chẽ nguyên tắc dựa vào hóa đơn mua hàng để
khấu trừ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước, tuy nhiên nền kinh tế của nước ta hiện nay việc
mua bán được thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt, một số lượng lớn các giao dịch không cần
tới hóa đơn nên những khó khăn khi áp dụng thuế GTGT là điều khó tránh khỏi.
Trong bối cảnh đó, luật thuế GTGT lại quy định quá nhiều loại hóa đơn, bên cạnh hóa
đơn dành cho các cơ sở áp dụng theo phương pháp trực tiếp và phương pháp khấu trừ còn có
các loại hóa đơn đặc thù kể cả bảng kê mua hàng hóa của người không có hóa đơn,… Các
hóa đơn đều có tính pháp lý như nhau do Luật thuế quy định. Nhưng điểm đáng chú ý ở đây
là việc khấu trừ thuế lại khác nhau, chỉ có hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn đặc thù tại các đơn
vị nộp thuế theo phương pháp khấu trừ mới được khấu trừ thuế theo quy định.
Chính phủ đã ban hành rất nhiều quy định về hóa đơn chứng từ như Nghị định số
89/2002/NĐ-CP quy định về việc in, phát hành, quản lý hóa đơn,… nhưng vẫn nảy sinh hiện
tượng lợi dụng trong mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để khai man thuế GTGT đầu
vào để khấu trừ hoặc gian lận trong hoàn thuế.
[Type text] Page 32
3.1.5 khấu trừ kê khai thuế, hoàn thuế
Dù đã qua một thời gian thực hiện không phải là ngắn nhưng những bất cập về khấu
trừ, kê khai, hoàn thuế GTGT vẫn đang được rất nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân quan
tâm.
***Thứ nhất là vấn đề khấu trừ thuế.
Trước đây vẫn tồn tại một số điểm có quy định trái ngược nhau làm cho đối tượng
nộp thuế không biết phải làm như thế nào. Luật thuế GTGT hiện hành đã cố gắng khắc phục
những tồn tại đó.
***Thứ hai là vấn đề kê khai và hoàn thuế GTGT.
Do là một luật thuế mới được áp dụng tại Việt Nam nên để tránh cho doanh nghiệp
gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, luật thuế GTGT đã có một số quy định về kê
khai và hoàn thuế:
Luật thuế GTGT quy định thuế suất 0% đối với đa số hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu.
Lợi dụng quy định này một số đơn vị đã kê khai khống hàng hóa xuất khẩu mà thực ra là
tiêu thụ trong nước nhằm chiếm đoạt toàn bộ thuế đầu vào đã nộp cho ngân sách nhà nước.
Mặc dù đã có những quy định bổ sung về điều kiện chứng minh hàng xuất khẩu nhưng vẫn
không loại bỏ hết được tình trạng này.
Hoàn thuế là một thuộc tính của thuế GTGT đòi hỏi vừa phải chính xác, chặt chẽ vừa
phải nhanh gọn thuận lợi cho các đối tượng được hoàn thuế. Chính vì lý do đó mà các quy
định của của Luật thuế GTGT cũng cố gắng sao cho các cơ sở kinh doanh được tối đa hóa
các quyền để khấu trừ và hoàn thuế. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong các quy định
này: Đó là cơ sở xuất khẩu nhưng có số thuế đầu vào của hàng hóa xuất khẩu phát sinh trong
tháng chưa được khấu trừ nhỏ hơn 200 triệu đồng thì vẫn không được hoàn thuế theo tháng,
điều này sẽ làm cho vốn của các doanh nghiệp bị lưu lại khá lâu gây ảnh hưởng đến quá
trình kinh doanh tiếp theo của họ.
Các cơ sở kinh doanh không có hoạt động xuất khẩu hoặc có nhưng giá trị thấp, thì
dù số thuế đầu vào trong tháng phát sinh cao đến mấy vẫn không được hoàn theo tháng mà
phải chờ đủ 3 tháng. Đây là hạn chế rất lớn của quy định về hoàn thuế.
Trong quá trình thực hiện hoàn thuế GTGT đối với các nhà thầu chính của dự án
ODA, cơ quan thuế rất khó xác định chính xác số thuế GTGT đầu vào của nhà thầu chính, vì
[Type text] Page 33
họ chỉ được hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ mua vào để thực hiện hợp đồng
ký với chủ dự án, nhưng trên thực tế có nhiều hàng hóa nhà thầu chính mua vào phục vụ cho
nhiều dự án ngoài hợp đồng đã ký cho dự án ODA.
3.2 Cơ chế quản lý và thực hiện công tác quản lý của các cơ quan thuế
Đã nhiều năm kể từ khi cải cách thuế Việt Nam được tiến hành, bên cạnh những
thành tựu đạt được thì các hạn chế vẫn tồn tại khá nhiều. Đối với hệ thống thuế nói chung và
riêng với sắc thuế GTGT, một điều đáng chú ý là hệ thống cơ quan hành thu còn quá cồng
kềnh, số lượng cán bộ thuế nhiều mà tỷ lệ thanh tra thuế lại không đáng kể,… Các khâu
hành thu phức tạp, một số trường hợp còn xảy ra hiện tượng chồng chéo.
Khi áp dụng cơ chế hành thu tự khai, tự nộp do các điều kiện cần thiết chưa xuất hiện
một cách đồng bộ nên vẫn xảy ra hiện tượng trốn lậu thất thoát thuế.
Công tác quản lý mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong thời kỳ mới nhưng vẫn
còn nhiều bất cập trên tất cả các lĩnh vực từ thể chế đến cách thức quản lý. Quản lý thuế hầu
hết dựa trên kinh nghiệm, chưa khoa học, hợp lý.
Bộ máy tổ chức ngành thuế cũng chưa hoàn thiện: Hiện nay bộ máy quản lý thuế của
nước ta được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương tới cấp huyện. Hệ thống này được phân
chia vừa theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế. Một cán bộ thuế phải đảm nhiệm nhiều
chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế do đó không có điều kiện chuyên sâu
vào một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, quy trình quản lý thuế
phải thay đổi, cơ quan thuế phải tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế,… trình độ của
một số cán bộ còn thấp do đó không đáp ứng yêu cầu của công việc.
Sau một thời gian khi Luật thuế GTGT đã đi vào thực tiễn thì vẫn còn tồn tại một số
điểm trong quản lý và tổ chức như chức năng, nhiệm vụ điều tra khởi tố, cưỡng chế thu nợ
thuế chưa đủ cơ sở pháp lý.. trình độ của một số cán bộ thuế còn non kém. Đội ngũ cán bộ
nói chung, xét về cả số lượng lẫn chất lượng có nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của
công việc, công tác tổ chức cán bộ còn nhiều khiếm khuyết, chưa rõ ràng và thiếu nhất quán.
Công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ còn nhiều hạn chế. Công chức thuế nói chung còn
thiếu kiến thức chuyên sâu, kỹ năng quản lý thuế quốc tế, cán bộ lãnh đạo một số còn yếu về
kiến thức quản lý kinh tế, quản lý vĩ mô và quản lý hành chính nhà nước.
[Type text] Page 34
Do truyền thống thanh toán trong các giao dịch chủ yếu là bằng tiền mặt nên đã hạn
chế rất nhiều đối với cơ quan thuê trong việc kiểm soát các hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp.
Sự thống nhất hoạt động giữa các cơ quan chức năng còn chưa cao, một số còn chưa
nhiệt tình trong việc cung cấp các thông tin để cơ quan thuế tổng hợp nhằm đưa ra những
giải pháp bổ sung kịp thời cho các sắc thuế.
3.3 Nguyên nhân của thực trạng trên
Khi bàn về nguyên nhân dẫn đến những khó khăn đã gặp phải khi áp dụng thuế
GTGT thì người ta thường đề cập tới hai nhóm nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Nói về yếu tố khách quan thì có lẽ nguyên nhân lớn nhất là điều kiện, hoàn cảnh áp
dụng thuế GTGT, khi mà chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường chưa lâu, các thành
phần cũng như hoạt động kinh tế chưa phát triển một cách đồng đều,… Trong những năm
gần đây, khi nền kinh tế phát triển nhanh chóng thì sự xuất hiện của của các đối tượng kinh
tế mới cũng chưa được kịp thời đưa vào sự quản lý của luật thuế GTGT.
Còn về yếu tố chủ quan thì tư tưởng, cơ chế chính sách cũng đã hạn chế nhiều thành
công của Luật thuế GTGT. Khi mới bắt đầu triển khai sắc thuế này, quan điểm nóng vội
muốn chuyển ngay từ thuế doanh thu sang thuế GTGT trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm của
các nước đã áp dụng thành công mà không quan tâm đến giải pháp xử lý cần thiết mang tính
quá độ cho giai đoạn chuyển tiếp: như không quan tâm đến vấn đề hàng tồn kho, tài sản cố
định lớn trước ngày 31/12/1998. Điều này đã làm cho nhiều doanh nghiệp rất lo lắng và họ
đã tìm mọi cách để trốn thuế.
[Type text] Page 35
PHẦN 4: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
THỰC HIỆN THUẾ GTGT TẠI VIỆT NAM.
Trong thời gian tới, thuế GTGT sẽ trở thành sắc thuế chủ yếu, chiếm tỷ trọng cao
trong hệ thống chính sách thuế (hơn 20% tổng thu ngân sách) và sẽ bù đắp được nguồn thu
thuế nhập khẩu khi cắt giảm thuế theo cam kết quốc tế. Bởi vậy, để thực hiện chức năng của
sắc thuế này, cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng:
4.1. Về chính sách
4.1.1. Đối tƣợng chịu thuế
Mục tiêu của thuế GTGT đó là mở rộng diện chịu thuế và hạn chế các đầu mối. Với
tình hình luật thuế của nước ta hiện nay thì hạn chế bớt số nhóm đối tượng thuộc diện không
chịu thuế, nghiên cứu bổ sung thêm các đối tượng thuế mới phát sinh trong nền kinh tế là
một hướng đi chính xác. Biện pháp này sẽ ổn định được nguồn thu cho ngân sách nhà nước
và tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế được liên hoàn giữa các khâu của quá trình
sản xuất. Nên đưa vào đối tượng chịu thuế nhóm hàng hóa là thiết bị, phương tiện vận tải
chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được mà cơ sở có dự án đầu tư nhập khẩu
để làm tài sản cố định cho doanh nghiệp. Tuy việc quy định này bước đầu có thể làm cho
doanh nghiệp gặp khó khăn vì phải bỏ ra một số tiền lớn để nộp thuế nhưng nó lại làm cho
luật thuế thông thóang hơn, đồng thời cũng giúp cho công tác tính toán thuế của doanh
nghiệp ở các khâu sau thuận tiện hơn, và khi áp dụng quy định này thì nhà nước có thể ban
hành kèm theo một số hướng dẫn giải quyết nhanh khâu hoàn thuế để giải quyết vấn đề vốn
cho doanh nghiệp.
Theo quy định hiện hành của luật thuế GTGT thì tất cả các tổ chức, cá nhân cố hoạt
động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt
ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hóa,
dịch vụ từ nước ngoài chịu thuế GTGT đều là đối tượng nộp thuế GTGT. Luật thuế nước ta
chưa quy định ngưỡng thuế, phạm vi các đối tượng áp dụng thuế GTGT quá rộng, gồm cả
những hộ các thể nhỏ lẻ chưa đủ điều kiện hạch toán riêng. Vì vậy giải pháp cho vấn đề này
là quy định phạm vi áp dụng thuế chỉ nên giới hạn cho các đối tượng đủ điều kiện tính thuế
[Type text] Page 36
theo phương pháp khấu trừ, còn tất cả những các nhân, hộ kinh doanh không đủ điều kiện áp
dụng thuế GTGT thì sẽ chuyển sang áp dụng loại thuế khác. Tuy nhiên, một điều được đặt ra
là ngưỡng thuế ở đây sẽ quy định là bao nhiêu? Theo điều tra của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF,
ngưỡng trung bình đối với các nước đã áp dụng ngưỡng thuế là khoảng 34500USD. Đối
tượng dưới ngưỡng thì mỗi quốc gia có cách xử lý riêng, hoặc thu tỷ lệ % trên doanh thu
hoặc áp dụng thuế trung bình. Với điều kiện nước ta hiện nay thì có lẽ việc xác định ngưỡng
thuế là chưa thực hiện được, tuy nhiên đây cũng là một biện pháp về phạm vi áp thuế có thể
ngiên cứu thêm.
Điều 5, Điều 8 luật thuế GTGT quy định tất cả các trường hợp không chịu thuế chịu
thuế 0%, 5%, 10%. Cách quy định chi tiết như vậy giúp cho đối tượng nộp thuế biết rõ hơn
nghĩa vụ của mình, nhưng lại chưa bao quát hết các trường hợp mới phát sinh, nên thiết nghĩ
đối với thuế suất 10% chỉ cần quy định là tất cả các đối tượng chịu thuế GTGT còn lại sau
khi đã trừ các trường hợp trên.
4.1.2. Thuế suất
Thuế suất có thể coi là linh hồn của một sắc thuế. Luật thuế GTGT của nước ta đang
quy định 3 mức thuế suất là 0%, 5%, 10%, ưu điểm của các mức thuế suất đó là Chính phủ
có thể áp mức thuế suất thấp cho các loại mặt hàng cần khuyến khích phát triển… tuy nhiên,
bất cập nảy sinh khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, nhiều mức thuế suất làm
cho công tác hoạch định chính sách, công tác tính toán thuế trở nên khó khăn, phức tạp và
tốn kém hơn. Mặt khác, trong một chu trình sản xuất tổng số thuế phải nộp của một hàng
hóa nào đó hoàn toàn phụ thuộc vào giá cả và thuế suất ở khâu cuối cùng, do đó việc áp
dụng nhiều mức thuế suất ở các khâu trước không ảnh hưởng đến tổng số thuế phải nộp. Nên
việc sử dụng một mức thuế suất (ngoài mức 0%) là hoàn toàn hợp lý.
Áp dụng một mức thuế suất (ngoài mức 0%) cho tất cả các đối tượng ban đầu sẽ gặp
một số khó khăn như là do tính luỹ thoái của thuế gián thu nên việc áp thuế suất đồng đều sẽ
làm cho gánh năng thuế đối với những người giàu sẽ ít hơn so với người nghèo nếu xem xét
dưới góc độ thu nhập. Hay như việc nhà nước thể hiện chính sách ưu đãi xã hội thông qua
việc đánh thuế cao, thấp đối với từng mặt hàng cũng không còn nữa…
Tuy nhiên, biện pháp này sẽ giúp cho công tác hoạch định chính sách của cơ quan
chức năng thuận lợi hơn, ít tốn kém chi phí vào việc xác định tiêu thức phân loại đối tượng
[Type text] Page 37
chịu thuế… Các doanh nghiệp cũng không cần quan tâm nhiều đến thuế suất trong quá trình
hoạch định chiến lược sản phẩm…
4.1.3. Phƣơng pháp tính thuế
Để hạn chế bớt những bất cập không hợp lý trong phương pháp tính thuế như hiện
nay thì chúng ta nên thực hiện phương pháp tính thuế thống nhất là khấu trừ, còn đối với các
trường hợp không đủ khả năng hạch toán độc lập có thể nghiên cứu đến việc thu thuế khoán
(Đây là biện pháp thu thuế dựa trên cơ sở các yếu tố khách quan do người sản xuất kinh
doanh cung cấp và trên cơ sở các biện pháp kiểm tra của cán bộ thuế, cơ quan thuế ấn định
một mức doanh thu cụ thể và trong một thời gian nhất định, trong khoảng thời gian đó, số
thuế mà cơ sở phải nộp được tính dựa trên doanh thu ấn định này) hoặc chuyển các đối
tượng này sang áp dụng hình thức thu thuế đơn giản theo tỷ lệ % doanh thu, cụ thể là gộp cả
thuế gián thu và thuế trực thu thành một tỷ lệ trên doanh thu…
Với thực tế hiện nay các hộ kinh doanh cá thể còn chiếm một tỷ lệ rất lớn trong các
thành phần kinh tế, thì việc chuyển đổi phương pháp tính thuế cho nhóm đối tượng này phải
được tiến hành đồng bộ với các biện pháp khác để tránh thất thu thuế cho ngân sách nhà
nước.
4.1.4. Hóa đơn, chứng từ
Bộ tài chính trong thời gian qua để khắc phục những khúc mắc về hóa đơn chứng từ,
đã ban hành nhiều quy định mới như: sửa đổi quy định về thực hiện xác minh lý lịch tư pháp
và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước khi bán hóa đơn, chỉ bán hóa đơn
cho các doanh nghiệp thực tế có hoạt động sản xuất kinh doanh và bán tương ứng với mức
độ kinh doanh có kê khai nộp thuế nhằm ngăn chặn các hành vi mua, bán, sử dụng hóa đơn
bất hợp pháp… Tuy nhiên, trong thực tế, các quy định vẫn còn có kẽ hở để cho các đối
tượng lợi dụng chiếm đoạt tiền của nhà nước, bởi vậy trong thời gian tới vẫn cần bãi bỏ hoặc
sửa đổi một số quy định về quản lý, sử dụng hóa đơn không hợp lý hoặc có sơ hở như là: bãi
bỏ quy định về lập hóa đơn theo số hàng hóa trên bảng kê bán lẻ. Dùng bảng kê 06/GTGT
làm căn cứ tính thuế, có quy định quản lý đối với chứng từ này. Bổ sung quy định, tổ chức,
cá nhân kinh doanh sử dụng hóa đơn bán hàng như các trường hợp nộp thuế theo phương
pháp khấu trừ.
[Type text] Page 38
Trƣớc hết nên duy trì việc sử dụng hóa đơn đối với các hộ kinh doanh tính thuế theo
phương pháp trực tiếp đã thực hiện lập sổ sách kế toán theo quy định…
Thứ hai là cần ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn về việc thực hiện chế độ
hóa đơn chứng từ một cách kịp thời khi có những thay đổi mới.
Thứ ba là thay đổi biện pháp quản lý bằng hóa đơn, chứng từ, mở rộng diện đối với
doanh nghiệp tự in hóa đơn, sẽ tránh được việc in và sử dụng hóa đơn giả như hiện nay.
Thứ tƣ là nên giảm bớt khối luợng hóa đơn chứng từ của các khâu từ thông báo thuế,
kê khai, nộp thuế đến quyết toán thuế.
Thứ năm là đa dạng hóa các công cụ kiểm soát hoạt động giao dịch kinh doanh trên
thị trường thông qua việc mở rộng thanh toán bằng các loại thẻ tín dụng, thanh toán qua
ngân hàng… lúc này sẽ hạn chế được rất nhiều tình trạng mua bán hóa đơn khống để rút tiền
của nhà nước, bởi hóa đơn chứng từ giờ đây chỉ là công cụ thứ yếu, là điều kiện cần chứ
chưa phải điều kiện đủ để được quyết toán thuế. Tuy nhiên, muốn thực hiện được biện pháp
này thì hệ thống các ngân hàng cũng phải được hiện đại hóa, các quy trình thanh toán cần
phải nhanh, thuận lợi để không gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thanh toán các
giao dịch.
4.1.5. Khấu trừ, kê khai, hoàn thuế GTGT
Quan điểm hoàn thiện thuế GTGT đó là phải tôn trọng thuộc tính trung lập của thuế,
tức hạn chế tối đa các quy định miễn giảm, khấu trừ bởi nó là nguyên nhân làm sói mòn mục
tiêu cốt lõi của thuế.
Cơ sở pháp lý cho việc hoàn thuế GTGT chủ yếu được quy định tại điều 10 và 16 của
Luật thuế GTGT. Việc hoàn thuế chỉ được thực hiên trong ba trường hợp đó là: hoàn thuế
cho cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ nếu các cơ sở đó
thoã mãn những điều kiện luật định. Hoàn thuế trong trường hợp quyết toán thuế khi các
doanh nghiệp sát nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản có số thuế nộp thừa. Hoàn thuế
theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, tuy nhiên thực tế vẫn xảy ra trường hợp hoặc là
các doanh nghiệp không mặn mà với việc hoàn thuế, hoặc là lợi dụng các quy định về hoàn
thuế để chiếm đoạt tiền của ngân sách.
Trước tình trạng đó, cần phải có những giải pháp để cải cách khâu hoàn thuế GTGT.
[Type text] Page 39
Thứ nhất, để giải toả mọi vướng mắc trong việc thi hành thông suốt việc khấu trừ và
hoàn thuế GTGT, cơ quan thuế các cấp phải công khai minh bạch mọi thủ tục hành chính
thuế theo nguyên tắc đề cao quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm trong việc tự kê khai, nộp
thuế và xác định số thuế GTGT được hoàn trả.
Thứ hai là phải xem xét lại thời gian hoàn thuế, đặc biệt là đối với các đối tượng có
hoạt động xuất khẩu nhưng số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ trong tháng nhỏ hơn
200 triệu đồng thì vẫn không được hoàn thuế theo tháng. Bởi theo quan điểm của các doanh
nghiệp, thì thuế GTGT phát sinh dù nhỏ hay lớn cũng đều phải nộp theo tháng, nhưng việc
hoàn thuế cho một số đối tượng lại theo quý…
Thứ ba là quy định về ngưỡng hoàn thuế theo tháng hay theo quý đối với doanh
nghiệp là 200 triệu đồng dường như còn cứng nhắc bởi số tiền này có thể phù hợp với địa
phương này nhưng không phù hợp với địa phương khác do đó cần xem xét lại, tuỳ theo đặc
điểm của từng trường hợp mà có quy định thời hạn được hoàn thuế,...
Thứ tƣ là nên quy định việc hoàn thuế đối với khách du lịch quốc tế mua hàng hóa
của Việt Nam về nước, việc hoàn thuế này cần tiến hành đơn giản nhanh gọn như là khách
quốc tế chỉ cần mang hóa đơn hàng hóa đến cơ quan thuế để được hoàn lại thuế GTGT.
Thứ năm là đối với những vướng mắc về hoàn thuế GTGT đối với dự án ODA vay
thì các chính sách nên sửa đổi theo hướng quy định không thực hiện hoàn thuế cho các nhà
thầu chính thực hiện dự án ODA được ngân sách nhà nước cấp phát mà ngân sách nhà nước
sẽ bố trí vốn đầy đủ để chủ dự án trả thuế cho các nhà thầu chính.
4.1.6. Vấn đề ƣu đãi thuế
Đối với các loại thuế gián thu thì thông thường không có các quy định về ưu đãi thuế,
tuy nhiên trong luật thuế GTGT vẫn ban hành các trường hợp không chịu thuế, được miễn
giảm thuế, đó là máy móc thiết bị nhập khẩu theo nguồn tài trợ nhân đạo cho các tổ chức và
các nhân ở Việt Nam…trường hợp sử dụng nguồn tài trợ của nước ngoài để mua hàng trong
nước dùng cho mục đích từ thiện thì được hoàn lại số thuế đầu vào. Vấn đề xuất hiện ở đây
là nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã lợi dụng hình thức tặng quà, tài trợ để trốn thuế bởi vậy
cần có những biện pháp kiểm soát hiện trạng này như là: Ban hành các quy định về việc
kiểm soát sau khi hàng hóa nhập khẩu hàng hóa có sử dụng đúng mục đích hay không? quản
lý chặt chẽ các hội và tổ chức phi chính phủ ngay từ khi mới thành lập…
[Type text] Page 40
4.1.7. Chuẩn hóa các quy định pháp luật về thuế GTGT
Cần sửa đổi các nội dung sao cho phù hợp với các văn bản pháp luật khác.
Ngoài ra còn phải sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về thuế GTGT theo hướng
minh bạch hóa. Tức là phải quy định lại một cách rõ ràng, dễ hiểu các văn bản pháp luật
trước đây còn chưa có sự nhất quán, minh bạch và luật hóa những vấn đề đã được quy định
trong các văn bản dưới luật để đảm bảo đúng nguyên tắc ban hành luật, đúng quy định của
Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Điều này sẽ giúp cho các đối tượng thuộc
phạm vi điều chỉnh của thuế GTGT hiểu và làm theo pháp luật.
4.2. Về cơ chế quản lý
4.2.1. Cơ chế tự khai – tự nộp
Tự khai, tự nộp là một phương thức quản lý thuế hiện đại, theo chỉ đạo của Chính phủ
cơ chế này sẽ được áp dụng đại trà vào năm 2007. Đây là một cơ chế mới do đó ngay trong
giai đoạn thực hiện thí điểm như hiện nay chúng ta cần có những biện pháp thích hợp để làm
nền tảng cho nó.
Trƣớc hết là tính tự giác tuân thủ của doanh nghiệp, trong cơ chế này họ được tự tính
toán kê khai và nộp thuế, do đó nếu không tự giác và am hiểu các kiến thức về pháp luật thì
không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Cần chú ý xem xét các trường hợp các doanh nghiệp kê khai hàng tháng có số thuế
phải nộp âm nhưng doanh số bán ra rất lớn và lại không thấy lập hồ sơ xin hoàn thuế. Bởi
đây rất có thể là các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh sai trái, sợ khi xin hoàn
thuế sẽ bị cơ quan thuế xuống kiểm tra.
Tiếp theo, phải xây dựng được một hệ thống xử phạt nghiêm khắc và có hiệu quả để
ngăn chặn sự bất tuân của một số các doanh nghiệp.
Thứ ba là phải tổ chức bộ máy thanh tra đủ mạnh để kịp thời phát hiện những gian
lận của doanh nghiệp. Trước nay, công tác thanh tra của ta chưa dựa trên cơ sở nắm và phân
tích đầy đủ các thông tin về đối tượng nộp thuế, do đó phần lớn chưa thanh tra đúng đối
tượng, chưa xác định đúng phạm vi gian lận, chưa sử dụng được công nghệ tin học vào công
tác này do đó thanh tra chưa có hiệu quả. Vì thế công tác thanh tra ngành thuế nói chung và
thanh tra lĩnh vực thuế GTGT nói riêng cần được tăng cường, thời gian đầu chúng ta có thể
[Type text] Page 41
vẫn kiểm tra trên diện rộng, nhưng sau đó công tác này cần được tiến hành có trọng tâm
trọng điểm…
4.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy, hoàn thiện công tác quản lý thuế
Muốn hoàn thiện thuế GTGT thì tổ chức bộ máy, công tác quản lý thuế cũng phải
được hoàn thiện nhằm tạo môi trường cho thuế GTGT phát huy hết được các ưu điểm của
mình.
Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010 của ngành thuế bao gồm 8 chương trình lớn
đó là : Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế; Xây dựng luật quản lý thuế, triển
khai thí điểm và mở rộng cơ chế quản lý "tự kê khai, tự nộp thuế" trên toàn quốc; Tăng
cường tuyên truyền và hỗ trợ đối tượng nộp thuế; Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về thuế,
thu hồi nợ thuế; Cải cách bộ máy quản lý thuế theo mô hình chức năng, nâng cao năng lực
đội ngũ cán bộ thuế; Phát triển ứng dụng tin học hiệu quả vào công tác quản lý thuế; Từng
bước hiện đại cơ sở vật chất kỹ thuật của cơ quan thuế.
Để thực hiện mục tiêu chung thì các mục tiêu riêng phải được thực hiện một cách
hiệu quả.
Về việc xây dựng hệ thống chính sách thuế. Trước đây, do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan khác nhau mà việc hoạch định và xây dựng hệ thống chính sách thuế của
nước ta còn chưa có sự đồng bộ, bởi vậy trong thời gian tới cần phải xem xét, sửa đổi các
chính sách thuế sao cho có sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật, tạo sự thông thóang,
minh bạch và hiệu quả của hệ thống luật nước ta.
Xem trọng công tác tuyên truyền, giáo dục cho nguời nộp thuế thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng và nhiều hình thức khác nhằm giúp họ hiểu biết đầy đủ các chính
sách thuế, trách nhiệm pháp luật để nâng cao ý thức tự giác, chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa
vụ nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Khuyến khích và phát triển các dịch vụ tư vấn thuế...
Kiện toàn lại hệ thống quản lý thu thuế theo hướng cải cách hành chính, nâng cao
quyền hạn và trách nhiệm của bộ máy quản lý thuế: Ban hành bổ sung một số nội dung về
quản lý thuế trong các văn bản pháp luật như các biện pháp nghiệp vụ và quy trình quản lý
thu thuế chỉ do cơ quan thuế ban hành và áp dụng nội bộ. Ban hành luật quản lý thuế để
giảm hiện tượng các đối tượng nộp thuế tìm mọi cách để trốn lậu thuế, chây ỳ, ỷ lại vào cơ
quan thuế trong việc tính thuế, tạo sơ hở cho cán bộ thuế có những hành vi không đúng…
[Type text] Page 42
Đội ngũ cán bộ thuế là nhân tố rất quan trọng trong ngành thuế, bởi vậy cần có sự sắp
xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý thu theo hướng tập trung vào các khâu công việc chính, đào
tạo lại và tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về quản lý thuế theo phương pháp
hiện đại, trình độ ứng dụng thành thạo công nghệ tin học…Đặc biệt đối với công tác cán bộ
phải xem trọng việc tuyển chọn đội ngũ làm công tác tổ chức nhân sự, bởi quyết định của
đội ngũ này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ thuế. Đó phải là những người thực sự chí
công, vô tư và có năng lực đánh giá nhân sự.
Sự phát triển của hệ thống thuế không thể tách rời quá trình hiện đại hóa, áp dụng
công nghệ thông tin vào các quy trình quản lý. Đầu tư hệ thống máy tính sẽ giúp cho tốc độ
sử lý công việc của ngành thuế nhanh hơn, chi phí quản lý cũng sẽ giảm đi rất nhiều.
4.2.3. Kiến nghị đối với các cơ quan cấp trên
Để thuế GTGT ngày càng được hoàn thiện hơn thì Nhà nước, Chính phủ – là những
cơ quan quản lý cao nhất, cần phải có chiến lược cụ thể nhằm tác động vào các hoạt động
của nền kinh tế xã hội, từ đó tạo ra môi trường tốt nhất cho các sắc thuế nói chung và thuế
GTGT nói riêng phát huy được các ưu điểm của mình.
Thứ nhất, về công tác quản lý. Từ khi Nhà nước chuyển việc quản lý bằng các chỉ
tiêu, mệnh lệnh sang quản lý thông qua các công cụ gián tiếp mà chủ yếu là thuế thì công tác
quản lý đã trở nên linh hoạt hơn rất nhiều. Cơ chế là đúng đắn, tuy nhiên không phải lúc nào
việc quản lý cũng thông suốt mà không gặp phải sai sót gì, một thực tế cho thấy là tình trạng
xin-cho giữa các đơn vị cấp trên và cấp dưới vẫn còn tồn tại, một số cán bộ quản lý cấp trên
chưa thực sự làm hết chức trách quản lý của mình cho nên đã để xảy ra nhiều thất thoát cho
Nhà nước. Vấn đề được đặt ra ở đây là cần có sự quản lý chặt chẽ, phân định trách nhiệm rõ
ràng nhằm tránh tình trạng khi sự việc xảy ra thì không ai chịu trách nhiệm.
Thứ hai, Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống luật pháp Việt Nam cho có sự thống nhất
cao giữa các bộ luật, điều này sẽ giúp cho Luật thuế GTGT có sự phù hợp với các sắc thuế
khác, tránh được các vướng mắc khi giải quyết các vấn đề liên quan đến sắc thuế này.
Thứ ba, Nhà nước cần quan tâm chỉ đạo đến sự phát triển của hệ thống ngân hàng,
bởi nếu các ngân hàng phát triển đồng đều và vững mạnh thì sẽ tạo điều kiện cho công tác
quản lý và thu thuế GTGT cũng như các thuế khác một cách thuận lợi và chính xác, tránh
được thất thu thuế…
[Type text] Page 43
Ngoài ra, việc đầu tư cho các lớp đào tạo cán bộ thuế cũng rất nên được sự quan hơn,
hiện nay chúng ta chưa có các trường đào tạo thuế riêng mà mới chỉ có các chuyên ngành
nhỏ trong các trường đại học với thời luợng giảng dạy chưa nhiều do đó kiến thưc mà các
sinh viên có được cũng chỉ là cơ bản nhất, điều này sẽ làm tốn một khoản chi phí lớn vì phải
đào tạo lại khi họ vào làm thực tế…
Tóm lại để hoàn thiện thuế GTGT thì Nhà nước cần áp dụng rất nhiều biện pháp cả
về chính sách lẫn phương diện quản lý. Các biện pháp này phải được kết hợp một cách đồng
bộ chứ không thể tổ chức riêng lẻ.
[Type text] Page 44
PHẦN 5: KẾT LUẬN
Từ khi đất nước chuyển đổi cơ chế quản lí nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nước ta đã và đang giành được
nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả lĩnh vực, tạo cơ sở nền móng cho việc thực hiện công
nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước. Trong đó, hệ thống thuế có sự đóng góp không nhỏ
vào việc thực hiện cải cách, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế để sử dụng công
cụ điều tiết này một cách hiệu quả.
Qua hơn 12 năm áp dụng và thực hiện, luật thuế GTGT đã từng bước khẳng định vai
trò và chỗ đứng của một sắc thuế, tiến bộ, công bằng là công cụ điều tiết vĩ mô….Thuế
GTGT cũng góp phần không nhỏ vào nguồn thu ngân sách của nhà nước từ thuế. Nó cũng là
động lực cho các doanh nghiệp, các đơn vị tổ chức sản xuất có hiệu quả, tăng cường phát
triển kinh tế nâng cao đời sống nhân dân. Bên cạnh việc thuế GTGT thể hiện những đặc tính
ưu việt với những đặc điểm, tính chất, vai trò phù hợp với tình hình kinh tế ở nước ta thì vẫn
còn tồn tại một số vấn đề bức xúc đặt ra trong quá trình triển khai thực hiện. Sự thiếu sót
trong luật cũng như trong quản lý khiến những kẻ cơ hội bất chấp sự trừng phạt của pháp
luật để tìm cách “lách luật” vi phạm pháp luật, mặc dù các cơ quan ban ngành đã nỗ lực
giảm bớt tình trạng gian lận thuế GTGT, nhưng tình trạng gian lận thuế GTGT ở nước ta
trong những năm qua không giảm thậm chí còn tăng với hình thức đa dạng hơn, thủ đoạn
ngày càng tinh vi hơn… Do đó nước ta cần có một bộ luật hoàn chỉnh hơn, một bộ máy quản
lý làm việc có hiệu quả hơn để ngăn chặn tình trạng gian lận thuế GTGT trong xã hội hiện
nay. Đây cũng là yêu cầu đòi hỏi của xã hội hiện nay để xây dựng một xã hội công bằng và
văn minh.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài tiểu luận này, nhóm chúng em đã phân
tích, đánh giá những thành tựu cũng như khách quan trong việc vạch ra những thiếu sót
trong việc thực hiện luật GTGT cũng như công tác quản lí. Trên cơ sở đó, nhóm chúng em
đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị cho những tồn tại và thiếu sót trên. Tuy
nhiên, đó chỉ là ý kiến của cá nhân nhóm nên không thế tránh khỏi những khiếm khuyết, sai
sót nhất định nên nhóm chúng em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cô và các
bạn. xin chân thành cảm ơn !
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thue_gtgt_08022012_tieuluanfree_tk_trang_tieu_luan_mien_phi_hang_dau__.pdf