Luôn song hành cùng sự hình thành và phát triển của xã hội loài người, ngành
dệt may Việt Nam đã biết kế thừa và phát huy truyền thống để ngày càng khẳng định
vai trò và những đóng góp to lớn cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Nhất là trong
20 năm đổi mới gần đây, cùng với sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên
thứ 151 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO và “quota dệt may”, ngành dệt may
Việt Nam đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Từ vị trí đứng thứ hai sau dầu thô, đã
vươn lên vị trí thứ nhất về kim ngạch xuất khẩu.
33 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4696 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng xuất khẩu dệt may của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Thực trạng xuất khẩu dệt may của
Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
Cũng như quá trình phát triển của nhiều nước trên thế giới , trong nền kinh tế Việt
Nam ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may đóng một vai trò
quan trọng, vừa cung cấp hàng hoá trong nước, vừa tạo điều kiện mở rộng thương mại
quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo ra ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu và
cũng là ngành nghề có lợi tức tương đối cao, đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
Nhìn lại lịch sử phát triển của mình, ngành dệt may Việt Nam đã trải qua khá
nhiều thăng trầm. Song đến những năm gần đây, cùng sự phát triển của ngành dệt may
Thế Giới và khu vực, ngành dệt may Việt Nam thực sự bước sang thời kì phát triển
mới với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu. Năm 2006 tổng
kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đạt con số 5,3 tỷ USD, trong đó thị
trường Mỹ 3 tỷ USD, các nước EU hơn 2 tỷ USD, ngành công nghiệp dệt may đã trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra xuất khẩu và ngày càng khẳng định vai trò
“không thể thiếu” trong đời sống kinh tế - xã hội. Thành công đó có được là do ngành
dệt may Việt Nam đã biết tận dụng cơ hội gồm cả nhân tố khách quan và chủ quan đem
lại, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước trong vấn đề xúc tiến thương mại, sự giúp đỡ có
hiệu quả của Bộ Công Nghiệp và nỗ lực, cố gắng vươn lên của các doanh nghiệp dệt
may trong toàn ngành thời gian qua.
Bên cạnh vai trò về tính kinh tế trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, chúng
ta không thể không nói tới yếu tố truyền thống dân tộc của ngành nghề này. Ngành dệt
may Việt Nam đã có lịch sử lâu đời, từ xa xưa cách đây hàng ngàn năm, cha ông chúng
ta đã biết trồng dâu nuôi tằm, trồng bông dệt vải, ươm tơ dệt lụa,... biết làm ra các sản
phẩm dệt may làm đẹp cho đời. Từ những chiếc khung cửi thủ công thô sơ đến máy
may đạp chân, dần dần chúng ta đã có các thiết bị dệt nhuộm, may mặc cơ khí hiện đại,
điện tử, tự động hóa...Bằng chứng cho sự phát triển này là đến nay vẫn còn tồn tại
nhiều làng nghề truyền thống trên nhiều vùng đất nước như: Lụa Vạn Phúc, Khăn
Phùng Xá(Hà Tây); Dệt Làng Mẹo(Thái Bình); Lành Dệt Liên Tỉnh(Nam Định); Thổ
Cẩm Mai Châu(Hoà Bình)…Tuy vậy, phải đến cuối thế kỷ XIX, ngành dệt may mới
manh nha hình thành và phát triển trong hình hài của một ngành công nghiệp. Đất nước
ta là một nước phương Đông mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc không thể thiếu
những ngành nghề truyền thống như gốm sứ, dệt may, điêu khắc… Hơn nữa dệt may
lại đang là ngành nghề mũi nhọn, dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu trong những năm
gần đây. Chính phủ đã phê duyệt “ Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt
Nam đến năm 2010”. Mục tiêu là kiên quyết vượt qua thách thức để đưa dệt may Việt
Nam lên tầm cao mới. Nhiệm vụ còn lại là của các nhà doanh nghiệp dệt may thuộc
mọi thành phần kinh tế trên khắp mọi miền của đất nước.
Việt Nam đã gia nhập WTO, sức ép hội nhập kinh tế không cho phép ngành dệt
may Việt Nam chậm chạp, chính vì thế mà chúng ta phải “tăng tốc”, “tăng tốc” để theo
kịp các nước trong khu vực và trên Thế Giới. Thực tế cho thấy ngành dệt may Việt
Nam hiện còn quá nhỏ bé so với tiềm năng của chính nó và so với các nước trong khu
vực. Tuy nhiên làm thế nào để ngành dệt của chúng ta “hoà nhập nhưng không hoà
tan” đang là một câu hỏi lớn cho chính phủ và các doanh nghiệp. Chúng ta đã phải rất
nỗ lực mới vào được tổ chức thương mại Thế Giới WTO, trước một hoàn cảnh mới
như vậy, Việt Nam nói chung và ngành dệt may Việt Nam nói riêng phải đối phó với
rất nhiều thách thức đe doạ, tuy nhiên cơ hội cũng có nhiều. Tập Đoàn Dệt May Việt
Nam được xem là một tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước, với các chức năng bao quát
từ hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ đến kinh doanh xuất nhập khẩu các loại sản
phẩm thuộc lĩnh vực dệt may. Trong bản đề án này, em xin đưa ra một số vấn đề liên
quan đến đặc điểm, thực trạng và các biện pháp nâng cao kim ngạch xuất khẩu của
Tập Đoàn Dệt May Việt Nam – VINATEX - cơ quan đàu tàu của ngành dệt may nước
ta.
Lý do em chọn đề tài này là do có một phần nguyên nhân cá nhân. May mắn được
sinh ra ở một quê hương làng nghề thuộc tỉnh Nam Định. Mặc dù không được trực tiếp
trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải nhưng từ nhỏ đã thường xuyên được tiếp xúc với các chất
liệu len, vải, thổ cẩm đã sớm giúp em hình thành một mối quan tâm sâu sắc về đề tài
này. Cộng thêm niềm đam mê và cảm hứng đối với lĩnh vực thời trang trong nước và
quốc tế, em đã quyết định làm bản đề án môn học này với hi vọng sẽ áp dụng được
những kiến thức kinh tế đã được học trên trường lớp vào thực tế.
II- NỘI DUNG
Chương 1. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUÂT KHẨU DỆT MAY
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
1.Khái quát và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam:
1.1. Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam :
Ngành dệt may Việt Nam là một trong những ngành có lịch sử phát triển lâu đời
ở Việt Nam. Đặc biệt, ngành dệt sợi đã có từ lâu và phát triển mạnh trong thời kỳ thực
dân Pháp đô hộ. Trước khi thưc dân Pháp xâm lược
Đông Dương đã tồn tại nhiều nhà sản xuất vải tại Việt Nam sử dụng sợi nhập khẩu.
Thực dân Pháp đã tăng thuế nhập khẩu sợi làm cho sản xuất vải tại Việt Nam gặp nhiều
khó khăn. Nhưng trong thời kỳ này nhiều nhà máy dệt hiện đại do Pháp đầu tư đã được
thành lập. Năm 1889, nhà máy dệt đầu tiên tại Việt Nam được Pháp xây dựng tại Nam
Định, tiếp theo là năm 1894 tại Hà Nội và sau đó là tại Hải Phòng. Năm 1912, ba nhà
máy hợp nhất lại thành “Công ty dệt vải Kinh Đông”. Chính phủ Thực dân Pháp thu
được nhiều lợi nhuận từ việc kinh doanh độc quyền ngành này.
Sau đại chiến thế giới thứ hai, ngành dệt may Việt Nam có những bước tiến
đáng kể. Trong thời gian này, vai trò của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước là rất quan trọng,
kế hoạch và việc sản xuất hàng dệt may được thực hiện theo quy trình: trước tiên, Uỷ
ban Kế hoạch Nhà nước giao chỉ tiêu cho các doanh nghiệp may về kế hoạch sản xuất,
số lượng, giá. Các doanh nghiệp dệt may căn cứ vào đó tính số lượng nguyên liệu đầu
vào trình lên Uỷ ban Kế hoạch về các doanh nghiệp nhuộm có thể đáp ứng yêu cầu.
Sau đó, căn cứ vào những điều kiện sau này, Uỷ ban Kế hoạch lại giao chỉ tiêu sản
lượng cho các doanh nghiệp nhuộm, ấn định về giá và thời gian giao hang. Dựa vào giá
cả và ngày giao hang, các doanh nghiệp nhuộm lại tính lượng sợi cần thiết rồi trình Uỷ
ban Kế hoạch Nhà nước về nhà sản xuất sợi có thể sản xuất loại sợi theo yêu cầu. Cuối
cùng, Uỷ ban Kế hoạch nhà nước giao chỉ thị cho các doanh nghiệp sợi sản xuất lượng
sợi cần thiết như kế hoạch được trình như trên.
Trong nền kinh tế kế hoạch, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt, nhuộm và
may rất mật thiết. Xét trên toàn ngành, mối quan hệ trực tiếp, lâu dài giữa các doanh
nghiệp và sự chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp đã được duy trì khá tốt. Tuy
nhiên, mối quan hệ khăng khít cùng việc chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp khác
ngành đã có sự thay đổi lớn từ sau khi có Hiệp định thương mại gia công uỷ thác (Hiệp
định ngày 19/5) được ký kết giữa Chính phủ Liên Xô và Chính phủ Việt Nam vào năm
1986. Hiệp định này đã làm giảm hẳn nhu cầu sản phẩm đối với các doanh nghiệp
nhuộm và dệt trong nước và mối quan hệ mật thiết giữa các doanh nghiệp cũng bị rạn
nứt. Từ mối quan hệ mật thiết trước đây trở thành quan hệ đối thủ cạnh tranh của nhau.
Người ta cho rằng đó là nguyên nhân lịch sử chủ yếukhiến cho sự phân ngành trong
ngành dệt - may Việt Nam chưa phát triển.
Từ khi thực hiện chính sách đổi mới, đặc biệt bước vào thập kỷ 90 của thế kỷ
XX, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Vào đầu những năm 90,
các nước Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản trở thành thị trường nhập khẩu
chính của Việt Nam , và từ năm 1993 khi Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và EU
hình thành thì xuất khẩu dệt may tăng nhanh. Xem xét sự thay đổi của tổng giá trị sản
lượng hang dệt may từ năm 1995 đên năm 1999 cho thấy, trong 5 năm, tổng giá trị sản
lượng tăng khoảng 57%, như vậy tỷ lệ tăng trưởng thực tế bình quân khoảng 12%/năm.
1.2. Đặc điểm ngành dệt may Việt Nam:
Thứ nhất: chưa chủ động được nguồn nguyên liệu:
Nguồn nguyên phụ liệu cung cấp đầu vào cho ngành dệt may Việt Nam chủ
yếu phải nhập từ nước ngoài. Tỷ lệ nhập khẩu quá cao khiến giá thành hàng dệt may
Việt Nam cao hơn đối với các sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực từ 10
đến 15%.
Ngành dệt may Việt Nam trong những năm qua đã có những bước tiến đáng
kể, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu luôn đạt 25-30%/năm, tạo công ăn viêc làm cho
khoảng hơn 25 triệu lao động trực tiếp và lao động gián tiếp trong sản xuất như trồng
bông, trồng dâu nuôi tằm. Thế nhưng việc sản xuất nguyên phụ liệu lại chưa được chú
trọng đúng mức đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của ngành trong thời
gian qua. Đây là một nghịch lý đối với một nước nông nghiệp có ngành dệt may đã trở
thành ngành truyền thống hang nghìn năm nay như Việt Nam.
Ngành dệt may nước ta đã có sự tập trung các xí nghiệp mang quy mô lớn
hàng nghìn công nhân thì lại “quên” không đầu tư cho ngành sản xuất nguyên phụ liệu.
Đối với ngành này khách hàng yêu cầu rất tỷ mỷ từng khâu thiết kế cho từng cái khuy,
màu sắc và cỡ từng loại chỉ màu.
Tình hình sản xuất nguyên phụ liệu năm 2005
Chỉ tiêu Đơn vị tính Nguyên phụ liệu
1. Bông xơ 1000 tấn 30
2. Xơ sợi tổng hợp 1000 tấn 100
3. Sợi 1000 tấn
4. Vải lụa triệu m2
Tỷ lệ nội địa hoá (%)
Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam
Nước ta có một lực lượng lao động lớn về số lượng nhưng đối với ngành này đã
chưa tận dụng hết được thế mạnh này, trong khi đó Trung Quốc - nước láng giềng và
cũng là một cường quốc xuất khẩu hàng dệt may thế giới – hàng năm sản xuất gần một
vạn sản phẩm phụ liệu cho ngành may.
Thứ hai: sử dụng hình thức gia công là chính:
Phần lớn hoạt động xuất khẩu hàng may mặc được thực hiện dưới dạng sản
xuất lưu thông theo hợp đồng gia công uỷ thác (gia công). Do các doanh nghiệp Việt
Nam chỉ thực hiện 3 công đoạn là cắt (cut), may (make), hoàn thiện (trim) nên hình
thức sản xuất lưu thông này được gọi là CMT. Theo hình thức này toàn bộ nguyên phụ
liệu đêù do khách hang nước ngoài cung cấp cho các doanh nghiệp may Việt Nam.
Sơ đồ tự sản xuất, lưu thông hàng may mặc
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Hầu hết các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường áp dụng 2 hình thức xuất
khẩu, ngoài CMT là hình thức “xuất khẩu hang hoá theo điều kiện FOB (Free On
Lựu
chọn
nhà
cung
cấp
Mua
nguyên
phụ
liệu
Cắt,
may, tô
điểm
(CMT)
Xuất
khẩu
Thiết
kế sản
phẩm
Board)”. Hình thức này trái với CMT, theo hình thức này, chúng ta tự mua nguyên phụ
liệu rồi bán sản phẩm cho khách hàng nước ngoài.
Thứ ba: Công nghệ còn lạc hậu:
Trong nhiều lý do dẫn đến yếu kém về năng lực sản xuất của ngành may Việt
Nam, công nghệ là tác nhân chủ yếu. Khả năng tự động hoá trong quá trình sản xuất
trong các doanh nghiệp may chỉ đạt mức độ trung bình, công nghệ cắt và may còn lạc
hậu. Công nghệ phục vụ các công đoạn phụ trợ, khâu giặt còn bất cập; công tác thiết
kế, công nghệ tạo mẫu của Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn khởi đầu đã làm hạn chế
đến chất lượng, mẫu mã, và chủng loại sản phẩm.
Tính đến năm 2006, Tập đoàn Dệt may Việt Nam có 126 xưởng may với
78.000 thiết bị may, cắt và hoàn tất các loại, trong đó các xưởng trình độ tiên tiến
chiếm 20%, xưởng trình độ trung bình khá chiếm 70% và xưởng trình độ trung bình
chiếm 10%. Một số xưởng thuộc công ty may Việt Tiến, công ty may Nhà Bè, công ty
may Đức Giang, công ty may Phương Đông… đã có sử dụng phần mềm trong sáng tác
mẫu và thiết bị cắt vải của Mỹ, Đức…Ngoài ra còn có khoảng 200 xưởng may thuộc
doanh nghiệp Nhà nước khác có trình độ trung bình khá và trung bình.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuẩt khẩu hàng dệt may Việt Nam:
1.3.1. Các nhân tố bên trong:
Có thể nói về ngành dệt may nói riêng, có rất nhiều các yếu tố bên trong một doanh
nghiệp có ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, tuy nhiên ở đây, với giơí hạn
về chiều dài của bản đề án này em chỉ xin đưa ra ba nhân tố chính, đó là: giá cả các yếu
tố đầu vào, giá cả sản phẩm, công nghệ:
Giá cả các yếu tố đầu vào: Để tiến hành sản xuất , ngành dệt may cần các
yếu tố đầu vào. Giá cả các yếu tố đầu vào là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng tới giá
thành sản phẩm. Muốn hạ sía thành sản phẩm thì trước tiên phải tìm được các nguồn
đầu vào với giá rẻ:
- Nguyên phụ liệu: Như đã nói ở trên, nguyên phụ liệu ngành đến 90% là
phải nhập khẩu. Phần nguyên phụ liệu mà Việt Nam có thể tự cung cấp cho ngành dệt
may là rất thấp và chất lượng kém. Phần nguyên phụ liệu phải nhập khẩu với giá cao
này là nguyên làm giá cả của hàng hoá dệt may Việt Nam cao hơn so với các sản phẩm
cùng loại của các nước khác.
- Lao động: Có thể nói một trong những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho ngành dệt may Việt Nam là chi phí lao động rẻ. Một đất nước với hơn 80 triệu dân
là nguồn cung cấp lao động dồi dào cho ngành này. Ngoài những cán bộ có trình độ kỹ
thuật thì một số lượng lớn lao động phổ thông vẫn được ngành dệt may Việt Nam hiện
nay sử dụng. Ngành dệt may Việt Nam đang tận dụng đặc điểm này để hạ giá thành sản
phẩm.
Giá cả sản phẩm: Dù xét về phía cung hay cầu thì giá cả bao giờ cũng là
yếu tố ảnh hưởng có tính chất quyết định nhất tới sản lượng hàng dệt may bán ở trong
nước hay nước ngoài. Xem xét với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu: giá cả hàng dệt
may Việt Nam vẫn thuộc vào loại cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới
như: Trung Quốc, Ấn Độ… Nguyên nhân chính của tình trạng này là do hàng dệt may
của Việt Nam chưa tự túc được nguồn nguyên phụ liệu và sản xuất với các trang thiết
bị còn yếu kém. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, hai yếu tố hạ giá thành và nâng cao
chất lượng sản phẩm vẫn là điều kiện tiền đề cho hàng dệt may của Việt Nam có chỗ
đứng trên thế giới.
Công nghệ: Trong kinh doanh hiện đại, công nghệ là cách thức để cắt
giảm chi phí doanh nghiệp. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và nỗ lực trong việc đầu tư,
đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, song nhìn chung, công nghệ thiết bị của ngành dệt may
vẫn còn lạc hậu. Thêm nữa công tác quản lý kỹ thuật của ngành còn thấp nên đã ảnh
hưởng tới năng lực sản xuất, chát lượng và giá thành sản phẩm khi xuất khẩu ra thị
trường nước ngoài.
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài:
Năm 2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 151 của Tổ chức
Thương Mại thế giới WTO, sự kiện này đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội trong
kinh doanh hàng hoá nói chung và nhất là hàng hoá xuất khẩu dệt may, nhưng cũng có
không ít những khó khăn mà chúng ta cần tháo gỡ. Khi Việt Nam xuất khẩu hàng dệt
may ra thị trường nước ngoài, sẽ có rất nhiều yếu tố môi trường tác động đến kim
ngạch xuất khẩu mặt hàng này:
Các hạn ngạch nhập khẩu và chính sách nhà nước đối với hàng nhập
khẩu của các nước nhập khẩu: Đây là yếu tố đầu tiên mà các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam nói chung và VINATEX nói riêng cần tìm hiểu trước khi muốn xuất khẩu
hàng sang bất kỳ một quốc gia nào để điều chỉnh cho phù hợp. Sự kiên “quota dệt
may” đã có nhiều tác động thuận lợi cho hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam .
Thu nhập: thu nhập là một yếu tố ảnh hưởng tới lượng cầu của một loại
hàng hoá. Dựa vào thu nhập mà người ta phân chia hàng hoá ra làm hai loại: hàng hoá
thông thường và hàng hoá cấp thấp. Nếu nhu cầu về một loại hàng hoá giảm khi thu
nhập giảm, thì hàng hoá đó gọi là hàng hoá thông thường. Nếu nhu cầu về một loại
hàng hoá tăng khi thu nhập giảm, thì hàng hoá này được gọi là hàng hoá cấp thấp.
Một người được cho là ăn mặc đẹp hay ít ra là biết cách ăn mặc thì điều đầu tiên
là họ phải có một mức thu nhập kha khá, sau đó sẽ là các yếu tố về tính thẩm mỹ. Các
yếu tố này ảnh hưởng rất nhiều đến sức mua của người dân trong một quốc gia. Hàng
hoá dệt may Việt Nam chủ yếu là phục vụ cho những khách hàng co mức thu nhập
trung bình khá.
Thị hiếu và phong tục tập quán của quốc gia nhập khẩu: Yếu tố rõ ràng
nhất quyết định tới nhu cầu khách hàng là thị hiếu. Qua thực tế, chúng ta có thể nói
rằng: hàng dệt may Việt Nam có thể đáp ứng được những khách hàng khó tính nhập
khẩu. Một phương trâm xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là “ việc
kinh doanh có tính địa phương”. Có nghĩa là khi xuất khẩu bất kỳ một sản phẩm dệt
may nào thì các doanh nghiệp cũng đều quan tâm tới sở thích của khách hàng và phong
tục tập quán ở các thị trường khác nhau. Ví dụ như: ở thị trường EU, các sản phẩm của
chúng ta luôn cố gắng hoàn thiện ở các khâu chất lượng, mẫu mã, thiết kế để đáp ứng
tốt nhu cầu của những khách hàng khó tính này.
2. Vai trò của xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam:
Việt Nam đang là nước ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Đặc biệt với đường lối chính sách kinh tế mở, ưu tiên chú trọng tới phát triển xuất
khẩu của nhà nước ta đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển của
ngành dệt may. Ngành dệt may đã từng bước khẳng định được vai trò của mình trong
nền kinh tế quốc dân cũng như trong tiến trình hội nhập kinh tế, nhất là về xuất khẩu.
Hiện nay, đối với Việt Nam, ngành dệt may có vị trí quan trọng trong quá trình
công nghiệp hoá đất nước. Hiện nay ngành này đang thu hút trên 3 triệu lao động,
trong đó 80% là nữ, lao động trong công nghiệp dệt may chiếm khoảng 15% lao động
công nghiệp cả nước. Như vậy việc thu hút nhiều lao động trong dệt may có ý nghĩa to
lớn đối với bối cảnh nước ta hiện nay. Từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì lực
lượng lao động thất nghiệp ở nước ta rất lớn, đời sống nhân dân nhiều nơi còn rất khó
khăn. Việc thu hút lao động cho ngành dệt may đã góp phần nâng cao đời sống dân cư,
góp phần tạo sự ổn định tình hình kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành,
vùng và lãnh thổ theo hướng tích cực.
Trong 10 ngành công nghiệp xuất khẩu lớn nhất nước ta thì công nghiệp dệt
may đứng thứ hai sau dầu thô. Trong thập kỷ 90, giá trị xuất khẩu của ngành tăng
27,3%/năm từ 178,7 riệu USD năm 1990 lên 1,892 triệ USD năm 2000, giá trị xuất
khẩu ngành dệt may chiếm 18% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu trong cả nước.
Công nghiệp dệt may phát triển kéo theo và thúc đẩy sự phát triển của nhiều
ngành công nghiệp khác. Trong đó có ngành cung cấp nguyên liệu và các ngành sử
dụng sản phẩm của ngành dệt may.
Đối với xuất khẩu, xuất khẩu dệt may mang lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng để
nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu cần thiết để phục vụ sản xuất và thực hiện các
mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Dệt may là ngành khá dễ tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế. Hiện nay
các nước nhập khẩu đều có ưu đãi cho hàng dệt may, đặc biệt là hàng dệt may của các
nước đang phát triển. Hàng rào mậu dịch đối với các sản phẩm thuộc ngành này đã
được dỡ bỏ và nới lỏng rất nhiều.
Dệt may là ngành xuất khẩu mũi nhọn có mặt tại hơn 50 nước trên thế giới,
ngành dệt may không chỉ giữ vị trí quan trọng trong quá trình thực hiện đường lối công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà đối với chiến lược mở cửa kinh tế, hoà nhập vào
khu vực và thế giới, ngành dệt may cũng đi đầu, mở đường cho mối liên kết ngày càng
sâu sắc giữa kinh tế nước ta và kinh tế thế giới.
Chương 2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA TẬP ĐOÀN
DỆT MAY VIỆT NAM - VINATEX
1. Khái quát về Tập Đoàn Dệt May Việt Nam:
Quá trình hình thành và phát triển:
Việt Nam là nước nông nghiệp trồng lúa nước, do vậy ngành dệt may Việt Nam ra
đời muộn hơn so với ngành dệt may của các nước phát triển trên thế giới . Tuy vậy, từ
lâu Việt Nam cũng đã xuất hiện những làng nghề, vùng nghề dệt may khá phát triển:
Vạn Phúc, Hà Đông, Nam Định… Những làng nghề này nổi tiếng về những sản phẩm
dệt, may của mình, và cho đến nay những sản phẩm của họ vẫn rất được ưa chuộng,
nhưng chỉ sản xuất thủ công, nhỏ lẻ, manh mún, tính tự cung, tự cấp là chính. Để xây
dựng một ngành công nghiệp dệt may phát triển thì cần một trình độ công nghiệp cao
mà bản thân những làng nghề, vùng nghề truyền thống này chỉ để lại một vốn kinh
nghiệm về dệt may nhất định.
Trước khi Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam thành lập, để thực hiện chức năng
làm đầu mối quản lý nha nước theo ngành chuyên môn hoá thì cơ quan được nhà nước
giao nhiệm vụ đối với ngành dệt là Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam, đối với ngành
may là Liên hiệp sản xuất nhập khẩu may.
Tổng Công Ty Dệt Việt Nam (TETIMEX) được thành lập theo Quyết định số
149-Cnn/TCLD ngày 4/3/1993 của Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp nhẹ (nay là Bộ Công
nghiệp). Liên hiệp sản xuất nhập khảu may (CONFECTIMEX) được thành lập theo
Quyết định số 518-Cnn/TCLD ngày 29/12/1989.
Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam có tên giao dịch là Việt Nam National
TEXTILE and CAMENT Coporaton (VINATEX ) được thành lập theo Quyết định số
253/Ttg của Thủ tướng Chính phủ. VINATEX có đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo pháp
luật nước CHXHCN Việt Nam. Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam được thành lập với
mục đích tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất
để thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao, nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của
các đơn vị thành viên và toàn Tổnh công ty.
1.2.Chuyển đổi mô hình từ Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam sang mô hình
Tập Đoàn Dệt May Việt Nam:
Ngày 8/12/2005 Tổng ciong Ty Dệt May Việt Nam tổ chức lễ công bố Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
VINATEX. Với Quyết định này, từ một Tổng công ty có trên 60 đơn vị thành viên và
công ty liên kết, VINATEX trở thành một Tập đoàn có trên 10 công ty mẹ, công ty
con, là công ty 100 % vốn nhà nước, công ty TNHH nhà nước một thành viên, hoặc
công ty cổ phần như Dệt may Hà Nội, May Việt Tiến, May Nhà Bè, May 10…
Tập Đoàn Dệt May Việt Nam bao gồm các thành viên có quan hệ lợi ích khác
ngoài vốn, là các đối tác kinh doanh, có quan hệ ràng buộc lợi ích về thương hiệu, uy
tín. Hoạt động theo mô hình tập đoàn, VINATEX còn có chức năng thực hiện các hoạt
động dịch vụ, thương mại, bán lẻ, dịch vụ tư vấn… Dự kiến sau khi hoạt động theo mô
hình tập đoàn, VINATEX phấn đấu đạt một số mục tiêu sau: tới năm 2010, về doanh
số đạt 36.800 tỷ đồng, bằng 217%; về kim ngạch xuất khẩu đạt 2,5 tỷ USD, bằng
191%; vốn điều lệ đạt 8.216 tỷ đồng, bằng 215% so với năm 2005.
Tập đoàn kinh tế Dệt-May là tổ hợp của nhiều doanh nghiệp hoạch toán độc lập,
gồm có công ty mẹ và các công ty con, các công ty liên kết, trong đó công ty mẹ giữ
vai trò chi phối các công ty khác về vốn, thị trường, thương hiệu. Công ty mẹ thực hiện
chức năng vừa là đầu tư, vừa thực hiện kinh doanh và cung cấp các dịch vụ nghiên cứu,
tư vấn, đào tạo chuyên ngành dệt may …
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty mẹ
A
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
2. Khái quát về thị trường dệt may Thế Giới và các nước xuất khẩu chính của
VINATEX:
Dệt may vẫn là một lĩnh vực được các nước trên Thế giới nói chung và các nước
thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nói riêng rất quan tâm. Ngành công
nghiệp này có một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường đa dạng ngành
nghề và thường xuyên được đặt lên bàn nghị sự của các vòng đàm phán tự do hóa
thương mại toàn cầu. Ngành đệt may tạo nhiều việc làm, riêng Indonesia sử dụng 1,18
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
CƠ QUAN TỔNG GIÁM ĐỐC BAN KIỂM SOÁT
NHOM
NGUYÊN
LIỆU
NHÓM
HOÀN TẤT
NHÓM SỢI NHÓM MAY
NHÓM DỆT
THOI
NHÓM DỆT
KIM
NHÓM BÁN LẺ
NHÓM QUẢN
TRỊ NHÂN LỰC
NHÓM TÀI
CHÍNH
NHÓM KHAI
MỤC KỸ
THUẬT
NHÓM XÚC
TIẾN THƯƠNG
MẠI
VĂN PHÒNG
CÁC CÔNG TY
CON
triệu công nhân. Công nghiệp dệt may đạt giá trị xuất khẩu toàn cầu hơn 350 tỷ
USD/năm là nguồn thu đáng kể của nhiều nền kinh tế như Trung Quốc, Ấn Độ,
Bangladesh, Malaysia, Pakixtan, Hàn Quốc… Trung Quốc đứng đầu thế giới về xuất
khẩu sản phẩm may mặc. Dệt – may chiếm 4% tổng sản lượng hàng hóa, 4,8% tổng
lượng thương mại và 7% việc làm của EU, 177 nghìn công ty với khoảng 2,1 triệu
công nhân của ngành này năm 2003 làm ra đạt giá trị 200 tỷ EUR, so với 115 tỷ trước
đó. Cùng với Mỹ, EU đứng đầu thế giới về kinh doanh dệt – may, đứng đầu về xuất
khẩu sản phẩm dệt, đứng thứ hai về xuất khẩu sản phẩm may mặc, năm 2002 xuất khẩu
hàng dệt – may đạt 43,8 tỷ EUR. Nếu đem so sánh những con số trên với thự trạng
ngành công nghiệp dệt may của Việt Nam thì một thưc tế là chúng ta vẫn còn thua kém
nhiều các nước trên Thế giới và trong khu vực.
Theo quy định của vòng đám phán Urugoay (năm 1994) từ ngày 1/1/2005 WTO
xóa bỏ hạn ngạch xuất, nhập khẩu đối với sản phẩm dệt may.
Việc xóa bỏ quota đối với hàng dệt may sẽ làm tăng khối lượng hàng dệt và quần áo từ
các nước châu Á vốn đã tăng trưởng mạnh. Thậm chí chỉ cần tăng trưởng 5,3%/năm
trong 12 năm tới hoặc 3,2% trong ngành công nghiệp dệt, thị trường xuất, nhập khẩu
toàn cầu hàng dệt và quần áo vẫn có thể đạt 600 tỷ USD vào năm 2015. Tuy nhiên thị
trường dệt may sẽ cạnh tranh quyết liệt. Xóa bỏ quota buộc các nước phải có những
biện pháp để bảo hộ ngành sản xuất trong nước như kiện chống bán phá giá. Đây là
biện pháp không chỉ nước giàu mà cả nước nghèo cũng áp dụng.
3. Thực trạng hàng xuất khẩu dệt may Việt Nam và VINATEX những năm
gần đây:
Đứng đầu trong các thị trường xuất khẩu dệt may Việt Nam là Mỹ với kim ngạch
hơn 3 tỷ USD (chiếm 55% thị phần); Liên minh châu Âu (EU) xếp thứ hai với 1,2 tỷ
USD (chiếm 20% thị phần); tiếp theo là các thị trường Nhật Bản, ASEAN, Canada,
Nga và một số thị trường khác.
Theo số liệu thống kê từ Bộ Công thương, kim ngạch xuất khẩu trong 9 tháng qua
lên tới 35,6 tỷ USD, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý dệt may đã
chính thức vượt dầu thô để trở thành mặt hàng xuất khẩu dẫn đầu của cả nước. 9 tháng
qua xuất khẩu dệt may đạt 5,8 tỷ USD, trong khi dầu thô mới chỉ đạt 5,78 tỷ USD. Như
vậy vị trí dẫn đầu xuất khẩu của dầu thổ trong suốt những năm qua đã bị thay thế bởi
dệt may. Thực tế, khả năng dẫn đầu của dệt may xuất khẩu đã được dự báo trước, và có
thể sẽ dữ vững vị trí này trong suốt giai đoạn tới. Dệt may tiếp tục đà tăng trưởng tốt
sau khi gia nhập WTO được dỡ bỏ rào cản hạn ngạch vào Mỹ. Hoạt động nhập khẩu
hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam trong những tháng cuối năm diễn ra sôi động hơn so
với những tháng đầu năm 2007:
Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam so với
kim ngạch nhập khẩu của Mỹ từ các nước khác tăng lên 4,53%.
Lượng nhập khẩu các Cát 844, 839, 434, 237, 648, 435, 644, 607, 642,
639… của Mỹ từ Việt Nam tăng rất mạnh.
Hoạt động nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam trong những tháng
cuối năm diễn ra sôi động hơn so với những tháng đầu năm 2007. theo số liệu thống kê
của cục Hải quan Mỹ, trong tháng 7 và tháng 8/2007, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt
may của Mỹ từ Việt Nam đạt trung bình 465 triệu USD/tháng của 6 tháng đầu năm
2007. Tính chung 8 tháng đầu năm 2007, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ
từ Việt Nam đạt 2,9 tỷ USD, tăng 25,53% so với cùng kỳ năm 2006, cao hơn so với
mức tăng 5,23% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ nhưng thấp hơn so
với mức tăng 28,33% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Trung Quốc.
Hàng dệt may của Việt Nam đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường Mỹ.
Bằng chứng là lượng nhập khẩu nhiều chủng loại hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam
chiếm tỷ trọng ngày càng cao so với tổng khối lượng nhập khẩu hàng dệt may của nước
này, điển hình là các Cat 844, 839, 434, 237, 648...
Tập đoàn dệt may VINATEX nhìn chung những tháng cuối năm này có kim
ngạch xuất khẩu ước tính với những con số rất khả thi. Tính chung kim ngạch xuất
khẩu 9 tháng đầu năm tập đoàn VINATEX đạt 35,2 tỉ USD, bằng 75,4% kế hoạch năm
và tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2006.
Trong 8 tháng đầu năm 2007, hàng dệt may của Việt Nam chiếm 4,53% kim
ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ, tăng so với mức 3,8% của 8 tháng đầu năm
2006.
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG XUẤT KHẨU HÀNG
DỆT MAY CỦA VINATEX
1. Định hướng xuất khẩu:
1.1 . Định hướng chung đến năm 2020:
Trong tương lai, EU vẫn là thị trường xuất khẩu chủ lực của hàng dệt may Việt
Nam. Thị trường Mỹ quả là một thị trường rộng lớn có rất nhiều triển vọng, đăc biệt
mở ra nhiều cơ hội từ sau Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký kết (năm 2000) và
chính thức thông qua vào tháng 12/2001. Tuy nhiên, việc thâm nhập vào thị trường
mới cần nhiều thời gian và chi phí, và trước mắt việc xuất vào thị trường này chưa thể
gia tăng đột biến. Trong khi đó, EU vẫn là thị trường quen thuộc, có sức tiêu thụ lớn và
trong tầm tay của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam . Việc các doanh nghiệp chỉ tập
trung vào Mỹ và AFTA như hiện nay sẽ tạo ra độ vênh trong quá trình định hướng thị
trường, gây mất cân đối trong chiến lược xuất khẩu . Khi EU dỡ bỏ hạn ngạch hàng dệt
may vào đầu năm 2005 cho các nước thành viên của WTO, hàng dệt may Việt Nam
phải cạnh tranh với nhiều cường quốc xuất khẩu trong khu vực, đặc biệt là về mặt giá
cả, mà theo ước tính sẽ hạ xuống thấp hơn 7%. Tuy nhiên Việt Nam có những ưu thế
nhất định trong cuộc chiến này nhất là khi giá cả không phải là yếu tố quyết định đối
với người tiêu dùng châu Âu, vì họ luôn đặt chất lượng lên hàng đầu. Theo lộ trình, đến
năm 2020, sẽ nâng tỷ lệ nội địa hóa nguồn nguyên liệu lên 75% và kim ngạch xuất
khẩu đạt khoảng 20-22 tỷ USD. “Đây thực sự là một con số đầy tham vọng khi ngành
dệt may Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với các nền sản xuất khác, nhất là các nước
đang phát triển có cùng lợi thế về nhân công và cùng trình độ sản xuất”.
Như vậy, nếu như trong thời gian tới Việt Nam tiếp tục tận dụng được những ưu thế
về giá nhân công, kỹ thuật lao động, đồng thời tiếp tục cải cách phương thức quản lý
hạn ngạch, giảm chi phí lưu thông… thì chắc chắn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
vẫn còn nhiều khả năng lấn át các đối thủ cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới, kể
cả hai cường quốc về dệt may như Trung Quốc và Indonesia.
1.2. Mục tiêu của VINATEX về hàng xuất khẩu đến năm 2020:
Theo Tập Đoàn Dệt May Việt Nam, có thể đưa ra mục tiêu cho những năm tới như
sau:
Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2010 và 2015
Chỉ tiêu Đơn vị tính
Mục tiêu toàn ngành
2010 2015
Kim ngạch xuất khẩu triệu USD 8.000 16.000
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Với những nước xuất khẩu chính mà Việt Nam đã, đang, và sẽ xuất khẩu hàng dệt
may của mình sang, cạnh tranh trên thị trường này sẽ còn có nhiều những thuận lợi,
nhưng sẽ phải đương đầu với rất nhiều đối thủ mạnh. Môi trường cạnh tranh càng tự do
bao nhiêu thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam càng phải nỗ lực bấy nhiêu thì mới
mong giành được phần thắng trong cuộc đua đầy thử thách này.
VINATEX chủ trương sẽ vẫn giữ vững thị trường cũ, khai thác thêm thị trường
mới, nên trong thời gian tới, kim ngạch xuất khẩu sẽ theo hướng: thị trường Mỹ, Nhật
Bản kim ngạch xuất khẩu vẫn giữ ở mức cao, tăng cường và chú trọng hơn đối với các
nước khu vực EU, đồng thời một số thị trường mới ở Trung Đông, Mỹ La Tinh…cũng
sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng cao.
Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU
Chỉ tiêu 2005 2010 2015
Kim ngạch xuất khẩu 800 triệu USD 2.000 triệu USD 3.500 triệu
USD
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Với bảng số liệu dự tính trên, mục tiêu đến năm 2015 kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường EU đạt 3.500 triệu USD không phải là con số quá cao mà dệt may Việt Nam
không thể đạt được ở thị trường EU. Với mục tiêu này thì, kim ngạch xuất khẩu sang
thị trường EU sẽ chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường thế giới
. Tuy giá trị tương đối giảm (từ 40% xuống khoảng 25%) nhưng giá trị tuyệt đối vẫn
tăng cao.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu tập trung vào các mặt hàng có lợi thế của
Việt Nam: áo sơ mi, áo jacket, quần áo thể thao…Khi đã gia nhập WTO, với sự kiện
“quota dệt may” thì các mặt hàng này sẽ có kim ngạch xuất khẩu tăng rất nhiều trong
những năm tới.
2. Giải pháp nhằm thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt May Việt
Nam - VINATEX trong giai đoạn tới:
Để thâm nhập được vào thị trường các nước trên thế giới như đã nói ở trên, và đạt
được các mục tiêu đã đề ra, ngành dệt may Việt Nam cũng phải tiến hành những giải
pháp chung để nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn ngành.
2.1.Giải pháp về tài chính và vốn:
Để có thể thực hiện triển khai tăng tốc, vốn là một yếu tố rất quan trọng dẫn đến
thành công. Nhưng điều khó khăn là làm sao xác định được nguồn vốn tài trợ cho
ngành cũng là một khâu kế hoạch quan trọng. Sau đây là bảng đề xuất nhu cấu vốn cho
giai đoạn tới:
Nhu cầu vốn đầu tư cho ngành dệt may giai đoạn 2006-2010:
Đơn vị: tỷ đồng
Nhu cầu vốn đầu tư Toàn ngành VINATEX
Tổng mức đầu tư, trong đó:
- Vốn đầu tư cho mở rộng:
- Vốn cho đầu tư chiều sâu:
Theo hình thức vốn gồm có:
- Vốn cho xây lắp:
- Vốn cho thiết bị:
- Chi phí khác:
- Chi phí dự phòng:
- Vốn lưu động:
30.000
20.000
10.000
2.550
18.000
1.500
1.500
6.450
9.100
1.800
7.300
800
5.500
500
500
1.800
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Có thể thấy rằng: tỷ lệ tín dụng hỗ trợ đầu tư phát triển và cấp vốn lưu động từ ngân
sách thấp, ngân sách hỗ trợ đào tạo và nghiên cứu phát triển còn hạn chế, việc xúc tién
thương mại triển khai chậm. Đặc biệt cho tới nay, việc áp dụng cơ chế xuất khẩu tại
chỗ cho vải và phụ liệu sản xuất trong nước nằm trong sản phẩm may xuất khẩu còn
chưa được thực hiện. Cụ thể, đối với Tập Đoàn Dệt May Việt Nam, tỷ lệ hỗ trợ cho
đầu tư phát triển chỉ đạt 20,3% nhu cầu; mục tiêu cấp vốn lưu động đủ 30% yêu cầu
cho VINATEX chỉ đạt 3,8%; ngân sách hỗ trợ cho đào tạo và nghiên cứu phát triển còn
hạn chế, mới đáp ứng khoảng 50% yêu cầu. Do vậy không thể trông chờ hoàn toàn
nguồn vốn từ ngân sách mà Tập Đoàn Dệt May Việt Nam cần phải nghiên cứu và huy
động các giải pháp huy động vón khác nữa như: nguồn vốn nội lực, phát hành cổ phiếu
trái phiếu, keu gọi đầu tư nước ngoài, vốn vay tín dụng, vốn ngân sách…
2.2. Giải pháp về đầu tư:
Đầu tư vào công nghệ: Công nghệ yếu kém là một đặc điểm quan trọng của
ngành dệt may Việt Nam. Muốn có công nghệ tiên tiến thì việc tìm giải pháp đầu tư để
đổi mới công nghệ là rẩt cần thiết. Tuỳ vào tình hình và thực trạng của mỗi doanh
nghiệp dệt may để có các giải pháp cho phù hợp. Có thể đầu tư công nghệ đã qua sử
dụng, đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư công nghệ từ một số nước có uy tín trên thế giới,
đầu tư vào nhiều chủng loại trang thiết bị khác nhau….
Đầu tư phát triển vùng nguyên liệu:Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 90% nhu
cầu về bông và 100% nhu cầu về xơ sợi tổng hợp. Nguyên liệu nhập khẩu lớn là
nguyên nhân chính phải có hướng đầu tư phát triển nguyên liệu một cách hợp lý. Việc
mở rộng diện tích quy hoạch trồng bông là có giới hạn do diện tích đất nông nghiệp
không thể mở rộng được nhiều. Do đó để tăng sản lượng bông, thì đây lại là một bài
toán nan giải cho Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn. Trên thực tế, chúng ta cũng
đã thực hiện tót các biện pháp nâng cao sản lương bông như: trồng xen canh với các
loại cây khác (ngô, đậu…); khuyến khích nông dân trồng bông và hình thành những
khu trồng bông lớn với chất lượng tốt…
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực: Trong việc đẩy mạnh đào tạo nhân lực cho
công nghiệp dệt sợi, cần chú ý đến hai vấn đề lớn là đảm bảo yêu cầu cân đối trên cả
hai mặt cơ cấu nhành nghề, cơ cấu trình độ và chất lượng đào tạo. Phải đảm bảo đào
tạo đủ số lượng lao động theo các khâu của quá trình công nghệ. Phải phát triển đội
ngũ công nhân kỹ thuật, và đặc biệt coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học và công
nghiệp có trình độ cao.
Ngoài ra cần chú trọng cải thiện điều kiện làm việc, giảm nhẹ cường độ lao
động bằng việc đầu tư trang thiết bị hiện đại, các thiết bị xử lý chất thải, đảm bảo vệ
sinh công nghiệp …Đây cũng là một biện pháp tốt để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.
Đầu tư thiết bị bảo vệ và xử lý môi trường: Trong những năm tiếp theo, để hạn
chế hàng may mặc xuất khẩu, các nước công nghiệp phát triến sẽ tăng cường các loại
hàng rào phi thuế quan để hạn chấ hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển như yêu
cầu về nhãn và nhãn sinh thái, yêu cầu về môi trường và điều kiện làm việc, yeu cầu
chống phá giá… Đây cũng là vấn đề khó khăn cho các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam. Do đòi hỏi phải có các biện pháp tích cực trong bảo vệ môi trường, phấn đấu
trong 5 năm tới, tất cả mọi chất thải từ các nhà máy dệt phải được xử lý theo đúng tiêu
chuẩn trước khi thải ra môi trường sinh thái xung quanh.
2.3. Giải pháp về thị trường:
Thiết lập hệ thống mạng xúc tiến thương mại đối với các thị trường trọng điểm
như EU, Mỹ… Để làm được điều này, Hiệp hội Dệt may, Tập Đoàn Dệt May Việt
Nam và các doanh nghiệp dệt may cần tự mình đưa ra cơ chế nhằm khai thác các
nguồn lực thương mại khác nhau hiện đã có mặt tại các thị trường trọng yếu đó. Hệ
thống mạng thương mại cần thiết nhiều đầu mối trên sân nhà của mình, đặc biệt là sử
dụng các công ty luật của nước ngoài có mặt tại Việt Nam để làm tư vấn pháp luật cho
hoạt động xuất khẩu.
Mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dệt may hoặc thương mại dịch vụ dệt may
cần coi trọng việc thiết kế mặt hàng với mẫu mốt phù hợp. Đặc biệt là xây dựng cho
bản thân mỗi đơn vị có phong cách và nhãn hiệu lâu dài, và các bộ sưu tập theo từng
mùa như phương pháp kinh doanh của các tập đoàn phân phối hàng dệt may lớn trên
thế giới.
Cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Đầu tư
nhiều vào quảng bá tên, nhãn hiệu, truyền thông của công ty không những ở thị trường
nội địa mà ngay tại các thị trường xuất khẩu. Để làm được điều này, các đơn vị dệt may
cần có biện pháp sử dụng và khai thác tốt các phương tiện thông tin hiện đại ngày nay,
đặc biệt là hình thức kinh doanh trên mạng.
Với tiềm lực và vai trò chủ lực của mình, Tập Đoàn Dệt May Việt Nam đã và
đang triển khai xây dựng mạng xúc tiến thương mại toàn cầu. Đó sẽ là những địa chỉ
đáng tin cậy cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nhằm thâm nhập, củng cố và mở
rộng thị trường thương mại của mình.
2.4. Giải pháp về quản lý điều hành:
- Cần nghiên cứu và triển khai áp dụng mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại nhằm
nâng cao hiệu quả điều hành trong các doanh nghiệp dệt may. Cần có sự thống nhất
thực hiện từ phía các cấp, các ngành, từ trong Đảng đến Chính quyền và các tổ chức
quần chúng khác. Giám đốc là người chịu trách nhiệm mọi mặt của công ty, do vậy
giám đốc cần được trao các quyền cần thiết để thực thi nhiệm vụ của mình theo đúng
pháp luật.
- Các doanh nghiệp dệt may cần có kế hoạch xây dựng hệ thống mạng thông tin
điều hành nhằm nâng cao hiệu quả của việc điều hành và quản lý xí nghiệp. Đây là một
phương pháp điều hành tiên tiến hiện nay.
- Để có thể tiếp nhận các công nghệ phù hợp, nhận các loại thiết bị tương thích thì
việc củng cố các viện nghiên cứu và sử dụng các chuyên gia kỹ thuật chuyên ngành là
rất cần thiết, kể cả việc thuê các chuyên gia nước ngoài nhằm đảm bảo cho các dự án
đầu tư được triển khai thực hiện có hiệu quả.
- Huy động nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt để bổ sung
cho các doanh nghiệp gặp khó khăn, hoặc thực hiện các dự án đầu tư mới sau khi đã
qua khoá đào tạo ngắn hạn về quản lý hoặc kỹ thuật.
- Thuê các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài nhằm giải quyết các
khó khăn cho một số công ty, hoặc điều hành các dự án mới.
- Xây dựng cơ chế ứng xử mới, cả về tinh thần và vật chất (thực chất là nền văn hoá
doanh nghiệp) nhằm thu hút mọi nguồn chất xám cho ngành dệt may.
- Củng cố viện nghiên cứu chuyên ngành còn nhằm mục đích thay mặt cho ngành
dệt may phối hợp với các cơ quan hải quan, cơ quan thuế thực hiện các thủ tục hải
quan và thuế sao cho có lợi đối với các sản phẩm dệt may Việt Nam.
- Củng cố các trường đào tạo, trung tâm đào tạo nâng cao hiệu quả đào tạo ( kể cả
việc thuê các chuyên gia đào tạo nước ngoài) để đáp ứng nhu cầu tăng vọt để cán bộ
quản lý và cán bộ kỹ thuật trong thời gian tới.
3. Một số kiến nghị với Chính phủ để đẩy mạnh khả năng xuất khẩu dệt may
vào thị trường thế giới:
3.1. Xúc tiến thương mại:
- Xúc tiến các quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới, đặc biệt là các thị
trường xuất khẩu chính của Việt Nam. Theo định hướng dến năm 2020, EU và Mỹ sẽ
là hai thị trường chính của hang dệt may Việt Nam, do đó trong việc xuc tiến thương
mại trên thế giới phải đặc biệt chú ý đến hai thị trường này. Mục đích trong các cuộc
xúc tiến thương mại này là tạo điều kiện cho xuất khẩu hang dệt may Việt Nam sang
thị trường này được thuận lợi hơn.
- Tổ chức các cuộc triển lãm, giới thiệu đất nước, con người, văn hoá Việt Nam
sang thị trường các nước trên thế giới.Quảng bá mạnh thương hiệu Việt Nam với thế
giới nói chung và thị trường các nước xuất khẩu dệt may của Việt Nam nói riêng.
Những việc này chỉ có thể tiến hành ở cấp Chính phủ giữa Việt Nam và các nước.
- Trích phí quota để hỗ trợ một phần kinh phí trong việc khia thác và thâm nhập thị
trường.
- Thường xuyên cung cấp thông tin cập nhật về thị trường EU, Mỹ, AFTA… cho
các doanh nghiệp, ví dụ: các thủ tục mới, quy chế về hạn ngạch mới, tiêu chuẩn kỹ
thuật mới…từ các nước trên thế giới.
- Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu nhằm rút ngắn thời gian giao hang và thanh lý hợp
đồng.
3.2. Chính sách ưu đãi đầu tư:
- Giải pháp về đầu tư công nghệ mới nhất, với trang thiết bị hiện đại nhằm tạo một
bước nhảy vọt về chất lượng và sản lượng. Mặt khác cần coi trọng tận dụng các trang
thiết bị đã qua sử dụng, với công nghệ tiêntiến từ các nước công nghiệp hoá, thế hệ
những năm 90 trở lại đây.
- Thực hiện ưu đãi đầu tư đối với 10 cụm công nghiệp mới:
+ Chính phủ chỉ đạo các tỉnh, thành phố cấp đất (không thu phí) để xây dựng
các cụm công nghiệp dệt may nói trên.
+ Các tỉnh thành phố phối hợp với Tập Đoàn Dệt May Việt Nam xây dựng hạ
tầng và quy hoách sản xuât ở các cụm này.
- Đối với các doanh nghiệp mới thành lập trong các cụm này được hưởng chính
sách ưu đãi đầu tư, cụ thể là:
+ Giảm 50% phí hạ tầng trong 5 năm đầu
+ Miễn thuế thunhập trong 5 năm đầu và giảm 50% trong 5 năm tiếp theo.
- Ban hành chính sách hỗ trợ đầu tư giúp các địa phương có truyền thống dệt may
để các địa phương này pgát huy thế mạnh sẵn có. Ví dụ: Nam Định, Hà Đông, Vạn
Phúc…
- Cải thiện cơ sở hạ tầng đồng thời kiện toàn các thủ tục xuất nhập khẩu để không
ngừng thu hút đầu tư nước ngoài. Hiện nay cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn yếu, chi
phí vận chuyển, viễn thông, thuế áp dụng với nhà đầu tư nước ngoài còn rất cao so với
các nước trong khu vực, sự thiếu thốn về loại hình dịch vụ trong thông tin lien lạc đang
làm giảm hiệu quả sản xuất – kinh doanh không những của riêng công ty mà đối với
toàn ngành nói chung. Các thủ tục hải quan rườm rà, tăng chi phí cho doanh nghiệp
trong việc giảm giá thành sản phẩm. Hiện nay, chi phí và thời gian là hai vấn đề chính
mà các nhà sản xuất hang may mặc rất quan tâm. Vì vậy, việc chậm trễ thanh lý tờ khai
hải quan trong việc nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho ngành dệt may sẽ gây ra
chậm trễ trong việc giao hang và gây nhiều tổn thất không tính trước cho các công ty.
Vì vậy Chính phủ cần gấp rút cải thiện cơ sở hạ tầng và đơn giản hoá các thủ tục hải
quan.
3.3. Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu:
Nguyên nhân chính của tình trạng hang dệt may Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu
gián tiếp qua nước thứ ba, tỷ lệ gia công chiếm cao là do Việt Nam chưa tự túc được
nguồn nguyên phụ liệu. Nguyên phụ liệu chủ yếu vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài,
làm hạ thấp giá trị gia tăng, lợi nhuận nhỏ. Vì vậy Chính phủ nên có chính sách tập
trung phát triển các nguồn nguyên liệu như bong, tơ tằm, xơ sợi tổng hợp cùng với việc
phát triển công hoá dầu. Việc nâng cao tỷ lệ giá trị xuất xứ nội địa trên sản phẩm dệt
may vừa là một yêu cầu bắt buộc của thị trường nhập khẩu, vừa là mục tiêu chiến lược
“tăng tốc” nhằm nâng cao phần lợi nhuận cho ngành và cho đất nước.. Cụ thể:
Yêu cầu đối với đầu ra sản xuất vải và nguyên phụ liệu trong nước cung cấp cho
xuất khẩu:
- Áp dụng thuế VAT bằng 0% cho vải sản xuất tại Việt Nam cung cấp cho may
xuất khẩu .
- Hỗ trợ di dời và hiện đại hoá các nhà máy dệt may tại các đô thị lớn.
Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ đẩy mạnh sản xuất bông:
- Hỗ trợ thực hiện các chương trình thuỷ lợi tại một số vùng trọng điểm canh tác
bông có tưới như: Bình Thuân, Ninh Thuận, Quảng Nam, Quảng Ngãi…
- Khấu trừ thuế VAT đầu vào cho việc chếbiến bông. Tránh tình trang thuế
chồng thuế làm đội giá thành.
- Cho phép ngành trồng bông áp dụng công nghệ sinh học.
- Cần có chính sách vay vốn ưu đãi, nhất là cho các dự án xây dựng các cơ sở
sản xuất, chế biến bông.
- Lập quỹ phát triển cây bông để trợ giá thu mua bông với giá thấp phù hợp.
- Nhà nước cần có các chính sách thuế và quản lý “quota” nhập khẩu bông để
kiểm soát bông nhập khẩu, khuyến khích sử dụng bông trong nước.
Giải pháp hỗ trợ dâu tằm tơ:
- Thúc đẩy quá trình đưa tiến bộ kỹ thuật dâu và tằm vào sản xuất để có diều
kiện nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Đôn đốc các địa phương làm tốt công tác quy hoạch dâu tằm gần với quy
hoạch công nghiệp chế biến tơ lụa, chấm dứt tình trạng tranh mua tranh bán khiến
người nông dân không thực hiện đúng kỹ thuật nuôi tằm.
III- KẾT LUẬN
Luôn song hành cùng sự hình thành và phát triển của xã hội loài người, ngành
dệt may Việt Nam đã biết kế thừa và phát huy truyền thống để ngày càng khẳng định
vai trò và những đóng góp to lớn cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Nhất là trong
20 năm đổi mới gần đây, cùng với sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên
thứ 151 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO và “quota dệt may”, ngành dệt may
Việt Nam đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Từ vị trí đứng thứ hai sau dầu thô, đã
vươn lên vị trí thứ nhất về kim ngạch xuất khẩu.
Tập Đoàn Dệt May Việt Nam – VINAT EX với vị trí dẫn đầu toàn ngành, hoạt
động dưới hình thức công ty mẹ - công ty con, đã, đang, và sẽ không ngừng khẳng định
vị trí của mình trên thị trường dệt may thế giới trong thời gian sắp tới.
Cùng với sự cố gắng không ngừng của các doanh nghiệp, các chính sách Nhà
nước đóng một vai trò không nhỏ trong việc tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu dệt may
Việt Nam sang các nước được thuận lợi. Do có một vị trí quan trọng trong sự phát triến
kinh tế đất nước với kim ngạch xuất khẩu hàng năm đứng vị trí thứ nhất trong những
năm gần đây, Đảng và Nhà nước cũng đã có những ưu tiên nhất định cho ngành công
nghiệp nhẹ này.
IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dệt May Việt Nam - Cơ hội và thách thức – NXB chính trị quốc gia Hà
Nội – 2003.
2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam sau Hiệp định
Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ - Hiệp hội dệt may Việt Nam.
3. Chính sách công nghiệp và thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập - Đại học Kinh Tế Quốc dân.
4. Báo cáo đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.
5. Chiến lược tăng tốc ngành dệt may Việt Nam.
6. Thời báo kinh tế đầu tư.
7. Trang vietnamnet.com.vn, các số liệu của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam,
ngày 26/11/2007.
V- PHỤ LỤC
Sơ đồ quá trình sản xuất và phân phối hàng
dệt may Việt Nam
Nguồn: Tập đoàn Dệt – May Việt Nam
Thiết kế sợi
Nhuộm sợi
Dệt, đan
Nhuộm màu, in văn
hoa
Cắt vải
May
Hoàn thiện
Thị trường, bán lẻ
Dệt
Phụ liệu
MỤC LỤC
I- Phần mở đầu
II-Nội dung
Chương 1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển kinh tế
xã hội ở Việt Nam
1. Khái quát và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam
Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam
Đặc điểm ngành dệt may Việt Nam
Chưa chủ động được nguồn nguyên liệu
Gia công là chính
Công nghệ còn lạc hậu
Các nhân tố ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu hang dệt may
Việt Nam
Các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên ngoài
2. Vai trò của xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam
Chương 2. Thực trạng xuất khẩu dệt may của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
1. Khái quát về Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
1.2.Chuyển đổi mô hình từ Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam sang
mô hình Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
2. Khái quát về thị trường dệt may Thế Giới và các nước xuất khẩu
chính của VINATEX
3.Thực trạng hàng xuất khẩu dệt may Việt Nam và VINATEX những
năm gần đây
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao khả năng xuất khẩu hang dệt may của Tập
Đoàn Dệt May Việt Nam
1. Định hướng` xuất khẩu đến năm 2020
1.1 Định hướng chung đến năm 2020
1.2. Mục tiêu của VINATEX về hàng xuất khẩu đến năm 2020
2. Giải pháp nhằm thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt May
Việt Nam - VINATEX trong giai đoạn tới
2.1.Giải pháp về tài chính và vốn
2.2. Giải pháp về đầu tư
2.3. Giải pháp về thị trường
2.4. Giải pháp về quản lý điều hành
3. Một số kiến nghị với Chính phủ để đẩy mạnh khả năng xuất khẩu dệt
may vào thị trường thế giới
3.1. Xúc tiến thương mại
3.2. Chính sách ưu đãi đầu tư
3.3. Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu
III- Kết luận
IV- Danh mục tài liệu tham khảo
V- Phụ lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61117_2609.pdf