Tiểu luận Thuế tiêu thụ đặc biệt tác động tại Việt Nam

Không tăng thuế TTĐB đ ối với ôtô NK; nếu tăng thì chỉ là biện pháp tạm thời, nhưng cần đồng nhất mức tăng với xe SXTN để tránh phân biệt đối xử, tạo sự cân bằng trong hạn chế tiêu dùng (bởi ôtô SXTN cũng thông qua NK linh kiện). Bên cạnh đó, cần xây dựng lộ trình thuế s ong s ong với chiến lược phát triển công nghiệp ôtô . Đặc biệt, cần hoàn thiện công cụ th uế khác để đánh thuế đúng đối tượng; qua đó tăn g tiết kiệm tiêu dùng và hạn ch ế sử dụng tài nguyên . Chỉ với biện pháp tổ ng hoà này, th uế mới đảm bảo là ch ính sách điều hành kinh tế; tránh lúng túng, mâu thuẫn ; không để xảy ra tiêu cực đối với thị trường, NTD hay tạo kẽ hở cho s ự bảo hộ hay trục lợi. Để phát triển một ngành cô ng nghiệp có quy mô lớn như ngành cô ng nghiệp ô tô đòi hỏi cần có s ự nỗ lực của toàn xã hội mà quan trọng nhất là từ phía Chính phủ và các doanh nghiệp trong ngành

pdf20 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3321 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thuế tiêu thụ đặc biệt tác động tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Tiểu luận Thuế tiêu thụ đặc biệt tác động tại Việt Nam 2 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT 1.1 Khái niệm: 1.1.1 Thuế: Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát s inh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật. 1.1.2 Thuế tiêu thụ đặc biệt: là một loại thuế gián thu, đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế theo qui định của luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế được cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ và do người tiêu dùng chịu khi mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ. Thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng phổ biến ở các nước trên thế giới với những tên gọi khác nhau: chẳng hạn ở Pháp gọi là thuế tiêu dùng đặc biệt,ở Thụy Ðiển gọi là thuế đặc biệt; ở nước ta, tiền thân của thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành là thuế hàng hóa được ban hành năm 1951. Ðến năm 1990 Bộ tài chính soạn thảo dự án luật thuế mới, đổi thuật ngữ thuế hàng hóa thành thuế tiêu thụ đặc biệt và được Quốc hội thông qua ngày 30- 6- 1990. 1.2 Đặc điểm của thuế tiêu thụ đặc biệt: - Về bản chất, thuế TTĐB là một loại thuế gián thu do người tiêu dùng chịu. Thuế suất của nó mang tính đặc thù cao giúp ta phân biệt với các loại thuế gián thu khác. + Thuế TTĐB có diện đánh thuế hẹp. + Mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt được pháp luật thuế quy định rất cao vì thuế đánh vào một số hàng hóa dịch vụ mang tính chất xa xỉ, chưa thật cần thiết cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày của con người và có ảnh hưởng đến sức khỏe của nhiều người trong xã hội. - Thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ thu một lần ở khâu sản xuất, nhập khẩu hàng hóa hay kinh doanh các dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt 1.3 Vai trò của thuế tiêu thụ đặc biệt: - Thông qua chế độ thu thuế tiêu thụ đặc biệt, nhà nước động viên một phần thu nhập đáng kể của người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước. - Công cụ rất quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng hướng dẫn sản xuất và điều tiết tiêu dùng xã hội. - Công cụ để nhà nước điều tiết thu nhập của người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước một cách công bằng hợp lý: ai tiêu dùng nhiều các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì nộp thuế nhiều hơn người tiêu dùng ít hoặc không phải nộp thuế nếu không tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ đó. 3 - Việc ban hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt để điều chỉnh việc sản xuất, kinh doanh, lưu thông và tiêu dùng một số hàng hóa, dịch vụ mang tính chất xa xỉ, chưa thật cần thiết cho nhu cầu xã hội thể hiện sự tăng cường quản lý, kiểm soát của nhà nước một cách tập trung, chặt chẽ đối với các loại hàng hóa, dịch vụ này. 1.4 Người nộp thuế TTĐB, đối tượng chịu thuế TTĐB và đối tượng không chịu thuế TTĐB: a. Người nộp thuế: - Người nộp thuế TTĐB là tổ chức cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB. - Trường hợp tổ chức cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất khẩu mua hàng hoá thuộc diện chịu thuế TTĐB của cơ sở sản xuất để xuất khẩu nhưng không xuất khẩu mà tiêu thụ trong nước thỉ tổ chức cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất khẩu là người nộp thuế TTĐB. b. Đối tượng chịu thuế: - Hàng hóa: Thuốc lá, rượu, bia, xăng các loại, bìa lá, vàng mã, tàu bay, du thuyền, xe môtô có dung tích xi lanh trên 125cm3 và xe ôtô dưới 24 chỗ. - Dịch vụ: Kinh doanh vũ trường, kinh doanh mát-xa, karaoke, kinh doanh gôn, kinh doanh xổ số… c. Đối tượng không chịu thuế: - Hàng hoá xuất khẩu, hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế hải quan, … - Xe ôtô cứu thương, xe ôtô chở phạm nhân, xe ôtô tang lễ, xe ôtô thiết kế có chổ ngồi và đứng chở từ 24 người trở lên, xe ôtô chạy trong khu vui chơi, giải trí, thể thao.. 1.5 Thuế suất áp dụng đối với mặt hàng ô tô: thuế suất tỷ lệ STT Hàng hóa, dịch vụ Thuế suất (%) 4 Xe ô tô dưới 24 chỗ a) Xe ô tô chở người từ 9 chỗ trở xuống, trừ loại quy định tại điểm 4đ, 4e và 4g Điều này Loại có dung tích xi lanh từ 2.000 cm3 trở xuống 45 Loại có dung tích xi lanh trên 2.000 cm3 đến 3.000 cm3 50 Loại có dung tích xi lanh trên 3.000 cm3 60 b) Xe ô tô chở người từ 10 đến dưới 16 chỗ, trừ loại quy định tại điểm 4đ, 4e và 4g Điều này 30 c) Xe ô tô chở người từ 16 đến dưới 24 chỗ, trừ loại quy định tại điểm 4đ, 4e và 4g Điều này 15 d) Xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng (loại có từ hai hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở hàng), trừ loại quy định tại điểm 4đ, 4e 15 4 và 4g Điều này đ) Xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện, năng lượng sinh học, trong đó tỷ trọng xăng sử dụng không quá 70% số năng lượng sử dụng.(được thiết kế theo tiêu chuẩn của nhà sản xuất có tỷ lệ xăng pha trộn không quá 70% tổng số nhiên liệu sử dụng và loại xe kết hợp động cơ điện với động cơ xăng (xe hybrid) có tỷ lệ xăng sử dụng theo tiêu chuẩn nhà sản xuất không quá 70% số năng lượng sử dụng so với loại xe chạy xăng tiết kiệm nhất, có cùng số chỗ ngồi và cùng dung tích xi lanh có mặt trên thị trường Việt Nam) Bằng 70% mức thuế suất áp dụng cho xe cùng loại quy định tại điểm 4a, 4b, 4c và 4d Điều này e) Xe ô tô chạy bằng năng lượng sinh học (được thiết kế theo tiêu chuẩn của nhà sản xuất chạy hoàn toàn bằng năng lượng sinh học, năng lượng điện) Bằng 50% mức thuế suất áp dụng cho xe cùng loại quy định tại điểm 4a, 4b, 4c và 4d Điều này g) Xe ô tô chạy bằng điện (được thiết kế theo tiêu chuẩn của nhà sản xuất chạy hoàn toàn bằng năng lượng sinh học, năng lượng điện) Loại chở người từ 9 chỗ trở xuống 25 Loại chở người từ 10 đến dưới 16 chỗ 15 Loại chở người từ 16 đến dưới 24 chỗ 10 Loại thiết kế vừa chở người, vừa chở hàng (loại có từ hai hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở hàng.) 10 1.6 Căn cứ tính thuế: Số thuế TTĐB phải nộp = Giá tính thuế TTĐB x Thuế suất 1.6.1 Đối với hàng hoá sản xuất trong nước, giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt được xác định như sau: Giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt = 1 + Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt Trong đó, giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng được xác định theo quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng. 5 1.6.2 Đối với hàng nhập khẩu, giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt được xác định như sau: Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt = Giá tính thuế nhập khẩu + Thuế nhập khẩu. Giá tính thuế nhập khẩu được xác định theo các quy định của pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Trường hợp hàng hóa nhập khẩu được miễn, giảm thuế nhập khẩu thì giá tính thuế không bao gồm số thuế nhập khẩu được miễn, giảm. 1.7 Văn bản liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt qua các năm Luật Thuế TTĐB lần đầu tiên được ban hành vào năm 1990 trong chương trình cải cách thuế giai đoạn I. Quá trình thực hiện, thuế TTĐB đã được sửa đổi và hoàn thiện nhiều lần để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn và các yêu cầu đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những lần sửa đổi, bổ sung quan trọng nhất là các Luật được ban hành trong các năm 1998, 2003, 2005 và mới nhất là năm 2008 (Luật thuế TTĐB số 27/2008/QH12 ngày 14/11/2008, hiệu lực từ 01/04/2009). 1.7.1 Các nghị định của chính phủ về thuế tiêu thụ đặc biệt Số/Ký hiệu Ngày ban hành Trích yếu 26/2009/NĐ-CP 16/03/2009 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 156/2005/NĐ-CP 15/12/2005 Nghị định sửa đổi, bổ sung các Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng 149/2003/NĐ-CP 04/12/2003 Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 84/1998/NĐ-CP 12/10/1998 Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 97/CP 27/12/1995 Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 56/CP 01/01/1993 Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 325/HĐBT 19/10/1991 Nghị định quy định chi tiết thi hành Quyết định của Hội đồng Nhà nước bổ sung sửa đổi thuế doanh thu và thuế tiêu thụ đặc biệt 391/HĐBT 10/11/1990 Nghị định quy định thi hành điều 32 của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng được phép xuất, nhập khẩu phi mậu dịch 6 352/HĐBT 02/10/1990 Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 1.7.2 Các thông tư hướng dẫn thuế tiêu thụ đặc biệt Số/Ký hiệu Ngày ban hành Trích yếu 64/2009/TT-BTC 27/03/2009 Hướng dẫn thi hành Nghị định số 26/2009/NĐ-CP ngày 16 tháng 3 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 115/2005/TT-BTC 16/12/2005 Hướng dẫn thi hành Nghị định số 156/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 sửa đổi, bổ sung các Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng 119/2003/TT-BTC 22/12/2003 Hướng dẫn thi hành Nghị định số 149/2003/NĐ-CP ngày 04/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 86/2001/TT-BTC 29/10/2001 Hướng dẫn hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp đối với thuốc lá điếu xuất khẩu 168/98/TT/BTC 21/12/1998 Hướng dẫn thi hành Nghị định số 84 /1998/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) 12/KT 09/02/1996 Thông tư hướng dẫn tạm thời thi hành Nghị định số 97/CP ngày 27/12/1995 quy định chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 98/TC/TCT 30/12/1995 Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định số 97/CP ngày 27-12-1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt 98/TCT 01/01/1995 Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định số 97/CP ngày 27-12-1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt 74/TCT 01/01/1993 Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định số 56-CP ngày 28/8/90 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 7 43/TC/TCT/CS 13/08/1991 Thông tư hướng dẫn thi hành Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng số 203-HĐBT ngày 29-06-1991 quy định một số điều chi tiết thi hành các luật thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi tức 46/TCT 04/10/1990 Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 8 CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG KINH TẾ CỦA THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI MẶT HÀNG ÔTÔ 2.1 Đối với người tiêu dùng Tâm lý của người tiêu dùng thường không ưa thích sự tăng giá. Khi biểu thuế tiêu thụ đặc biệt thay đổi theo hướng gia tăng sẽ kéo theo nhiều thay đổi trong hành vi của người tiêu dùng. Vào cuối năm 2008, lượng ôtô tồn đọng của các DN còn khá nhiều và chỉ tiêu tài chính vẫn còn rất xa để đạt được định mức. Chính vì vậy mà nhiều DN đã giảm mạnh giá xe, tăng khuyến mãi để giải quyết hàng tồn kho, khách hàng là những người hưởng lợi nhiều nhất do các hãng xe hơi tiếp tục đưa ra chính sách giảm giá và khuyến mại đặc biệt để giải phóng hàng tồn và bảo vệ mức thị phần. Tuy nhiên đến cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 2009, thông tin về thời hạn chính thức áp dụng Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) vẫn giữ nguyên, những người có nhu cầu bắt đầu đổ xô đi mua xe nhằm tránh bị tăng giá. Tâm lý này đã gây nên hiện tượng rối loạn thị trường ô tô. Vào cuối tháng 3-2009, những người có nhu cầu thật sự đối với các loại ô tô 7 chỗ đều đã tranh thủ mua để khỏi phải chịu thêm ít nhất 10% thuế TTĐB nữa. Riêng đối với ô tô bán thể thao 7 chỗ hiệu Captiva, vào tuần cuối của tháng 3/2009, có đại lý tăng số lượng bán ra đến 50% so với tháng 2, các loại xe Innova, Fortuner không còn để bán bởi khách hàng có nhu cầu mua ô tô tăng vọt. Đối với ô tô nhập khẩu, theo Cục Hải quan TPHCM, trong 2 tuần cuối tháng 3/2009, lượng ô tô du lịch 5 chỗ trên 3.000 cc và ô tô 7 chỗ nhập khẩu tăng khoảng 30% so với cùng kỳ tháng 2. Đa số mọi người mua sắm xe cho gia đình đều chọn dòng 7 chỗ đa dụng. Tuy nhiên theo biểu giá mới thì dòng này tăng từ 10 -20%. Ngay lập tức sau đó các hãng xe, đại lý đều nâng giá lên cho phù hợp với thuế mới và người phải trả các chi phí đó là người tiêu dùng. Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) sửa đổi đối với ô tô du lịch vừa được chính thức áp dụng từ đầu tháng 4-2009. Theo đó, các loại ô tô 5 chỗ ngồi dưới 2.000 cc giảm 5% (còn 45%); từ 2.000 cc - 3.000 cc vẫn giữ mức 50%. Các loại ô tô 5 chỗ trên 3.000 cc và ô tô 7 chỗ tăng thêm từ 10% - 20% trở lên, tùy loại. Với đợt điều chỉnh mức thuế TTĐB lần này, ô tô nhỏ giảm giá, ô tô lớn tăng giá. Các loại ô tô 5 chỗ ngồi, trên 3.000 cc và các loại ô tô 7 chỗ ngồi đều tăng giá khoảng 4.000 USD trở lên. Còn các loại ô tô dưới 2.000 cc, tuy thuế TTĐB giảm 5% so với mức cũ nhưng giá bán cũng chỉ giảm từ vài trăm đến dưới 1.000 USD/chiếc. Với giá này, ô tô lắp ráp trong nước chưa thật sự hấp dẫn người tiêu dùng. Chẳng hạn, Spark (Matiz) chỉ giảm khoảng 400 USD/chiếc, Lacetti 1.800 cc giảm 800 USD/chiếc. Các loại ô tô dưới 2.000 cc của Toyota cũng chỉ giảm bình quân từ 500 USD - 800 USD/chiếc. Ngược lại, các loại ô tô trên 3.000 cc hoặc ô tô 7 chỗ của hãng này lại tăng tối thiểu 4.000 USD/chiếc. Riêng Land Cruiser nhập khẩu tăng từ 103.100 USD lên 125.000 9 USD/chiếc (mức tăng 21.900 USD), Ford Everest tăng khoảng 4.700 USD/chiếc. Các loại ô tô từ 2.000 cc trở xuống như Focus giảm khoảng 2.000 USD/chiếc... Đa số người dân có điều kiện sắm ô tô đều muốn sắm loại “hai trong một” - 7 chỗ ngồi vì vừa để phục vụ công việc vừa làm phương tiện đi lại cho cả gia đình. Thế nên, khi Nhà nước tăng thuế, người tiêu dùng phải chịu, hãng sản xuất chẳng bị ảnh hưởng gì bởi mức thuế tăng đó đã được bên bán đưa vào giá thành. Điều này làm một số gia đình hoãn kế hoạch mua xe bởi lẽ giá bán tăng chủ yếu mạnh ở dòng 7 chỗ. Giá giảm thì rất ít khoảng vài trăm đô là Mỹ nhưng giá tăng thì lại khá lớn vào khoảng vài ngàn đô la. Nói đến cùng thì người bị chịu thiệt nhiều nhất vẫn là những người tiêu dùng. Nền kinh tế khó khăn, giá ô tô tăng mạnh có lẽ các nhà chính sách hướng người tiêu dùng chi tiền mua sắm các khoản khách chứ không phải là ô tô. 2.2 Đối với nhà sản xuất ô tô 2.2.1 Tác động đến giá xe ô tô: Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt vừa được Quốc hội thông qua, và theo biểu thuế mới chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/4/2009, thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các loại xe có dung tích xi-lanh từ 2.000cm3 trở xuống sẽ ở mức 45%, các loại xe có dung tích xi-lanh trên 2.000cm3 đến 3.000cm3 ở mức 50% và xe trên 3.000cm3 ở mức 60%. Các mức thuế suất mới sẽ tạo nên những xáo trộn nhất định giữa các loại xe này xuất phát từ cách tính mới. Trong đó, các loại xe từ 6-9 chỗ sẽ phải chịu mức tăng giá mạnh mẽ nhất còn các loại xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống phải chịu mức tăng giá ít hơn. Loại xe từ 6- 9 chỗ có dung tích xi-lanh trên 2.000cm3 đang hưởng mức thuế chung là 30% trong khi từ 1/4/2009, sẽ phải chịu mức thuế tăng thêm từ 15-30%. Cụ thể, thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các loại xe 6-9 chỗ có dung tích xi-lanh từ 2.000 cm3 trở xuống tăng từ 30% lên 45% kéo theo mức tăng giá bán khoảng 12%, các loại xe trên 2.000 cm3 đến 3.000 cm3 tăng từ 30% lên 50% kéo theo mức giá bán tăng khoảng 15% và xe trên 3.000 cm3 tăng từ 30% lên 60% kéo theo mức tăng giá bán khoảng 23%. Riêng với nhóm xe 5 chỗ ngồi trở xuống chỉ có những loại xe có dung tích xi-lanh trên 3.000 cm3 phải chịu mức thuế tăng lên dù không đáng kể. Hiện các loại xe này đang chịu mức thuế suất 50% và từ 1/42009 tăng lên 60% kéo theo mức tăng giá bán khoảng 7%. Những thay đổi về giá xe ô tô từ 01/04/2009 Loại xe Dung tích (cm3) Thuế mới (% ) Thuế cũ (% ) Tác động giá xe (% ) 5 chỗ trở xuống Từ 2000 trở xuống 45 50 Giảm 3% Trên 2000-3000 50 Không đổi 10 Trên 3000 60 Tăng 7% 6-9 chỗ Từ 2000 trở xuống 45 30 Tăng 12% Trên 2000-3000 50 Tăng 15% Trên 3000 60 Tăng 23% Như vậy, điểm khác biệt nhất thuộc về các loại xe đa dụng 6-9 chỗ ngồi có dung tích xi-lanh từ 2.000cm3 trở xuống. Đây là các loại xe có phân khối thấp nhưng vẫn phải chịu mức thuế tăng thêm 15% kéo theo mức giá tăng 12%. Các loại xe này, ví dụ như Toyota Innova, Mitsubishi Zinger, Chevrolet Vivant… đang có đối tượng sử dụng chủ yếu là các gia đình và mức giá bán thuộc nhóm trung bình và thấp hiện nay. Theo biểu thuế mới, các loại xe nhỏ là được hưởng lợi nhiều hơn cả khi không những không phải chịu mức thuế tăng thêm mà còn giảm đi, dù không nhiều. Trong đó các dòng xe hạng trung như Toyota Camry, Honda CR-V, BMW 5 series… không phải chịu bất kỳ sự thay đổi nào khi thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt giữ nguyên mức 50%. Riêng các dòng xe nhỏ có dung tích xi-lanh từ 2.000cm3 trở xuống như Hyundai Getz, Chevrolet Spark hay Kia Morning… sẽ được hưởng mức thuế giảm thêm 5%, từ mức 50% hiện nay xuống còn 45%, theo đó mức giá bán cũng sẽ giảm khoảng 3%. Mức độ ảnh hưởng của thuế tiêu thụ đặc biệt đến giá xe bán ra là rất lớn. Việc tăng thuế TTĐB tác động đến giá xe lắp ráp trong nước còn nhiều hơn tác động đến giá xe NK. Giá xe NK đánh thuế TTĐB trên giá thể hiện trong tờ khai hải quan. Còn đối với xe lắp ráp trong nước, sau khi cộng giá linh kiện và thuế cùng với các chi phí khác, hình thành nên giá bán mới áp thuế TTĐB. 2.2.2 Tác động đối với ô tô sản xuất trong nước: Trong tháng 03/2009, tổng sản lượng bán hàng của các thành viên Hiệp hội các nhà sản xuất xe ôtô Việt Nam (VAMA) giảm 14% so với tháng 03/2008, đạt 11,316 xe, trong đó dòng xe du lịch và xe thương mại giảm mạnh với mức giảm lần lượt là 35% và 33%, riêng phân khúc xe việt dã/đa dụng (SUV/MPV) chủ yếu là xe 6-9 chỗ lại tăng mạnh với mức tăng là 53% so với tháng 03/2008 do khách hàng tranh thủ mua xe trước khi tăng thuế Tiêu thụ đặc biệt từ 01/04/2009. Loại xe Bắc Trung Nam Tổng cộng Xe du lịch 815 160 445 1,420 Xe đa dụng MPV 864 190 1,354 2,408 Xe việt dã SUV 904 213 1,037 2,154 11 Xe Minibus, Bus 582 139 435 1,156 Xe Tải, Pick-up & Van 1,684 896 1,598 4,178 Tổng cộng 4,849 1,598 4,869 11,316 Chassis - - 36 36 Tháng 4/2009 dường như là một tháng u ám của các nhà sản xuất xe ôtô khi mức tiêu thụ ôtô sụt thê thảm so với tháng 3 và so với cùng kỳ năm 2008.Trong tháng 04/2009, tổng sản lượng bán hàng của các thành viên VAMA giảm 42% so với tháng 04/2008, đạt 7,711 xe, trong đó dòng xe 2 cầu/xe đa dụng (SUV/MPV) giảm mạnh với mức giảm là 68% do ảnh hưởng của việc tăng thuế Tiêu thụ đặc biệt từ 01/04/2009. Loại xe Bắc Trung Nam Tổng cộng Xe du lịch 1,278 262 741 2,281 Xe đa dụng MPV 133 63 316 512 Xe việt dã SUV 161 45 207 413 Xe Minibus, Bus 253 88 380 721 Xe Tải, Pick-up & Van 1,585 881 1,318 3,784 Tổng cộng 3,410 1,339 2,962 7,711 Chassis 4 - 48 52 Hầu hết, việc bán hàng trong tháng 4/2009 của các hãng xe đều đi xuống. Đứng đầu về sự tụt dốc trong bán hàng của các hãng xe là công ty VMC (phân phối xe BMW, Kia, Mazda) giảm tới 61%, tiếp sau đó là Ford giảm 59%, Honda giảm 55%, Visuco (Suzuki) giảm 46%, GM Daewoo giảm 43%, Toyota giảm 37%, Vinas tar với Mitsubishi giảm 24%... Còn tính cả 4 tháng qua, Honda đã giảm tới 44% về số lượng xe bán ra, Toyota giảm 15%, Ford giảm 33%. Hãng xe Mercedes - Benz Việt Nam lại là một ngoại lệ đối lập khi tháng 4/2009, họ bán được 319 chiếc, tăng tới 98% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 4 tháng đầu năm nay, hãng này cũng đã tăng số lượng bán ra tới 49%, đạt 1.031 xe. Đây là hãng xe duy nhất vẫn giữ mức tăng trưởng đi lên. Kể từ tháng 5/2009 trở đi, doanh số bán xe của VAMA đã có cải thiện hơn trước. Tổng sản lượng bán hàng của các thành viên VAMA trong tháng 5/2009 tăng 996 xe so với tháng trước, đạt 8.761 xe, nhưng vẫn thấp hơn 24% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo VAMA, dòng xe hai cầu (SUV) và xe đa dụng (MPV) có doanh số bán ra giảm mạnh so với cùng kỳ năm ngoái, với mức giảm 46% dẫn đến tình hình kinh doanh bị giảm chung, 16 thành viên của VAMA chỉ bán được 1.485 xe cho hai dòng xe này trong tháng 5/2009. 12 Riêng dòng xe du lịch, các thành viên của hiệp hội trong tháng 5 có doanh số bán ra đạt gần 2.500 xe tăng 21% so với tháng 5/2008. Việc tăng trưởng đối với dòng xe du lịch là vì Luật thuế tiêu thụ đặc biệt mới được áp dụng, mức thuế áp cho một số dòng này thấp hơn trước. Do đó, người tiêu dùng đã chuyển hướng sang việc mua các dòng xe nhỏ, thay vì mua xe 7 chỗ trở lên như trước đây. Mặt khác, thời gian gần đây một số doanh nghiệp cũng đã tung ra nhiều mẫu mã, chủng loại cho dòng xe du lịch này để thu hút khách hàng. Tính chung tổng doanh số bán hàng của các thành viên VAMA trong 5 tháng đầu năm 2009 đạt hơn 32.200 xe, giảm 35% so với cùng kỳ năm ngoái. Toyota Việt Nam với doanh số bán ra hơn 8.750 xe, tiếp tục giữ vị trí cao nhất trong 5 tháng qua, kế đến là Trường Hải bán được 6.860 xe, Vinamotor bán được hơn 5.890 xe, GM Daewoo bán được hơn 3.890 xe, Honda hơn 1.490 xe, Ford hơn 2.460 xe, và Mercedes -Benz gần 1.260 xe… Theo thống kê của VAMA, riêng trong tháng 10/2009, tổng sản lượng bán hàng của các thành viên thuộc Hiệp hội đạt 11.762 xe, tăng nhẹ so với tháng 9 nhưng gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái (tăng 103%). Dòng xe 5 chỗ vẫn là tâm điểm trong các dòng xe bán ra với doanh số gần 3.900 chiếc, cao hơn gần 500 chiếc so với tháng 9. Xe đa dụng cũng có mức tăng khá mạnh, đạt 1.115 xe.  Tình hình tiêu thụ xe của các thành viên VAMA từ tháng 1 đến tháng 11/2009 (ĐVT: chiếc) Loại xe hạng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Xe du lịch 1.015 1.086 1.420 2.281 2.496 2.651 3.191 3.528 3.498 3.866 4.486 Xe đa dụng MP V 771 1.565 2.408 512 860 877 994 848 971 1.115 1.168 Xe việt dã SUV 452 627 2.154 413 625 639 1.316 1.439 1.472 1.502 1.651 Xe Minibus, Bus 283 489 1.156 721 636 649 788 627 784 844 1.073 Xe tải, Pick-up & Van 1.331 2.904 4.178 3.784 4.144 4.883 4.550 4.113 4.346 4.435 3.881 Tổng 3.852 6.671 11.316 7.711 8.761 9.699 10.839 10.555 11.071 11.762 12.259 (Nguồn: www.vietnamcar.com) 2.2.3 Tác động đối với ô tô nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu ôtô nguyên chiếc giảm mạnh trong hai tháng đầu năm 2009, theo nhiều ý kiến phân tích, là hoàn toàn dễ hiểu. Trong bối cảnh kinh tế suy thoái, thắt chặt chi tiêu thì nhu cầu mua sắm ôtô của người dân, kể cả của các doanh nghiệp, là rất thấp. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, Chính phủ sẽ thực thi một loạt chính sách nhằm kích cầu tiêu dùng, trong đó có cả kích cầu tiêu dùng ôtô nhằm giải quyết khó khăn cho ngành công nghiệp ôtô trong nước. Tuy nhiên, do lo ngại chính sách thuế thay đổi nên trong tháng 03/2009 , các nhà nhập khẩu ôtô ồ ạt đem hàng về thị trường. Họ lo ngại rằng khi thuế tiêu thụ đặc biệt tăng cũng đồng nghĩa với việc giá xe cũng được điều chỉnh. Trong bối cảnh khủng hoảng hiện nay, để giảm áp lực về giá cho người tiêu dùng, cách tốt nhất là mang hàng về trước thời điểm thuế lên. 13 Biểu đồ: Lượng ô tô nhập khẩu từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2009 Qua các con số thống kê trên có thể thấy một điểm nhấn khá rõ rệt tại thị trường ô tô nhập khẩu quý 1/2009, đó là sự ảnh hưởng từ chính sách thuế của Nhà nước. Điều này thể hiện ở đà sụt giảm mạnh trong hai tháng đầu năm khi toàn bộ thị trường rơi vào cảnh ảm đạm do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế. Bước sang tháng 3, ôtô nhập khẩu đã tăng trở lạiSở dĩ có hiện tượng này là việc thuế tiêu thụ đặc biệt chuẩn bị được áp dụng chính thức (từ 1/4). Nhằm “chạy” thuế và giá, doanh nghiệp và người dân đã tăng cường nhập khẩu và mua xe trước khi các mức thuế mới có hiệu lực. Như vậy, sau 2 tháng đầu năm sụt giảm, kim ngạch nhập khẩu ôtô 3 tháng tiếp sau đó đã tăng trở lại. Riêng trong tháng 3/2009 - tháng “chạy thuế” trước thời điểm tăng thuế tiêu thụ đặc biệt từ 1/4/2009- lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc đã vọt lên 4.260 chiếc, gấp đôi so với tháng 2/2009. Đáng chú ý, chiếm tới 50% trong số hơn 4 ngàn xe nhập về là loại xe 9 chỗ ngồi trở xuống. Do tác động của thuế suất mới, từ 1/4, giá các loại xe 6-9 chỗ ngồi và các loại xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống có dung tích xi-lanh động cơ lớn (trên 3.000 cm3) sẽ tăng khá mạnh. Đối với xe nhập khẩu, đây chủ yếu là đối tượng xe hạng sang và siêu sang. Vì vậy, mặc dù không tăng nhiều về lượng nhưng giá trị kim ngạch lại tăng đáng kể. Qua biểu đồ ta có thể thấy dòng xe dưới 9 chỗ ngồi giảm mạnh trong tháng 4/2009 ( kể từ thời điểm thuế tiêu thụ đặc biệt mới có hiệu lực từ ngày 01/04/2009). Nhiều năm được hưởng thuế suất ưu đãi 30% so với 50% của xe sedan (5 chỗ), các hãng ôtô đã tập trung phần lớn vào dòng xe 6-9 chỗ với đủ các chủng loại. Trên thực tế, đây cũng là phân khúc bán chạy nhất thị trường như các tên tuổi Toyota Innova, Chevrolet Captiva, Ford Everest. khi Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) có hiệu lực từ 1/4 nâng thuế suất từ 30% lên các mức 45%, 50% và 60% (tùy theo dung tích) thì ngay lập tức thị trường rơi vào khủng hoảng. Sau khi "lên đỉnh" vào tháng 3 nhờ tâm lý chạy thuế, doanh số dòng xe này giảm thảm hại, tới 83%. Thậm chí Captiva giảm còn 3 chiếc trong suốt tháng 4. Ford Everes t 14 cũng chịu chung số phận và chỉ 9 chiếc được giao cho khách hàng. Sản phẩm bán chạy nhất thị trường là Innova cũng giảm tới 4 lần, xuống còn gần 300 chiếc.Phần lớn các sản phẩm này đều đóng vai trò chủ lực của các hãng xe. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số lượng xe nhập về Việt Nam đã có sự gia tăng mạnh mẽ trong những tháng cuối năm 2009. Nếu như tháng 8, cả nước nhập 7.300 ôtô nguyên chiếc, trị giá 105 triệu USD thì tháng 9, con số trên lần lượt là 8.000 chiếc, tương ứng 132 triệu USD và tháng 10 lượng xe nhập khẩu lên tới 9.000 chiếc, trị giá 140 triệu USD. Tính chung tổng lượng ô tô nhập khẩu trong năm 2009 đạt 80,6 nghìn chiếc, trong đó xe dưới 9 chỗ là 47,1 nghìn chiếc chiếm 58,4% lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu của cả nước. Trong năm 2009, Việt Nam đã nhập khẩu mặt hàng này từ 14 thị trường. Hàn Quốc là thị trường Việt Nam nhập khẩu ôtô nhiều nhất với 29.261 chiếc, trị giá 296,5 triệu USD chiếm 0,6% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước, tăng 39,6% về lượng và 39,4% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Đứng thứ hai sau thị trường Hàn Quốc là Hoa Kỳ với lượng nhập trên 5 nghìn chiếc, trị giá 132,93 triệu USD, giảm 44,7% về lượng và giảm 41% so với cùng kỳ năm ngoái. Tiếp theo là các thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan với lượng nhập lần lượt là 4,2 nghìn chiếc, 3 nghìn chiếc và 1,8 nghìn chiếc, đạt trị giá 112,2 triệu USD, 106,6 triệu USD và 31,3 triệu USD. Trong 05 tháng đầu năm 2010, nhập khẩu ô tô nguyên chiếc các loại vào Việt Nam đã đạt con số 18.523 xe, tương đương kim ngạch 312,6 triệu USD, tăng 7,4% về số lượng nhưng chỉ 1,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2009 Kim ngạch nhập khẩu ô tô nguyên chiếc trong 5 tháng đầu năm 2010 Lượng (chiếc) Giá trị (triệu USD) Tháng 1/2010 3.400 55 Tháng 2/2010 3.000 45 Tháng 3/2010 4.000 62 Tháng 4/2010 3.500 61 Tháng 5/2010 4.500 78 Nguồn: Tổng cục Thống kê 2.3 Đối với nhà nước Việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng ôtô từ năm 1996 đến nay không chỉ góp phần hạ mức thuế suất thuế nhập khẩu đối với mặt hàng này để đáp ứng nhu cầu hội nhập, mở cửa nền kinh tế mà còn góp phần hạn chế bớt nạn ùn tắc giao thông và ô nhiễm 15 môi trường trong bối cảnh Chính phủ chưa có đủ điều kiện về thời gian và nguồn lực để giải quyết các vấn đề trên một cách toàn diện và ổn định. Thuế tiêu thụ đặc biệt nói chung và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia, thuốc lá và ôtô nói riêng đóng một vai trò quan trọng trên phương diện nguồn thu ngân sách Nhà nước. Trong những năm qua, số thu từ sắc thuế này thường chiếm khoảng 24% trong tổng số thu từ thuế gián thu, và chiếm khoảng 7% trong tổng nguồn thu từ thuế của ngân sách nhà nước. Thuế tiêu thụ đặc biệt góp phần bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Số liệu cụ thể như sau: SỐ THU TỪ THUẾ TTĐB SO VỚI TỔNG THU TỪ THUẾ QUA CÁC NĂM ĐƠN VỊ: TỶ ĐỒNG NĂM TỔNG THU TỪ THUẾ THUẾ TTĐB HÀNG SX TRONG NƯỚ C THUẾ XNK VÀ TTĐB HÀNG NK GHI CHÚ SỐ LƯỢ NG SỐ LƯỢNG TỶ TRỌ NG SỐ LƯỢ NG TỶ TRỌ NG 2003 127,947 8,851 7% 22,374 17% số quyết toán 2004 155,579 12,773 8% 21,614 14% 2005 191,725 15,716 8% 23,660 12% 2006 236,331 17,195 7% 26,280 11% 2007 268,594 17,365 6% 38,309 14% 2008 359,109 21,556 6% 59,927 17% số ước tính 2009 336,098 27,587 8% 65,000 19% QI/2010 101,041 7,397 7% 21,290 21% Nguồn: Bộ Tài Chính 16 BIỂU ĐỒ TỶ TRỌNG THUẾ TTĐB SO VỚI TỔNG THU TỪ THUẾ 0 50,000 100,000 150,000 200,000 250,000 300,000 350,000 400,000 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 QI/2010 Năm S ố l ư ợ n g (T ỷ đ ồ n g ) TỔNG THU TỪ THUẾ THUẾ TTĐB HÀNG SX TRONG NƯỚC THUẾ XNK VÀ TTĐB HÀNG NK Việc thay đổi mức thuế suất của thuế TTĐB vào các năm 2004 và 2009 rõ ràng có tác động rõ rệt đến số thuế thu được thể hiện qua bảng sau: SỰ THAY ĐỔI THUẾ TTĐB SO VỚI TỔNG THU TỪ THUẾ QUA CÁC NĂM ĐƠN VỊ: TỶ ĐỒNG NĂM TỔNG THU TỪ THUẾ %TĂNG THUẾ TTĐB HÀNG SX TRONG NƯỚC % TĂNG THUẾ XNK VÀ TTĐB HÀNG NK GHI CHÚ 2003 127,947 8,851 22,374 số quyết toán 2004 155,579 22% 12,773 44% 21,614 2005 191,725 23% 15,716 23% 23,660 2006 236,331 23% 17,195 9% 26,280 2007 268,594 14% 17,365 1% 38,309 2008 359,109 34% 21,556 24% 59,927 số ước tính 2009 336,098 -6% 27,587 28% 65,000 QI/201 0 101,041 31% 7,397 18% 21,290 17 Nguồn: Bộ Tài Chính Tổng thu thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản suất trong nước tăng qua các năm, năm 2003 là 8.851 tỷ đồng, năm 2004 là 12.773 tỷ đồng, tăng 44% so với năm 2003; năm 2005 là 15.716 tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2004; năm 2006 là 17.195 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2005 và năm 2007 là 17.365 tỷ đồng, tăng 1% so với năm 2006; năm ước tính là 2008 là 21.556 tăng 28% so với năm 2007, năm 2009 ước tính là 27.587 tỷ đồng, qúy 1 năm 2010 ước tính tăng 18% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy Luật thuế TTĐB số 08/2003/QH11 ngày 17/06/2003, hiệu lực ngày 01/01/2004 đã làm cho số thuế tiêu thụ đặc biệt tăng đột biến: gần 4000 tỷ, tăng 44% so với năm 2003 trong khi tổng số thuế chỉ tăng 22%. Đến năm 2009, khi áp dụng Luật thuế TTĐB số 05/1998/QH10 ngày 20/05/1998, hiệu lực ngày 01/04/1999 tăng mức thuế suất mới, thì số thuế TTĐB hàng sản suất trong nước tăng hơn 6.000 tỷ đồng, tăng 28% trong khi tổng thu thuế giảm 6%. Như vậy việc tăng mức thuế suất đã có tác dụng làm tăng ngân sách nhà nước rõ rệt. 18 CHƯƠNG 3: MỘT VÀI KIẾN NGHỊ CẢI THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI MẶT HÀNG Ô TÔ 3.1 Những kết quả đạt được và một số hạn chế từ việc áp dụng luật thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng ô tô 3.1.1 Những kết quả đạt được - Thuế TTĐB đã góp phần hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng: + Đối với xe ô tô dưới 10 chỗ ngồi (từ 9 chỗ trở xuống): Quy định các mức thuế suất phân biệt theo dung tích máy và áp dụng chung cho tất cả các loại xe. Ô tô có cùng chỗ ngồi song có dung tích xi lanh lớn hơn sẽ phải chịu thuế suất ở mức cao hơn. Việc quy định thuế suất đối với ô tô theo hướng này sẽ góp phần giảm sự gia tăng quá mức của phương tiện cá nhân. Đồng thời việc quy định theo dung tích máy cũng sẽ góp phần thực hiện tốt hơn chức năng điều tiết thu nhập cho ngân sách của thuế TTĐB vì thực tế hiện nay cùng số chỗ ngồi, cùng loại xe, xe có dung tích xi lanh lớn hơn là loại xe đắt tiền hơn. + Việc giữ nguyên mức thuế suất hiện hành đối với các loại xe từ 10 đến dưới 24 chỗ là phù hợp với thực tế vì những loại xe này là phương tiện phục vụ sản xuất, thương mại, dịch vụ, không phải phục vụ cho mục đích sử dụng cá nhân. Nếu đặt vấn đề tăng thuế TTĐB đối với các chủng loại xe này sẽ làm tăng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp sử dụng. Theo số liệu của Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) thì hiện nay các loại xe chở người dưới 24 chỗ sản xuất trong nước chủ yếu có dung tích xi lanh dưới 2.000 cc (chiếm khoảng 60% tổng số xe chịu thuế TTĐB). Loại xe chịu tác động của việc điều chỉnh thuế suất thuế TTĐB khi chuyển sang phương án tính thuế theo dung tích xi lanh chiếm khoảng 32% tổng số xe chịu thuế TTĐB, trong đó chủ yếu là loại xe có dung tích từ 2000 cc cho đến dưới 3000 cc với mức thuế TTĐB dự kiến tăng từ 50% lên 60%. Loại xe chịu mức tăng thuế cao nhất (loại trên 3.000 cc) hiện chỉ chiếm khoảng 3% sản lượng sản xuất và khoảng 2,5% tổng số xe thuộc diện chịu thuế TTĐB. - Thuế TTĐB đã góp phần vào việc hội nhập kinh tế quốc tế. Việc quy định lộ trình từng bước tăng thuế đối với mặt hàng ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước đã đáp ứng được yêu cầu phục vụ cho việc đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). - Thuế TTĐB góp phần ổn định nguồn thu cho Ngân sách nhà nước. Tỷ trọng thu ngân sách từ thuế TTĐB trong tổng thu ngân sách từ thuế, phí và lệ phí đã ổn định và tăng qua các năm 3.1.2 Một số hạn chế - Không có văn bản hướng dẫn rõ ràng dẫn đến ngành hải quan lúng túng trong việc áp dụng mức thuế suất đối với loại xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện (hybrid) nhập khẩu. 19 - Mức thuế suất áp dụng đối với dòng xe từ 6 chỗ - 9 chỗ ngồi tăng đột biến, không có lộ trình khiến cho nhu cầu về các dòng xe này giảm mạnh, đặc biệt dòng xe này là dòng xe tiêu dùng chính trong dân cư và là dòng xe chủ lực của các hãng xe. - Áp ụng thuế suất cao nhằm bảo hộ cho các doanh nghiệp lắp ráp xe trong nước. Tuy nhiên chính sách này đã bộc lộ một số hạn chế đó là các doanh nghiệp quá ý lại việc được bảo hộ tuyệt đối nên rất chậm chạp trong việc nội địa hóa và nâng cao tính cạnh tranh. Thực tế cho thấy kết quả trong giai đoạn phát triển vừa qua của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam vẫn chưa cho ra những chủng loại xe hiệu quả thực sự phù hợp với môi trường và hoàn cảnh của riêng Việt Nam. 3.2 Một số kiến nghị Quan điểm nhất quán bảo hộ ngành Công nghiệp ô tô luôn được Chính phủ ViệtNam triệt để duy trì và áp dụng. Điều này thể hiện rõ nhất trong chính sách thuế Chính phủ đề ra trong suốt thời gian qua. Về cơ bản, chính sách thuế quan được xây dựng với các biện pháp thuế quan và phi thuế nhằm áp đặt mức thuế cao đối với xe nhập khẩu và hạn chế tối đa nhập khẩu miễn thuế. Hàng rào thuế quan và phi thuế này thời gian qua đã được phát huy hết hiệu quả để bảo vệ ngành công nghiệp ô tô trong nước còn non trẻ này tránh khỏi những sóng gió của thị trường ô tô thế giới cạnh tranh đầy khốc liệt và thực sự đã tạo được sự ngăn cách to lớn giữa xe nhập khẩu và xe lắp ráp trong nước. Tại những nước phát triển hơn, ô tô chỉ chịu thuế VAT, không chịu thuế TTĐB. Ô tô đang trở thành phương tiện đi lại hàng ngày, không phải là tài sản lớn. Vì vậy, chúng ta nên nghĩ đến việc giảm, thay vì tăng thuế TTĐB. Thay vào đó, Chính phủ nên áp dụng việc thu phí cầu đường, để đảm bảo việc cứ chạy càng nhiều xe trên đường thì phải trả càng nhiều phí, xây dựng chính sách thuế khác với ôtô như thuế môi trường, tài nguyên... Đối với ngành lắp ráp ô tô trong nước, thời điểm 2017-2018 lại là một thách thức rất lớn. Đến nay, ngành này vẫn còn tồn tại và phát triển được là nhờ vào hàng rào bảo hộ bằng thuế quan. Với giá thành sản xuất như hiện nay, chắc chắn sẽ không doanh nghiệp nào có thể tồn tại, một khi thuế nhập khẩu xe từ những nước ASEAN được cắt xuống còn 0%. Cản trở lớn nhất đối với sự phát triển của công nghiệp ô tô Việt Nam là thiếu ngành công nghiệp hỗ trợ. Sau nhiều năm áp dụng chính sách nội địa hóa bằng biện pháp hành chính, đến nay dù có một số công ty tuyên bố đạt được tỷ lệ nội địa hóa 35-40% đối với một số dòng xe, nhưng nhìn chung ngành công nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô gần như vẫn là con số không. Có thể nói, hình thành được ngành sản xuất linh kiện, phụ tùng mạnh là chìa khóa để ô tô chế tạo tại Việt Nam có giá thành mang tính cạnh tranh quốc tế. Nhưng công nghiệp phụ trợ không thể phát triển với quy mô thị trường ô tô còn quá nhỏ bé như hiện nay. 20 Cho đến nay, chính sách đối với ngành ô tô vẫn còn mơ hồ. Mặc dù các quan chức của Bộ Công Thương vẫn tuyên bố Việt Nam muốn xây dựng và phát triển ngành công nghiệp này nhưng chính sách về thuế lại đi ngược lại. Việc áp đặt thuế suất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt cao cũng đồng nghĩa với việc giới hạn sức phát triển của thị trường. Điều này có thể xuất phá từ hai nguyên nhân: mạng lưới đường bộ kém phát triển nên phải hạn chế lượng xe tham gia giao thông và thuế đánh trên ô tô đang là nguồn thu lớn cho ngân sách. Lẽ đương nhiên, cắt giảm thuế sẽ làm ngân sách thất thu không nhỏ, nhưng đó chỉ là sự suy giảm tạm thời. Một khi ô tô trở thành một ngành công nghiệp lớn, hiệu quả thu lại sẽ nhiều hơn gấp bội so với những thiệt hại trước mắt. Bên cạnh đó, các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới cũng nhiều lần khuyến nghị, Chính phủ khó mà cải thiện điều kiện yếu kém của cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nếu không thu hút được khu vực tư nhân tham gia. Kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy, thị trường ô tô phát triển sẽ là động lực quan trọng để tư nhân đầu tư mở rộng mạng lưới giao thông. Ngoài ra, điều doanh nghiệp ngành ô tô cần ở Chính phủ là sự ổn định về chính sách và có chiến lược phát triển rõ ràng. Những năm qua, chính sách đối với ngành này, nhất là thuế, thường xuyên thay đổi và khó dự đoán. Chính vì vậy, không nhà sản xuất nào có thể yên tâm để xây dựng những kế hoạch đầu tư dài hạn. Hiện nay, tuy thị trường đang khởi sắc, nhưng rủi ro vẫn đang đe dọa. Không tăng thuế TTĐB đối với ôtô NK; nếu tăng thì chỉ là biện pháp tạm thời, nhưng cần đồng nhất mức tăng với xe SXTN để tránh phân biệt đối xử, tạo sự cân bằng trong hạn chế tiêu dùng (bởi ôtô SXTN cũng thông qua NK linh kiện). Bên cạnh đó, cần xây dựng lộ trình thuế song song với chiến lược phát triển công nghiệp ôtô. Đặc biệt, cần hoàn thiện công cụ thuế khác để đánh thuế đúng đối tượng; qua đó tăng tiết kiệm tiêu dùng và hạn chế sử dụng tài nguyên. Chỉ với biện pháp tổng hoà này, thuế mới đảm bảo là chính sách điều hành kinh tế; tránh lúng túng, mâu thuẫn; không để xảy ra tiêu cực đối với thị trường, NTD hay tạo kẽ hở cho sự bảo hộ hay trục lợi. Để phát triển một ngành công nghiệp có quy mô lớn như ngành công nghiệp ô tô đòi hỏi cần có sự nỗ lực của toàn xã hội mà quan trọng nhất là từ phía Chính phủ và các doanh nghiệp trong ngành.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_1_thue_tieu_thu_dac_biet_tac_dong_tai_vn_907.pdf
Luận văn liên quan