Năm 2005 là năm cuối cùng triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng IX
và Nghị quyết số 55/2001/QH10 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội 5
năm; trong đó, xuất khẩu là một chỉ tiêu quan trọng. Như vậy, ta cần tiếp tục việc
không ngừng tập trung vào những mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn, như : dầu
thô, dệt may, giày dép, đồ gỗ, thuỷ sản, linh kiện điện tử và linh kiện máy tính, gạo, cà
phê, cao su, hạt điều.
40 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3347 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tình hình xuất khẩu các mặt hàng chủ lực (doanh số, thị trường), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hập khẩu sẽ dẫn tới các hậu quả: Hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn so
sản phẩm nội địa mà chúng phải chịu chi phí tăng lên do lạm phát; các nhà xuất khẩu
bán hàng ra nước ngoài khi đó với mức giá cao hơn so mức giá quốc tế và điều này
nằm ngoài tầm kiểm soát của họ, họ sẽ bị thiệt. Kết quả chung là nhập khẩu tăng lên
và xuất khẩu giảm đi.
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia trong việc phát triển nhanh xuất khẩu là ý chí và
sự khéo léo của Chính phủ trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái chính thức, thuế quan
và trợ cấp để duy trì tỷ giá thực tế kích thích cho việc xuất khẩu về lâu dài và ngăn
ngừa tỷ giá ở mức nhập khẩu vọt lên cao so xuất khẩu. Việc tỷ giá hối đoái của đồng
đô-la Mỹ ngày càng tăng nhẹ so đồng Việt Nam (tuy ảnh hưởng phần nào tới lạm phát
ở nước ta) cũng ảnh hưởng không nhỏ đến xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường
Mỹ và nay xu hướng đó vẫn tiếp tục, mang tính có lợi cho hàng xuất khẩu của Việt
Nam.
Miễn thuế, giảm thuế và hoàn lại thuế
- Hàng xuất khẩu được miễn thuế: Hàng xuất khẩu trả nợ nước ngoài của Chính
phủ.
- Hàng xuất khẩu, nhập khẩu được xét miễn thuế để khuyến khích xuất khẩu:
Hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho nước ngoài và xuất khẩu theo
các hợp đồng gia công cho nước ngoài; hàng xuất khẩu của các xí nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài và của bên nước ngoài hợp tác kinh doanh.
- Hàng được xét hoàn thuế: Hàng đã kê khai và nộp thuế nhưng thực tế không
xuất khẩu nữa hoặc xuất khẩu ít hơn; hàng là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất
hàng xuất khẩu được hoàn thuế tương ứng với tỷ lệ xuất khẩu thành phẩm và hàng
nhập khẩu để tái xuất, tạm xuất tái nhập để tham dự hội chợ triển lãm.
2.3 Các biện pháp thể chế, tổ chức
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu bằng việc áp dụng các biện pháp
thâm nhập thị trường và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hoá ở nước
ngoài:
Lập các Viện nghiên cứu cung cấp thông tin cho các nhà xuất khẩu
Lập các cơ quan Nhà nước ở nước ngoài để nghiên cứu tại chỗ tình hình thị
trường hàng hoá, thương nhân và Chính phủ nước sở tại.
Đứng ra ký kết các hiệp định thương mại, hiệp định hợp tác kỹ thuật, vay nợ,
viện trợ,…trên cơ sở đó để thúc đẩy xuất khẩu.
2.4 Các biện pháp tạo thị trường
Nghị quyết 12 của Bộ Chính trị ngày 03/ 01/ 1996 về "Tiếp tục đổi mới tổ chức
và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng XHCN" đã nêu 3
quan điểm chỉ đạo:
Một là, phát huy tính tích cực của các thành phần kinh tế trong lưu thông hàng
hoá, xây dựng thương nghiệp quốc doanh và HTX mua bán nhằm giữ vững vai trò chủ
đạo của thương nghiệp quốc doanh trong những lĩnh vực và địa bàn trọng điểm.
Hai là, mở rộng thị trường ngoài nước gắn với việc phát triển ổn định thị
trường trong nước, lấy thị trường trong nước làm cơ sở, đặt hiệu quả kinh doanh
thương nghiệp trong hiệu quả kinh tế - xã hội của toàn bộ nền kinh tế.
Ba là, việc quản lý nhà nước phải thể hiện trong toàn bộ sự vận động lưu thông
hàng hoá. Các cơ quan quản lý nhà nước phải chủ động tác động đến mọi hoạt động
của các doanh nghiệp. Nguyên tắc chung để chỉ đạo là: khuyến khích, phát huy mạnh
mẽ các mặt tích cực, đồng thời có biện pháp hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo đảm tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước
phát triển.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định quan điểm của
Đảng là "Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa
dạng hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện kinh
tế của nước ta … và xác định “đẩy mạnh xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường”.
Để thị trường hàng hoá - dịch vụ Việt Nam phát triển, cần thực hiện tốt một số
giải pháp như sau.
Hạn chế việc bảo hộ thị trường trong nước bằng các biện pháp hành chính
khuyến khích sản xuất và xuất khẩu hàng hoá chất lượng cao, thông qua chế biến, sản
phẩm hàng hoá mang thương hiệu Việt nam. Thực hiện các biện pháp mạnh trong việc
chống gian lận thương mại và các hoạt động kinh doanh phi pháp như lừa đảo, làm
hàng giả, buôn lậu, trốn thuế,...
Khuyến khích các doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu, hỗ trợ các doanh nghiệp về
thuế đất, thuế giá trị gia tăng, xúc tiến thương mại, thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất
khẩu, mở rộng các nghiệp vụ bảo hiểm xuất khẩu.
Luật hoá các thủ tục kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan nhà nước đối với hoạt
động của doanh nghiệp và thị trường. Việc kiểm tra, thanh tra được tiến hành khi có
dấu hiệu sai phạm, tránh tuỳ tiện, gây phiền hà cho doanh nghiệp.
Nâng cao trình độ và phẩm chất của cán bộ thanh, kiểm tra và quản lý thị
trường cả về chuyên môn, chính trị, luật pháp và lương tâm nghề nghiệp. Đồng thời có
chế độ đãi ngộ thoả đáng để họ yên tâm làm việc và tránh tiêu cực. Gắn chế độ đãi ngộ
cao với những biện pháp kỷ luật nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm pháp
luật.
Xúc tiến thương mại, thông tin và tiếp thị: Tạo điều kiện để tăng cường và nâng
cao hiệu quả hoạt động của các tham tán thương mại, tăng cường đại diện tham tán
thương mại tại các khu vực thị trường trọng điểm nhằm góp phần giúp các doanh
nghiệp trong nước xâm nhập thị trường nước ngoài. Khẩn trương hướng dẫn việc tổ
chức các cơ quan xúc tiến thương mại, các trung tâm giới thiệu, quảng cáo hàng hóa ở
địa phương và kể cả ở nước ngoài.
Phần iI: Thực trạng và giải pháp
1.Thực trạng
1.1 Thực trạng chung xuất khẩu hàng hoá
Kết quả xuất khẩu trong những năm qua đã từng bước phát triển cả về quy mô,
tốc độ, thị trường và thành phần tham gia xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá
thời kỳ 2001-2004 đạt78,4 tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân 4 năm đạt 16,7%.
Đạt được quy mô xuất khẩu này là nhờ phần lớn sự tăng trưởng của tất cả các mặt
hàng xuất khẩu chủ lực trong năm 2004 vừa qua so năm 2003 (Kim ngạch xuất khẩu
năm 2004 đạt 26,5 tỷ, tăng 31,4%, là mức tăng cao nhất trong 8 năm trở lại đây).
Xuất khẩu năm 2004 tăng lên mạnh mẽ là kết quả của việc tăng sản lượng xuất
khẩu và tăng giá trị hàng hoá xuất khẩu, trong đó có thể kể đến dầu thô (tăng 48,3%),
than đá (tăng 46,8%), gạo (tăng 30,7%), sản phẩm gỗ (tăng 86%), dây điện và cáp điện
(tăng 46,4%),… Ngoài 4 mặt hàng truyền thống có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD
(thuỷ sản,dầu thô, hàng dệt và may mặc,giày dép các loại), năm 2004 đã xuất hiện
thêm 2 nhóm hàng tham gia vào câu lạc bộ 1tỷ là điện tử-linh kiện máy tính và sản
phẩm gỗ. Lượng xuất khẩu tăng mạnh ở hầu hết các mặt hàng (tăng 19% so năm 2003
tương đương 3,911 triệu USD) cho thấy sức sản xuất ngày càng được mở rộng, năng
lực tiếp cận thị trường của hàng hoá xuất khẩu nước ta ngày càng cao. Mặt khác, giá
xuất khẩu tăng đã góp thêm 1,916 triệu USD vào tổng kim ngạch. Điều này một phần
nhờ giá thị trường thế giới tăng, mặt khác nhờ chất lượng hàng hoá xuất khẩu được
nâng lên.
Một điểm mạnh nữa trong xuất khẩu năm 2004 là thị trường xuất khẩu được mở
rộng. Đến nay, hàng hoá xuất khẩu nước ta đã vươn tới hầu hết các quốc gia và vùng
lãnh thổ. Các thị trường xuất khẩu trọng điểm đều đạt được mức tăng trưởng cao như
EU (tăng gần 34%), Nhật Bản (tăng 20%), Hoa Kỳ (tăng 27%),…Đây là những thị
trường khó tính, đòi hỏi hàng hóa xuất khẩu phải đáp ứng được yêu cầu cao về chất
lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh thực phẩm. Bên cạnh việc tập trung khai thác tối
đa các thị trường trọng điểm, năm qua ta tiếp tục đẩy mạnh việc đa dạng hoá thị trường
xuất khẩu, hàng trăm chủng loại hàng hoá xuất khẩu đã vào được các thị trường mới,
giảm dần xuất khẩu qua các thị trường trung gian (xuất khẩu vào châu á và ASEAN là
các thị trường trung gian lớn chiếm tỷ trọng từ 60,5% và 17% năm 2001 xuống còn
47,7% và 13,9% năm 2004).
Những thành tựu trên sẽ không đạt được nếu thiếu sự chủ động, tích cực của các
doanh nhân, những người tham gia xuất khẩu. Năm 2004 khối doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tiếp tục đóng góp tích cực vào mức tăng trưởng xuất khẩu với 2.157
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu (bằng 1/5 tổng số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu)
nhưng đóng góp 33,2% vào tổng kim ngạch xuất khẩu, có xu hướng tăng dần qua các
năm, dần trở thành động lực quan trọng trong tăng trưởng xuất khẩu của nước ta. Các
thành phần khác tham gia xuất khẩu như khối doanh nghiệp Nhà nước, các công ty
TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã, ... cũng đã đạt được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
cao so năm 2003 và so kế hoạch đặt ra.
1.2. Các nhóm hàng chủ lực
a. Nhóm nguyên nhiên liệu
Hiện nay nhóm này với hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá, đang chiếm hơn
20% kim ngạch xuất khẩu nước ta. Sau khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt
động, lượng dầu thô xuất khẩu đã và đang giảm dần. Dự kiến năm 2005, lượng dầu thô
xuất khẩu chỉ còn khoảng gần 12 triệu tấn; tuy nhiên thực tế qua năm 2003 và 2004,
con số này đang tăng lên. Tới năm 2010, có hai phương án tuỳ vào lượng khai thác
- Nếu khai thác 14-16 triệu tấn thì sẽ sử dụng trong nước khoảng 12 triệu tấn,
xuất khẩu 2-4 triệu tấn.
- Nếu khai thác 20 triệu tấn thì có khả năng xuất khẩu khoảng 8 triệu tấn.
Dù theo phương án nào, ta cũng đang phấn đấu giảm kim ngạch dầu thô đáng kể
cho đến năm 2010. Thị trường xuất khẩu chính vẫn là Ô-xtrây-lia, Sing-ga-po, Nhật
Bản, Trung Quốc và có thể thêm Hoa Kỳ.
Về than đá, dự kiến nhu cầu nội địa sẽ tăng đáng kể nên xuất khẩu cũng sẽ chỉ
dao động ở mức 6-7 triệu tấn/năm trong 10 năm tới. Nhìn chung, giá xuất khẩu than
khó có khả năng tăng đột biến do nguồn cung trên thị trường thế giới tương đối dồi
dào và nhu cầu đang có xu hướng giảm. Nhiệm vụ trong các năm tới là cố gắng duy trì
những thị trường đã có như Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Âu,...và tăng cường thâm
nhập vào thị trường Thái Lan, Hàn Quốc,...
b. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản
Hiện nay, những mặt hàng chủ lực trong nhóm hàng này là gạo, cà phê, cao su,
chè, rau quả, thuỷ sản, hạt tiêu và nhân điều. Do sản xuất nông nghiệp phải chịu những
hạn chế mang tính cơ cấu (như diện tích có hạn, khả năng khai thác và đánh bắt có
hạn...) và thời tiết nên theo dự thảo Chiến lược chung, tốc độ tăng trưởng của nhóm
này có thể chỉ ở mức 4%/năm trong toàn kỳ 2001-2010. Bên cạnh đó, nhu cầu của thị
trường thế giới cũng có hạn, giá lại không ổn định. Vì vậy, dù kim ngạch tuyệt đối vẫn
tăng nhưng tỷ trọng của nhóm dự kiến sẽ giảm còn 17,2% vào năm 2010.
Hướng phát triển chủ đạo của nhóm hàng này trong 10 năm tới là chuyển dịch cơ
cấu toàn lĩnh vực, trong mỗi ngành, thậm chí trong từng loại sản phẩm, nâng cao năng
suất, chất lượng và giá trị gia tăng.
Hạt nhân tăng trưởng của nhóm sẽ vẫn là thuỷ sản bởi tiềm năng khai thác và
nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thị trường thế giới tăng khá ổn định, thuế suất không
cao. Năm 1985, xuất khẩu thuỷ sản thế giới mới là 17,2 tỷ USD, đến năm 1995 đã đạt
52 tỷ USD, tức là tăng bình quân mỗi năm trên 13%. Dự kiến đến năm 2010, thuỷ sản
nước ta sẽ chiếm 40% tổng kim ngạch của nhóm nông lâm hải sản. Thị trường chính
sẽ là Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc,...
Về gạo, do nhu cầu thế giới tương đối ổn định, khoảng trên 20 triệu tấn/năm,
nhiều nước nhập khẩu nay chú trọng an ninh lương thực, thâm canh tăng năng suất cây
trồng, gia tăng bảo hộ, giảm nhập khẩu.Trong hoàn cảnh đó, dự kiến trong suốt thời kỳ
2001-2010, ta sẽ chỉ xuất khẩu được khoảng 4-4,5 triệu tấn/năm, thu về mỗi năm
khoảng trên 1 tỷ USD, hiện ta đang tập trung khai thác các thị trường mới như Trung
Đông, Châu Phi, Nam Mỹ và ổn định các thị trường đã có như In-đô-nê-xi-a, Phi-lip-
pin,...thông qua các hợp đồng, nghiên cứu khả năng phối hợp với Thái Lan để điều tiết
nguồn cung, ổn định giá cả thị trường, tăng hiệu quả xuất khẩu gạo. Các đối thủ cạnh
tranh đang lên là Mỹ và ấn Độ, và thực tế xuất khẩu gạo của Thái Lan trong những
tháng đầu năm 2005 đã giảm đi.
c. Sản phẩm chế biến và chế tạo
Hiện nay, nhóm này đã có tới 4 mặt hàng đạt trên 4 tỷ USD/năm và đóng góp
chung vào hơn 30% kim ngạch xuất khẩu của nhóm này trong các nhóm hàng xuất
khẩu. Mục tiêu phấn đấu vào năm 2010 là đạt 20-21 tỷ USD, tăng hơn 5 lần so năm
đặt ra kế hoạch, năm 2000 và chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu.
Những mặt hàng chủ lực trong nhóm cho tới năm 2010 vẫn là 2 mặt hàng dệt
may và giày dép, là những lĩnh vực có thể thu hút nhiều lao động. Kim ngạch mỗi mặt
hàng phải đạt khoảng 7-7,5 tỷ USD. Như vậy, dệt may sẽ phải tăng bình quân 14%/
năm, giày dép tăng bình quân 15-16%/ năm. Ta đã ký được hiệp định Thương mại
Việt Nam-Hoa Kỳ thì mục tiêu tăng trưởng này là khả thi. Tuy nhiên, ta vẫn đang tiếp
tục mở thêm thị trường Trung Đông và Đông Âu. Ta cần lưu ý với khả năng cạnh
tranh rất lớn của Trung Quốc sau khi nước này trở thành thành viên của WTO, được
hưởng những ưu đãi, các mặt hàng dệt may, giày dép của quốc gia này vốn đã mạnh sẽ
gây những khó khăn không nhỏ cho hàng hoá của nước ta.
Để khắc phục khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu, hướng phát triển cơ bản của hai
ngành dệt may và giày dép trong 10 năm tới là gia tăng nỗ lực thâm nhập các thị
trường mới, đặc biệt là thị trường Mỹ, Trung Đông và Châu Đại Dương; ổn định và
tăng thị phần trên các thị trường quen thuộc Mỹ,EU, Nhật Bản.
Sản phẩm gỗ, với thế mạnh về nhân công và tay nghề, đây là ngành có tiềm năng
phát triển mạnh ở nước ta. Ngành có một thuận lợi là nhu cầu thế giới tăng khá ổn định
(bình quân mỗi năm tăng khoảng 7-8%). Hiện ngành đã đạt kim ngạch xuất khẩu hơn
1 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu gỗ được phục hồi nhờ nhiều vào chuyển hướng một
phần sang sử dụng nguyên liệu nhập, ta có đầu tư thoả đáng hơn vào khâu trồng rừng
và đơn giản hoá trong thủ tục xuất khẩu gỗ, nhất là sản phẩm gỗ rừng tự nhiên.
d. Sản phẩm hàm lượng công nghệ và chất xám cao
Đây là ngành hàng mới xuất hiện nhưng đã mang lại kim ngạch xuất khẩu khá
lớn, khoảng 700 triệu USD năm 2000 và tới nay đã đạt hơn 1tỷ USD. Hạt nhân chính
là hàng điện tử và tin học với kim ngạch xuất khẩu trong năm 2004 là 1.075 tỷ USD.
Ta hoàn toàn có khả năng phát triển hơn nữa những mặt hàng này, trước mắt là gia
công rồi tiến tới nội hoá dần. Vấn đề cốt lõi là có cơ chế chính sách khuyến khích, phát
triển nguồn lực. Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đặt ra cho ngành đến năm 2010 là 6-7
tỷ USD, trong đó linh kiện điện tử và linh kiện máy tính vẫn là những mặt hàng chủ
lực.
1.3 Những hạn chế chính trong hoạt động xuất khẩu
Trước hết, cơ cấu kim ngạch xuất khẩu còn phụ thuộc lớn vào một số ít mặt hàng
xuất khẩu. Tính riêng 6 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên là dầu
thô, dệt may, giày dép, thuỷ sản, điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ đã chiếm
66% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu phụ thuộc vào một
số ít nhóm hàng hoá như trên trong điều kiện xuất khẩu nước ta chưa tạo được ảnh
hưởng đến thị trường thế giới các mặt hàng này sẽ dẫn đến tổn thương cho xuất khẩu
cả nước khi thị trường thế giới có những biến động, dễ dẫn đến nguy cơ bị áp dụng các
biện pháp chống bán phá giá; quan trọng hơn là chưa khai thác hết tiềm năng xuất
khẩu của các vùng sản xuất trong nước, đặc biệt là sản phẩm của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, sản phẩm của các làng nghề truyền thống.
Thứ hai, trong khi một số mặt hàng xuất khẩu có mức tăng trưởng nhanh, tới 86%
(gỗ) thì một số mặt hàng khác được đánh giá là có nhiều tiềm năng, tạo ra nhiều việc
làm và đem lại hiệu quả xã hội cao, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế xã hội kinh tế
lại có tốc độ tăng trưởng thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng xuất khẩu chung của
cả nước như rau quả (tăng 10% so 2003), thủ công mỹ nghệ (tăng 16% so 2003), nhất
là trong những năm qua Chính phủ và các Ban, Ngành đã dành nhiều sự quan tâm, đầu
tư đáng kể, được bà con nông dân trông đợi nhiều nhưng đến nay xuất khẩu hai mặt
hàng này hầu như chưa có sự chuyển biến mạnh.
Thứ ba, chưa thiết lập được hệ thống các ngành công nghiệp bổ trợ phục vụ sản
xuất hàng xuất khẩu. Kết quả là xuất khẩu tiếp tục phụ thuộc lớn vào nguyên vật liệu
nhập khẩu, giá trị nhập khẩu nguyên, phụ liệu cho 2 nhóm sản phẩm dệt may, gia dày
vẫn chiếm 67% tổng kim ngạch nhập khẩu (Nhập 4,7 tỷ/ xuất 7 tỷ USD); các mặt hàng
khác cũng tương tự, nhập khẩu gỗ và nguyên liệu chiếm trên 50%. Sự lệ thuộc lớn vào
nguyên liệu nhập khẩu sẽ là nguyên nhân khiến xuất khẩu nước ta phải chịu ảnh hưởng
tiêu cực từ những biến động của nguồn cung, từ giá vật tư, hàng hoá trên thị trường thế
giới.
Thứ tư, chất lượng hàng hoá xuất khẩu còn thấp dẫn đến giá tính cho đơn vị sản
phẩm không cao; giá xuất khẩu gạo của ta luôn thấp hơn giá xuất khẩu gạo của Thái
Lan; cà phê, hạt tiêu cũng trong tình trạng tương tự (các nước mua về sàng lọc, phân
loại có thể bán cao hơn đến 50 USD/ tấn).
Thứ năm, tỉ lệ sản phẩm chế tạo và chế biến thấp, kim ngạch xuất khẩu các loại
nông sản và khoáng sản của nứơc ta lại có tỷ trọng khá cao, chiếm tới 34% tổng kim
ngạch xuất khẩu, chiếm tới 8/19 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Xuất khẩu
nông sản ở ta còn chủ yếu dưới dạng thô, chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu, trong đó
có cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn diễn ra với tốc độ chậm, diện tích
đất nông nghiệp của nước ta lại có xu hướng giảm dần do quá trình đô thị hoá và công
nghiệp hoá. Ngoại trừ dầu thô có thể tiếp tục tăng giá, còn các loại nông sản không thể
tiếp tục tăng giá trong một thời gian dài do tính chu kỳ trên thị trường thế giới và sự co
dãn của cung là tương đối nhanh (điều chỉnh diện tích canh tác và ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật trong thâm canh để tăng năng suất) đối với các loại nông sản trong
khi cầu lại tương đối ổn định.
Thứ sáu, trong khi chúng ta đang nhập siêu lớn Trung Quốc, ASEAN, ấn Độ,
Hàn Quốc thì cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào các nước ASEAN và
Trung Quốc có chủng loại đơn điệu, chủ yếu là dầu thô 3,16 tỷ USD (chiếm 48%) và
gạo 337 triệu USD (chiếm 5%) trong gần 6 tỷ vào 2 thị trường này. Điều đáng nói ở
đây là các thị trường có mức nhập siêu lớn này đều là đối tác lớn của Việt Nam trong
các khu vực mậu dịch tự do theo các Hiệp định khu vực đã hoặc sẽ được ký kết. Nếu
không cải thiện cán cân thương mại sẽ là hết sức bất lợi cho nền kinh tế nước ta.
Thứ bảy, công tác thông tin, dự báo thị trường nhất là dự báo trung hạn và dài
hạn bước đầu đã được quan tâm song hiệu quả chưa cao nên có những thời điểm xuất
khẩu nhiều mặt hàng vẫn bị thua thiệt về giá so với các đối thủ cạnh tranh. Ví dụ hàng
xuất khẩu gạo ở những tháng đầu năm 2004, do chưa nắm bắt được thông tin về xu
hướng tăng giá trên thị trường thế giới nên hầu hết các đơn hàng xuất khẩu được ký
vào thời điểm với giá thấp.
1.4 Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế
a. Nguyên nhân của những thành tựu
Trước hết phải kể đến đó là doanh nghiệp. Doanh nghiệp đóng vai trò quan trò
quan trọng nhất vào thành tích xuất khẩu của nước ta trong những năm qua. Các doanh
nghiệp đã chủ động tiếp cận thị trường, nắm bắt thị hiếu và nhu cầu thị trường, chủ
động tham gia và thực hiện các chiến dịch xúc tiến xuất khẩu, đẩy mạnh đầu tư, đổi
mới công nghệ,... tạo ra một lượng hàng hoá xuất khẩu tăng gần 20% so năm 2003.
Tiếp đó là hàng loạt chính sách hỗ trợ xuất khẩu như tài chính (bỏ VAT đối với
hàng hoá và gia công xuất khẩu), tín dụng ưu đãi hỗ trợ xuất khẩu (quỹ tín dụng hỗ trợ
xuất khẩu), các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, chương trình
thương hiệu, chính sách thưởng vượt kim ngạch và thưởng thành tích xuất khẩu,...
Trên phương diện ngoại giao, Chính phủ đã tạo lập được mối quan hệ tốt đẹp với bên
ngoài giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu.
Thêm nữa, công tác điều hành xuất khẩu của Bộ Thương mại và các Bộ, Ngành
liên quan ngày càng kịp thời, thực chất và hiệu quả hơn. Năm 2004, Bộ Thương mại
đã rà xét, phân loại và tập trung chỉ đạo quyết liệt đối với một số mặt hàng có nhiều
tiềm năng để tạo ra những bước đột phá trong xuất khẩu như tổ chức nhiều hội nghị
chuyên đề cho từng ngành hàng cụ thể như sản phẩm gỗ, cà phê, gạo,... mang lại kết
quả thiết thực, đồng thời tiếp tục chỉ đạo, điều hành hiệu quả xuất khẩu những mặt
hàng có kim ngạch lớn, giải quyết nhiều lao động và các vấn đề xã hội như dệt may,
giày dép. Sự phối hợp giữa Bộ Thương mại và các Hiệp hội ngành hàng, các Hiệp hội
với doanh nghiệp ngày càng chặt chẽ và hiệu quả. Các hiệp hội đã sát cánh với cơ
quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp tìm thị trường xuất khẩu, trong công tác xúc
tiến thương mại, tổ chức xuất khẩu và đối phó với các rào cản thương mại, phi thương
mại, đã giúp doanh nghiệp đạt được kết quả cao trong xuất khẩu.
b. Nguyên nhân của những hạn chế
Xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, sản xuất hàng xuất khẩu và xuất khẩu của
nước ta có quy mô nhỏ. Đặc điểm này là nguyên nhân cơ bản làm cho năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, hàng hoá xuất khẩu còn thấp, ý thức liên kết tự nguyện giữa
các doanh nghiệp chưa cao.Nhiều mặt hàng xuất khẩu tuy có lợi thế so sánh như rau,
quả, thực phẩm,... nhưng do doanh nghiệp chưa thực sự cố gắng đảm bảo tuân thủ yêu
cầu của nhà nhập khẩu nên chưa vượt qua được các rào cản về vệ sinh an toàn thực
phẩm, môi trường,...; nhiều mặt hàng xuất khẩu có ý nghĩa kinh tế xã hội cao như thủ
công mỹ nghệ, đồ chơi,...nhưng do doanh nghiệp chưa có ý thức chú trọng đến khâu
thiết kế mẫu mã, tính đặc thù, riêng có của địa phương nên chưa thực sự phát huy được
lợi thế và kim ngạch xuất khẩu còn thấp.
Các dịch vụ công và những yếu tố thuận lợi hoá cho thương mại còn nhiều hạn
chế đã làm tăng chi phí xuất khẩu, làm giảm năng lực cạnh tranh: thủ tục hải quan mặc
dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn gây khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu; chi phí
vận chuyển cao hơn nhiều so hầu hết các nước trong khu vực; những khó khăn trong
việc tiếp cận đất đai, tín dụng, chính sách thuế, thủ tục hành chính rườm rà,... là
nguyên nhân chính làm nhiều nhà đầu tư ngoài nước và trong nước “nản lòng”, ảnh
hưởng đến sức cạnh tranh của nền kinh tế và hoạt động xuất khẩu.
Kết cấu hạ tầng phục vụ thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng còn thiếu:
hệ thống kho tàng, bến bãi phục vụ việc mua gom, tàng trữ hàng xuất khẩu chưa đủ và
đáp ứng được yêu cầu; việc triển khai nghiên cứu sàn giao dịch hàng hoá đối với nông
sản, chợ nguyên, phụ liệu dệt may,... hầu như chưa có tiến triển mặc dù đã được đặt ra.
Công tác xúc tiến thương mại dù đã được chú trọng, tuy đã có chương trình trọng
điểm quốc gia và chương trình thương hiệu nhưng trình độ và tính chuyên nghiệp và
hạn chế, việc triển khai các chương trình còn chậm, thủ tục phức tạp, chưa đến được
với doanh nghiệp và các đối tượng thực sự cần hỗ trợ, hoạt động xúc tiến thương mại
vẫn còn đơn điệu, thiếu chiều sâu.
Công tác dự báo trung hạn và dài hạn còn chưa tốt nên khi thị trường thế giới có
biến động lớn, các doanh nghiệp xuất khẩu phải chịu thiệt thòi,... Việc quản lý tăng
trưởng xuất khẩu chưa được các Bộ, Ngành đặt ra và thực hiện tốt dẫn đến một số mặt
hàng xuất khẩu tăng trưởng cao đối với một số thị trường đã dẫn đến bị áp dụng các
biện pháp chống bán phá giá.
2. Giải pháp
2.1. Giải pháp cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có quy mô xuất khẩu lớn
(Có đến 19 mặt hàng được coi là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, trong phạm
vi đề tài này chỉ xin được đề cập đến các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất
trong những năm qua)
a. Dệt may
Xuất khẩu dệt may năm 2005 phấn đấu tăng 16% so với năm 2004, đạt kim
ngạch khoảng 5,1 tỷ USD.Thách thức của ngành dệt may nước ta là tiếp tục bị áp hạn
ngạch vào thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ trong năm
2005 trong khi các đối thủ cạnh tranh lớn khác không bị áp hạn ngạch.
Để đạt được mục tiêu đặt ra trong năm 2005 và trong những năm tiếp theo, đòi
hỏi xuất khẩu hàng dệt may cần triển khai các định hướng cần thiết sau: Khai thác triệt
để cơ hội từ thị trường EU nhằm tạo ra sự tăng trưởng cao bù đắp hạn chế trên các thị
trường khác; khai thác các phân đoạn thị trường phù hợp với lợi thế cạnh tranh và lợi
thế so sánh của ngành dệt may Việt Nam, từ đó lựa chọn những đơn hàng có giá trị
xuất khẩu cao để tăng kim ngạch xuất khẩu cao, mặt khác tận dụng tối đa hạn ngạch
được phân bổ; tiếp tục mở rộng sản xuất nâng cao lượng hàng xuất khẩu vào các thị
trường phi hạn ngạch hoặc những cat. không bị hạn ngạch. Muốn như vậy, ta cần thực
hiện:
Thứ nhất, sớm tổ chức và đưa vào vận hành hiệu quả “cụm liên kết chuỗi” để
nâng cao năng lực sản xuất đáp ứng được các đơn hàng lớn trong bối cảnh các doanh
nghiệp sản xuất hàng dệt may nước ta còn nhỏ, lẻ.
Thứ hai, tạo thuận lợi tối đa trong việc tìm kiếm nguyên, phụ liệu, phục vụ sản
xuất bằng việc sớm tổ chức và đưa vào hoạt động các chợ nguyên, phụ liệu, đồng thời
nghiên cứu cho phép và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài nhập khẩu nguyên
phụ liệu để cung cấp cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may trong nước.
Thứ ba, trong thời gian càng sớm, phải tổ chức hội nghị liên ngành với sự tham
gia của các doanh nghiệp dệt may để tiến hành đánh giá tổng thể tác động của việc loại
bỏ hạn ngạch dệt may trong WTO đối với ngành dệt may nước ta, từ đó tìm ra những
cơ hội, thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam trong bối cảnh mới, chủ động đề ra
những đối sách phù hợp nhằm vượt qua thách thức trong tình hình mới.
Bên cạnh đó, hệ thống Tham tán thương mại, sứ quán ở nước ngoài cần tích cực
tìm kiếm thông tin thị trường và khai thác tối đa các cơ hội thị trường nhằm cung cấp
cho các nhà xuất khẩu dệt may trong nước. Các hoạt động xúc tiến thương mại tiếp tục
hỗ trợ ngành dệt may trong tổng thể chung của chiến dịch xúc tiến thương mại quốc
gia nhằm đưa hình ảnh và đặc thù của đất nước đến với thị trường ngoài nước nhiều
hơn.
b. Giày dép
Mục tiêu xuất khẩu giày dép năm 2005 là 3,5 tỷ USD, tăng khoảng 30% so với
năm 2004. Trong đó, thị trường EU phấn đấu tăng khoảng 15-20%, thị trường Hoa Kỳ
tăng khoảng 40%, Nhật Bản tăng khoảng 15%.
Hạn chế lớn nhất trong xuất khẩu giày dép của nước ta là hoá xuất khẩu chất
lượng chưa cao, giá trị xuất khẩu nhỏ so tiềm năng dù không gặp khó khăn về thị
trường. Tương tự như mặt hàng dệt may, ngành giày dép của chúng ta thiếu ngành
công nghiệp bổ trợ và hàm lượng giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu thấp. Các
giải pháp cho xuất khẩu giày dép:
Thứ nhất, nâng cao sức cạnh tranh và tỷ lệ nội địa hoá cho sản phẩm xuất khẩu,
đẩy mạnh tìm kiếm các thị trường mới (thị trường Hoa Kỳ và các nước Châu Mỹ la
tinh), tiếp tục tranh thủ tập trung cao độ vào thị trường EU để tranh thủ ưu đãi GSP mà
thị trường này tiếp tục dành cho Việt Nam.
Thứ hai, lựa chọn các đơn hàng có giá trị cao nhằm mang lại kim ngạch cao cho
xuất khẩu và tránh lãng phí năng lực sản xuất
Thứ ba, tạo thuận lợi tối đa trong việc tìm kiếm nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất
bằng việc sớm tổ chức xây dựng và đưa vào hoạt động các chợ nguyên, phụ liệu, đồng
thời từng bước đầu tư các dự án phát triển ngành công nghiệp sản xuất nguyên phụ
liệu để cung cấp cho các doanh nghiệp sản xuất giày dép trong nước.
c. Sản phẩm gỗ
Mục tiêu xuất khẩu năm 2005 là 1,6 tỷ USD, tăng khoảng 40% so với năm 2004
(tăng thêm khoảng 460 triệu USD so năm 2004). Đây là mặt hàng còn nhiều tiềm năng
xuất khẩu trên khía cạnh năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh và nhu cầu thị trường
tiêu thụ. Vấn đề trước mắt và cũng là lâu dài mà ngành gỗ xuất khẩu phải đối mặt là
nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất, trong bối cảnh các nước ngày càng hạn chế xuất
khẩu gỗ tự nhiên và gỗ dưới dạng nguyên liệu, đồng thời quy định về bảo vệ môi
trường của các nước nhập khẩu ngày càng nghiêm ngặt hơn. Để đạt mục tiêu xuất
khẩu trong năm 2005 và về mục tiêu lâu dài, cần triển khai một số phương hướng sau:
Thứ nhất, tổ chức tốt việc cung cấp nguyên liệu phục vụ sản xuất đồ gỗ thông qua
việc tổ chức mạng lưới nhập khẩu gỗ tiết kiệm, hiệu quả. Hình thành các trung tâm
nhập khẩu gỗ với khối lượng lớn để cung cấp nguyên liệu cho các nhà sản xuất hàng
xuất khẩu, một mặt giảm sức ép về giá từ các nhà xuất khẩu, mặt khác tiết kiệm chi phí
nhập khẩu.
Thứ hai, nghiên cứu chủ động gắn việc nhập khẩu gỗ với các đơn hàng xuất khẩu
để tránh bị áp thuế chống phá giá ở các thị trường có tốc độ tăng trưởng “nóng”.
Thứ ba, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, triển khai các dự án trồng
rừng để tạo nguồn nguyên liệu về lâu dài.
d. Thuỷ sản
Năm 2005, xuất khẩu thuỷ sản có thể tăng 4% so năm 2004 (thông tin từ Bộ
Thuỷ sản). Phấn đấu tăng kim ngạch 14,5% so với năm 2004. Thách thức đối với xuất
khẩu thủy sản là khó khăn về thị trường trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng cao, hàm
lượng giá trị gia tăng chưa cao, trong khi sản lượng bắt đầu bị giới hạn về cơ cấu, năng
lực sản xuất và diện tích canh tác cũng như các vấn đề về môi trường. Phương hướng
của ngành là tiếp tục nghiên cứu tận dụng những lợi thế so sánh về khí hậu, thổ
nhưỡng, nhân công...đồng thời chú trọng phát triển giống, công nghệ thâm canh tiên
tiến, “sạch” đem lại sản phẩm có năng suất cao, công nghệ chế biến hiện đại. Các giải
pháp cho xuất khẩu thuỷ sản:
Thứ nhất, tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu, tập trung và các thị trường
trọng điểm như Hoa Kỳ, Nhật, EU, Trung Quốc, đồng thời khai thác các thị trường
tiềm năng như Nam Phi, SNG, Trung Đông,...
Thứ hai, đổi mới các biện pháp xúc tiến thương mại nhằm mang đến cho người
tiêu dùng trên thế giới thói quen tiêu dùng và sự hiểu biết về thuỷ sản Việt Nam (nhờ
những nỗ lực trong xúc tiến thương mại trong thời gian qua, thuỷ sản Việt Nam đã
được biết đến ở nhiều thị trường này vì chất lượng tốt và giá cả dễ chấp nhận được
nhưng người tiêu dùng trên thế giới chưa có thói quen mong chờ hoặc tìm mua thuỷ
sản Việt Nam).
Thứ ba, lựa chọn những sản phẩm phù hợp và công nghệ thâm canh, chế biến
“sạch-sinh thái” để xuất khẩu, đồng thời quảng bá rộng rãi với phần còn lại của thế
giới về sản phẩm thuỷ sản sạch của Việt Nam.
Thứ tư, kiểm tra thường xuyên quy trình thâm canh, chế biến sản phẩm xuất
khẩu, đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước nhập
khẩu.
e. Hàng điện tử và linh kiện máy tính
Mục tiêu xuất khẩu năm 2005 của mặt hàng này là 1,5 tỷ USD, tăng 39,5% so với
năm 2004. Đây là mặt hàng còn nhiều tiềm năng xuất khẩu trên khía cạnh năng lực sản
xuất, năng lực cạnh tranh và nhu cầu thị trường tiêu thụ do trong năm 2005, nhiều dự
án đi vào khai thác (Hanel, Cannon,...) và nhu cầu, giá thế giới tiếp tục vững. Các giải
pháp cho xuất khẩu:
Thứ nhất, đẩy mạnh xuất tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu đối với
các thị trường mà Việt Nam có lợi thế so sánh như Mỹ la tinh, châu Phi, Trung
Đông,... Đẩy mạnh đầu tư, mở rộng năng lực sản xuất và tìm kiếm thị trường mới,
tránh lệ thuộc vào một số thị trường nào quá.
Thứ hai, khuyến khích các doanh nghiệp FDI nâng kim ngạch xuất khẩu của
mình hoặc giới thiệu các đơn hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp trong nước bằng
cơ chế ưu đãi phù hợp.
Thứ tư, trong thời gian sớm (có thể ngay trong quý II) cần tổ chức một hội nghị
chuyên đề với các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp 100% vốn trong nước bàn
các biện pháp phối hợp giữa hai “khu vực” nhằm tạo ra bước đột phá trong xuất khẩu
mặt hàng này trong năm 2005 và những năm kế tiếp.
g. Dầu thô
Năm 2004, khối lượng và giá trị xuất khẩu của dầu thô đã đạt mức kỷ lục từ
trước đến nay dù ta đang có xu hướng xuất khẩu nhiều hơn các sản phẩm dầu qua chế
biến. Năm 2005, nhiệm vụ là duy trì giá trị xuất khẩu của dầu thô, chỉ tăng nhẹ từ
5.671 triệu USD năm 2004 lên 5.680 năm 2005 do sản lượng bị khống chế. Tuy vậy, ta
cần phát huy thêm hiệu quả của các nhà máy lọc dầu, chế biến dầu, hạn chế tình trạng
xuất khẩu dầu thô ồ ạt để rồi lại nhập về xăng, dầu hoả, dầu diezel,... với giá cao, nhất
là trong điều kiện giá xăng dầu thị trường thế giới đầy biến động như hiện nay.
Ngoài ra, mặt hàng gạo trong năm 2005 được đánh giá là mặt hàng xuất khẩu
thứ 7 có khả năng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Cà phê và cao su cũng là những mặt
hàng dự kiến có kim ngạch xuất khẩu tương đối cao trong năm 2005 với trị giá hơn
600 triệu USD (tuy chỉ tăng nhẹ so năm 2004).
2.2.Các biện pháp khuyến khích hoạt động xuất khẩu từ phía Nhà nước
a. Huy động các nguồn lực trong xã hội để đầu tư và sớm đưa vào khai thác
các dự án tạo nguồn hàng xuất khẩu
Huy động hiệu quả nguồn lực trong nhân dân, đặc biệt là khu vực kinh tế tư
nhân. Năm 2004, riêng khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 27% vốn đầu tư xã hội, lớn
hơn cả vốn FDI. Tốc độ tăng trưởng khu vực này cao nhất, nhất là về thu hút lao động.
Bên cạnh đó, duy trì thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và đẩy nhanh tiến độ giải ngân
ODA. Thực tế những năm qua cho thấy để tạo ra nguồn hàng hoá dồi dào cho xuất
khẩu phải tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng, đồng thời phát triển các dự án mới
nhằm tạo lượng hàng hoá đủ lớn phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
b. Hoàn thiện chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu
Chính sách này được áp dụng từ năm 2002 đến nay đã và đang phát huy tác
dụng tích cực đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Bộ Thương mại đã kiến nghị Thủ
tướng Chính phủ các định hướng như sau:
Về diện mặt hàng, để tập trung nguồn lực cho những mặt hàng gặp khó khăn về
vốn hoặc thị trường hoặc sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước, thu hẹp diện mặt hàng
được hưởng tín dụng hỗ trợ xuất khẩu trong năm 2005, không áp dụng cho những
ngành hàng không gặp khó khăn về vốn chủ yếu do các doanh nghiệp FDI đầu tư.
Cho phép sửa đổi, bổ sung Quyết định 133/2001/QĐ-TTg ngày 10/09/2001 về
Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu theo hướng nới lỏng các quy định về bảo đảm tiền
vay, có định hướng ưu tiên các doanh nghiệp có uy tín và tình hình tài chính lành
mạnh, được Hiệp hội ngành hàng giới thiệu.
c. Các chính sách thưởng kim ngạch xuất khẩu và thưởng thành tích xuất
khẩu
Các định hướng thưởng như sau
Giảm mức thưởng đối với các mặt hàng nông sản xuất thô thuần tuý so với mức
thưởng các sản phẩm chất lượng cao hay đã qua chế biến nhằm khuyến khích việc
nâng cao giá trị xuất khẩu theo chiều sâu. Một số nhóm hàng có phạm vi rộng như
hàng cơ khí, rau quả, Bộ Thương mại sẽ hướng dẫn cụ thể các mặt hàng được xét
thưởng. Dành cơ cấu hợp lý hơn về mặt ngân sách giữa hai hình thức thưởng này. Có
thể tăng thêm ngân sách cho biện pháp thưởng thành tích xuất khẩu lên khoảng 40-50
tỷ/ năm và giảm ngân sách thưởng kim ngạch xuất khẩu nhằm đạt tác dụng khuyến
khích cao hơn mà tổng ngân sách cho các biện pháp thưởng cơ bản không thay đổi.
d. Xúc tiến thương mại
Đảm bảo thực hiện tốt khâu chuẩn bị đối với các chương trình xúc tiến thương
mại, đặc biệt là việc tham gia các hội chợ, triển lãm ở nước ngoài. Khi tham gia như
vậy, các đơn vị tổ chức cần liên hệ trước với các đối tác nước ngoài về nhu cầu, các
nội dun, đặc điểm và yêu cầu của đối tác để thông tin đầy đủ cho các thành phần tham
gia chuẩn bị đáp ứng tốt các yêu cầu tránh lãng phí thời gian và nguồn lực.
Tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm các cơ quan ngoại giao và đại diện của
Việt Nam ở nước ngoài trong việc cung cấp thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận
thị trường. Đặc biệt là các thương vụ của Việt Nam ở nứơc ngoài trong việc tìm kiếm
thị trường, giới thiệu bạn hàng cho doanh nghiệp, trong việc phối hợp với các đơn vị tổ
chức XTTM trong các khâu chuẩn bị và giới thiệu khách hàng.
e. Việc phát triển thương mại điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin trong
các giao dịch thương mại còn tương đối mới mẻ và tỷ lệ các doanh nghiệp Việt Nam
sử dụng công nghệ thông tin trong giao dịch thương mại còn rất thấp, làm hạn chế khả
năng thu thập thông tin thị trường, giá nhiều sản phẩm, hàng hoá và cả dịch vụ, khả
năng quảng bá thương hiệu, mạng lưới bán hàng.
g. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hải quan và thuận lợi hoá thương mại
Chỉ đạo hải quan các cửa khẩu cần tăng tỷ lệ miễn kiểm (lên khoảng 80% hàng
hoá xuất khẩu), giảm tỷ lệ kiểm tra xác suất hàng hoá và kiểm tra toàn bộ hàng hoá.
Tăng cường đầu tư máy móc, thiết bị chuyên dùng trong ngành hải quan và tăng
cường sử dụng máy soi để rút ngắn thời gian kiểm tra, giảm kiểm tra trực tiếp.
3. Những thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam trong năm 2005
a.Thị trường châu Á và ASEAN
Thị trường châu Á và ASEAN có một số đặc điểm đáng lưu ý. Chõu Á và
ASEAN là thị trường gần, Việt Nam không phải tốn nhiều chi phí vận chuyển. Đây là
thị trường có nhu cầu, thị hiếu về chất lượng, chủng loại, giá cả khá tương đồng với
hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam
Các nước ASEAN cũng là thị trường thuộc loại sớm nhất khi Việt Nam tiến hành
mở cửa hội nhập sau chuyển đổi cơ chế, đồng thời đang thực hiện cam kết cắt giảm
thuế suất thuế nhập khẩu và chẳng cũn mấy thời gian mức thuế này sẽ chỉ cũn 0-5%,
lại khụng bị hạn chế bằng những hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch, kiện bán phá
giá... như các thị trường khác.
Tuy nhiên, diễn biến xuất khẩu vào thị trường này cũng có một số điểm đáng lưu
ý.
Một, châu Á và ASEAN vẫn là thị trường lớn nhất trong các châu lục nhập khẩu
hàng của Việt Nam. Năm 2004, xuất khẩu vào thị trường này chiếm 54,8% tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam, cao hơn nhiều so với các châu lục khác.
Như vậy, năm 2003 đó tăng 9,7%; năm 2004 tăng 29,1%, cao hơn tốc độ chung;
kế hoạch năm 2005 dự kiến tăng 17,9%, cao hơn tốc độ chung theo mục tiêu do Quốc
hội đề ra.
Trong thị trường châu Á thỡ đứng đầu là Nhật Bản, tiếp đến là CHND Trung
Hoa, Singapore...; nhưng tốc độ tăng cao nhất lại là CHND Trung Hoa 66%, các Tiểu
vương quốc Ảrập 42%, Iraq 40%, các nước ASEAN 26%, Hàn Quốc 23%, Nhật Bản
18,6%...
Hai, nhưng tỷ trọng thị trường châu Á trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam đó bị giảm mạnh so với cỏc năm trước. Tỷ trọng này của năm 2001 cũn đạt mức
67,3%, thỡ năm 2002 chỉ cũn 60,2%; năm 2003 chỉ cũn 54,7%, năm 2004 tăng lên
nhưng cũng chỉ đạt 54,8% và có thể chỉ đạt 53,3% so với quyết tâm phấn đấu 31,5 tỷ
USD của Bộ Thương mại (cũn mục tiờu do Quốc hội đề ra là tăng 16%, hay đạt 30,2
tỷ USD).
Ba, trong quan hệ xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và châu Á, nước ta ở vị thế
nhập siêu lớn.
Theo dự báo, năm 2005 thị trường châu Á không có biến động lớn, nhưng sẽ
không có thuận lợi như năm 2004, như dầu thô cả lượng và giá sẽ không cao và sự
cạnh tranh gay gắt của những nước có lợi thế hơn ta ở trong khu vực.
Để đạt được mức dự kiến, một mặt cần tăng nhanh những mặt hàng chủ lực đó
xuất khẩu trong cỏc năm trước (dầu thô, thuỷ sản, may mặc, than đá, gạo, chè, cà phê,
lạc, rau quả, hạt điều, cao su, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ, điện tử, vi tính và linh kiện,
dây và cáp điện, đồ nhựa, giày dép...), mặt khác cần khai thác, tăng nhanh các mặt
hàng mới như tàu thuỷ, săm lốp ô tô, sản phẩm cơ khí như máy nông nghiệp, dụng cụ
cầm tay, các loại máy thông thường khác.
Ngoài biện pháp cơ bản là nâng cao khả năng cạnh tranh, cần chú ý đến việc tạo
hành lang phỏp lý thuận lợi (nhất là với Nhật Bản, Hàn Quốc); đẩy mạnh hoạt động
xúc tiến thương mại, trong đó có việc mở nhanh các văn phũng đại diện của các công
ty xuất khẩu của nước ta ở nước ngoài.
b. Thị trường châu Âu và EU
Châu Âu đặc biệt là EU là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Năm 2004,
xuất khẩu sang châu Âu đạt khoảng 5,3 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2003 và chiếm
khoảng 20,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Riêng EU ước đạt 4.860 triệu
USD, tăng 18,7% so với năm 2003, chiếm 91,7% toàn châu lục và chiếm 18,7% tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Theo kế hoạch, dự kiến năm 2005, xuất khẩu sang châu Âu sẽ đạt khoảng gần 6,5
tỷ USD, tăng 20,9% và chiếm khoảng 21,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Một thuận lợi trong năm 2005 là khung pháp lý ở khu vực này đó gần như mở
hoàn toàn cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, hàng xuất khẩu của Việt Nam được đối
xử như của các thành viên WTO. Tuy nhiên, thị trường này yêu cầu chất lượng cao và
sự cạnh tranh cao của nhiều nước ngoài khối cũng như của 10 thành viên mới gia tăng.
Vỡ vậy, ngoài cỏc vấn đề tiếp tục tạo khung pháp lý, cần tăng cường hoạt động
xúc tiến thương mại, mở thêm văn phũng đại diện, chi nhánh công ty để tăng khả năng
bán hàng trực tiếp, xây dựng chợ đầu mối nguyên phụ liệu, tham gia hội chợ, lập kho
ngoại quan...
c. Thị trường Hoa Kỳ
Xuất khẩu sang thị trường này có một số đặc điểm nổi bật. Đó là: là thị trường
xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhất của Việt Nam trong mấy năm qua; là thị trường lớn
nhất trong các nước và vùng lónh thổ nhập khẩu hàng của Việt Nam; là thị trường mà
Việt Nam có vị trí xuất siêu lớn nhất; vị trí của Việt Nam trong các nước và vùng lónh
thổ xuất khẩu vào thị trường Mỹ đó tăng khá nhanh: từ thứ 56 trong năm 2001 lên 40
trong năm 2003 và thứ 37 trong năm 2004.
Vấn đề đặt ra là cần cải thiện hơn nữa quan hệ thương mại bỡnh thường cố định
(PNTR) cho Việt Nam trên cơ sở Việt Nam gia nhập WTO và Hoa Kỳ đồng ý áp dụng
các kết quả đàm phán đa phương cho quan hệ song phương giữa hai nước.
Tuy nhiên, Việt Nam cần đa dạng hoá mặt hàng, đa dạng hoá thị trường, tránh
"bỏ trứng vào một giỏ", để tránh gặp những rào cản phi thương mại.
Kết luận
Năm 2005 là năm cuối cùng triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng IX
và Nghị quyết số 55/2001/QH10 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5
năm; trong đó, xuất khẩu là một chỉ tiêu quan trọng. Như vậy, ta cần tiếp tục việc
không ngừng tập trung vào những mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn, như : dầu
thô, dệt may, giày dép, đồ gỗ, thuỷ sản, linh kiện điện tử và linh kiện máy tính, gạo, cà
phê, cao su, hạt điều.
Chúng ta cần phải tập trung nguồn lực, phát triển xuất khẩu các mặt hàng chủ
lực này bởi đây là các mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao, tiềm lực còn nhiều, nhiều
mặt hàng chưa bị hạn chế về cơ cấu và lượng. Bên cạnh đó, phát triển diện mặt hàng
xuất khẩu, rà soát lại nhóm hàng hoá khác để phát triển thêm các mặt hàng xuất khẩu
mới, tập trung hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu
Qua những gì nghiên cứu, có thể thấy yếu tố quản lý và công nghệ ở nước ta là
những vấn đề nổi trội nhất, tác động mạnh mẽ đến lượng và cơ cấu xuất khẩu các mặt
hàng chủ lực. Để tăng hiệu quả xuất khẩu, xuất khẩu nhiều hơn các mặt hàng chế biến,
tinh vi hơn, tránh được những thua thiệt từ những nguyên nhân thiếu thông tin, biến
động từ môi trường ngoài đòi hỏi lớn ở công tác quản lý vĩ mô của Nhà nước và của
các Bộ, Ngành có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hàng xuất khẩu. Có vậy, hàng
xuất khẩu nói chung và nhóm những hàng xuất khẩu chủ lực nói riêng của Việt Nam
mới có chỗ đứng vững hơn, có tiếng nói hơn và đảm bảo sự an toàn hơn trên thị trường
nhập khẩu quốc tế; qua đó góp phần đẩy mạnh kinh tế-xã hội nước nhà phát triển, thực
hiện mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam ta sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Phụ lục 1
Kết quả xuất khẩu trong năm 2004 và mục tiêu xuất khẩu trong năm 2005 đối với từng
mặt hàng
(Đơn vị: triệu USD)
Mặt hàng
Kim ngạch
T.H 2004
Kim ngạch
D.K 2005
Tăng trưởng X.K
2005/2004 (%)
Tổng trị giá 26.504 31.500 19
Nhóm nông, lâm, thuỷ sản
1. Thuỷ sản
2. Gạo
3. Cà phê
4. Rau quả
5. Cao su
6. Hạt tiêu
7. Nhân điều
8. Chè các loại
9. Lạc nhân
5.497
2.401
950
641
179
597
152
436
96
27
6.015
2.750
1.000
650
220
610
160
480
115
30
9.8
14,5
5,3
1,4
22,9
2,2
5,3
10,1
19,8
11,1
Nhóm hàng Công nghiệp,
Chế biến và TCMN
10. Hàng dệt và may mặc
11. Giày dép các loại
12. Hàng đ/tử và LK m/tính
13. Hàng thủ công mỹ nghệ
14. Sản phẩm gỗ
15. Sản phẩm nhựa (plastic)
16. Xe đạp và phụ tùng
17. Dây điện và cáp điện
10.607
4.386
2.692
1.075
426
1.139
261
239
389
13.400
5.100
3.500
1.500
530
1.600
360
290
520
26,3
16,3
30,0
39,5
24,4
40,5
37,9
21,3
33,7
Nhóm nguyên liệu, k/sản
18. Dầu thô
6.026
5.671
6.060
5.680
0,6
0,2
19. Than đá 355 380 7,0
Nhóm hàng hoá khác 4.808 6.025 25,3
Phụ lục 2
Dự kiến cơ cấu thị trường xuất khẩu năm 2005
(Đơn vị: triệu USD)
Khu vực
thị trường
Năm 2004 Năm 2005
Kim ngạch
Tỷ trọng
(%)
Kim ngạch
Tỷ Trọng
(%)
Tổng kim ngạch 26.504 100 31.500 100
Châu á
Nhật Bản
Trung Quốc
ASEAN
Châu úc
Châu Âu
EU 25
Châu Mỹ
Hoa Kỳ
Châu Phi
13.100
3.502
2.736
3.874
7.860
5.400
4.970
5.701
4.992
412
49.4
13.2
10.3
14.6
7.0
20.4
18.8
21.5
18.8
1.5
14.490
4500
3000
4690
2.210
6.500
5.959
7.000
6.230
800
47
15
9.6
15.1
7
21
20
23
20
2
Tài liệu tham khảo
- Giáo trình Kinh tế Thương mại, Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân.
- Giáo trình Quản trị nghiệp vụ xuất nhập khẩu, Trường Đại học Kinh Tế Quốc
Dân.
- Giáo trình thương mại quốc tế, Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân
- Giáo trình Quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu, Trường Đại học Ngoại Thương.
- Báo Thương mại.
- Báo cáo Hội nghị Thương mại toàn quốc năm 2005.
- Công văn Bộ Thương mại số 3936/ TM-XNK ngày 14 tháng 11 năm 2000.
- Các website:
Mục lục
Lời mở đầu .............................................................................................. 1
Phần I: Tổng quan về lý thuyết ........................................................... 3
1. Vai trò của xuất khẩu ......................................................................... 3
2. Các biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ................................. 4
2.1 Các biện pháp lớn để tạo nguồn hàng
và cải biến cơ cấu xuất khẩu ................................................................. 4
- Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực ........................................ 4
- Gia công xuất khẩu ............................................................................ 6
- Đầu tư cho xuất khẩu .......................................................................... 6
- Lập các khu chế xuất ........................................................................... 7
2.2 Nhóm các biện pháp tài chính, tín dụng nhằm
khuyến khích sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu .................................... 8
- Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất khẩu .............................................. 8
- Nhà nước thực hiện cấp tín dụng xuất khẩu ...................................... 8
- Trợ cấp xuất khẩu ............................................................................... 9
- Chính sách tỷ giá hối đoái ................................................................. 9
- Miễn thuế, giảm thuế và hoàn lại thuế ............................................... 10
2.3 Các biện pháp thể chế, tổ chức ........................................................ 10
2.4 Các biện pháp tạo thị trường ............................................................ 10
Phần II: Thực trạng và giải pháp ............................................................ 12
1.Thực trạng ............................................................................................ 12
1.1 Thực trạng chung xuất khẩu hàng hoá ............................................ 12
1.2 Các nhóm hàng chủ lực .................................................................... 13
a. Nhóm nguyên nhiên liệu .................................................................... 13
b. Nhóm nông, lâm, thuỷ sản................................................................. 13
c. Sản phẩm chế biến và chế tạo ........................................................... 14
d. Sản phẩm hàm lượng công nghệ và chất xám cao .......................... 15
1.3 Những hạn chế chính trong hoạt động xuất khẩu ........................... 15
1.4 Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế ............................... 16
- Nguyên nhân của những thành tựu .................................................... 16
- Nguyên nhân của những hạn chế ....................................................... 17
2. Giải pháp ............................................................................................. 18
2.1 Giải pháp cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
có quy xuất khẩu lớn .............................................................................. 18
a. Dệt may ................................................................................................ 18
b. Giày dép ............................................................................................... 19
c. Sản phẩm gỗ ......................................................................................... 19
d. Thuỷ sản ............................................................................................... 20
e. Hàng điện tử và linh kiện máy tính ..................................................... 20
g. Dầu thô ................................................................................................. 21
2.2 Các biện pháp khuyến khích
hoạt động xuất khẩu từ phía Nhà nước................................................... 21
3. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam
trong năm 2005........................................................................... 23
Kết luận ................................................................................................... 26
Phụ lục 1: Kết quả xuất khẩu trong năm 2004 và mục tiêu
xuất khẩu trong năm 2005 đối với từng mặt hàng ................................. 27
Phụ lục 2: Dự kiến cơ cấu thị trường xuất khẩu năm 2005 .................. 28
Tài liệu tham khảo ................................................................................... 29
Mục lục ..................................................................................................... 30
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111077_6118.pdf