Tiểu luận Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước và tăng trưởng kinh tế

Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định chính sách kinh tế vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế. Để thực hiện vai trò của mình, nhà nước sư dụng một hệ thống chính sách và công cụ quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế -xã hội, nhằm giải quyêt các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối quan hệ tăng trưởng và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn mội trường v.v Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò vai trò quản lý của nhà nước đối với quản lý ngân sách nhà nước nói chung và xử lý bội chi ngân sách nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp thiết.

pdf35 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2113 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước và tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i một vai trò mạnh mẽ của công nghệ mới. Trong bối cảnh các mô hình này, viện trợ bổ sung cho tổng giá trị tiết kiệm, làm tăng đầu tư và trữ lượng vốn, từ đó làm tăng tốc tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Theo quan điểm này, các nước nghèo không thể tự mình tạo ra đủ lượng tiết kiệm cần thiết để tài trợ những dự án đầu tư cần thiết nhằm khởi động tăng trưởng, hay nếu có thể làm được điều này thì họ cũng chỉ có thể tài trợ cho sự tăng trưởng rất chậm. Như ta đã biết trong kinh tế học vĩ mô, tỷ lệ tiết kiệm có xu hướng thấp ở những nước nghèo nhất, và ngay cả ở nơi tỷ lệ tiết kiệm cao vừa phải, lượng tiết kiệm thực tế cũng thấp. Một nước với thu nhập trên đầu người 200 USD và tỷ lệ tiết kiệm 10 phần trăm chỉ tạo ra được lượng tiết kiệm 20 USD đầu người một năm, không thể mua được nhiều hàng hoá vốn. Trong phiên bản mạnh nhất của mô hình này, các nước nghèo nhất có thể rơi vào chiếc bẩy đói nghèo (poverty trap), trong đó thu nhập của họ quá thấp không thể tạo ra được tiết kiệm cần thiết để khởi động quá trình tăng trưởng bền vững. Tổng tiết kiệm có thể quá thấp không thể bù đắp khấu hao, đừng nói gì đến bổ sung trữ lượng vốn. Trong một phiên bản chừng mực hơn, các nước nghèo nhất có thể tiết kiệm đủ để bắt đầu tăng trưởng, nhưng chỉ với tỷ lệ tăng trưởng rất thấp. Như vậy, các dòng viện trợ mang lại một phương cách gia tăng tiết kiệm nội địa và tăng tốc quá trình tăng trưởng. BCNN thông qua viện trợ có thể giúp hỗ trợ tăng trưởng thông qua xây dựng tri thức và chuyển giao ý tưởng mới, công nghệ, và các thông lệ thực hành tốt nhất từ nước này sang nước khác. Một số viện trợ giúp hỗ trợ nghiên cứu ở các nước thu nhập thấp mà có thể đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng. Một trong những ví dụ hay nhất là hoạt động nghiên cứu được tài trợ bằng viện trợ vào thập niên 60 và 70 về các giống hoa màu mới, phân bón và thuốc trừ sâu giúp chuyển đổi nông nghiệp ở châu Á thông qua cuộc Cách mạng xanh. Tương tự, một phần viện trợ đáng kể nhằm tài trợ sự hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn mà sau cùng vì mục đích củng cố thể chế và gia tăng năng suất. Loại viện trợ này, khi có tác dụng, có thể được xem là làm dịch chuyển hàm sản xuất hướng lên trên, qua đó giúp gia tăng tỷ lệ tăng trưởng. BCNS thông qua viện trợ có thể có tác động tích cực đối với các mục tiêu phát triển quan trọng khác mà có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng một cách gián tiếp hay chỉ ảnh hưởng sau một thời gian dài, như y tế, giáo dục, hay môi trường. Tương tự, viện trợ có thể mang lại sự trợ giúp khẩn cấp hay cứu trợ nhân đạo hay được sử dụng để giúp đạt được ổn định kinh tế vĩ mô. Chúng ta sẽ lần lượt trình bày ngắn gọn từng điểm một sau đây. Gần một nửa trong tất cả các dòng viện trợ là nhằm vào cải thiện y tế, giáo dục, môi trường và các mục tiêu khác. Viện trợ giúp tài trợ cho công tác tiêm chủng, cung ứng vật tư y tế, thuốc men, mùng màn (để ngăn sự lây lan bệnh sốt rét), nước sạch, và đồ dùng nhà trường là nhằm giúp cung cấp các hàng hoá và dịch vụ thiết yếu cho những người quá nghèo không thể có khả năng chi trả. Theo thuật ngữ kinh tế, phần lớn các loại chi tiêu này được xem là bổ sung cho tiêu dùng chứ không phải chi tiêu đầu tư (cho dù một phần viện trợ cho giáo dục và y tế, như xây trường học và phòng khám chữa bệnh được xem là chi tiêu đầu tư). Tăng trưởng kinh tế thường là một mục tiêu thứ cấp dài hạn của loại viện trợ này. Người lao động có trình độ hơn, sức khoẻ tốt hơn sẽ làm việc có năng suất hơn, làm dịch chuyển hàm sản xuất và mở rộng sản lượng và thu nhập. Ta cũng có thể lập luận tương tự ít nhất cho một số dạng viện trợ nhằm vào mục đích bảo vệ môi trường. Cải tiến quản lý lâm nghiệp hay ngư nghiệp, làm sạch nguồn nước, hay giảm ô nhiễm không khí có thể giúp cải thiện phúc lợi và tăng năng suất theo thời gian. Tuy nhiên, tác động đối với tăng trưởng có thể phải mất một thời gian dài mới hiện thực hoá được. Các chương trình tiêm chủng trẻ em hay cải thiện chất lượng tiểu học chỉ ảnh hưởng đến năng suất lao động khi những trẻ em này tham gia lực lượng lao động, mà điều đó phải mất nhiều năm sau khi nhận được viện trợ. Một số viện trợ được cung cấp để giúp các nước đối phó trước tình trạng bất ổn kinh tế vĩ mô. Giảm sút giá xuất khẩu, tăng giá nhập khẩu, hay một cú sốc kinh tế, như hạn hán, ngập lụt, động đất, có thể làm cho đồng tiền mất giá mạnh từ đó ảnh hưởng lan truyền trong nền kinh tế và làm tăng giá hàng hoá và dịch vụ ngoại thương. Dòng viện trợ bổ sung nguồn cung ngoại tệ và giúp điều hoà áp lực đối với tỉ giá hối đoái. IMF đóng vai trò dẫn đầu trong lĩnh vực này, các nhà tài trợ khác như Ngân hàng Thế giới cung cấp nguồn vốn hỗ trợ. Những dòng viện trợ nhằm phản ứng trước khủng hoảng kinh tế vĩ mô hay thiên tai, như mô tả trong đoạn trên đây, thường tương quan ngược chiều với tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng giảm do khủng hoảng, và viện trợ gia tăng như một hệ quả của điều đó. Nhưng vì viện trợ là để đáp ứng trước tình trạng tăng trưởng chậm, các trường hợp này không nên xem là ví dụ về sự thất bại của viện trợ trong việc đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển. Khoảng một phần mười trong tổng số viện trợ nước ngoài được dành cho sự cứu tế khẩn cấp sau các trận thiên tai hay khủng hoảng nhân đạo. Các chương trình cứu tế sau động đất, ngập lụt, và các trận thiên tai khác thường cung cấp lương thực, quần áo, các loại thuốc men cơ bản và các thứ khác giúp đáp ứng những nhu cầu cơ bản. Tương tự, viện trợ nhân đạo hỗ trợ người dân sống ở các trại tị nạn và những người bị mất nơi sinh sống do chiến tranh hay những cuộc xung đột khác. Nhìn từ góc độ kinh tế, phần lớn viện trợ này là nhằm hỗ trợ tiêu dùng cơ bản chứ không phải bản thân sự tăng trưởng, cho dù một phần cũng được sử dụng để khôi phục cơ sở hạ tầng bị hư hại và ngăn sản lượng không bị giảm sút hơn nữa như thường xảy ra sau các thảm họa thiên tai. 2. Mặt hạn chế: Như chúng ta đã được biết, bất cứ một sự vật, hiện tượng nào trong cuộc sống này đều có tính quy luật và chu kỳ của nó và kinh tế học cũng vậy, nó chúng có tính chu kỳ mà kinh tế học gọi là chu kỳ kinh doanh. Chu kỳ kinh doanh có thể được định nghĩa là sự biến động của sản lượng thực dao động xoay quanh sản lượng tiềm năng (còn được gọi là sản lượng thực theo xu hướng). Độ dài của chu kỳ kinh doanh không xác định được vì các cú sốc trong nền kinh tế không theo quy luật, nó có thể kéo dài hàng chục năm, cũng có thể rất ngắn trong khoảng vài năm. Một chu kỳ kinh doanh bao gồm 4 thời kỳ theo một trình tự nhất định: hưng thịnh, suy thoái, đình trệ và phục hồi. Ở thời kỳ hưng thịnh là thời kỳ có mức sản lượng thực tế cao hơn sản lượng tiềm năng và làm cho tối đa hóa sản xuất làm cho xu hướng mức giá chung tăng lên, dẫn đến tỷ lệ lạm phát tăng cao. Tất nhiên ở cực đối lại thời kỳ đình trệ là thời kỳ có mức sản lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng và nó là điều mà bất cứ ai cũng không mong muốn vì nhiều nguồn lực sẽ không được sử dụng, trong đó có lao động, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp cao. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, nếu như sản lượng quá cao hay quá thấp đều không tốt cho nền kinh tế vậy thì sản lượng đáng mong muốn là mức trung bình giữa 2 cực đó, một mức sản lượng không quá cao để tỷ lệ lạm phát vừa phải và cũng không quá thấp để tỷ lệ thất nghiệp ở mức tự nhiên. Đó là mức sản lượng mà các nhà kinh tế gọi là sản lượng tiềm năng mà tôi đã đề cập ở trên. Tại sao chúng tôi lại đưa ra khái niệm về chu kỳ kinh doanh. Các bạn cứ vận dụng mô hình này chuyện chúng ta đang bàn ở đây đó là vấn đề bội chi ngân sách hay nói chi tiết và cụ thể hơn là đầu tư công (ở đây chúng tôi chưa đề cập tới những khoảng chi đầu tư phát triển khác) vì chủ yếu khoảng bội chi ngân sách này chủ yếu dùng cho lĩnh vực này. Khi chính phủ quyết định chi Ngân sách nhà nước cho đầu tư công, tức là đang chi tiền nghĩa là dòng tiền đang đi ra từ quỹ tiền tệ là Ngân sách nhà nước. Chúng ta thử hình dung 1 tí như sau: là tại sao chính phủ lại quyết định đầu tư nhiều hơn mức tiềm lực của đất nước bằng cách đi vay mượn, phải chăng là do nền kinh tế đang trong thời ký suy thoái cần kích thích gí đó từ bên ngoài đề nền kinh tế đi lên. Tôi nói đến điều này để nói lên là khi chính phủ tăng đầu tư công thì cũng có nghĩa là sản lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng hay nền kinh tế đang ở thời kỳ đình trệ và bắt đầu thời kỳ phục hồi và tiến lên thời kỳ hưng thịnh tiếp theo – một chu kỳ mới bắt đầu. Đây chỉ là lý thuyết còn thực tế thì sao, nếu như những khoảng chi tiêu tiền cho đầu tư công không hợp lý, dàn trải, không hiệu quả thì sẽ dẫn đến thất thoát , lãng phí và không tạo được hiệu ứng phát triển cho toàn bộ nền kinh tế. Đáng lẽ ra nếu đầu tư thành công mà lại đạt được hiệu quả thì sẽ tạo ra kích thích phát triển kinh tế theo đúng như dự đoán và chu kỳ thì đằng này lại cứ kéo dài thời gian phục hồi mà không tiến tời thời gian hưng thịnh làm cho nền kinh tế trì trệ, không phát triền mà có khi lại trôi vào thời kỳ khủng hoảng tiếp theo vì những khoảng đầu tư này chủ yếu lấy từ nguồn là đi vay nợ từ nước ngoài thì áp lực về trả nợ cả vốn lẫn lãi rất lớn làm cho khả năng trả nợ là không thể, điều này lại càng đẩy nền kinh tế đi vào ngõ cụt, cái vòng lẫn quẫn không thoát ra được. Những món nợ này lại đổ trên đầu người dân, trong khi đồng tiền thực chất lại đi đâu về đâu thì ai cũng đã biết. Cái này người ta nói là “tiền không tự mất đi mà chỉ chuyển từ tay người này sang người khác” và không tạo ra được giá trị cho cuộc sống này. Có rất nhiều biện luận lý lẻ để nói về vấn đề này muốn biết rõ trừ khi các bạn phải là người trong guồng máy thì các bạn mới có thể nắm rõ nhất. Sau đây là bài viết của Phó Thủ tướng Vũ Khoan về tình trạng đầu công ở nước ta. Bài viết thể hiện mặt hạn chế của chính sách Bội chi ngân sách nhà nước dùng cho chi đầu tư phát triển sẽ đem lại những tác động tiêu cực cho nền kinh tế của đất nước. Như chúng ta đã tìm hiểu về tăng trưởng kinh tế ở phần trên, đó là sự gia tăng thu nhập quốc dân thực trên đầu người, nghĩa là sự gia tăng giá trị hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trên mỗi đầu người trong một nền kinh tế sau khi đã điều chỉnh lạm phát. Vấn đề đầu tư công là một trong những mục tiêu quan trọng trong nên kinh tế quốc gia, nếu không được thực hiện một cách đúng đắn thì rất gây ra lãng phí nguồn lực quốc gia, tổn thất nặng nề cho nền kinh tế, làm cho nền kinh tế đi vào suy thoái. Tại sao nhóm chúng tôi đề cặp tới vấn đề này vì ngoài những mặt tích cực do đầu tư phát triển mang lại cho cuộc sống chất lượng hơn cho người dân mà mọi người ai cũng cảm nhận được, thì rất nhiều vấn đề mà vẫn tồn tại hàng ngày vẫn được đông đảo mọi người quan tâm. Ở đời mà, nhiều người đứng đầu cơ quan nhà nước có những đóng góp thì ít được mọi người chú ý tới, chắc cũng bởi vì cuộc sống cơm áo gạo tiền này nên chắc người ta không còn mấy quan tâm đến những con ngưới này hay là do chế độ nhà nước này; mà người ta hay để ý tới những vấn đề thời sự nhiều hơn như tham ô, tham nhũng, thất thoát tiền Ngân sách nhà nước…Bài viết này do người trong hệ thống vận hành của bộ máy nhà nước ta viết ra sẽ cho chúng ta thấy một phần nào đó những tác động tiêu cực, dẫn đến nhiều vấn đề trong xã hội, đặc biệt là ảnh hưởng rất lớn tới sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Riêng tôi, tôi là một người làm trực tiếp trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, tôi cũng đã từng được trải nghiệm những điều này như những con người bình thường khác mà không có 1 chút suy nghĩ hay phản kháng gì cả. Nói chung đây cũng là cái guồng máy khi bạn đã vào rồi thì các bạn chỉ có thể được hoàn thành theo như thiết kế mà thôi.  Những công trình không đem lại hiệu quả kinh tế sẽ làm cho nguồn lực quốc gia suy kiệt, ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển của cả nước nói chung, đó là chưa kể tới những tác hại về môi trường, lòng tin của người dân…  Điểm lại từ ngày triển khai công cuộc đổi mới tới nay, nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều đợt đầu tư “theo phong trào”, nhiều “hội chứng đầu tư” đã xuất hiện. Nào là đua nhau đầu tư xây dựng nhà máy bia, thuốc lá, tiếp đến là xi măng lò đứng, mía đường, lắp ráp xe máy, sản xuất bột sắn, đánh bắt xa bờ, xây dựng cảng biển, khu công nghiệp và khu kinh tế, kể cả kinh tế cửa khẩu. Kế đến là bột giấy, cán thép, thủy điện nhỏ và vừa, khu nghỉ dưỡng, khu đô thị, “tận thu” khoáng sản, trường đại học, sân golf rồi sân bay…  Trong số các dự án đó, có phần do doanh nghiệp đầu tư nhưng một phần không nhỏ bắt nguồn từ đầu tư công của trung ương và địa phương lẫn doanh nghiệp nhà nước. Tiếc rằng, cho tới nay chưa thấy có công trình tổng kết nào phân tích rõ xem những dự án ấy hiệu quả tới đâu, lãng phí thế nào và đã tác động ra sao đến những bất ổn vĩ mô và làm cho nền kinh tế nước ta kém hiệu quả.  Viết bài này, tôi không nghĩ mình là “người ngoài cuộc” mà phần nào đó còn là một “tội đồ” vì đã từng tham gia lãnh đạo Chính phủ nhưng bản thân chưa nhận thức được đầy đủ tình hình và chưa đóng góp hữu hiệu vào việc hạn chế, ngăn chặn tình trạng hao công tốn của nói trên.  Nay ngẫm lại thấy muốn tránh lặp lại những biểu hiện “đầu tư theo phong trào”, những “hội chứng” như vừa qua, có lẽ nên trở lại một số cách tiếp cận cơ bản Phải ưu tiên cho hiệu quả kinh tế  Cách hiểu sơ đẳng về kinh tế là với nguồn lực hạn hẹp cần làm sao đem lại hiệu quả cao nhất. Điều đó càng đúng với nước ta, một nước còn rất nghèo (cho dù đã đạt ngưỡng khởi điểm của nước có thu nhập trung bình): Nhà nước nghèo, từng địa phương nghèo, các doanh nghiệp, kể cả các tập đoàn cũng nghèo. Muốn cho nền kinh tế khả dĩ có hiệu quả thì không có cách nào khác là phải chọn lựa trình tự ưu tiên trong đầu tư; nhiều công trình tuy cần đấy song vẫn đành phải “nhịn”, chờ đến khi điều kiện cho phép mới đầu tư  Thật buồn khi thấy những cái chợ được xây dựng khang trang trống rỗng, một số công trình văn hóa như bảo tàng, nhà hát, nhà văn hóa không sáng đèn hoặc vắng bóng khán giả, những bến cảng tàu vào ra lèo tèo, những đường bay thua lỗ triền miên, những trường đại học không tuyển đủ sinh viên… trong khi với số tiền đã bỏ ra để xây dựng chúng ta có thể giải quyết biết bao nhu cầu dân sinh bức bách khác  Nguyên nhân đẻ ra tình trạng trên có nhiều: nào là tâm lý muốn phát triển nhanh, nào là ý nguyện “công nghiệp hóa” bằng mọi giá, nào là cơ chế phân bổ nguồn vốn theo kiểu cào bằng và xin - cho, nào là tâm lý “nhiệm kỳ”, nào là những tính toán theo lợi ích ngành và địa phương, thậm chí cá nhân… Ở đây chỉ xin nhấn mạnh một số nguyên nhân liên quan tới tư duy kinh tế và cơ chế quản lý, phân cấp. Cầu quyết định cung  Mọi người đều rõ, trong nền kinh tế thị trường thì “cầu” quyết định“cung”; vấn đề không chỉ là có thể làm gì mà chủ yếu là thị trường có cần và có khả năng tiêu thụ, sử dụng không. Về chuyện này chỉ xin lấy ra vài ba chuyện.  Thứ nhất: Thứ nhất là chuyện xây cảng, trong đó có cảng nước sâu,cảng tầm cỡ quốc tế. Một điều không cần bàn cãi là nước ta có bờ biển dài, vận tải biển cần chiếm tỷ trọng cao, do đó cần xây dựng cảng biển; vấn đề chỉ là làm sao bảo đảm tính hiệu quả của chúng  Muốn vậy thì địa hình (nước nông sâu) chưa đủ mà còn cần có địa thế thuận tiện (kể cả đường vào, đường ra bến cảng và các tuyến vận tải biển quốc tế) và nhất là nguồn hàng vào-ra dồi dào, năng lực quản lý tốt làm cho việc vận chuyển, bốc xếp vừa rẻ vừa nhanh, qua hàng trăm năm vận hành hiệu quả cao tạo thành thương hiệu nổi tiếng.  Có người nói nước ta có bờ biển dài, nằm gần đường vận tải biển quốc tế sôi động như vậy mà kém Singapore là không chấp nhận được! Hãy bình tâm xem lại trên thế giới biết bao nước có bờ biển còn dài hơn bờ biển nước ta nhiều, trình độ phát triển kinh tế cao hơn nhiều lần nhưng vì sao vẫn không có được các cảng biển tầm cỡ quốc tế; ngược lại nhiều cảng tầm cỡ toàn cầu lại nằm ở những vùng lãnh thổ khá hẹp như Singapore, Hồng Kông, Hà Lan…?  Malaysia đã từng bỏ ra nhiều tỉ đô la xây dựng cảng nước sâu rất hiện đại với kỳ vọng cạnh tranh với Singapore song đâu có thành? Xem như vậy thì chỉ cảng nào đáp ứng được cả năm yêu cầu nói trên mới thỏa mãn được khách hàng và trở thành cảng tầm cỡ quốc tế chứ không phải chỉ có địa hình, thậm chí địa thế thuận lợi là đủ  Thứ đến là chuyện xây sân bay cũng không khác mấy. Tính hiệu quả của chúng tùy thuộc vào lượng hành khách và hàng hóa có đủ lớn không, mức thu nhập của hành khách đã tới mức chọn đường hàng không chưa? Cung đường có tiện lợi không? Dịch vụ có bảo đảm không?... Đó là chưa tính đến diện tích đất đai phải sử dụng và những hệ lụy về môi trường do sân bay gây ra nếu xây dựng tràn lan  Tương tự như vậy, khi quyết định xây dựng các khu kinh tế mở, đặc khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu trước hết cũng cần tính đến bên “cầu”, tức là lợi ích và khả năng của những người tới đó làm ăn  Để những khu này hoạt động có hiệu quả thì cả ở “đầu vào” lẫn “đầu ra” đều cần hội đủ điều kiện cần thiết chứ không chỉ có hạ tầng cơ sở và cơ chế chính sách hấp dẫn trong nội khu (ngay những điều kiện này ở nước ta cũng còn kém so với nhiều nước khác)  Thẩm Quyến, Chu Hải… ở Trung Quốc thành công là vì bên cạnh chúng có những bình ắc-quy dồi dào điện năng là Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan nạp vốn vào và tiêu thụ hàng hóa ra, điều mà Chu Lai, Chân Mây… không có được. Đó là chưa kể những khu kinh tế cửa khẩu đều nằm ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, đường sá khó khăn, dân cư thưa thớt và cực nghèo  Tình trạng bên kia biên giới cũng không khác, thậm chí còn kém hơn thì lấy đâu ra nguồn lực để phát triển và lấy đâu ra thị trường để tiêu thụ? Ngoài ra còn tình trạng đầu tư dàn trải gần ba cửa khẩu, nơi nào cũng dở dang không ra món gì; cơ chế chính sách đối với các tỉnh biên giới lại chưa tạo động lực cho họ Lẫn lộn địa giới hành chính với không gian kinh tế  Việc đầu tư dàn trải kém hiệu quả, na ná như nhau còn liên quan tới sự lẫn lộn về khái niệm giữa địa giới hành chính và không gian kinh tế. Do cơ chế và lợi ích của địa phương, mỗi tỉnh đều muốn trở thành một thực thể kinh tế “hoàn chỉnh” nông - công nghiệp - dịch vụ đều có, kèm theo là trường đại học, bến cảng, sân bay, khu kinh tế…mặc dầu không hội đủ điều kiện.  Công nghiệp hóa đất nước không có nghĩa là tỉnh nào, huyện nào cũng công nghiệp hóa mà cần có sự phân công lao động hợp lý phù hợp với lợi thế của từng vùng. Trong khi đó, sự liên kết và quy hoạch vùng còn xa mới đáp ứng yêu cầu làm cho nguồn lực bị phân tán, trùng chéo, hiệu quả thấp, nền kinh tế nước nhà đã yếu càng yếu thêm  Sở dĩ có tình trạng này một phần do sự lẫn lộn khái niệm, một phần khác do tâm lý địa phương chủ nghĩa, căn bệnh nhiệm kỳ và nhất là cách đánh giá thành tích, phân bổ ngân sách và vốn đầu tư từ trung ương đã thúc đẩy cuộc chạy đua về dự án, công trình, tốc độ tăng trưởng “GDP tỉnh- thành”  Góp phần vào căn bệnh này còn có những khiếm khuyết trong khâu quy hoạch và phân cấp giữa trung ương và địa phương. Thực ra lâu nay ta đã có quy hoạch ngành và vùng lãnh thổ. Vấn đề chỉ là chất lượng quy hoạch: nhiều khi quy hoạch không đủ tầm nhìn, mới triển khai đã lạc hậu so với cuộc sống; quy hoạch ngành thường rất chậm so với quy hoạch vùng; tính đồng bộ không cao (tình trạng quá tải trên các quốc lộ và tỉnh lộ vận chuyển bauxite Lâm Đồng, đường vào các cảng ở Hải Phòng, TPHCM, Bà Rịa - Vũng Tàu… là những minh chứng gần đây nhất). Quy hoạch đã quan trọng, việc thực hiện quy hoạch còn quan trọng hơn nếu tính rằng, nhiều bản quy hoạch trong thực tế không được tuân thủ nghiêm ngặt, quy hoạch một đằng, thực thi một nẻo  Kinh tế càng phát triển thì tất yếu phải phân cấp vì chính quyền trung ương dù mạnh đến đâu cũng không quán xuyến nổi, vả lại nhiều việc chỉ có địa phương mới nắm rõ và mới xử lý được. Theo hướng đó Chính phủ đã ra hẳn một nghị định về phân cấp song rõ ràng ở đây còn nhiều vấn đề cần được xử lý. Muốn phân cấp tốt thì quy hoạch và nhất là thực hiện quy hoạch phải nghiêm chỉnh. Việc quy định rạch ròi những lĩnh vực nào, công trình nào chỉ có trung ương mới được quyền xem xét, quyết định; lĩnh vực nào, công trình nào dành quyền cho địa phương là một yêu cầu bức bách. Câu chuyện cho nước ngoài thuê rừng vừa qua là một minh chứng mới về sự cần thiết làm rõ ranh giới này.  Bên cạnh đó cũng nên hình thành một danh mục tương đối rành rọt, cái gì Nhà nước đầu tư, cái gì để tư nhân đầu tư, cái gì công - tư kết hợp. Những khiếm khuyết trong luật ngân sách liên quan tới câu chuyện này cũng nên được đặt lên bàn nghị sự của Quốc hội. Để bảo đảm chất lượng phân cấp thì việc đào tạo, huấn luyện cán bộ địa phương đủ năng lực xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội, môi trường, kỹ thuật phức tạp, mang tính liên ngành, liên vùng là một nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định. Đi đối với sự phân cấp có lẽ nên hình thành các quy định mang tính pháp quy và hình thức tổ chức về liên kết vùng - một điều rất yếu ở ta, ai cũng nhận thấy song khắc phục rất chậm Tóm lại, nếu như tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả là chủ trương nổi trội trong mươi năm tới thì tái cấu trúc chính sách đầu tư là khâu đầu tiên và mang tính then chốt. Chỉ có như vậy mới tránh được tình trạng thỉnh thoảng lại phải cắt giảm gây ra không ít lãng phí và nhiều vấn đề xã hội, làm cho nền kinh tế càng kém hiệu quả. IV. THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: 1. Khái niệm: Bội chi ngân sách nhà nước là tình trạng mất cân đối của ngân sách nhà nước khi mà thu ngân sách nhà nước không đủ bù đắp cho chi ngân sách nhà nước trong một thời kỳ nhất định. Có thể minh họa bội chi ngân sách nhà nước bằng cân đối thu - chi ngân sách như sau: A : Thu thường xuyên ( thuế, phí, lệ phí ). D : Chi thường xuyên. B : Thu về vốn ( bán tài sản nước ngoài ). E : Chi đầu tư. C : Bù đắp thâm hụt - Viện trợ - Lấy từ nguồn dự trữ - Vay thuần ( bằng vay mới trả nợ gốc ). F : Cho vay thuần ( bằng cho vay mới trừ thu nợ gốc). Ta có công thức : A+B+C=D+E+F Công thức tính bội chi ngân sách nhà nước của 1 năm sẽ là: Bội chi ngân sách nhà nước = tổng chi – tổng thu=(D+E+F)-(A+B) = C Bội chi ngân sách nhà nước trong một thời kỳ ( 1 năm, 1 chu kỳ kinh tế) là số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu thời kỳ đó. 2. Nguyên nhân của bội chi ngân sách nhà nước: Có hai nguyên nhân cơ bản của bội chi ngân sách nhà nước:  Do tác động của chu kỳ kinh doanh, khủng hoảng lạm chi làm cho thu nhập của nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết khó khăn mới về kinh tế xã hội. Điều đó làm cho mức độ bội chi ngân sách ngân sách nhà nước tăng lên trong giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. điều đó làm giảm mức bội chi ngân sách nhà nước. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.  Do tác động của chính sách cơ cấu thu chi của nhà nước. Khi nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi ngân sách nhà nước. Ngược lại thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của nhà nước thì mức bội chi ngân sách nhà nước sẽ giảm bớt. Các bội chi do tác động của cơ chính sách cơ cấu thu chi gọi là bội chi cơ cấu. Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn ...), tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi ngân sách nhà nước. 3. Thực trạng bội chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Bội chi ngân sách nhà nước là một căn bệnh tác hại đến sự phát triển kinh tế nếu xử lý bội chi ngân sách nhà nước không đúng đắn, cho dù bội chi ngân sách nhà nước từ nguyên nhân nào đi chăng nữa. Bội chi ngân sách nhà nước là căn bệnh không chỉ dành riêng cho bất kỳ quốc gia nào. Nó mang tính phổ biến tồn tại khắp các quốc gia trên thế giới, từ những nước đang phát triển, chậm phát triển cho đến những nước có nền kinh tế phát triển. Đó là nhu cầu chi tiêu và thực tế của nhà nước không thể cắt giảm được mà ngày càng tăng lên, trong khi đó việc tăng thu ngân sách nhà nước từ công cụ thuế sẽ dẫn đến sự phản hồi từ phía dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội, và hậu quả nhận được là kìm hãm tốc độ tích lũy vốn cho sản xuất, hạn chế tiêu dùng dẫn đến nguy cơ suy thoái nền kinh tế cao. Còn đối với các nước đang phát triển, ví dụ như Việt Nam, đặc biệt là những nước nghèo thì bội chi ngân sách nhà nước là điều không thể tránh khỏi bởi tình trạng thu nhập bình quân đầu ngươi quá thấp không cho phép chính phủ tăng tỉ lệ động viên từ GDP vào ngân sách nhà nước, trong khi đó nhu cầu chi tiêu theo chức năng của chính phủ lại tăng lên, nhất là khi nhà nước thực hiện các chương trình đầu tư nhăm cải thiện cơ cấu kinh tế và hướng dẫn sự tăng trưởng. Thực tế cho thấy, bội chi ngân sách nhà nước không có nguồn bù đắp hợp lý sẽ dẫn đến lạm phát, gây tác hại xấy tới nền kinh tế cũng như đời sống xã hội. Nếu bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng cách phát hành tiền thêm vào sẽ dẫn tới bù nổ lạm phát. Bội chi ngân sách nhà nước cũng không hoàn toàn là tiêu cực. Nếu bội chi ngân sách ở một mức độ nhất định (dưới 5% so với tổng chi ngân sách trong năm) thì lại có tác dụng kích thích sản xuất phát triển. Vì thế, ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển, nguời ta vẫn chỉ cố gắng thu hẹp bội chi ngân sách nhà nước chứ không hề có ý loại trừ nó hoàn toàn. Nhưng cho dù bội chi ngân sách nhà nước ở mức độ nào đi chăng nữa thì nó vẫn đòi hỏi mọi chính phủ phải có biện pháo thích hợp để kiểm soát và kiềm chế bội chi ngân sách. Bảng thống kê bội chi ngân sách nhà nước 2007-2010( tỷ đồng ). Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 Tổng thu cân đối ngân sách 281900 32300 38900 46100 Thu kết chuyển từ năm trước sang 19000 9080 14100 1000 Tổng chi cân đối NSNN 357400 398890 481300 582200 Bội chi ngân sách nhà nước 56500 66900 873090 119700 Tỷ lệ BCNSNN so với GDP 5% 5% 4,82% 6,2% Theo như bảng trên thì thực tế trong những năm 2007-2010 chúng ta đã kiểm soát được bội chi ngân sách ở mức giới hạn phép duới 5% GDP/năm (trừ 2010) và nguồn vốn vay chủ yếu được chi cho đầu tư phát triển. Ngoài ra chúng ta cũng tích lũy được một phần từ nguồn thu thuế, phí, lệ phí để đầu tư phát triển. Đây cũng là những thành công bước đầu đáng ghi nhận trong công tác quản lý cân đối ngân sách nhà nước cung như kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước. Dưới đây là các số liệu về cân đối dự toán ngân sách nhà nước trong những năm gần đây (từ năm 2007 đến 2010 ) Bảng cân đối dự toán ngân sách nhà nước năm 2007 Đơn vị: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu Dự toán 2007 A Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước 281.900 1 Thu nội địa không kể từ dầu thô 151.800 2 Thu từ dầu thô 71.700 3 Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 55.400 4 Thu viện trợ không hoàn lại 3.000 B Thu kết chuyển từ năm trước sang 19.000 C Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước 357.400 1 Chi đầu tư phát triển 99.450 2 Chi trả nợ và viện trợ 49.160 3 Chi sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, quản lý hành chính nhà nước, đảng, đoàn thể 174.550 4 Chi thực hiện chính sách với lao động dôi dư 500 5 Chi cải cách tiền lương 24.600 6 Chi bổ sung dự trữ quỹ tài chính 100 7 Dự phòng 9.040 D Bội chi ngân sách nhà nước 56.500 Tỉ lệ bội chi so với GDP 5% Nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà nước 1 Vay trong nước 43.000 2 Vay nước ngoài 13.500 Dự toán thu ngân sách nhà nước quốc hội quyết định là 281900 tỉ đồng; phấn đấu cả năm ước đạt 287900 tỉ đổng, vượt 2,1% (6000 tỉ đồng). So với dự toán, tăng 11,6% so với thực hiện năm 2006. Trong điều kiện dự toán năm 2007 được xây dựng ở mức cao, quá trình điều hành phát sinh nhiều khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến số thu ngân sách như sản lượng dầu thô, thanh toán giảm lớn so với dự toán, thực hiện điều chỉnh giảm thuế để bình ổn giá cả thị trường… thì kết quả thu như vậy là tích cực. Dự toán chi quốc hội quyết định là 357400 tỉ đồng, bao gồm cả nhiệm vụ chi từ số thu kết chuyển năm 2006 sang năm 2007 (19000 tỉ đồng); ước cả năm đạt 368340 tỉ đồng, tăng 3,1% (10940 tỉ đồng) so với dự toán bằng 32,3% tăng 14,6% so với thực hiện năm 2006. Bội chi ngân sách năm 2007 được quốc hội quyết định là 56500 tỉ đồng ước cả năm là 56500 tỉ đồng, chiếm 4,95% GDP (tính theo thống kê tài chính là 1,7% GDP bằng mức quốc hội quyết định, được đảm bảo bằng các nguồn vay bù đắp bội chi đúng với dự toán năm). Thực hiện nghị quyết của quốc hội trong chỉ đạo điều hành ngân sách nhà nước năm 2007 dự kiến sẽ dành 9080 tỉ đồng (ngân sách trung ương 7000 tỉ đồng, ngân sách địa phương 2080 tỉ đồng) kết chuyển sang năm 2008 để thực hiện cải cách tiền lương. Đến 31/12/2007 dư nợ chính phủ (bao gồm cả nợ trái phiếu chính phủ) bằng 35,9% GDP dư nợ nước ngoài của quốc gia bằng 30,4% GDP, trong giới hạn đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và ổn định các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. V. CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: Vấn đề thiếu hụt ngân sách thường làm các nhà chính trị gia đau đầu giữa một bên là phát triển bền vững, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế với một bên là nguồn lực có hạn. Đòi hỏi các chính trị gia phải lựa chọn để phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong tương lai. Từ sự lựa chọn đó họ đưa ra mức bội chi hợp lý, bảo đảm nhu cầu tài trợ cho tiêu dùng cũng như đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp lý. Bội chi ngân sách nhà nước được hiểu một cách chung nhất là sự vượt trội về chi tiêu so với tiền thu được trong năm tài khóa hoặc thâm hụt ngân sách do sự cố ý của chính phủ tạo ra nhằm thực hiên chính sách kinh tế vĩ mô. Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí, lệ phí ; giảm chi ngân sách; vay nợ trong nước ,vay nợ nước ngoài ; phát hành thêm tiền để phù đắp chi tiêu ;… Sử dụng phương pháp nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Bội chi ngân sách tác động đến nền kinh tế vĩ mô phụ thuộc nhiều vào các giải pháp nhằm bù đắp bội chi ngân sách. Mỗi giải pháp bù đắp đều làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô. Và đây là một số giải pháp cơ bản mà chính phủ Việt Nam sử dụng để kiềm chế bội chi ngân sách hiện nay . 1. Tăng thu giảm chi: Đây là biện pháp cơ bản nhất mà chính phủ thương dùng để giảm hộ chi ngân sách. Bằng quyền lực và nghĩa vụ của mình chính phủ tính toán để tăng các khoản thu và cắt giảm chi tiêu . Tăng thu và giảm chi là biện pháp cổ tryền nhưng không phải bao giờ cũng thực hiện thành công được bởi vì ở đây xả ra hai nghịch lí khó giải quyết. Một là: trong bối cảnh tỉ lệ tăng trưởng GDP chưa lớn sẽ ảnh hưởng đến khả năng đầu tư vào tiêu dùng ở khu vực tư nhân bị hạn chế ,tức giảm động lực phát triển kinh tế. Hai là: khả năng giảm chi cũng có giới hạn nhất định, nếu giảm chi vượt quá giới hạn thì cũng ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển xã hội Chính vì thế vấn đề đặt ra là chính phủ phải tính toán phí tăng thu và giảm chi như thế nào để gây ảnh hưởng ít nhất đến tăng trưởng kinh tế. a. Tăng thu. Công tác thu ngân sách nhà nước phải đảm bảo mức động viên vào ngân sách nhà nước hợp lý tăng nhanh tỉ trọng nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước tập trung thực hiện thu đúng,đủ ,kịp thời theo các luật thuế nhằm động viên hợp lý, khuyến khích sản cuất kinh doanh phát triển và đảm bảo nguồn lực thực hiện nhiệm vụ quan trọng phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế chủ động ứng phó với cấc tác động của thị trường giá cả trong và ngoài nước, đồng thời đẩy mạnh thực hiện cải các thủ tục hành chính, hải quan và mổ rộng cơ chế tự khai tự nộp tăng trách nhiệm người nộp thuế và cơ quan thu, tăng cường kiểm tra chống thất thu, nợ đọng tạo môi trường thuận lợi bình đẳng trong mọi doanh nghiệp của các thành phần kinh tế .Có cơ chế khuyến khích các cấp tăng thu được hưởng hợp lý kết quả tăng thu so với nhiệm vụ nhà nước giao theo quy định pháp luật. Hiện nay tình trạng nợ đọng thuế chưa được kiểm soát chặt chẽ.Vì vậy chính phủ cần phải có giải pháp kiên quyết hơn trong việc kiểm soát nguồn thu từ thuế ,có biện pháp kiểm soát hiệu quả thì sẽ góp phần tăng thu ngân sách nhà nước như: Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục để nâng cao hiểu biết và tự giác thực hiện nghĩ vụ thuế;đẩy mạnh kiểm tra ,thanh tra phát hiện và xủ lý kịp thời các trường hợp kê khai không đúng, không đủ số thuế phải nộp để tăng thu tiền thuế cho ngân sách nhà nước. Chính phủ cũng cần phải caỉ thiện các nguồn thu ngân sách này tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá nhiều (tới hơn 40% vào các nguồn thu không bền vững từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay). Cải cách thuế đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (hiện chiếm 2% ngân sách nhà nước của Việt Nam, trong khi con số này ở các nền kinh tế hiện đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Áp dụng thuế bất động sản đúng đắn là một cách đảm bảo sự bền vững trong ngân sách nhà nước, đồng thời giúp nhà nước thực hiện được các chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng vì quốc tế nhân sinh. Chính phủ điều chỉnh tăng mức thuế xuất, thuế nhập bằng trần tối đa theo cam kết trong WTO của năm 2008 đối với các hàng hóa tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu ( ô tô nguyên chiếc, linh kiện và phụ tùng mô tô, một số mặt hàng điện tử điện lạnh…) ; điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu đối với một số nhóm mặt hang thiết thực phục vụ sản xuất (một số mặt hang sản xuất thức ăn chăn nuôi, giấy in báo…) để góp phần bình ổn giá điều chỉnh tăng thuế xuất khẩu đối với hang hóa là tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản (dầu thô,than đá, quặng kim loại…) điều chỉnh tăng lệ phí trước bạ đối với ô tô con nguyên chiếc dưới 10 chỗ ngồi; thực hiện biện pháp kéo dài, giãn thời hạn nộp thuế và giảm thuế đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, hoạt động chế biến và xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn do giá đầu vào tăng cao, duy trì và tăng sản xuất xuất khẩu. b. Giảm chi. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế ,nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi ngân sách và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chi đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế _xã hội ,đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm ,thậm chí không đầu tư .Mặt khác bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản thu đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của nhưng cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết Một trong những giải pháp quan trọng được quốc hội thông qua là cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước theo hướng ưu tiên cho an sinh xã hội; tăng chi có trọng điểm cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và những vùng khó khăn, nhất là 61 huyện có tỉ lệ nghèo cao. Quốc hội quyết định: cần rà soát kỹ nguồn vốn nhà nước bố trí cho các dự án, công trình thuộc trách nhiệm đầu tư của ngân sách nhà nước sao cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thực hiện. Không bố trí vốn ngân sách nhà nước cho các dự án công trình không thuộc lĩnh vực ngân sách nhà nước đầu tư. Chính phủ việt nam vì được đặt trong bối cảnh chống lạm phát nên chính sách tài khóa của chính phủ trong thời gian vừa qua chỉ hướng đến mục đích giảm chi tiêu công (gồm đầu tư công và chi thường xuyên) và qua đó giảm tổng cầu. Cụ thể chính phủ chỉ định:  Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và tín dụng nhà nước.  Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước.  Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp. Tổng đầu tư nhà nước (từ ngân sách ,tín dụng nhà nước thông qua doanh nghiệp nhà nước ) luôn chiếm trên 50% tổng đầu tư của toàn xã hội.Vì vậy không nghi ngờ gì, nếu nhà nước có thể cắt giảm một số hạng mục đầu tư kém hiệu quả và có thứ tự ưu tiên thấp thì sức ép gia tăng lạm phát chắc chắn sẽ nhẹ đi .Cũng tương tự vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế bớt nếu các cơ quan nhà nước có thể cắt giảm chi tiêu thường xuyên (chiếm 56% tổng chi ngân sách năm 2007). Mặc dù việc cắt giảm chi tiêu là hoàn toàn đúng đắn, song hiệu lực của những biện pháp cụ thể đến đâu còn chưa chắc chắn vì ít nhất có 4 lý do :  Việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ dàng, nhất là khi những dự án này đã được các cơ quan lập các cấp quyết định ,dã dược đưa vào quy định của các bộ ,ngành địa phương ,đã được triển khai , và nhất là khi chúng gắn với lợi ích thiết thân của những cơ quan liên quan đến dự án.  Nhà nước hầu như không thể kiểm soát các khoản đầu tư của các DNNN một mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý đầu tư, và mặt khác là do một số tập đoàn lớn đã tự thành lập ngân hàng riêng.  Với tốc độ lạm phát nhanh như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng vốn đầu tư công theo đúng dự toán cũng được coi là một thành tích đáng kể.  Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng việc giảmchi thường xuyên rất khó khăn nên đây là hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt giảm . Hơn thế với thực tế ở việt nam thì phạm vi chi thường xuyên có thể cắt giảm không nhiều . Đầu tiên là phải trừ đi quỹ lương ( chiếm khoảng 2/3 tổng chi thường xuyên ),sau đó trừ đi các khoản phụ cấp có tính chất lương ,chi chính sách chế độ ,tiền đóng niêm liễn cho các tổ chức quốc te, các khoản chi thường xuyên đã được thực hiện … Theo ước lượng của bộ kế hoạch và đầu tư thì nếu làm thật quyết liệt thì sẽ giảm được khoảng 3000 tỷ đồng chi hội họp và mua sắm xe ,tức giảm được khoảng 0,8 tổng chi ngân sách nhà nước . 2. Vay nợ: a. Vay nợ trong nước. Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền kinh tế quá lớn đòi hỏi phải đi vay để bù đắp. Điều này được thể hiện qua việc chúng ta chỉ vay để đầu tư phat triển kết cấu ha tầng và các công trình trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển đất nước. Nhưng trên thực tế số tiền vay, đặc biệt của nước ngoài chưa được quản lý chặt chẽ .Tình trạng đầu tư dân trải ở các địa phương vẫn chưa đươc khắc phục triệt để tiến độ thi công nhưng dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả .Chính vì vậy các khoản đầu tư phát triển lấy từ nguồn vốn nay cả trong và ngoài nước cần đảm bảo các quy định của ngân sách nhà nước và mức bội chi cho phép hằng năm do quốc hội quyết định. Tập trung các khoản vay do trung ương đảm nhận các nhu cầu đầu tư của địa phương cần được xem xét và thực hiện bổ xung từ ngân sách cấp trên thực hiện như vậy, tránh được đầu tư tràn lan kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn quản lý chặt chẽ số bội chi ngân sách nhà nước. Hiên tại chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn cho vay đầu tư với nguồn nhân lực hạn hẹp. Nếu thực hiện thắt chặt, hạn chế vay để đầu tư sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đang có nhu cầu vay vốn rất cao. Nhưng nếu chung ta không kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của ngân sách nhà nước, nhất là vay vốn của ngân sách địa phương thi nguy cơ ảnh hưởng tới nên an ninh tài chính quốc gia, sự bền vững của ngan sách nhà nước.Thực hiên đầu tư tập trung cũng có lợi là bảo đảm phát triển hài hòa cân đối giưa các vùng miền trong toàn quốc . khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ kien quyết không bố trí nguồn chi thường xuyên cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu ,bả dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Có như vậy các địa phương phải tự cân đói nguồn kinh phí này chứ không thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách nhà nước. Vay trong nước được chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công trái, trái phiếu .Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay các dân cư ,các tổ chức kinh tế xã hội vầccs ngân hàng. Ở việt nam chính phủ thường ủy nhiệm cho kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức tín phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình. Năm Số tiền vay trong nước (tỷ đồng) 2007 43000 2006 36000 2005 32420 2004 27450 2003 22895 Ưu điểm: Đây là biện pháp cho phép chính phủ có thể giảm bội chi ngân sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dư trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm chế lạm phát. Nhược điểm: Việc khắc phục bội chi ngân sách bằng nợ tuy không gây ra lạm phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp lực lạm phát trong tương lai nếu như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng. Thứ nữa, việc vay từ dân trực tiếp sẽ làm giảm khả năng khu vực tư nhân trong việc tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm tăng lãi suất trong nước. Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta hiện nay), giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng , làm cho chúng trở nên ít hấp dẫn.Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ thể khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu.Tuy nhiên, nếu việc làm này kéo dài sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của chính phủ và khiến cho việc huy động vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó khăn hơn vào các năm sau . Một số điểm đã đạt được, đối với vay nợ trong nước: hàng năm ngân hàng phải huy động một khoản tiền nhàn rỗi trong nước tương đối lớn để bù đắp bội chi ngân sách. Để việc huy động vốn không ảnh hưởng lớn đến thị trường tiền tệ, đến lãi suất, Bộ tài chính thực hiện chính sách trước hết thực hiện vay vốn nhàn rỗi từ các quỹ tài chính nhà nước như: quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ tích lũy trả nợ ... phần còn thiếu sẽ thực hiện phát hành trái phiếu và tín phiếu chính phủ .Đối với tín phiếu (loại thời hạn1năm), thực hiện phối hợp với ngân hàng nhà nước đấu thầu (đấu thầu về lãi suất ) qua ngân hàng nhà nước, đây là biện pháp vừa để đảm bảo nguồn bù đắp bội chi cho ngân sách nhà nước , đồng thời cũng tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có nguồn vốn nhàn rỗi, chưa cho vay được thực hiện mua trái phiếu này (kết quả cho thấy trong năm qua nhiều tổ chức tín dụng đã mua tín phiếu kho bạc). b. Vay nợ nước ngoài. Chính phủ có thể giảm bội chi ngân sách bằng các nguồn vốn nước ngoài thông qua việc nhận viện trợ nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các chính phủ nước nước ngoài ,các định chế tài chính thế giới như ngân hàng thế giới(WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế … Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ ,các tổ chức nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính thức ODA. Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ mạnh ra nước ngoài,vay bằng hình thức tín dụng … Năm Số tiền vay nước ngoài (tỷ đồng) 2007 13500 2006 12500 2005 8326 2004 7253 2003 7041 2002 7125 Ưu điểm: Nó là một biện pháp giảm bội chi ngân sách hữu hiệu ,có thể bù đắp được các khoản bội chi mà lại không gây sức ép lạm pháp cho nền kinh tế .Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nhược điểm: Nó sẽ khiến chi gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên, giảm khả năng chi tiêu cho chính phủ. Đông thời ,nó cũng dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài.Thậm chí ,nhiều khoản vay,khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các điều khoản về chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc nhiều . Một số điểm đã đạt được, đối với vay nợ nước ngoài , thực hiện chính sách chỉ vay ưu đãi nước ngoài, không vay thương mại nước ngoài cho đàu tư phát triển .Đối với những khoản vay thương mại nước ngoài và nợ quá hạn trước đây đã được xử lý qua câu lạc bộ Pari và câu lạc bộ Luân Đôn. Thực hiện xử lý nợ với Nga, Angiêri… Nhờ thực hiện tốt quá trình cơ cấu lại nợ ,cũng như chính sách vay mới mà dư nợ Chính phủ hiện nay ở mức 35% GDP vào năm 2005, mức an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. 3. Vay nợ ngân hàng (in tiền): Chính phủ khi bị thâm hụt ngân hàng sẽ đi vay ngân hàng trung ương để bù đắp .đáp ứng nhu cầu này ,tất nhiên ,ngân hàng trung ương sẽ tăng việc in tiền .Điều này sẽ tạo ra thêm cơ sở tiền tệ . Chính vì vậy, nó được gọi là tiền tệ hóa thâm hụt. Ưu điểm: Nhu cầu tiền để bù đắp ngân sách nhà nước được đáp ứng một cá nhanh chóng, không phải trả lãi, không phải gánh thêm các gánh nặng nợ nần. Nhược điểm: Việc in thêm và phát hành thêm tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền. Nó đẩy cho việc lạm phát trở nên không thể kiểm soát nổi. Viêt Nam từ năm 1988 trở về trước bội chi ngân sách được nhà nước bù đắp chủ yếu bằng cách phát hành thêm tiền vào lưu thông dẫn đến tốc độ lạm phát rất cao, năm 1986 là 774,7%, năm 1987 là 223,1%, 1988 là 393,8%; nhưng từ năm1991 mặc dù bội chi ngân sách còn ở mức lớn, độ bù đắp bằng các biện pháp tích cực khác nên lạm phát đã giảm nhanh và đã được kiểm soát ở mức một con số cho đến nay. Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất ít khi được sử dụng. Và từ năm 1992 nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. 4. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước: Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định chính sách kinh tế vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế. Để thực hiện vai trò của mình, nhà nước sư dụng một hệ thống chính sách và công cụ quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế -xã hội, nhằm giải quyêt các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối quan hệ tăng trưởng và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn mội trường v.v…Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò vai trò quản lý của nhà nước đối với quản lý ngân sách nhà nước nói chung và xử lý bội chi ngân sách nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp thiết. VI. KẾT LUẬN: Như vậy. qua bài phân tích “ mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước và tăng trưởng kinh tế “ thì rõ ràng bội chi ngân sách là vấn đề quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hôi đất nước, được nhiều nước quan tâm. Dù có nhiều cách để chính phủ bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, nhưng phải sử dụng cách nào, nguồn nào thì còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế, chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia, bởi mỗi giải pháp bù bắp đều có những ưu nhược điểm làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô. Và hậu quả của bội chi ngân sách nhà nước là ảnh hưởng nghiêm trọng tới kinh tế xã hội của đất nước dù mức nào đi chăng nữa. Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần phải tính toán kỹ lưỡng để đưa ra các giải pháp bù đắp phù hợp với thực trạng hiện nay, khi nền kinh tế của Việt Nam đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền tài chính quốc gia cũng được đổi mới . MỤC LỤC  o o o o o o o  TÓM LƯỢT LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I. LÝ THUYẾT VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2 1. Khái niệm ngân sách nhà nước . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2 2. Chức năng ngân sách nhà nước . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2 3. Vai trò của ngân sách nhà nước . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3 4. Thu ngân sách nhà nước . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4 5. Chi ngân sách nhà nước . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .7 II. LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13 1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13 2. Các chỉ số đo lường về tăng trưởng kinh tế phổ biến . . . . . . . . . . . 14 III. MỐI QUAN HỆ GIỮA BCNSNN VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 16 1. Mặt tích cực . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 16 2. Mặt hạn chế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .18 IV. THỰC TRẠNG BCNSNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY . . . . . . . . . . . 24 1. Khái niệm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 24 2. Nguyên nhân BCNSNN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . .. . . . . . . .. 25 3. Thực trạng BCNSNN ở Việt Nam hiện nay . . . . . . . . . . . . . . . . .25 V. CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC BCNSNN HIỆN NAY . .. . . . . . . . .28 1. Tăng thu giảm chi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . .. . . . .28 2. Vay nợ . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 31 3. Vay nợ ngân hàng ( In tiền ). . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 34 4. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 35 VI. KẾT LUẬN . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO  o o o o o o o  1. PGS. TS. SỬ ĐÌNH THÀNH và PGS. TS. VŨ THỊ MINH HẰNG (2008), Giáo trình Lý Thuyết Tài Chính – Tiền tệ , NXB Lao động – Xã hội. 2. 3. .406487.html 4. kinh-te-vi-mo-20110406094139657ca33.chn 5. sach-nam-nay/6598.tctc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbia_tai_chinh_tien_te_nhom_7_de_tai_2_8775.pdf
Luận văn liên quan