Qua 4 thời kỳ đại hội của Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (Asia - Europe Meeting, ASEM),
tiến trình hợp tác Á - Âu ngày càng được phát triển, nổi lên trong đó là mối quan hệ EU-ASEAN. EU tìm thấy ở ASEAN và châu Á một thị trường khổng lồ với hơn 4 tỷ dân, nơi
có nguồn lao động dồi dào và tương đối rẻ, một thị trường đầu tư to lớn với tỷ suất hấp
dẫn và một thị trường buôn bán đầy tiềm năng; nơi các quốc gia đang thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ nhanh cần nhiều công nghệ, kỹ thuật, vốn đầu tư,
hàng hoá có chất lượng cao mà EU có thế mạnh. Mở rộng buôn bán với một ASAN đang
phát triển sôi động, EU có điều kiện mở rộng buôn bán thương mại, phát triển kinh tế, tạo
thêm việc làm giúp giải quy ết một phần nạn thất nghiệp mang tính cơ cấu đang đè nặng
lên các nước EU.
21 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3267 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tổng quan về chính sách thương mại EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI EU
2
I. Khái quát:
Lịch sửa Liên minh châu Âu bắt đầu từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2. Có thể nói chính nguyện
vọng ngăn ngừa chiến tranh tàn phá tái diễn đã đẩy mạnh sự hội nhập châu Âu. Ngày 9/5/1950,
Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman đã nêu ra ý tưởng và đề xuất trong bài phát biểu nổi
tiếng (ngày này hiện cũng được coi là ngày sinh nhật của Liên minh châu Âu). Ngày 18-4-
1951, sáu quốc gia gồm Pháp, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, Italia và CHLB Đức đã ký hiệp ước
thành lập Cộng đồng Than Thép châu Âu gọi tắt là ECSC. Các ngành công nghiệp than và thép,
những ngành và nguồn lực then chốt phục vụ chiến tranh, không nên được quản lý bởi từng quốc
gia riêng lẻ mà cần được đặt dưới sự kiểm soát chung độc lập đối với các quốc gia.
Vào tháng 3-1957, sáu quốc gia này ký tiếp các hiệp ước thành lập Cộng đồng kinh tế chung
châu Âu (EEC) và Cộng đồng nguyên tử Châu Âu (EURATOM) tại Rôma. Mục đích của EEC là
thiết lập nên một thị trường chung làm nền tảng cho những bước hội nhập tiếp theo. EEC là một
liên minh thuế quan, thương mại hàng hoá giữa các quốc gia thành viên được miễn thuế và có
một hệ thống thuế quan chung đối với thị trường các quốc gia ngoài Liên minh. EEC,
EURATOM và ECSC được gọi chung là Cộng đồng châu Âu (EC). Bản dự thảo xây dựng Liên
minh châu Âu trong tương lai bao gồm: Cộng đồng châu Âu (EC), hình thành chính sách đối
ngoại và an ninh chung và hình thành sự hợp tác trong chính sách đối nội và tư pháp.
Tháng 2-1992, các nhà lãnh đạo nhà nước và chính phủ của các quốc gia thành viên Cộng đồng
châu Âu EC đã ký Hiệp ước về Liên minh châu Âu (EU). Nội dung cốt lõi của Hiệp ước này là
những qui tắc về một liên minh kinh tế và tiền tệ (EMU). EU được thành lập bởi Hiệp ước
Maastricht vào 1/1/1993 dựa trên Cộng đồng châu Âu (EC). EMU bắt đầu có hiệu lực từ
1/1/1999. Như vậy, chủ quyền về chính sách tiền tệ chuyển từ các ngân hàng trung ương quốc
gia sang Ngân hàng Trung ương châu Âu. Đồng tiền chung Euro bắt đầu được đưa vào sử dụng.
Đầu năm 2002, với việc phát hành tiền giấy và tiền xu Euro, việc thống nhất tiền tệ đã hoàn
thành. Đến nay EU đã có 27 quốc gia thành viên chủ yếu thuộc Tây Âu.
- 1973: Đan Mạch, Ireland, Anh
- 1981: Hy Lạp
- 1986: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
3
- 1995: Áo, Phần Lan, Thụy Điển
- 1/5/2004: Séc, Hungary, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia, Malta,
Cộng hòa Síp.
- 1/1/2007: Romania, Bungary
EU đã phát triển một thị trường chung thông qua hệ thống pháp luật tiêu chuẩn áp dụng cho tất
cả các nước thành viên nhằm đảm bảo sự lưu thông tự do của con người, hàng hóa, dịch vụ và
vốn. EU duy trì các chính sách chung về thương mại, nông nghiệp, ngư nghiệp và phát triển địa
phương. Mười sáu nước thành viên đã chấp nhận đồng tiền chung Euro tạo nên khu vực đồng
Euro. EU đã phát triển một vai trò nhất định trong chính sách đối ngoại, có đại diện trong Tổ
chức Thương mại Thế giới, G8, G20 và Liên hiệp quốc. Liên minh châu Au đã thông qua việc
bãi bỏ kiểm tra hộ chiếu bằng Hiệp ước Schengen giữa 22 quốc gia thành viên và 3 quốc gia
không phải là thành viên Liên minh châu Âu. Là một tổ chức quốc tế, EU hoạt động thông qua
một hệ thống chính trị siêu quốc gia và lien chính phủ hỗn hợp. Những thể chế chính trị quan
trọng của EU bao gồm Ủy ban châu Âu, Hội đồng Liên minh châu Âu, Hội đồng châu Âu, Tòa
án Công lý Liên minh châu Âu và Ngân hàng Trung ương châu ÂU.
Tổng GDP của EU là 60.000 tỷ USD trong năm 2010. Tổng xuất nhập khẩu của EU đứng đầu
thê giới.
Vào năm 2008:
- EU xuất khẩu hơn 1300 tỷ USD (đứng thứ nhấtt)
- EU nhập khẩu hơn 1500 tỷ USD (đứng thứ nhất)
=> EU là đối tác thương mại quan trọng của các nền kinh tế lớn trên thế giới.
4
Biểu đồ xuất nhập khẩu của các nền kinh tế lớn trong năm 2008:
Biểu đồ xuất nhập khẩu qua các năm gần đây của EU:
(nguồn: eurostat)
5
Có thể thấy từ năm 2004-2008,, xuất nhập khẩu của EU tăng dần nhưng từ 2008-2009, lượng
xuất nhập khẩu của EU tụt xuống 1 cách nhanh chóng. Đây chính là hậu quả của khủng hoảng
kinh tế thế giới từ năm 2007, cho đến cuối năm 2008 nó đã ảnh hưởng đến nền kinh tế EU một
cách rõ rệt.
EU là một thị trường lớn trên thế giới, có thu nhập, mức sống cao và khá đồng đều,
có yêu cầu rất khắt khe về chất lượng và độ an toàn của sản phẩm nói chung
Các mặt hàng EU xuất khẩu bao gồm máy móc, mô tô, hàng không, nhựa, dược
phẩm, hóa chất, nhiên liệu, giấy, dệt kim, hàng tiêu dùng… nhưng trong đó mặt hàng chủ
yếu mà EU xuất khẩu là máy móc và phương tiện vận tải
Các mặt hàng EU nhập khẩu bao gồm máy móc, phương tiện vận tải, hàng không,
nhựa, dầu thô, hóa chất, hàng dệt may, kim loại, thực phẩm…
II. Chính sách thương mại chung của EU:
1. Chính sách thương mại nội khối
EU ngày nay được xem như là một đại quốc gia ở Châu Âu. Bởi vậy, chính sách thương mại
chung của EU cũng giống như chính sách thương mại của một quốc gia. Nó bao gồm chính sách
thương mại nội khối và chính sách ngoại thương.
1. Chính sách thương mại nội khối
Chính sách thương mại nội khối tập trung vào việc xây dựng và vận hành thị trường chung Châu
Âu nhằm xoá bỏ việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc gia, biên giới hải quan (xoá bỏ các hàng
rào thuế quan và phi quan thuế) để tự do lưu thông hàng hoá, sức lao động, dịch vụ và vốn; và
điều hoà các chính sách kinh tế và xã hội của các nước thành viên.
Một thị trường chung Châu Âu bảo đảm tạo ra các cơ hội tương tự cho mọi người trong thị
trường chung và ngăn ngừa cạnh tranh được tạo ra do sự méo mó về thương mại. Một thị trường
đơn lẻ không thể vận hành một cách suôn sẻ nếu như không thống nhất các điều kiện cạnh tranh
áp dụng. Vì mục đích này, các nước EU đều nhất trí tạo ra một hệ thống bảo hộ sự cạnh tranh tự
do trên thị trường.
6
2. Chính sách ngoại thương
Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương chung đối với các
nước ngoài khối. Uỷ ban Châu Âu (EC) là người đại diện duy nhất cho Liên Minh trong việc
đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này.
Chính sách ngoại thương của EU gồm chính sách thương mại tự trị và chính sách thương mại
dựa trên cơ sở Hiệp định, được xây dựng dựa trên các nguyên tắc sau: không phân biệt đối xử,
minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong
chính sách này là thuế quan, hạn chế về số lượng, hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ
cấp xuất khẩu.
EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá, đẩy mạnh tự do hoá thương mại. Hiện nay,
các nước thành viên EU cùng áp dụng một biểu thuế quan chung đối với hàng hoá xuất nhập
khẩu. Các chính sách phát triển ngoại thương của EU từ 1951 đến nay là những nhóm chính sách
chủ yếu sau: Chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính sách thay thế nhập khẩu, chính sách tự
do hoá thương mại và chính sách hạn chế xuất khẩu tự nguyện. Việc ban hành và thực hiện các
chính sách này có liên quan chặt chẽ đến tình hình phát triển kinh tế, tiến trình nhất thể hóa Châu
Âu và khả năng cạnh tranh trong từng thời kỳ của các sản phẩm của Liên Minh trên thị trường
thế giới.
Để đảm bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại, EU đã thực hiện các biện pháp: Chống bán
phá giá (Anti-dumping), chống trợ cấp xuất khẩu và chống hàng giả. EU đã ban hành chính sách
chống bán phá giá và áp dụng thuế “chống xuất khẩu bán phá giá” để ngăn chặn tình trạng hàng
hoá xâm nhập ồ ạt từ bên ngoài vào cũng như để bảo vệ cho các nhà sản xuất trong nước.Trong
khi đó, các biện pháp chống hàng giả của EU cho phép ngăn chặn không cho nhập khẩu những
hàng hoá đánh cắp bản quyền.
Bên cạnh đó, EU còn sử dụng một biện pháp để đẩy mạnh thương mại với các nước đang phát
triển và chậm phát triển. Đó là Hệ thống Ưu đãi Thuế quan Phổ cập (GSP). Trong hệ thống GSP
của EU qui định khuyến khích tăng thêm mức ưu đãi 10%, 20%, 35% đối với hàng nông sản và
15%, 25% và 35% đối với hàng công nghệ phẩm. Theo GSP của EU bắt đầu có hiệu lực từ
1/7/1999 thì những trường hợp sau được hưởng ưu đãi thêm:
- Bảo vệ quyền của người lao động.
- Bảo vệ môi trường.
7
Bằng cách này, EU có thể làm cho nhóm các nước đang phát triển và nhóm các nước chậm phát
triển dễ dàng thâm nhập vào thị trường của mình. Nhóm các nước chậm phát triển được hưởng
ưu đãi cao hơn nhóm các nước đang phát triển.
A- CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI EU-MỸ
I- Tổng quan
Không có một mối quan hệ kinh tế nào trên thế giới lại có sự gắn kết chặt chẽ và lớn
mạnh như quan hệ thương mại nối hai bờ Đại Tây Dương : Liên minh châu Âu và Hoa
Kỳ.
Nền kinh tế của Eu và Hoa Kỳ kết hợp đã chiếm khoảng một nửa của tổng GDP toàn thế
giới. (Tổng 2009: Mỹ : 14.119 tỷ USD; EU: 16.447 tỷ USD; Toàn thế giới: khoảng 62 tỷ
USD - Nguồn Wikipedia)
- Kim ngạch xuất nhập khẩu 2 chiều là 364,2 tỷ Euro.
- Trong đó EU xuất 204,4 tỷ Euro. Mặt hàng chủ yếu máy móc, các phương tiện
giao thông, hóa chất. khoáng sản, nhiên liệu
- EU nhập 159,8 triệu Euro. Mặt hàng chủ yếu là máy móc, các phương tiện giao
thông, hóa chất.
Số liệu 2009 – Nguồn: Ủy ban thương mại của Liên minh châu Âu.
Như vậy, Mỹ là đối tác xuất khẩu số 1 và là đối tác nhập khẩu đứng thứ 2 của Liên minh
châu Âu. (Xuất khẩu vào Mỹ chiếm 18,7% và nhập khẩu từ Mỹ chiếm 13,3% kim ngạch
xuất - nhập khẩu của EU)
Chính sách thương mại của EU với Hoa Kỳ rất được chú trọng vì Hoa Kỳ là một trong
hai đối tác thương mại lớn nhất bên cạnh Trung Quốc của LM châu Âu.
II- Chính sách
8
Chính sách thương mại bao trùm là : Tăng cường, làm sâu sắc hơn quan hệ thương
mại với đối tác chiến lược Hoa Kỳ.
- Trên lĩnh vực nông nghiệp, chính sách này thể hiện ở việc cam kết giảm các rào cản
thương mại cho đối tác Hoa Kỳ. (Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) ngày 27/10/2009 cam
kết sẽ hợp tác để giảm bớt những hàng rào quy định vốn đang cản trở hoạt động thương
mại xuyên Đại Tây Dương.)
Một nghiên cứu mới đây đã giúp Ủy ban Châu Âu kết luận rằng GDP của EU và Hoa Kỳ
sẽ có thể tăng thêm khoảng 160 tỷ Euros và xuất khẩu có thể tăng 2,1% và 6,1% cho EU
và Hoa Kỳ nếu một nửa hàng rào phi thuế quan và sự khác biệt về quy định được gỡ bỏ.
- Ngoài ra, EU và Hoa Kỳ hợp tác trên lĩnh vực điều hành quản lý trong khuôn khổ của
Ủy ban kinh tế xuyên Thái Bình Dương được thành lập năm 2007.
Từ năm 2007 với sự đồng thuận trên thỏa thuận khung về việc tăng cường hội nhập kinh
tế xuyên Đại Tây Dương, hai bên đã cam kết nỗ lực giảm các rào cản đối với thương mại
và đầu tư xuyên Đại Tây Dương, đồng thời cam kết tiếp tục duy trì các cơ chế đầu tư mở
và tạo điều kiện cho các luồng vốn đầu tư nhằm thúc đẩy tăng trưởng và tạo việc làm. EU
và Mỹ đã thành lập Hội đồng Kinh tế xuyên Đại Tây Dương (TEC). TEC có nhiệm vụ
theo dõi các nỗ lực nhằm thúc đẩy hội nhập kinh tế xuyên Đại Tây Dương trong một loạt
lĩnh vực quan trọng như sở hữu trí tuệ, đầu tư, an ninh thương mại và thị trường tài chính.
Thực tế, một thị trường chung sẽ đem lại lợi ích cho cả Mỹ và EU vì nó thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế cũng như tăng khả năng cạnh tranh của các nền kinh tế này.
Tuy nhiên, mặc dù thấy rõ lợi ích của tăng cường hợp tác kinh tế nhưng giữa Mỹ và EU
vẫn tồn tại những nghi kỵ và bất đồng bởi hai bên không chỉ là đối tác mà còn là đối thủ
cạnh tranh của nhau. Và Hội nghị thượng đỉnh G20 vừa qua chính là một minh chứng rõ
ràng sự giằng co giữa hai tiềm lực kinh tế hùng mạnh này. Thêm nữa, bối cảnh thâm hụt
ngân sách nặng nề khiến các thành viên EU phải cắt giảm chi tiêu vào thời gian, đồng
nghĩa với việc giảm nhập khẩu ngay trước các cuộc đàm phán sắp tới về ngân sách EU
giai đoạn sau năm 2013,
9
- EU chỉ trích các chính sách bảo hộ nông nghiệp của Hoa Kỳ nhưng cũng ra sức bảo
hộ nền nông nghiệp nội khối.
+ Từ 2005, để bảo hộ cho sản xuất nông nghiệp tại 27 nước thành viên trong điều
kiện sản xuất nông nghiệp không có nhiều thuận lợi, EU đã liên tục dựng lên các
hàng rào phi thuế quan đối với nông phẩm nhập khẩu; như Cấm nhập khẩu, yêu
cầu Giấy phép nhập khẩu, đưa ra hạn ngạch nhập khẩu và các hàng rào về mặt kỹ
thuật.
- Ủy ban châu Âu muốn thay đổi Chính sách Nông nghiệp chung (CAP) vốn “nuốt
chửng” một nửa ngân sách của Liên minh châu Âu, nhưng vấp phải sự phản đối của hai
thành viên trụ cột là Đức và Pháp.
III- Đánh giá
- Như vậy, Hoa Kỳ đóng vai trò thiết yếu trong cstm của EU.
- Trong tương lai, quan hệ thương mại giữa hai bên đang hứa hẹn nhiều triển vọng mới
với sự hợp tác chặt chẽ.
B- CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI EU-NGA
I. Tổng quan
Hiện nay, EU là đối tác thương mại chính, là nguồn đầu tư nước ngoài cơ bản đối với
nền kinh tế Nga. Nga là đối tác cung cấp hơn 30% nhập khẩu năng lượng của EU trong
khi đó EU là thị trường chiếm tới 57% xuất khẩu của Nga và đầu tư trực tiếp của các
nước EU chiếm 76% tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Nga.. Đối với EU, Nga không
chỉ là nguồn cung cấp khí đốt cho EU mà còn là một đối tác quan trọng giúp EU cân bằng
ảnh hưởng của mình tại các khu vực chiến lược
II. Chính sách thương mại
1. Hợp tác với Nga để có nguồn cung cấp dầu mỏ , khí đốt
10
Nga là nhà cung cấp dầu khí tin cậy cho nhiều nước và khu vực, trong đó có Liên hiệp châu Âu.
Nga cung cấp cho EU 1/3 số dầu và 40% sản lượng gas của mình. Châu Âu phải phụ thuộc rất
lớn vào Nga về các các nguồn năng lượng.
EU đã đề nghị mở rộng thị trường EU cho các công ty Nga để đổi lại việc Moscow tạo điều kiện
cho EU đầu tư vào các dự án năng lượng ở Nga. EU cũng cố gắng thuyết phục Nga ký vào
Tuyên bố Năng lượng, quy định về việc quá cảnh các đường ống dẫn dầu, khí đốt và đầu tư trong
lĩnh vực năng lượng, cũng như mở rộng thị trường cạnh tranh cho giới đầu tư ngoài nước. Bên
cạnh đó, mục đích chính của EU là mong muốn thể hiện một quan điểm duy nhất của khối về
vấn đề năng lượng đối với Nga, nước đang cung cấp 50% khí đốt cho châu Âu. Số liệu thống kê
chính thức cho thấy tỷ lệ này sẽ nâng lên ở mức 70% vào năm 2030.
2. Tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực
- Hai bên đã nhiều lần cùng thảo luận chiến lược thoát khỏi hậu quả của cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu mà cả EU và Nga đang đối mặt
- EU tích cực ủng hộ nỗ lực của Nga gia nhập WTO vào năm 2011.
- Nga và EU, thực hiện các chương trình chung về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ; hợp
tác năng lượng, khoa học - giáo dục nhằm bảo đảm vị trí dẫn đầu của lĩnh vực này ở châu
Âu; loại bỏ những vật cản mà trước hết là hủy bỏ quy chế áp dụng thị thực giữa EU và
Nga.
3. Đưa ra những dự định đưa quan hệ lên một tầm cao mới.
- Dự án Hiệp ước Đối tác Nga – EU : nhằm vào các lĩnh vực hợp tác chính như việc
thành lập một Khu vực tự do Mậu dịch Nga – EU, dỡ bỏ từng bước những rào cản về
nhập cư và dịch chuyển lao động thông qua hệ thống thị thực mới và nhất là một
khuôn khổ pháp lý mới cho hợp tác trong lĩnh vực năng lượng
- Hình thành khu vực tự do thương mại Nga- Châu Âu ( FTA ). Đây là ý tưởng của Nga
và EU cũng rất ủng hộ
III. Đánh giá
11
Cho dù có những lúc quan hệ giữa EU – Nga có bị ảnh hưởng xấu đi bởi các yếu tổ chính
trị , khủng hoảng dầu lửa … thì Nga vẫn luôn là đối tác quan trọng và mang tầm chiến
lược trong chính sách thương mại của EU, thúc đẩy EU triển khai những chính sách mới ,
bắt tay với Nga , đôi bên cùng có lợi.
C- CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI EU-TRUNG QUỐC
I. TỔNG QUAN
Có thể nói chính sách thương mại với Trung Quốc là một trong những vấn đề then chốt
đối với nền kinh tế đối ngoại của Liên minh Châu Âu.
Tính đến hiện nay, EU với 27 thành viên là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc,
trong khi đó Trung Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 2 sau Mỹ và là nguồn nhập khẩu
lớn nhất của EU. Trong 11 tháng đầu năm 2010, kim ngạch thuong mại hai chiều đạt
433,88 tỷ USD, tăng 33,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Nửa đầu năm 2010, xuất khẩu của
Liên minh châu Âu sang Trung Quốc tăng 42%. Trong đó có tới 85% là hàng thành
phẩm, hằng năm có thể tạo ra gần 3 triệu việc làm cho Liên minh châu Âu.
Quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Liên minh châu Âu đã trở thành một trong
những mối quan hệ song phuong có tầm ảnh huởng nhất trên thế giới.
II. CHÍNH SÁCH:
Mặc dù chưa bao giờ thừa nhận nhưng có thể thấy chính sách thương mại của EU có thể
nói thiên về chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch.
Nhằm bảo vệ nền kinh tế nội khối, EU đã áp dụng những biện pháp nhằm tác động trực
tiếp đến việc nhập khẩu của các nước vào lãnh thổ mình và Trung Quốc cũng không phải
là ngoại lệ.
Thời gian gần đây, để bảo vệ quyền lợi của mình EU đã nhiều lần tố cáo Trung Quốc về
các quyền sở hữu trí tuệ, tỷ giá đồng Nhân Dân Tệ, mở các cuộc điều tra về chất lượng
sản phẩm cũng như áp đặt thuế chống bán phá giá các mặt hàng Trung Quốc.
12
Cụ thế:
- 12/2009: EU áp thuế chống bán phá giá giày mũ da Trung Quốc: 9,7 ->
16,5%
- 16/9/2010: EU đề xuất tăng thuế nhập khẩu sợi thủy tinh từ Trung Quốc 7 -
> 50,6%. Nếu đề xuất này được thông qua thì sẽ bắt đầu có hiệu lực
3/2011.
- 27/7/2009: EU áp thuế chống bán phá giá 5 năm 17,7% -> 39,2% đối với
thép cuộn Trung Quốc.
Đáp trả lại, TQ cũng đã có những phản ứng gay gắt:
- 22/3/2010, Trung Quốc mở cuộc điều tra chống bán phá giá với 1 sản phẩm
hóa chất và 1 sản phẩm sợi hóa học của EU và Mỹ.
- 28/12/2009, Trung Quốc áp thuế chống bán phá giá ốc vít EU 24,6%.
- Hạn chế xuất khẩu 1 số nguyên liệu, khoáng sản chiến lược cần cho ngành
công nghiệp EU.
- 9/9/2008, Giám đốc ban Thương mại Trung Quốc đã lên án EU vì áp dụng
ồ át các biện pháp chống bán phá giá hàng Trung Quốc.
Điều này đã làm cho việc xuất khẩu và đầu tư của các doanh nghiệp EU sang Trung Quốc
cũng như các thị trường khác gặp khó khăn khi nước này thắt chặt nhập khẩu và đầu tư
EU. Việc Bắc Kinh hạn chế xuất khẩu các nguyên liệu thô cũng làm giá của các nguyên
liệu này tăng trên trường quốc tế gây trở ngại cho ngành công nghiệp nặng của EU.
Ngoài ra với thế thượng phong về loại tài nguyên mà thế giới đang khao khát – đất hiếm,
Trung Quốc đã làm EU, Mỹ điêu đứng trong việc sản xuất ra các sản phẩm công nghệ
cao: máy bay, hàng điện tử, tuabin gió, ô tô…
Bên cạnh đó, bởi tính phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ 2 bên cũng như việc Trung Quốc
cam kết giúp EU vượt qua khủng hoảng tài chính, thâm hụt thương mại cũng như sự mất
giá của đồng Euro và cả vì sự phản đối của một bộ phận các nhà chức trách trong khối sẽ
13
làm việc sản xuất thành phẩm Công Nghiệp EU khó khăn hơn, người tiêu dùng cũng phải
chịu giá hàng hóa cao hơn sẽ tác động tiêu cực đến việc phát triển thương mại mà gần
đây EU đã có những động thái nhượng bộ:
- 1/1/2008, theo thỏa thuận những rào cản về lượng sản phẩm dệt may của
Trung Quốc xuất sang EU được dỡ bỏ. (bản tin thương mại 29/10/2007 )
- Trong cuộc đàm phán nội khối thì 4/2011 EU sẽ dỡ bỏ trưng thu thuế chống
bán phá giá đối với hàng giày da TQ & VN.
- Trong cuộc họp kinh tế thương mại cấp cao EU – TQ 21/12/2010 tại Bắc
Kinh, EU đồng ý sẽ tăng cường tiếp xúc để sớm công nhận TQ là nền kinh
tế thị trường.
III. ĐÁNH GIÁ:
Như vậy Trung Quốc là một đối tác đóng vai trò vô cùng quan trọng trong Chính sách
Tương Mại của EU.
Trong thời đại toàn cầu hóa, với tính phụ thuộc lẫn nhau ta có thể hi vọng rằng: giữa liên
minh phát triển bậc nhất thế giới Châu Âu và nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh nhất:
Trung Quốc trong tương lai quan hệ giữa 2 bên sẽ vô cùng sáng lạn như lời của thủ tướng
Ôn Gia Bảo: loại bỏ sự hiểu lầm, bằng sự bình tĩnh, trí tuệ và dũng khí thúc đẩy phát triển
quan hệ Kinh tế - Thương mại EU – Trung Quốc.
( Nguồn: TTXVN/Vietnam+, BBC,
)
D- CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI EU-NHẬT BẢN
I- Tình hình chung
Thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa EU và Nhật luôn có chiều hướng phát triển thuận
lợi. Tuy nhiên, Giai đoạn 2000-2007, xuất khẩu của EU sang Nhật đã giảm nhẹ, từ 45,5
14
tỷ euro (71,9 tỷ USD) xuống 43,7 tỷ euro, và nhập khẩu của EU từ Nhật Bản cũng giảm
15%, từ 92,1 tỷ euro xuống 77,9 tỷ euro. Thặng dư thương mại của EU với Nhật Bản
theo đó cũng sụt giảm, từ 46,6 tỷ euro năm 2000 xuống 34,2 tỷ euro năm 2007.
Riêng năm 2007, Nhật Bản chiếm khoảng 4% và 6% hàng nhập khẩu và xuất khẩu của
EU và là đối tác thương mại quan trọng thứ 5 của EU. Hơn 1/3 hàng xuất khẩu của EU
sang Nhật trong năm 2007 là máy móc, xe cộ và 1/4 là các mặt hàng công nghiệp khác.
EU nhập từ Nhật chủ yếu là xe hơi, phụ tùng xe hơi, máy in và máy ảnh kỹ thuật số….
II- Chính sách thương mại của EU với Nhật
Liên minh châu Âu đang cải cách sâu rộng và toàn diện thể chế và luật pháp cho phù hợp
với tình hình mới. Nét đặc trưng trong chính sách thương mại của EU là bảo hộ nông
nghiệp, bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. Hiện nay, 25 nước thành
viên EU áp dụng một biểu thuế quan chung đối với hàng hoá XNK. Đối với hàng nhập
khẩu, mức thuế trung bình đánh vào hàng nông sản là 18%, hàng công nghiệp là 2%.
1. Với Nhật chính sách thương mại bao trùmcủa Eu với đối tác này là việc tăng cường
mở rộng hợp tác thương mại, tiếp cận thị trường Nhật ngày càng sâu rộng trên nhiều lĩnh
vực để tạo ra dòng chẩy thương mại cân bằng với các cơ hội kinh doanh lớn và mới hơn
nhằm thắt chặt và liên tục mối quan hệ thương mại đó.
2. Tiếp tục thắt chạt quan hệ thương mại song phương với nhật bản bằng việc tham gia
đàm phán kí kết các hiệp định thương mại song phương với Nhật, tạo điều kiện thuận lợi
cho thương mại 2 bên gặp nhiều thuận lợi:
Để cải thiện tiếp cận thị trường tại Nhật Bản, EU đã làm việc song phương ở các cấp, đặc
biệt là thông qua việc cải cách điều tiết đối thoại, trong đó có sản xuất cho đến nay đã đạt
được một số kết quả cụ thể đó là việc EU nhận được nhiều tiến bộ nhanh chóng và toàn
diện tại Nhật Bản tạo được được dòng chảy thương mại cân bằng hơn. Cả hai đối tác và
đại lý kinh tế của họ phải được sáng tạo trong việc tạo ra cơ hội kinh doanh hơn, thắt chặt
và thâm nhập liên tục
Bên cạnh cam kết với các nước thành viên WTO, EU ký nhiều hiệp định thương mại và
các hiệp định ưu đãi khu vực và song phương và dành chế độ MFN toàn phần cho sản
15
phẩm nhập khẩu, Eu tiếp tục tham gia các hiệp định ngành hàng song phương với Nhật.
Hiệp định EU-Nhật Bản Công nhận lẫn nhau có hiệu lực từ ngày 1 tháng Giêng năm
2002, giấy phép chấp nhận đánh giá sự phù hợp do một Bên tiến hành, theo quy định
trong bốn lĩnh vực sản phẩm (thiết bị đầu cuối viễn thông và thiết bị vô tuyến, các sản
phẩm điện, phòng thí nghiệm thực hành tốt đối với hóa chất và thực hành tốt sản xuất cho
dược phẩm), một bước quan trọng trong việc thúc đẩy tiếp cận thị trường; Hiệp định Hợp
tác về chống hoạt động cạnh tranh đã được thông qua bởi Hội đồng Châu Âu ngày 16
tháng năm 2003. Thỏa thuận này sẽ tạo điều kiện cho cả thương mại và đầu tư bằng cách
đảm bảo một sân chơi giữa trong và bên ngoài.
III- Đánh giá
Thíêt lập quan hệ thương mại với Nhật là cơ hội tốt cho định hướng phát triển kinh tế
ngày càng tốt hơn của EU.Đấy là một đòn bẩy để thay đổi dòng chảy thương mại và dịch
vụ của cả 2 đối tác. Tuy nhiên, thực tế là Nhật Bản thương mại và thặng dư tài khoản
hiện tại có từ năm 1995 vẫn ở mức cao, ngay cả khi nền kinh tế đang phát triển, là một sự
phản ánh một phần của vấn đề tiếp cận thị trường tiếp tục cho các công ty nước ngoài ở
Nhật Bản. Đã có những thăng trầm, nhưng xu hướng trong mười năm qua không thể
được cho là đã cải thiện nhiều. Để kích hoạt các công ty EU đầu tư tự do ở Nhật Bản, trở
ngại cơ cấu để đầu tư vào thị trường Nhật Bản nên được loại bỏ. Đây sẽ là lợi ích của
việc cải thiện tiếp cận thị trường, mà còn vì lợi ích riêng của Nhật Bản vào thời điểm mà
nhiều công ty đang tìm kiếm để khai thác vào nguồn vốn nước ngoài thông qua quan hệ
đối tác hoặc đi-overs. EU và Nhật Bản tiếp tục tăng cường đối thoại vào đầu tư để các
ngành công nghiệp tương ứng với đầy đủ lợi ích từ việc cải thiện khuôn khổ pháp lý và
đề án xúc tiến tại Châu Âu và Nhật Bản với mong muốn hợp tác hiệu quả hơn về các chủ
đề quan tâm toàn cầu như thành lập các sáng kiến chung hoặc các biện pháp cụ thể trong
các lĩnh vực cụ thể của lãi suất thông thường nhằm tạo thuận lợi cho đầu tư, quyền sở
hữu trí tuệ …
Sources:
giam-trong-giai-doan-2000-2007.aspx
16
E- CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI EU-ASEAN
I. Tổng Quát:
Trong chiến lược phát triển của EU, hợp tác kinh tế khu vực là một trong những nội dung
quan trọng, nhất là trong xu hướng hợp tác toàn cầu như hiện nay. Đối tác của EU có rất
nhiều nhưng ASEAN hiện là đối tác mà EU rất quan tâm, coi là đối tác chiến lược trong
mọi lĩnh vực trong đó có kinh tế. Giữa EU và ASEAN có rất nhiều điểm khác biệt như về
lịch sử, văn hoá, mức độ phát triển kinh tế, xã hội, các thế mạnh về kinh tế, vị trí địa
lý..Tuy nhiên EU và ASEAN đều mong muốn có sự hợp tác về kinh tế bởi cả hai đều tìm
thấy được những lợi ích mà sự hợp tác đó đem lại cho sự phát triển kinh tế của mỗi bên.
Từ ngày EU mở rộng, ASEAN trở thành đối tác thương mại lớn thứ 5 sau Mỹ và Nhật
Bản, Trung Quốc và Liên bang Nga. Các chỉ số thương mại năm 2006 cho thấy EU đang
là thị trường lớn thứ hai của các nước Đông Nam Á.Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của EU
vào ASEAN trong những năm gần đây lớn hơn nguồn vốn của EU đầu tư vào các đối tác
châu Á khác. Với quy mô hợp tác phát triển rộng lớn, EU đã cam kết khoản ngân quỹ
1,25 tỷ Euro cho hợp tác phát triển với các nước Đông Nam Á. Tài trợ của EU cho hội
nhập khu vực và tăng cường năng lực đạt mức 10 triệu Euro một năm. Qua những con số
sau không chỉ cho thấy sức nặng của quan hệ kinh tế hiện có mà còn chỉ rõ tiềm năng
phát triển quan hệ tiềm năng hợp tác giữa EU và ASEAN :
- ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ 3 của EU ngoài châu Âu sau Mỹ và Trung
Quốc. Thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa EU và ASEAN đã tăng hơn 25% từ năm
2004 - 2008, đạt 175 tỷ Euro trong năm 2008.
- Tổng kim ngạch thương mại hàng năm giữa các quốc gia thành viên Liên minh Châu
Âu (EU) và các nước trong khu vực ASEAN đạt khoảng 175 tỷ euro, tương đương với
240 tỷ đôla Mỹ
- Năm 2009, tổng kim ngạch hai chiều giữa EU và ASEAN đạt trên 100 tỉ USD.
17
II. Chính sách:
Năm 1972, EC khi đó là đối tác đối thoại không chính thức đầu tiên thiết lập quan hệ với
ASEAN, mở ra những diễn đàn đối thoại quan hệ giữa hai bên. Tháng 9-1978, ASEAN
và EU bắt đầu thể chế hóa một bước mối quan hệ này bằng cách quyết định tổ chức hội
nghị bộ trưởng ngoại giao giữa đôi bên. Tháng 3-1980, ASEAN và EU ký Hiệp ước hợp
tác song phương. Năm 1994, EU thông qua “Chiến lược mới đối với châu Á” và năm
1996 thông qua “Tuyên bố về tạo ra một sự năng động mới trong quan hệ EU-ASEAN”.
Trước đó, quan hệ đối thoại ASEAN - EC được củng cố và nâng lên ở mức cao hơn khi
thông qua sáng kiến tổ chức cuộc gặp gỡ cấp cao Á - Âu với sự tham dự của các nguyên
thủ 15 thành viên EU và 10 nước châu Á. Đó là những dấu mốc quan trọng trong quá
trình hợp tác. Có 2 chính sách chủ đạo, đó là Hiệp định Tự do mậu dịch EU-ASEAN và
Sáng kiến thương mại liên khu vực ASEAN-EU (TREATI).
Hiệp định Tự do mậu dịch EU-ASEAN
Philippe Meyer-Trưởng nhóm thương mại của Ủy ban châu Âu đưa ra dự đoán rằng
những lợi ích kinh tế từ Hiệp định tự do mậu dịch giữa ASEAN và EU sẽ rất lớn, có thể
tạo ra thêm tới 40% về lợi ích kinh tế, những nước có lợi ích từ sự tự do hoá sẽ chiếm đến
70% và các quốc gia ASEAN bình quân có thể tăng được thêm 2,2% GDP của mình. Các
quốc gia EU đã “bật đèn xanh” cho ủy ban EU để tiến hành đàm phán hướng tới các hiệp
định tự do thương mại (FTA) với từng quốc gia thành viên của ASEAN. Trước hết, ủy
ban EU dự kiến sẽ tiến hành đàm phán với Singapore vào đầu năm 2010. Với giá trị
thương mại song phương khoảng 55 tỷ Euro, Singapore hiện đang là đối tác thương mại
quan trọng nhất của EU trong số các nước ASEAN. Trước đó, EU đã tiến hành đàm phán
về hiệp định tự do thương mại khu vực với ASEAN trong năm 2007. Tuy nhiên, tiến
trình đàm phán đã bị chậm lại và cả 2 bên nhất trí tạm dừng vào tháng 3/2009. Hàng năm,
thương mại 2 chiều giữa các quốc gia trong khu vực ASEAN và EU đạt mức 175 tỷ Euro
(tương đương 240 tỷ USD).
18
Sáng kiến thương mại liên khu vực ASEAN-EU (TREATI)
Nhằm xúc tiến thương mại và đầu tư giữa hai khu vực, ASEAN và EU đã thông qua Sáng
kiến thương mại liên khu vực ASEAN-EU (TREATI) – một cơ chế/quá trình thảo luận
chiến lược về các vấn đề kinh tế và thương mại. TREATI cũng bao gồm cả hỗ trợ kỹ
thuật và đặt nền móng cho sự phát triển của một Hiệp định thương mại tự do giữa
ASEAN và EU. Nhằm thực thi TREATI, nhiều hoạt động khác nhau đã được tiến hành
trong giai đoạn 2004-2009, trong đó có các hội thảo và hội đàm giữa các quan chức và
đại diện kinh doanh của hai bên về những vấn đề liên quan đến hỗ trợ thương mại, đầu tư,
an toàn thực phẩm, các biện pháp kiểm dịch động thực vật và hải quan.
III. Đánh giá
1. Thách thức:
Nhiều người vẫn hoài nghi rằng mối quan hệ giữa EU và ASEAN vẫn chưa đi vào thực
chất, khi mà việc hợp tác giữa hai bên phần nhiều vẫn chỉ là các chương trình hỗ trợ phát
triển năng lực, các hợp tác hoàn toàn tự nguyện trong các lĩnh vực kỹ thuật và vô số các
19
cuộc họp mang nặng tính “khích lệ”. Đàm phán FTA (thỏa thuận thương mại tự do) giữa
hai khối đã bị trì hoãn hơn một năm nay, và thay vào đó, EU chuyển sang ký kết FTA với
từng quốc gia trong khối ASEAN. Các con số kinh tế về tổng thể tuy ấn tượng nhưng lại
che phủ một thực tế khác. 120 tỉ euro kim ngạch thương mại giữa EU và ASEAN không
phải là con số trao đổi giữa thương mại giữa hai khối- đây vẫn chỉ là trao đổi hai chiều
giữa cá nhân 27 quốc gia của EU và cá nhân 10 quốc gia của ASEAN – đặc biệt là với
Indonesia và Singapore. Giữa hai khối giờ đây chỉ có Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác, và
nó cũng không có gì khác với những thứ liên quan đến ASEAN – hầu như chỉ ràng buộc
trên “lời nói” mà không mang tính ràng buộc pháp lý và được thực thi trên thực tế.
Sau khi EU đã chuyển sang ký PCA và FTA với từng thành viên của ASEAN, một loạt
vấn đề khác lại được đặt ra là FTA sẽ tác động như thế nào lên sự phát triển kinh tế tại
Đông Nam Á? Các thỏa thuận này có ảnh hưởng như thế nào tới sự bất cân đối giữa các
nước trong khối? Liệu nó có thể giúp thu hẹp các khoảng cách về phát triển tồn tại trong
khu vực, hay sẽ chỉ làm gia tăng khoảng cách giữa các quốc gia thành viên về mặt kinh
tế?
Tại EU, các quốc gia giàu mạnh vẫn đi kèm với lượng dân số đông đảo. Còn tại ASEAN,
các quốc gia giàu nhất thường là quốc gia nhỏ (như Singapore, Brunei). Mức thu nhập
của các quốc gia thành viên ASEAN phân bổ từ mức giàu nhất cho tới nghèo nhất trên
thế giới. Khoảng cách phát triển giữa các vùng miền trong ASEAN là rất rõ rệt, đặc biệt
là giữa nhóm nước phát triển hơn (ASEAN 6) và nhóm các nước gia nhập sau của
ASEAN (CLMV – gồm Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam).
Bên cạnh đó, quy mô thị trường và cấu trúc của các ngành kinh tế trong các nước
ASEAN cũng có sự khác biệt và chênh lệch rất lớn. Trong khi tổng GDP của Indonesia
đạt 546 tỷ USD, của Thái Lan, Malaysia, Singapore đạt trên dưới 200 tỷ USD thì những
nền kinh tế như Lào, Myanmar, Campuchia chỉ đạt từ 5 đến 18 tỷ USD – nhỏ hơn gấp
80-90 lần so với 4 thành viên trên.
Sau hơn 30 năm hợp tác với EU, ASEAN đã chứng minh được sức hấp dẫn cũng như tầm
quan trọng của mình sánh ngang với Trung Quốc và các quốc gia Đông Bắc Á. Nhưng
với những rào cản và khoảng trống về mặt phát triển như hiện nay, mọi sự hợp tác toàn
20
diện giữa EU và ASEAN với tư cách là hai khối bình đẳng vẫn là sự kỳ vọng ở tương lai
xa – mà như ông Wilson dự đoán – ít nhất là trong 25 năm nữa.
2.Cơ hội: Có nhiều yếu tố cho thấy ASEAN sẽ giành được nhiều sự chú tâm của EU
trong thời gian tới vì
Những tác động tích cực từ việc tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện giữa EU và
ASEAN đã tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi cho sự hội nhập và phát triển kinh tế của các
thành viên trong cả hai tổ chức.
Qua 4 thời kỳ đại hội của Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (Asia - Europe Meeting, ASEM),
tiến trình hợp tác Á - Âu ngày càng được phát triển, nổi lên trong đó là mối quan hệ EU-
ASEAN. EU tìm thấy ở ASEAN và châu Á một thị trường khổng lồ với hơn 4 tỷ dân, nơi
có nguồn lao động dồi dào và tương đối rẻ, một thị trường đầu tư to lớn với tỷ suất hấp
dẫn và một thị trường buôn bán đầy tiềm năng; nơi các quốc gia đang thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ nhanh cần nhiều công nghệ, kỹ thuật, vốn đầu tư,
hàng hoá có chất lượng cao mà EU có thế mạnh. Mở rộng buôn bán với một ASAN đang
phát triển sôi động, EU có điều kiện mở rộng buôn bán thương mại, phát triển kinh tế, tạo
thêm việc làm giúp giải quyết một phần nạn thất nghiệp mang tính cơ cấu đang đè nặng
lên các nước EU.
Đến năm 2001, EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của ASEAN và là đối tác thương
mại lớn thứ 3. Kim ngạch nhập khẩu của EU và ASEAN năm 1995 là 34.670 triệu Euro,
năm 2000 là 69.310 triệu Euro; kim ngạch xuất khẩu EU-ASEAN cũng trong thời gian
trên là 37.091 và 40.655 triệu Euro. Với EU, ASEAN có tiềm năng to lớn cho việc phát
triển hợp tác thương mại hai bên ASEAN vừa là thị trường vừa là cửa ngõ để EU đi vào
khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Kinh tế các nước Đông Nam Á đang phát triển mạnh mẽ vì vậy ASEAN đang trở thành
một thị trường quan trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ EU. Theo một nghiên cứu
của Hội đồng châu Âu vào năm 1978, EC là nhà đầu tư lớn thứ 3 của ASEAN, phần của
EC trong đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN là 13% so với Mỹ là 16%. Số liệu gần
đây cho thấy EU đầu tư nhiều hơn và là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn thứ 2 của
ASEAN. Năm 1991 chiếm 20% tổng số đầu tư nước ngoài vào ASEAN sau Nhật (27%).
21
Giai đoạn 1997-2000 khu vực ASEAN chiếm khoảng 1,8% tổng vốn đầu tư ra nước
ngoài của EU. Hiện nay EU đang khuyến khích tăng cường hợp tác và đầu tư của các
thành phần kinh tế tư nhân, mở rộng hợp tác trên cơ sở tay đôi và khu vực thông qua các
chương trình như: Thuận lợi hoá thương mại (TFAP), Tăng cường đầu tư (IPAP), Diễn
đàn doanh nghiệp Á - Âu (AEPF), Quỹ bảo lãnh ASEM (ATF), Hệthống hỗ trợ tài chính
của châu Âu (EFEX).
IV. Đánh giá
Những phân tích trên cho thấy quan hệ đầu tư giữa EU và ASEAN ngày càng chiếm tỷ
trọng cao tuy vậy vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của hai khu vực. Hy vọng trong
thời gian tới, hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư sẽ được đẩy mạnh.
Nguồn: VietNamNet.vn; thanhNien.com.vn; trang web của Bộ tài chính; báo VnEconomy; VOA.com;
TTXVN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cs_tm_eu_9746.pdf