Tiểu luận Triết: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái

Cuộc sống của chúng ta ngày nay là kết quả của hàng ngàn những mối liên hệ - mối liên hệ giữa tự nhiên với tự nhiên, mối liên hệ giữa tự nhiên với xã hội, mối liên hệ giữa xã hội với xã hội Trong đó, vai trò của tự nhiên, của môi trường là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên với tốc độ phá hoại môi trường như hiện nay của con người, môi trường của chúng ta đang dần bị suy thoái, mối liên kết của các mạng lưới sự sống đang dần bị phá vỡ. Sự tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh, một mặt nó nâng cao đời sống của người dân nhưng mặt khác nó đang gây một sức ép mạnh mẽ lên môi trường tự nhiên. Cũng như các nước đang phát triển khác, để có những kết quả về kinh tế trong giai đoạn trước mắt, chúng ta phải trả giá là mất đi sự bền vững của các nguồn tài nguyên về lâu dài. Một thập kỷ phát triển nhanh chóng ở Việt Nam đã dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm đất, không khí, nước và quan trọng hơn là gia tăng mức tiêu thụ, phân hoá giầu nghèo mạng lưới đang dần mất đi sức mạnh của nó. Chính vì vậy tôi quyết chọn đề tài này để nghiên cứu. Nghiên cứu "Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái”. Tôi muốn góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc tìm kiếm con đường phát triển của Việt Nam trong những năm tới nhằm đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. MỤC LỤC. 1 LỜI MỞ ĐẦU. 2 I. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến. 3 1. Phép biện chứng là gì?. 3 2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. 4 3. Ý nghĩa phương pháp luận: 7 II. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái 8 1. Thế nào gọi là tăng trưởng kinh tế?. 8 2. Thế nào gọi là bảo vệ môi trường sinh thái?. 8 3. Mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái? 9 4. Thực trạng mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái 10 5. Một số khuyến nghị nhằm đảm bảo cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường 13 KẾT LUẬN. 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 16

doc16 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 32166 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Triết: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Cuộc sống của chúng ta ngày nay là kết quả của hàng ngàn những mối liên hệ - mối liên hệ giữa tự nhiên với tự nhiên, mối liên hệ giữa tự nhiên với xã hội, mối liên hệ giữa xã hội với xã hội… Trong đó, vai trò của tự nhiên, của môi trường là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên với tốc độ phá hoại môi trường như hiện nay của con người, môi trường của chúng ta đang dần bị suy thoái, mối liên kết của các mạng lưới sự sống đang dần bị phá vỡ. Sự tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh, một mặt nó nâng cao đời sống của người dân nhưng mặt khác nó đang gây một sức ép mạnh mẽ lên môi trường tự nhiên. Cũng như các nước đang phát triển khác, để có những kết quả về kinh tế trong giai đoạn trước mắt, chúng ta phải trả giá là mất đi sự bền vững của các nguồn tài nguyên về lâu dài. Một thập kỷ phát triển nhanh chóng ở Việt Nam đã dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm đất, không khí, nước và quan trọng hơn là gia tăng mức tiêu thụ, phân hoá giầu nghèo… mạng lưới đang dần mất đi sức mạnh của nó. Chính vì vậy tôi quyết chọn đề tài này để nghiên cứu. Nghiên cứu "Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái”. Tôi muốn góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc tìm kiếm con đường phát triển của Việt Nam trong những năm tới nhằm đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Bài viết của tôi gồm: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Vì chưa có nhiều kinh nghiệm nên bài viết của tôi chắc hẳn sẽ có rất nhiều những khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô và bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn! I. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến 1. Phép biện chứng là gì? Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau. Và nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng. Như vậy, phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc là… hoặc là…” còn có cả cái “vừa là… vừa là…”nữa, thừa nhận một chỉnh thể trong lúc vừa là nó lại vừa không phải là nó, thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó nhau. Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới. Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã qua ba giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của nó: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật. Hình thức thể hiện thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện chứng cả phương Đông lẫn phương Tây thời kỳ này đã thấy các sự vật hiện tượng của vũ trụ sinh thành biến hoá trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học. Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu là Cantơ và người hoàn thiện là Hêghen. Có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phép biện chứng. Song theo họ biện chứng ở đây bắt đầu ở tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm. Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin phát triển. C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng nên phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất. 2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. a. Khái niệm mối liên hệ phổ biến: Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc, quy định với nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật, hiện tượng. Ta hiểu khái niệm trên như thế nào? Thứ nhất, liên hệ là một phạm trù triết học. Như vậy chúng ta phải hiểu liên hệ một cách khái quát nhất bao gồm tất cả các mối liên hệ trong cả tự nhiên, xã hội và trong tư duy. Thứ hai, liên hệ dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc, quy định với nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hiện tượng. Một sự vật hiện tượng luôn bao gồm các mặt, các bộ phận, chúng vừa khác nhau, độc lập với nhau, lại vừa thống nhất với nhau, ràng buộc, quy định nhau để cùng tạo nên một chỉnh thể sự vật, hiện tượng. Ví dụ, xét một chỉnh thể sự vật là một cơ thể con người. Cấu tạo cơ thể con người bao gồm 8 hệ cơ bản: hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ tiêu hoá, hệ bài tiết, hệ cơ, hệ xương và hệ sinh dục. Mỗi hệ có một chức năng hoàn toàn khác nhau, như hệ tuần hoàn giúp lưu thông máu, đưa máu đến các cơ quan thông qua đó thực hiện quá trình trao đổi chất và trao đổi khí qua các mao mạch, hệ bài tiết giữ vai trò bài tiết trong cơ thể - đào thải các chất cặn bã đưa ra ngoài cơ thể… Tuy nhiên, giữa chúng cũng có những mối liên hệ thống nhất với nhau nhằm giúp cho cơ thể con người phát triển một cách khoẻ mạnh, hệ thần kinh trong đó có bộ não điều hành chung sự hoạt động của tất cả các cơ quan còn lại, hệ tiêu hoá thực hiện trao đổi chất trực tiếp từ ngoài vào cơ thể, đồng thời biến đổi các chất từ dạng phức tạp thành các dạng đơn giản giúp cơ thể dễ dàng hấp thụ, nhờ đó cung cấp các chất dinh dưỡng nuôi cơ quan khác trong đó có hệ thần kinh. Như vậy, một cơ thể khoẻ mạnh là một cơ thể bao gồm tất cả các hệ, các cơ quan đều phát triển một cách khoẻ mạnh, không thể thiếu đi một trong các bộ phận đó được. Thứ ba, liên hệ còn dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc, quy định với nhau giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Thật vậy, một con người phát triển khoẻ mạnh là nhờ sự tác động qua lại lẫn nhau của các hệ, các cơ quan trong cơ thể, nhưng một con người không thể tồn tại một mình trên thế giới này mà không có những mối liên hệ nào với tự nhiên, với những người khác. Ví dụ: xét một phần trong mối liên hệ giữa con người và tự nhiên. Nhu cầu thiết yếu nhất của con người đó là thức ăn, mà thức ăn lại do tự nhiên cung cấp, nhưng không phải tự nhiên sẽ cung cấp cho con người thức ăn mãi mãi, cũng như sẽ phục vụ đúng như những nhu cầu ngày càng cao của con người. Mà muốn vậy, con người cần phải tác động vào tự nhiên để tạo ra những sản phẩm phục vụ chính những mong muốn của mình cả về số lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên khi con người tác động vào tự nhiên cũng có cũng có những tác động tốt giúp cải tạo tự nhiên, có những tác động làm tổn hại đến tự nhiên và khi đó chính con người lại chịu mọi thành quả cũng như những hậu quả do mình làm ra. Như vậy ta có thể hiểu được phần nào nội dung cơ bản của nguyên lý mối liên hệ phổ biến: giữa các mặt trong một sự vật hiện tượng và giữa các sự vật hiện tượng với nhau luôn tồn tại mối liên hệ độc lập mà thống nhất – đó là mối liên hệ phổ biến. b. Các tính chất của mối liên hệ Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ phổ biến có ba tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú. Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó không phụ thuộc vào ý thức của con người. Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật hiện tượng nào ở bất kỳ không gian nào, thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác. Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu… Các mối liên hệ này có vị trí vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật hiện tượng. Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính chất tương đối, vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính sự vật. Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính chất tương đối nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng mối liên hệ để có có cách tác động phù hợp nhằm đưa loại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình. 3. Ý nghĩa phương pháp luận: Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có thể rút ra ý nghĩa về phương pháp luận sau: Quan điểm toàn diện: Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với những sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng sự vật. Đồng thời quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệm phải biế chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Quan điểm lịch sử toàn diện - cụ thể: Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú. sự vật hiện tượng khác nhau không gian thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử - cụ thể. Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong đó điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. II. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Thế nào gọi là tăng trưởng kinh tế? Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ. Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn. Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %. Thế nào gọi là bảo vệ môi trường sinh thái? Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu. Sự tương tác hoà đồng giữa các hệ thống của thiên nhiên tạo ra môi trường tương đối ổn định. Sự rối loạn bất ổn định ở một khâu nào đó trong hệ thống sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng. Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một bộ phận của thiên nhiên. Hoạt động của con người và xã hội được xem là một khâu, một yếu tố trong hệ thống. Thông qua quá trình lao động, con người khai thác bảo vệ bồi đắp cho thiên nhiên. Cũng qua quá trình đó con người xã hội dần dần có sự đối lập với tự nhiên. Do tiếng gọi của những lợi ích nhất thời nào đó, cũng có thể là do sự hoạch định thiển cận về mặt chiến lược, trong không ít nền kinh tế đã nảy sinh tình trạng vô tình hoặc cố ý không tính đến tương lai của chính mình. Người ta khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách tối đa, vay mượn cả tài nguyên của các thế hệ tương lai, bất chấp quy luật tự nhiên và đạo lý xã hội, gạt sang một bên những bài toán về môi sinh và những lợi ích chính đáng của thế hệ sau. Đầu tư nhằm vào những lĩnh vực sinh lợi nhanh được kêu gọi một cách ồ ạt, đẩy trách nhiệm trả nợ cho thế hệ kế tiếp. Lợi ích trước mắt được quan tâm quá mức, gây nên tình trạng phát triển thiếu cân đối hoặc phát triển theo kiểu “bong bóng xà phòng”. Vô tình hay hữu ý, con người càng phá huỷ môi trường sống của chính mình một cách nghiêm trọng. Mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái? Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hoá. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân và cả loài người trong quá trinh sống. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ hết sức chặt chẽ: môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường. Trong nền kinh tế xã hội, hàng hoá được di chuyển từ nơi sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm và phế thải. Các thành phần đó luôn ở trạng thái tương tác với các thành phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó. Khu vực giao nhau giữa hai hệ thống trên là môi trường nhân tạo. Tác động của hoạt động phát triển đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hay tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó, từ đó nâng cao ý thức của con người về việc bảo vệ môi trường sinh thái, nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo từ những rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội thông qua việc cung cấp nguyên nhiên liệu cho quá trình sản xuất, nhưng cũng có thể gây ra thảm hoạ, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong khu vực, hay tạo những cản trờ về địa hình, thổ nhưỡng, điều kiện thời tiết... Mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển trên dẫn đến sự xuất hiện các quan niệm hoặc các lý thuyết khác nhau về phát triển: Lý thuyết đình chỉ phát triển là làm cho sự tăng trưởng kinh tế bằng 0 hoặc mang giá trị âm để đảm bảo tài nguyên thiên nhiên của Trái đất. Một số nhà khoa học khác lại đề xuất lấy bảo vệ để ngăn chặn sự nghiên cứu, khai thác tài nguyên thiên nhiên. Năm 1992 các nhà môi trường đã đưa ra quan niệm phát triển bền vững, đó là phát triển trong mức độ duy trì chất lượng môi trường, giữ cân bằng giữa môi trường và phát triển. (Nguồn VACNE) Thực trạng mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái Điều rất dễ thấy và không thể bác bỏ là: hệ thống kinh tế và hệ thống môi trường sinh thái không dung hoà nhau mà bộc lộ những mâu thuẫn mang tính sinh tồn ngày càng trở nên rất rõ nét trong sự phát triển của xã hội hiện đại.Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là để làm kinh tế và đạt bằng được các mục tiêu kinh tế, các mối liên quan về môi trường sinh thái đã bị bỏ qua, thiếu sự tôn trọng khi ứng dụng khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Đối với các nước đang phát triển, nguồn tài nguyên thiên nhiên có vai trờ rất to lớn, đóng góp đáng kể vào tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Song nếu khai thác nguồn tài nguyên này một cách quá mức, dẫn đến hệ sinh thái bị mất cân đối nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường gia tăng. Đó chính là hậu quả lớn nhất do tăng trưởng kinh tế mà không quan tâm bảo vệ môi trường. Dẫn đến là: ngày càng nhìn thấy rõ giới hạn của sự tăng trưởng là việc chuyển đổi từ trạng thái con người bị thiên nhiên đe doạ và phải chống lại nó trước đây, sang trạng thái con người bị thiên nhiên xâm phạm đến môi trường, trong khi môi trường là yếu tố không thể thiếu trong sự tồn tại và phát triển của chính con người. Theo dự báo, nếu con người cứ khai thác như mức hiện nay, trong số các tài nguyên khoáng vật (tài nguyên không tái tạo được) có thể duy trì: sắt được 173 năm, than được 150 năm, nhôm được 55 năm, đồng được 48 năm, vàng được 29 năm, các nguồn tài nguyên sinh vật, rừng rậm trong 170 năm nữa sẽ chỉ đốn hết, trong đó, ma rừng nhiệt đới có thể hết sẵn sau 40 năm nữa. Các nhà khoa học chỉ ra rằng, hiện nay trên trái đất đã không còn tìm thấy một vùng đất nào hoàn toàn không bị ô nhiễm. Sự ô nhiễm nghiêm trọng môi trường trái đất không chỉ tạo ra khủng hoảng sinh thái mà còn tạo ra khủng hoảng sinh tồn con người. Đã có rất nhiều bài học cho các nước vì quá coi trọng tăng trưởng kinh tế nhanh, tạo được sự bứt phá lớn về kinh tế, mong vượt lên các nước khác về kinh tế, song đã phải trả giá đắt về việc làm cạn kiệt và suy thoái môi trường. Trung Quốc - quốc gia có sự phát triển thần kỳ về nền kinh tế đã trở thành gánh nặng cho môi trường là một ví dụ. Trung Quốc hiện có 16 trong số 20 đô thị ô nhiễm nhất trên thế giới; 4 đô thị tệ nhất nằm ở vùng Đông Bắc giàu than đá (70% nhu cầu về năng lượng của Trung Quốc lấy từ than đá). Ma acid chứa sunphur dioxide từ các nhà máy điện than đá thải ra rơi trên ¼ lãnh thổ Trung Quốc, làm giảm năng xuất nùa màng và xói mòn mọi công trình xây dựng. Đất đai Trung Quốc cũng tàn lụi vì phát triển. Phá rừng, song song với khai thác quá mức đồng cỏ để nuôi súc vật và canh tác đã biến các vùng ở Đông Bắc Trung Quốc thành sa mạc. Sa mạc Gôbi đang dần xâm chiếm miền Tây và Bắc Trung Quốc, lan rộng mỗi năm khoảng nửa triệu hecta. ¼ lãnh thổ Trung Quốc nay đã thành sa mạc do mất rừng. Cục Lâm vụ Trung Quốc ước lượng là hiện tượng sa mạc hoá đã biến 400 triệu dân Trung Quốc thành người tị nạn môi sinh, phải tìm kiếm nơi ở mới. Đất đai bị ô nhiếm cũng gây lo ngại về an toàn thực phẩm. Sông Dương Tử và sông Hoàng Hà là hai nguồn cung cấp nước quan trọng nhất cho Trung Quốc bị ô nhiễm nặng. Sông Dương Tử tiếp nhận 40% nước cống, hơn 80% nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý. Sông Hoàng Hà cung cấp nước cho 150 triệu người và nước tới cho 15% đất nông nghiệp Trung Quốc, nhưng 2/3 nước sông này không an toàn và 10% vào loại nước cống thải. Báo cáo tiên đoán lượng nước ở lưu vực 3 con sông trong 7 lưu vực chính của Trung Quốc, nghĩa là các vùng xung quanh sông Hoài, sông Liêu và sông Hải sẽ giảm, làm mất đi 37% sản lượng lúa mì, lúa gạo và bắp vào năm 2050. Để sản xuất một đơn vị hàng hoá, Trung Quốc phải tiêu thụ tài nguyên gấp 7 lần so với Nhật Bản, 6 lần so với Hoa Kỳ và 3 lần so với Ấn Độ. Cũng giống như một số nước đang phát triển khác, tình trạng ô nhiễm môi trường do trăng trưởng kinh tế gây ra ở Việt Nam là điều không thể tránh khỏi, đang là một trong những vấn đề bức xúc đòi hỏi phải giải quyết hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế, tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm qua rất ngoạn mục. Tuy nhiên, cảnh báo của nhiều tổ chức quốc tế dành cho Việt Nam rằng, chúng ta không thể chạy theo các chỉ số tăng trưởng kinh tế mà bất chấp tình trạng môi trường sống đang bị huỷ diệt quá nhanh. Nói cách khác, môi trường bị huỷ diệt chính là mặt trái của tăng trưởng ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu môi trường ở Việt Nam của Ngân hàng thế giới (WB) cho thấy: thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là 2 trong 10 tỉnh thành phố được điều tra có tỷ lệ ô nhiễm môi trường cao nhất, đặc biệt là ở các khu công nghiệp trọng điểm. WB nhận định: ô nhiễm môi trường chính là thách thức chính đối với tiến trình đô thị hoá, công nghiệp hoá ở Việt Nam. Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) đã chỉ ra rằng, bây giờ là thời điểm mà Việt Nam cần kiên trì theo đuổi phát triển bền vững. Nếu không giải quyết được vấn đề ô nhiếm môi trường thì Việt Nam sẽ có thể xoá đi tất cả những thành tựu đã đạt được từ trước tới nay… Bộ trưởng Bộ tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên đã nhấn mạnh: 20 năm tăng trưởng kinh tế liên tục, nhưng cứ tăng 1 GDP mà không có chiến lược môi trường thì sẽ mất đi 3 GDP về môi trường. Đảm bảo một sự cân bằng giữa nhu cầu tăng trưởng kinh tế với đòi hỏi bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và tái tạo môi trường, vừa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của thế hệ hiện tại trong tăng trưởng và phát triển, vừa không làm hại gì đến nhu cầu và khả năng ứng dụng các nguồn tài nguyên của các thế hệ tương lai là một yêu cầu bức thiết của phát triển bền vững. Thực tế cho thấy, trong vòng mười năm kể từ Rio-92, môi trường toàn cầu tiếp tục bị xuống cấp, tài nguyên thiên nhiên tiếp tục bị hủy hoại, ô nhiễm gia tăng, nguồn nước sạch ngày càng khan hiếm. Mỗi năm có từ 11 đến 13 triệu hecta rừng bị xóa sổ trên bản đồ thế giới, hàng chục triệu hecta đất bị hoang mạc hóa. Tình trạng đói nghèo trên thế giới ngày càng gia tăng trầm trọng, với 2,4 tỷ người sống trong nghèo đói, các điều kiện xã hội, y tế không được cải thiện. Các nước nghèo, các khu vực nghèo ngày càng nghèo hơn. Các nước giàu, những người giàu ngày càng giàu lên. Khoảng cách Bắc - Nam ngày càng sâu rộng. Các nước phát triển chỉ huy động 0,22% GNP cho ODA so với 0,7% mà Liên hợp quốc (LHQ) đã kêu gọi và được nhiều nước cam kết tại Rio-92. Tác động của toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại ngày càng lan rộng, bao gồm cả tác động tích cực lẫn tiêu cực. Nhất là, gần đây đã xảy ra những diễn biến phức tạp trong đời sống chính trị thế giới, những cuộc khủng bố lớn, trong đó có sự kiện 11-9-2001 tại Mỹ, tác động trực tiếp và chứa nhiều nguy cơ tiềm ẩn đối với quá trình phát triển bền vững của toàn thế giới. 5. Một số khuyến nghị nhằm đảm bảo cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang tăng cường quan hệ thương mại song phương với các nước trên thế giới và tiến hành thủ tục đàm phán để gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới(WTO), tham gia tích cực vào các định chế kinh tế khu vực như ASEAN, APEC, ASEM… và đặc biệt là hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Để hàng Việt Nam có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh với các nước khác chúng ta cần: Khuyến khích sử dụng công nghệ và dây chuyền sản xuất tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, phát triển nguồn năng lượng sạch, ít khí thải. Bắt buộc các nhà máy mối đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến, xây dựng và vận hành hệ thống xử lí nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Lập quy hoạch môi trường song song với việc quy hoạch và phát triển công nghiệp. Đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống tiêu thoát nước, xử lí nước thải công nghiệp trước khi thải ra môi trường. Tổ chức và quản lý kịp thời đúng quy cách các loại chất thải rắn công nghiệp, chất thải y tế và các loại chất thải khác. Thực hiện chủ chương xanh hoá đô thị và khu công nghiệp, xây dựng hành lang xanh và vùng chuyển tiếp giữa khu công nghiệp và khu dân cư. Tăng cường vai trò của nhà nước trong khâu thẩm định, kiểm tra các mặt hàng nhập khẩu vào nước ta như máy móc, thiết bị vật tư, nguyên vật liệu, các giống mới… Cần bảo vệ, tôn tạo, khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lí, đảm bảo sự phát triển bền vững. Các sản phẩm về nông nghiệp cần hạn chế các loại thuốc gây hại cho người sử dụng cũng như cho đất trồng. Có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm có nhãn sinh thái Ngoài ra để đảm bảo sự phát triển bền vững nhà nước củachúng ta cần: Có chính sách ưu đãi đối với những hộ nhận khoán rừng Có hình phạt nặng hơn nữa đối với những kẻ chặt phá rừng trái phép Thành lập các khu bảo tồn động, thực vật Khai thác gỗ hợp lí Cán bộ kiểm lâm có chức vụ và quyền hạn cao hơn nữa để công tác kiểm lâm được chặt chẽ hơn, ngoài ra cán bộ kiểm lâm cần có những chính sách ưu đãi hơn Khai thác dầu hợp lí Bảo vệ nguồn sinh vật biển, đặc biệt là những loại quý hiếm Nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường KẾT LUẬN Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải đi từ mục tiêu cơ bản nhất của mọi sự phát triển xã hội đó là phát triển để cải thiện nâng cao chất lượng cuộc sống và vì sự sống trường tồn bền vững. Đây là vấn đề quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay cũng như về lâu dài. Tất cả các bài học kinh nghiệm đã rút ra trong quá trình quy hoạch phát triển trước đây cần phải được vận dụng triệt để cho quá trình phát triển của tương lai sao cho tránh được những hậu quả có thể xảy ra và đảm bảo hiệu quả cao nhất cho quá trình phát triển kinh tế. Chúng ta bảo vệ môi trường không phải nhằm mục đích hạn chế quá trình phát triển kinh tế mà nhằm mục đích đảm bảo hiệu quả kinh tế cao hơn cho quá trình phát triển tất yếu này, đồng thời nhằm bảo vệ chất lượng cuộc sống của mỗi con người chúng ta. Do đó, bảo vệ môi trường và tăng trưởng kinh tế có sự thống nhất.Có phát triển mới có kinh phí đầy đủ dành cho việc bảo vệ môi trường và có bảo vệ môi trường mới đảm bảo sự phát triển lâu dài và ổn định. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Triết học Mac – Lênin PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh, Những vấn đề chủ yếu về kinh tế phát triển, Nxb CTQG, H, 2006, tr.89-90 Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số 39, ngày 29-9-2007, tr.58-59. Theo Tạp chí ban tuyên giáo Lâm Minh Triết, Nguyễn Thanh Hùng, Một vài giải pháp môi trường cho các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ, Tạp chí Bảo vệ môi trường, số 7, 2001 TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Triết học Mac – Lênin PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh, Những vấn đề chủ yếu về kinh tế phát triển, Nxb CTQG, H, 2006, tr.89-90 Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số 39, ngày 29-9-2007, tr.58-59. Theo Tạp chí ban tuyên giáo Lâm Minh Triết, Nguyễn Thanh Hùng, Một vài giải pháp môi trường cho các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ, Tạp chí Bảo vệ môi trường, số 7, 2001

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận triết- Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.doc
Luận văn liên quan