Tiểu luận Vấn đề trợ cấp trong WTO
Văn bản pháp luật: Pháp lệnh về việc chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào
Việt Nam năm 2004; Nghị định 89/2005/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một
số điều của Pháp lệnh chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam. Nghị
định 04/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp
và tự vệ; Nghị định 06/2006/NĐ-CP về việc quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh; Thông tư 106/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thu, nộp, hoàn trả thuế chống bán phá giá,
chống trợ cấp và các khoản bảo đảm thanh toán thuế chống bán phá giá, thuế
chống trợ cấp.
13 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4047 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề trợ cấp trong WTO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Vấn đề trợ cấp trong WTO
LỜI MỞ ĐẦU
I- VẤN ĐỀ TRỢ CẤP ĐƯỢC QUY ĐỊNH TRONG WTO
Trong một thời gian dài, trợ cấp được coi là một trở ngại lớn đối với một thị
trường hiệu quả và tự do. Trợ cấp là một công cụ bảo hộ quan trọng trong thời kì
suy thoái kinh tế và thất nghiệp cao. Các quan điểm khác nhau về căn cứ xét trợ
cấp đã gây ra tình trạng căng thẳng, nặng nề trong thương mại thế giới. Đối với
nhiều nước đang phát triển, trợ cấp vẫn là một công cụ quan trọng để đẩy mạnh
phát triển. Quan niệm của một số nước đang phát triển cho rằng trợ cấp là một
thành tố quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội đã đối nghịch lại với yêu cầu
của các nước phát triển đòi phải có tính trung lấp về cạnh tranh trong thương mại
quốc tế. Những quan điểm đôi khi mâu thuẫn nhau của các nước phát triển cũng
làm nặng nề thêm những vấn đề về chính sách thương mại và thường dẫn tới
những xung đột. Tuy nhiên trong sân chơi WTO, để tránh những xung đột do vấn
đề trợ cấp gây ra, nhưng quy tắc xử sự về vấn đề này đã được quy định cụ thể.
Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM) là một trong
các hiệp định của WTO được ký cùng với các hiệp định khác của WTO tại vòng
đàm phán Uruguay. Hiệp định có hiệu lực kể từ ngày 1/1/1995 đưa ra các quy
định về việc sử dụng các biện pháp trợ cấp cũng như các quy định về những hành
động một thành viên WTO có thể sử dụng để đối phó lại ảnh hưởng của các biện
pháp trợ cấp. Theo Hiệp định, một thành viên WTO có thể sử dụng cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO để yêu cầu một thành viên khác rút lại biện pháp trợ
cấp mà họ đang áp dụng, hoặc có những phương thức khắc phục ảnh hưởng tiêu
cực của biện pháp trợ cấp đó. Thành viên bị ảnh hưởng cũng có thể thực hiện điều
tra riêng của mình và có thể áp một mức thuế nhập khẩu bổ sung đối với hàng nhập
khẩu được trợ cấp mà theo kết quả điều tra gây tổn hại đến ngành sản xuất trong
nước. Tuy nhiên các điều khoản vẫn còn hạn chế khi quy định các điều kiện trợ cấp
hàng hóa và những ngoại lệ cho hàng nông sản và ngành hàng không dân dụng.
1. Trợ cấp là gì?
Trong WTO, trợ cấp được hiểu là bất kỳ hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước hoặc
một tổ chức công mang lại lợi ích cho doanh nghiệp/ngành sản xuất.Các khoản hỗ
trợ này được hiểu là mang lại lợi ích cho đối tượng được hưởng hỗ trợ nếu nó được
thực hiện theo cách mà một nhà đầu tư tư nhân, một ngân hàng thương mại…bình
thường sẽ không khi nào làm như vậy (vì đi ngược lại những tính toán thương mại
thông thường). Trợ cấp được tiến hành dưới một trong các hình thức sau nhằm
mang lại lợi ích cho doanh nghiệp/ngành sản xuất:
- Hỗ trợ trực tiếp bằng tiền chuyển ngay (ví dụ cấp vốn, cho vay, góp cổ phần)
hoặc hứa chuyển (ví dụ bảo lãnh cho các khoản vay). Lợi ích này phải được tạo ra
từ sự khác biệt cụ thể dựa trên lợi thế so sánh với thị trường, ví dụ nếu doanh
nghiệp nhận được khoản vay với điều kiện như mọi doanh nghiệp khác trên thị
trường, thì nó không bị coi là trợ cấp, ngay cả khi nó mang lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp;
- Miễn hoặc cho qua những khoản thu lẽ ra phải đóng (ví dụ ưu đãi thuế, tín
dụng). Nếu DNNN trước đây được trợ cấp, nay tư nhân hoá theo đúng giá thị
trường, thì khoản trợ cấp trước kia không bị gán cho doanh nghiệp mới;
- Mua hàng, cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hoá (trừ cơ sở hạ tầng chung);
- Thanh toán tiền cho một nhà tài trợ hoặc giao cho một đơn vị tư nhân tiến hành
các hoạt động nêu trên theo cách thức mà Chính phủ vẫn làm. Về thời điểm để xác
định có trợ cấp hay không, nếu doanh nghiệp đã nhận được cam kết pháp lý của
chính phủ về khoản trợ cấp, thì đó đã được coi là thời điểm nhận trợ cấp, ngay cả
khi trên thực tế doanh nghiệp chưa nhận được xu nào;
2. Cách xác định mức trợ cấp.
Để xác định hàng hoá nhập khẩu có được trợ cấp hay không, cơ quan điều tra
nước nhập khẩu sẽ tiến hành tính toán mức trợ cấp của hàng hoá đó. Phương pháp
tính toán chi tiết tuân thủ pháp luật của nước điều tra về vấn đề này, nhưng về cơ
bản theo các hướng dẫn sau:
- Nếu Nhà nước cho doanh nghiệp vay một khoản với mức lãi suất thấp hơn
mức lãi suất thương mại bình thường cho khoản vay tương tự: Mức trợ cấp được
tính là phần chênh lệch giữa 2 mức lãi suất này;
- Nếu Nhà nước bảo lãnh vay với phí bảo lãnh thấp hơn chi phí mà doanh
nghiệp phải trả cho khoản vay thương mại tương tự nếu không có bảo lãnh của
Nhà nước: Mức trợ cấp sẽ được tính là phần chênh lệch giữa 2 mức này;
- Nếu Nhà nước mua hoặc cung cấp hàng hoá, dịch vụ với giá mua cao hơn mức
hợp lý hoặc giá cung cấp thấp hơn mức hợp lý (xác định theo các điều kiện thị
trường của hàng hoá/dịch vụ liên quan): mức trợ cấp là mức chênh lệnh giá. Biên
độ trợ cấp được tính theo phần trăm mức trợ cấp trên trị giá hàng hoá.
3. Các loại trợ cấp
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng quy định 3 loại trợ cấp.
Thứ nhất là trợ cấp bị cấm gồm những khoản trợ cấp sau: khối lượng trợ cấp, theo
luật hoặc trong thực tế, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều
kiện khác, căn cứ vào kết quả xuất khẩu; khối lượng trợ cấp, dù là một điều kiện
riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác, ưu tiên sử dụng hàng nội địa hơn
hàng ngoại. Trợ cấp bị cấm là đối tượng của những vụ kiện giải quyết tranh chấp.
Điểm nổi bật là lịch trình giải quyết của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB)
nhanh gọn, và nếu cơ quan này nhận thấy rằng khoản trợ cấp này là trợ cấp bị cấm,
ngay lập tức phải thu hồi lệnh trợ cấp. Nếu phán quyết không được thực hiện trong
thời gian quy định, thành viên khiếu nại được quyền áp dụng các biện pháp trả đũa.
Thứ hai là Trợ cấp có thể đối kháng. Hiệp định quy định rằng không một
Thành viên nào thông qua việc sử dụng trợ cấp gây ra tác động có hại đến quyền
lợi của Thành viên khác, như gây tổn hại cho một ngành sản xuất nội địa của một
Thành viên khác, làm vô hiệu hay gây phương hại đến những quyền lợi mà Thành
viên khác trực tiếp hoặc gián tiếp được hưởng từ Hiệp định GATT 1994 (đặc biệt
là những quyền lợi có được từ những ưu đãi thuế quan có ràng buộc), và gây tổn
hại nghiêm trọng đối với lợi ích của Thành viên khác. “Thiệt hại nghiêm trọng” sẽ
được xem là tồn tại trong trường hợp tổng trị giá trợ cấp theo trị giá cho một sản
phẩm vượt quá 5%. Trong trường hợp này, bên trợ cấp có nghĩa vụ chứng minh
rằng những khoản trợ cấp đó không gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với
bên khiếu nại. Những thành viên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi trợ cấp có thể đối
kháng có thể đưa tranh chấp này lên cơ quan giải quyết tranh chấp. Trong trường
hợp cơ quan giải quyết tranh chấp đưa ra phán quyết có tồn tại tác động tiêu cực,
bên trợ cấp phải thu hồi lại khoản trợ cấp hoặc xóa bỏ những tác động tiêu cực này.
Loại thứ 3 là trợ cấp không thể đối kháng, có thể là trợ cấp không mang tính
chất riêng biệt hoặc mang tính chất riêng biệt bao gồm hỗ trợ cho các hoạt động
nghiên cứu công nghiệp và hoạt động phát triển tiền cạnh tranh, hỗ trợ cho các
vùng miền khó khăn, hỗ trợ nhằm xúc tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng
hiện có cho phù hợp với yêu cầu mới về môi trường do luật pháp, hay các quy
định đặt ra. Nếu một thành viên cho rằng trợ cấp không thể đối kháng khác sẽ dẫn
đến những tác động tiêu cực nghiêm trọng đến ngành công nghiệp nội địa, thành
viên đó có thể yêu cầu đưa ra phán quyết và khuyến cáo về vấn đề này.
Các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức trợ cấp này nhưng nếu gây thiệt
hại cho nước thành viên khác hoặc ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước
thành viên khác thì có thể bị kiện ra WTO.
Trong WTO, trợ cấp là hình thức được phép, nhưng là trong các giới hạn và điều
kiện nhất định.
II- CÁC BIỆN PHÁP ĐỐI KHÁNG
1. Kiện chống trợ cấp
Đây thực chất là một quy trình: Kiện - Điều tra - Kết luận - Áp dụng biện pháp
chống trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng) mà nước nhập khẩu tiến hành đối
với một loại hàng hoá nhập khẩu từ một nước nhất định khi có những nghi ngờ
rằng hàng hoá được trợ cấp (trừ trợ cấp đèn xanh) và gây thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu.
Mặc dù thường được gọi là “vụ kiện” (theo cách gọi ở Việt Nam), đây không
phải thủ tục tố tụng tại Toà án mà là một thủ tục hành chính và do cơ quan hành
chính nước nhập khẩu thực hiện. Thủ tục này liên quan đến một bên là ngành sản
xuất nội địa và một bên là các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài. Khác với thủ
tục kiện chống bán phá giá, kiện chống trợ cấp liên quan đến cả Chính phủ nước
xuất khẩu (vì liên quan đến khoản trợ cấp).
Thủ tục, trình tự kiện chống trợ cấp gần tương tự với thủ tục, trình tự kiện chống
bán phá giá. Cần lưu ý là thủ tục này được quy định gần giống thủ tục tố tụng tại
toà án (nên thường được gọi là “vụ kiện”). Khi cơ quan hành chính ra quyết định
cuối cùng về việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp chống trợ cấp, các bên
không đồng ý với quyết định này có thể kiện cơ quan này ra Toà án có thẩm quyền
của nước nhập khẩu.
Các vấn đề về trình tự, thủ tục kiện chống trợ cấp và các điều kiện áp dụng biện
pháp đối kháng được quy định tại:
- Hiệp định SCM: Bao gồm các nguyên tắc chung có liên quan đến trợ cấp và
biện pháp đối kháng (mà tất cả các thành viên WTO phải tuân thủ);
- Pháp luật nội địa nước nhập khẩu: Bao gồm các quy định cụ thể về trình tự,
thủ tục kiện và điều kiện áp dụng biện pháp đối kháng.
2. Thuế chống trợ cấp.
Thuế chống trợ cấp (còn gọi là thuế đối kháng) là khoản thuế bổ sung (ngoài
thuế nhập khẩu thông thường) đánh vào sản phẩm nước ngoài được trợ cấp vào
nước nhập khẩu.Đây là biện pháp chống trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng)
nhằm vào các nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài được trợ cấp (thông qua thủ tục
điều tra chống trợ cấp do nước nhập khẩu tiến hành) chứ không nhằm vào chính
phủ nước ngoài đã thực hiện việc trợ cấp (WTO quy định các cơ chế xử lý khác
mang tính đa phương cho trường hợp này).
Điều kiện áp dụng thuế chống trợ cấp: Không phải cứ có hiện tượng hàng hoá
nước ngoài được trợ cấp là nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp đối
kháng đối với hàng hoá đó.Theo quy định của WTO thì việc áp dụng các biện pháp
đối kháng chỉ có thể thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu,
sau khi đã tiến hành điều tra chống trợ cấp, ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng
thời của cả 03 điều kiện sau:
- Hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp (với biên độ trợ cấp không thấp hơn 1%);
- Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể
hoặc bị đe doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành
sản xuất trong nước (gọi chung là yếu tố “thiệt hại”);
- Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu được trợ cấp và thiệt hại
nói trên;
IV- ẢNH HƯỞNG CỦA TRỢ CẤP ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI MỖI NƯỚC
VÀ THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI.
1. Đối với thương mại mỗi nước
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng cho thấy trợ cấp có thể
đóng vai trò quan trọng trong các chương trình phát triển kinh tế của các nước
đang phát triển, và trong sự chuyển dịch từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế thị trường.
Những nước kém phát triển và những nước đang phát triển có Tổng sản
phẩm quốc dân (GNP) bình quân đầu người ít hơn 1000 USD sẽ được miễn khỏi
những quy tắc về trợ cấp xuất khẩu bị cấm và hưởng miễn trừ đối với trợ cấp bị
cấm trong một khoảng thời gian nhất định.
Đối với các nước đang phát triển khác, việc cấm trợ cấp xuất khẩu sẽ có
hiều lực trong 8 năm kể từ ngày hiệp định WTO có hiệu lực và những nước này
được hưởng sự miễn trừ đối với trợ cấp bị cấm trong một khoảng thời gian nhất
định ( khoảng thời gian này sẽ ngắn hơn thời gian của các nước kém phát triển
hơn).
Việc điều tra đối kháng đối với một sản phẩm xuất xứ từ một nước thành
viên đang phát triển sẽ chấm dứt nếu tổng lượng trợ cấp không vượt quá 2% (và
xuất xứ từ một số nước đang phát triển là 3%) tính trên trị giá sản phẩm, hoặc nếu
khối lượng hàng nhập khẩu được trợ cấp chiếm ít hơn 4% tổng lượng sản phẩm
tương tự nhập khẩu của quốc gia nhập khẩu.
Đối với những nước đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, trợ cấp bị cấm sẽ không bị tính
trong vòng 7 năm kể từ ngày hiệp định này có hiệu lực.
2. Đối với thương mại quốc tế.
Trợ cấp được coi là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không
công bằng của hàng hóa nhập khẩu. Có những dạng trợ cấp làm lệch lạc thương
mại quốc tế.
Tác động của hiệp định SCM đối với việc sử dụng trợ cấp dẫn tới nguy cơ là
nhiều mức giảm thuế vốn rất quan trọng đối với các nước đang phát triển sẽ không
phát huy được tác dụng bởi các chương trình trợ cấp của các nước phát triển.
Trợ cấp cũng làm sụt giảm giá hàng của các nước phát triển và bóp méo
cạnh tranh, gây tổn hại cho các nước đang phát triển ở một số thị trường.
Các quốc gia đang phát triển thì mong muốn, những nước giàu dừng ngay
việc trợ cấp cho ngành nông nghiệp bởi nó đã làm đảo lộn giá cả trên thị trường và
tạo ra một môi trường cạnh tranh không công bằng. Các nước giàu có lo ngại, nếu
họ thực hiện những nguyện vọng này của các quốc gia đang phát triển thì cơn lốc
hàng hóa giá rẻ sẽ tràn ngập thị trường và đẩy những nông dân và các công ty chế
biến nông sản tại đây vào cảnh mất việc làm.
Trợ cấp cũng dẫn tới nhiều tranh chấp thương mại quốc tế song hành với sự
gia tăng các luồng giao thương trên phạm vi toàn cầu.
Đối với lĩnh vực xuất khẩu, Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp trợ cấp
trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp với các nhà xuất khẩu trong nước gây ra
Lượng cung thị trường nội địa bị giảm do mở rộng quy mô xuất khẩu, giá cả thị
trường nội địa tăng lên, khiến người tiêu dùng trong nước sẽ bị thiệt.
V- VIỆT NAM VÀ CÁC QUY ĐỊNH VỀ TRỢ CẤP KHI GIA NHẬP WTO
Thông thường, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, các nước có thể đàm
phán để điều chỉnh một số nội dung so với quy định chung về trợ cấp tại Hiệp
định SCM. Đối với Việt Nam, những điều chỉnh này bao gồm:
1. Trợ cấp đèn đỏ:
Việt Nam cam kết bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp này (bao gồm trợ cấp xuất
khẩu và trợ cấp khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu) từ thời điểm gia nhập.
Riêng đối với các ưu đãi đầu tư (ưu đãi về thuế) dựa trên tiêu chí thành tích xuất
khẩu và tỷ lệ nội địa hoá mà cơ quan Nhà nước đã cho phép doanh nghiệp được
hưởng từ trước ngày gia nhập WTO thì sẽ được tiếp tục thực hiện cho đến hết 5
năm kể từ ngày gia nhập.
2. Các loại trợ cấp khác và các hình thức xử lý vi phạm hoặc biện pháp đối
kháng: Tuân thủ Hiệp định SCM.
Như vậy, các doanh nghiệp nội địa và FDI đã thành lập và được hưởng ưu đãi
thuế dựa trên tiêu chí xuất khẩu hoặc tỷ lệ nội địa hoá sẽ tiếp tục được hưởng ưu
đãi đến hết 11/1/2012. Trừ ngoại lệ này, tất cả các hình thức trợ cấp khác mà
doanh nghiệp được hưởng lợi sẽ tuân thủ các quy định tại Hiệp định SCM.
Theo quy định của WTO, nước nhập khẩu không được tiến hành điều tra (và
không được áp thuế chống trợ cấp) nếu nước xuất khẩu là nước đang phát triển và
có lượng nhập khẩu sản phẩm liên quan ít hơn 4% tổng nhập khẩu hàng hoá tương
tự vào nước nhập khẩu đó. Là một nước đang phát triển, Việt Nam được hưởng
quy chế này.
Tuy nhiên, quy định này sẽ không được áp dụng nếu tổng lượng nhập khẩu từ
tất cả các nước xuất khẩu có hoàn cảnh tương tự chiếm trên 9% tổng lượng nhập
khẩu hàng hoá tương tự vào nước nhập khẩu.
3. Nguy cơ hàng hoá Việt Nam bị kiện chống trợ cấp ở nước ngoài.
Nếu so với nguy cơ bị kiện chống bán phá giá, nguy cơ hàng Việt Nam xuất
khẩu bị kiện chống trợ cấp ở nước ngoài thấp hơn. Xét trong bình diện chung, số
vụ kiện chống trợ cấp ở tất cả các nước thành viên WTO cũng thấp hơn nhiều so
với số vụ kiện chống bán phá giá. Trên thực tế, hàng hoá Việt Nam chưa từng bị
kiện chống trợ cấp ở nước ngoài.
Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn cần thận trọng trước nguy cơ này bởi với nền
kinh tế được chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá trước kia, hàng hóa Việt
Nam rất dễ bị quy chụp là được trợ cấp bởi nhiều lý do. Nguy cơ này càng tăng
lên với sự tăng trưởng tương đối lớn về xuất khẩu và lợi thế cạnh tranh chủ yếu về
giá của hàng hoá Việt Nam hiện nay.
4/ Khó khăn của doanh nghiệp Việt Nam khi bị kiện chống trợ cấp.
Bản thân việc bị kiện chống trợ cấp đã là một bất lợi (bởi việc kiện tụng thường
tốn nhiều thời gian và tiền của, khả năng bị áp thuế cũng tương đối cao). Doanh
nghiệp Việt Nam nếu bị kiện sẽ bất lợi hơn bình thường bởi trong cam kết gia
nhập WTO, Việt Nam phải chấp nhận bị xem là nền kinh tế phi thị trường. Cụ thể,
theo cam kết này, việc tính toán mức trợ cấp trong các vụ điều tra chống trợ cấp
đối với hàng hoá Việt Nam sẽ được thực hiện như sau:
Trong trường hợp bình thường: nước điều tra sẽ tuân thủ các quy định tại Hiệp
định SCM để tính toán mức độ và đo lường tác động của trợ cấp; Trong trường
hợp khó khăn đặc biệt cản trở việc áp dụng các quy định tại Hiệp định SCM: nước
điều tra có thể sử dụng các phương pháp khác để thực hiện các tính toán này.
5/ Vấn đề chống trợ cấp đối với hàng hoá nước ngoài ở Việt Nam.
- Văn bản pháp luật: Pháp lệnh về việc chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào
Việt Nam năm 2004; Nghị định 89/2005/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một
số điều của Pháp lệnh chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam. Nghị
định 04/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp
và tự vệ; Nghị định 06/2006/NĐ-CP về việc quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh; Thông tư 106/2005/TT-
BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thu, nộp, hoàn trả thuế chống bán phá giá,
chống trợ cấp và các khoản bảo đảm thanh toán thuế chống bán phá giá, thuế
chống trợ cấp.
- Nội dung:
Các quy định về chống trợ cấp ở Việt Nam tuân thủ các nguyên tắc và quy định
của WTO về vấn đề này.
Cơ quan có thẩm quyền: Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương:
Chịu trách nhiệm điều tra, trình kết quả điều tra và đề xuất cách thức xử lý cho
cơ quan có thẩm quyền;
Hội đồng xử lý vụ việc chống trợ cấp - Bộ Công Thương: Xem xét, nghiên cứu
kết quả điều tra của Cục quản lý cạnh tranh, thảo luận và kiến nghị Bộ trưởng Bộ
Công Thương về cách thức xử lý; Bộ trưởng Bộ Công Thương: Quyết định có
hoặc không áp dụng biện pháp chống trợ cấp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bgg_106.pdf