Theo quan niệm truyền thống, ở các nước có nền kinh tế đang phát triển thường chỉ chú ý đến vai trò của thu hút ĐTTTNN vào nước mình. Trong thời điểm hiện nay, khi mà bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra ngày một sâu sắc, các quốc gia đang phát triển đánh giá và nhìn nhận lại một cách chính xác và đầy đủ. Lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh rằng, một nước mà dòng ĐTRNN càng mạnh thì càng có nhiều khả năng mở rộng thị trường và tăng cơ hội kinh doanh, từ đó tăng việc làm, tăng động lực phát triển kinh tế đất nước và tăng thu hút dòng vốn đầu tư vào. Các quốc gia trên thế giới như: Mỹ, Anh, Nhật, Đức là trung tâm thu hút đầu tư của thế giới và cũng là các quốc gia ĐTRNN lớn nhất thế giới [16].
Tại Việt Nam, thời gian trước một trong những yếu tố khiến quy định ĐTTTRNN chưa thoáng là do cách nghĩ đem tiền ra nước ngoài là đất nước bị hụt vốn. Đó là cách nghĩ phi kinh tế, bởi ĐTRNN không những cần mà còn là một xu hướng tất yếu. Các nước phát triển ĐTTTRNN để lợi dụng nhân công rẻ, nhưng đối với các nước đang phát triển như chúng ta, đến một mức độ nào đó dứt khoát cũng phải đầu tư ra, bởi đó là hành động chuyển những công nghệ hiện tại của chúng ta ra khỏi biên giới. Trung Quốc đang làm như thế, để họ có thể nhập về những công nghệ hiện đại hơn. Nếu Việt Nam không ĐTRNN thì vấn đề đổi mới công nghệ rất khó giải quyết. ĐTRNN lại hoàn toàn phù hợp với sự hội nhập của Việt Nam; nó tạo lực mới cho nền kinh tế. Vì vậy việc thay đổi suy nghĩ và cách nhìn đối với hoạt động này là cần thiết và mang tính tất yếu. Có như vậy thì việc triển khai thực hiện mới thật sự thu được hiệu quả.
Đội ngũ cán bộ cũng như các nhà cầm quyền cần có nhận thức sáng suốt theo quan điểm mới, từ đó phát huy tư duy theo cách nghĩ này, không ngừng rèn luyện, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn để có những đóng góp tích cực đẩy mạnh hoạt động ĐTTTRNN, đưa đất nước tiến lên theo kịp xu thế thời đại.
Kinh tế càng phát triển, nhu cầu điều chỉnh bởi công cụ pháp luật ngày càng tăng cao. Pháp luật không chỉ phải theo kịp và giải quyết tốt các mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực kinh tế đó mà pháp luật còn phải mang tính định hướng, dự đoán được trước các vấn đề có thể phát sinh. Việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật nhằm xây dựng nên một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với điều kiện khách quan, đồng thời đưa nó vào cuộc sống, thiết thực, tạo dựng một môi trường pháp lý thuận lợi, lý tưởng, tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế.
61 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3587 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất cập.
Hàng năm, trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư có văn bản báo cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư kèm theo báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư gửi đến các cơ quan, bộ, ngành liên quan.
Một trong những trở ngại gián tiếp cản trở con đường ĐTRNN của các doanh nghiệp trong các quy định trước kia là việc chuyển tiền ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận về nước. Theo quy định, lợi nhuận của các dự án đầu tư phải chuyển về nước chậm nhất là 6 tháng khi năm tài chính kết thúc, nhưng lại chưa có quy định rõ ràng lợi nhuận bao gồm cụ thể những gì. Chủ đầu tư Việt Nam muốn chuyển lợi nhuận thành vốn đầu tư tiếp để khỏi phải chuyển tiền đầu tư ra cũng không phải là chuyện đơn giản.
Việc chuyển tiền ra nước ngoài đã từng làm đau đầu không ít doanh nghiệp. Đại diện một doanh nghiệp cho biết, thường thì Ngân hàng “săm soi quá kỹ” nên việc chuyển tiền không phải lúc nào cũng đơn giản. Giám đốc một doanh nghiệp tâm sự: “tôi mong rằng NHNN nên có một quy định cụ thể đối với việc chuyển vốn ra nước ngoài, nhằm tạo điều kiện thuận lợi và nhanh chóng cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án. Nếu phải chờ đợi thủ tục quá lâu nhà đầu tư sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội hợp tác” [24].
NĐ 78 năm 2006 ra đời cùng với hệ thống các văn bản pháp luật về quản lý ngoại hối, quy định về xuất khẩu và chuyển giao công nghệ đã một phần khắc phục đựơc những điểm bất cập này. Sự ra đời của Luật thuế xuất nhập khẩu và Pháp lệnh ngoại hối 2005, Luật sở hữu trí tuệ 2005 cùng với sự đầy đủ và hoàn thiện của hệ thống pháp luật nói chung, các quy định cũng ngày càng rõ ràng, hoàn thiện, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, thủ tục liên quan đến chuyển vốn ra nước ngoài, chuyển lợi nhuận về nước trở nên thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện đúng tiến độ, đúng kế hoạch. Một tín hiệu đáng mừng cho các nhà đầu tư là sự ra đời của Thông tư số 10/2006/TT - NHNN ngày 21/12/2006 hướng dẫn tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để ĐTTTRNN. Thông tư này được ban hành rất kịp thời, thoả mãn sự mong chờ của các nhà đầu tư cũng như các tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vay vốn để ĐTRNN. Đó là một sự hỗ trợ thiết thực của nhà nước giúp nhà đầu tư Việt Nam vươn ra thị trường thế giới.
Về phê duyệt tái đầu tư cũng đã có những quy định đơn giản hoá thủ tục hành chính, đồng thời quy định rõ nghĩa vụ của nhà đầu tư trong trường hợp có nhu cầu tái đầu tư mà không phải là một quy định hết sức chung chung như tại Điều 14 NĐ 22 năm 1999 “nếu sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư ở nước ngoài phải được Bộ KH - ĐT chấp thuận và đăng ký với NHNN Việt Nam”.
Có thể nói sự ra đời của Luật đầu tư 2005 và NĐ 78 năm 2006 là một bước tiến mới khi đặt ra các quy định về thủ tục ĐTTTRNN đơn giản hơn nhiều. Tuy nhiên theo các DN Việt Nam, ĐTRNN hiện nay vẫn đang gặp nhiều khó khăn từ phía cơ quan quản lý nhà nước. Tập đoàn dầu khí quốc gia Petro Việt Nam, cơ quan có nhiều dự án ĐTRNN nhất để thăm dò, khai thác dầu khí cũng than phiền rằng họ vướng phải rất nhiều cơ chế, mà đặc biệt là thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài. Thông thường, khi muốn mua một mỏ dầu, Petro Việt Nam phải lập dự án, rồi chờ các cơ quan nhà nước phê duyệt, trong khi vẫn phải đàm phán với đối tác nước ngoài. Quá trình này tốn rất nhiều thời gian. “Chúng tôi muốn một mỏ dầu trị giá 100 triệu USD, thì phải xin phép nhiều cấp. Khi xong được thủ tục, giá của mỏ đó đã cao lên, hoặc công ty nước ngoài khác đã mua xong rồi. Thế là dự án không thành”, ông Đinh La Thăng, chủ tịch Petro Việt Nam nhận xét. Ông còn cho biết thêm: “Hành lang pháp lý của Việt Nam trong việc ĐTRNN nói chung và ngành dầu khí nói riêng còn quá chặt chẽ. Những trường hợp phải xin phép nhiều cấp, nhiều ngành, chúng tôi không có quyền quyết định” [17]. Đây cũng là vấn đề mà các nhà làm luật cần nghiên cứu kỹ, nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về ĐTRNN, không ngừng tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ĐTTTRNN phát triển.
Như vậy, Luật đầu tư 2005, NĐ 78 năm 2006 và mới đây nhất là Quyết định số 1175/2007/QĐ - BKH ngày 10/10/2007 hướng dẫn về thủ tục ĐTRNN, các quy định về thủ tục ĐTRNN của Việt Nam đã cụ thể và rõ ràng hơn, tạo được thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động xin cấp giấy chứng nhận và triển khai, tiến hành ĐTTTRNN. Thực tiễn đã chứng minh: lợi nhuận sẽ quyết định hướng của các nhà đầu tư chứ không phải các biện pháp hành chính. Vì vậy một yêu cầu đặt ra với các nhà làm luật là cần có những quy định cởi mở hơn theo hướng tạo thuận lợi tối đa cho DN chứ không chỉ phục vụ quy hoạch của ngành, của Chính phủ.
2.4 Về hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Pháp luật về đầu tư của các nước thừa nhận một số hình thức đầu tư phổ biến sau [29]:
- Doanh nghiệp liên doanh: Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất của ĐTTTRNN trên thế giới từ trước đến nay. Nó là công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hiệu quả thông qua hoạt động hợp tác. Giúp nhà đầu tư tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại; thâm nhập được những thị trường truyền thống của nước chủ nhà; không mất thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ, đồng thời chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: DN 100% vốn nước ngoài cũng là hình thức được nhiều nhà đầu tư lựa chọn nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt động đầu tư quốc tế. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của chủ đầu tư nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi trường kinh doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế, luật pháp, văn hoá ở mức độ cạnh tranh…Ưu điểm dễ nhận thấy của hình thức này là nhà đầu tư chủ động trong quản lý điều hành, triển khai nhanh dự án và được quyền chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển chung của doanh nghiệp.
- Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp tác kinh doanh: Đây là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới.
- Đầu tư theo hợp đồng BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao): Trong một dự án xây dựng BOT, một doanh nhân tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận hành một công trình mà thường do Chính phủ thực hiện. Công trình này có thể là nhà máy điện, sân bay, cầu, cầu đường… Vào cuối giai đoạn vận hành DN sẽ chuyển quyền sở hữu dự án về cho Chính phủ. Ngoài hợp đồng BOT còn có BTO, BT.
- Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con: Đây là một trong những mô hình tổ chức quản lý được thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
- Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài: Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn nước ngoài ở chỗ chi nhánh không đuợc coi là một pháp nhân độc lập trong khi công ty con là một pháp nhân độc lập nên việc thành lập chi nhánh đơn giản hơn vì chỉ phải thông qua đăng ký tại các cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại.
- Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập: Đây là hình thức đầu tư có yêu cầu cao về năng lực tài chính. Tuy nhiên lại được đánh giá là hình thức phù hợp nhất với hoạt động ĐTTTRNN của các quốc gia đang phát triển như nước ta.
Pháp luật về ĐTTTRNN ở Việt Nam không có quy định trực tiếp nào về hình thức đầu tư, song về nguyên tắc pháp luật Việt Nam cho phép ĐTTTRNN dưới các hình thức:
- Một là, đầu tư thành lập một tổ chức kinh tế mới dưới dạng thành lập một doanh nghiệp 1 chủ (độc doanh) hoặc thành lập công ty (liên doanh);
- Hai là, đầu tư thông qua hoạt động hợp tác kinh doanh với các đối tác của nước tiếp nhận khác (hợp doanh);
- Ba là, mua cổ phần, góp vốn để trực tiếp tham gia quản lý và điều hành các doanh nghiệp tại nước tiếp nhận đầu tư;
- Bốn là, thực hiện các hoạt động sáp nhập, mua lại các doanh nghiệp của nước sở tại;
Mỗi hình thức đầu tư có những ưu nhược điểm riêng và áp dụng trong các trường hợp khác nhau. Trong đó hình thức mua lại và sáp nhập là một hình thức được sử dụng rất rộng rãi trên thế giới và là hình thức mà một số công ty ở các nước đang phát triển sử dụng để nhanh chóng tiếp cận công nghệ hiện đại và sở hữu các thương hiệu nổi tiếng thế giới. Trong khi đó, ở nước ta hiện nay hình thức này lại ít được các nhà đầu tư lựa chọn do khả năng tài chính của các DN Việt Nam còn nhiều hạn chế. Tính đến cuối năm 2004, Bộ KH – ĐT đã cấp giấy phép cho 115 dự án ĐTRNN. Trong số đó có 111 dự án còn hiệu lực, được chia thành 3 loại đầu tư: đầu tư 100% vốn tại nước ngoài gồm 51 dự án; liên doanh với nước ngoài gồm 44 dự án; hợp đồng, hợp tác kinh doanh, phân chia sản phẩm gồm 16 dự án. Như vậy hình thức thành lập tổ chức kinh tế mới vẫn là hình thức được các nhà đầu tư lựa chọn nhiều nhất và đáng tiếc là chưa có DN nào sử dụng hình thức mua lại và sáp nhập để nhanh chóng tiếp cận công nghệ hiện đại hay sở hữu được thương hiệu nổi tiếng như các công ty Daewoo, TCL hay Lenovo đã thực hiện [12].
2.5 Về lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Cũng tương tự như hình thức ĐTTTRNN, việc nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực nào của nước tiếp nhận đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào quy định của nước sở tại. Theo thông lệ quốc tế, Luật đầu tư của các nước đều có quy định cụ thể lĩnh vực mà họ cấp phép đầu tư nước ngoài, lĩnh vực mà họ khuyến khích đầu tư, đặc biệt khuyến khích đầu tư đồng thời cũng quy định các lĩnh vực không cấp phép đầu tư. Trong hoạt động ĐTTTRNN các nước cũng có những quy định về khuyến khích đầu tư. Các quốc gia thiếu tài nguyên thường khuyến khích doanh nghiệp nước mình đầu tư vào các lĩnh vực có thể tận dụng được tài nguyên thiên nhiên của nước sở tại như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…
Vì vậy, khi đầu tư vào bất cứ quốc gia nào, nhà đầu tư đều phải tìm hiểu và nghiên cứu kĩ vấn đề này tại Luật đầu tư của nước đó. Tuy nhiên, khi ĐTRNN nhà đầu tư còn phải tuân thủ pháp luật Việt Nam về các lĩnh vực ĐTTTRNN.
Theo pháp luật Việt Nam, nhà đầu tư được ĐTTTRNN trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên để thúc đẩy sự phát triển cân đối trong các lĩnh vực, các ngành nghề của nền kinh tế quốc dân, thực hiện có hiệu quả mục đích của Luật đầu tư, Điều 75 Luật đầu tư 2005 cũng có những quy định về khuyến khích đầu tư và cấm đầu tư cụ thể như sau:
- Nhà nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức kinh tế tại Việt Nam ĐTRNN đối với những lĩnh vực xuất khẩu nhiều lao động; phát huy có hiệu quả các ngành, nghề truyền thống của Việt Nam; mở rộng thị trường, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tại nước đầu tư; tăng khả năng xuất khẩu, thu ngoại tệ.
- Nhà nước Việt Nam không cấp phép ĐTRNN đối với những dự án gây phương hại đến bí mật, an ninh quốc gia, quốc phòng, lịch sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục của Việt Nam.
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam là nước đông dân, nguồn lao động dồi dào, nếu không có chính sách sử dụng nguồn lao động đó, không những rất lãng phí mà tệ nạn xã hội sẽ ngày càng gia tăng. Nên đối với lĩnh vực xuất khẩu nhiều lao động cần được khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi bằng các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ. Không những vậy, ở Việt Nam hiện nay còn có hàng chục làng nghề truyền thống như: gốm sứ Bát Tràng, lụa Hà Đông, khảm trai, mỹ nghệ… cũng là 1 trong những thế mạnh cần được mở rộng, hướng ra thị trường thế giới nhằm cải thiện đời sống người nông dân, thay đổi cơ chế sản xuất nhỏ lẻ tạo nên cơ chế sản xuất chuyên nghiệp hơn, rộng lớn hơn, phù hợp với xu thế vận động toàn cầu. Ngoài ra pháp luật khuyến khích ĐTRNN đối với lĩnh vực khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tại nước đầu tư, đây là hướng đi đúng đắn mà tất cả các quốc gia phát triển trên thế giới nhưng không có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào sử dụng khi tiến hành ĐTRNN.
Đối với những lĩnh vực đầu tư làm tăng khả năng xuất khẩu, thu ngoại tệ cũng được nhà nước khuyến khích. Bởi như vậy hoạt động ĐTRNN của các nhà đầu tư không chỉ thu lại nhiều lợi nhuận cho đất nước mà còn là đòn bẩy đẩy mạnh các hoạt động kinh tế quan trọng khác phát triển.
Bên cạnh lĩnh vực khuyến khích đầu tư, nhà nước còn quy định những lĩnh vực cấm cấp phép đầu tư nhằm đảm bảo bí mật an ninh quốc phòng, lịch sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục của Việt Nam bởi suy cho cùng tất cả các hoạt động của nhà nước đều nhằm mục đích cuối cùng là xây dựng đất nước Việt Nam ổn định, hoà bình và phát triển. Vì vậy, phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng, ổn định chính trị đất nước. Không thể vì lợi ích kinh tế trước mắt mà xem nhẹ lợi ích lâu dài, bảo vệ tổ quốc và lịch sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục của quốc gia.
Đây là quy định mới so với NĐ 22 năm 1999 đảm bảo việc đầu tư có quy hoạch, đem lại lợi ích cho nhà đầu tư và cho xã hội. Tuy nhiên điểm hạn chế dễ nhận thấy sau khi đi vào thực hiện là các quy định này chỉ mới dừng lại ở tính chất là các quy định khung. Cho đến NĐ 78 năm 2006 cũng không hề có các quy định cụ thể về danh mục các lĩnh vực được khuyến khích, hạn chế, cấm ĐTTTRNN. Điều này làm cho các quy định của pháp luật ĐTRNN ít có tính khả thi, chỉ mang tính hình thức, dẫn đến không tạo ra được động lực thúc đẩy các doanh nghiệp ĐTTTRNN.
Thực tiễn cho thấy trong năm 2007, các doanh nghiệp Việt Nam thường tập trung đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp (17 dự án, vốn đầu tư 156,8 triệu USD), chiếm 35,9% về vốn dự án và 40% về vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực công ngiệp (23 dự án, vốn đầu tư 147,1 triệu USD) chiếm 26% về số dự án và 37,6% về vốn đầu tư đăng ký. Số vốn còn lại đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ [25]. Những số liệu của năm 2007 cho thấy xu thế ĐTRNN của Việt Nam đang gia tăng và tình hình ĐTRNN sẽ còn sôi động hơn nữa trong năm 2008.
2.6 Về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Một trong những điểm mới và tiến bộ nhất của Luật đầu tư 2005 là tạo ra được khung pháp lý chung để các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế đều được đầu tư, kinh doanh công bằng, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai minh bạch, có trật tự kỷ cương. Cho nên tất cả các nhà đầu tư cho dù là ĐTRNN hay nhà ĐTNN đầu tư vào Việt Nam và các nhà đầu tư ở trong nước cũng đều có các quyền và nghĩa vụ giống nhau. Riêng trong lĩnh vực ĐTTTRNN, xuất phát từ chính sách, vị trí, vai trò của hoạt động này cũng như yêu cầu quản lý nhà nước về lĩnh vực này mà Luật đầu tư năm 2005 ghi nhận thêm một số quyền và nghĩa vụ đặc thù cho các nhà đầu tư, cụ thể như sau:
- Nhà đầu tư được quyền chuyển vốn bằng tiền và các tài sản hợp khác ra nước ngoài để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối sau khi dự án đầu tư được cơ quan có thẩm quyền của nước, vùng lãnh thổ đầu tư chấp thuận;
Nhà đầu tư khi bắt tay ĐTTTRNN phải tuân thủ rất nhiều yêu cầu của các quy định khác nhau, trong đó mặc dù Luật đầu tư tạo điều kiện cho họ bằng cách trao quyền chuyển vốn bằng tiền và các tài sản khác ra nước ngoài để tiến hành đầu tư, tuy nhiên nhà đầu tư cũng phải thực hiện quyền này trong khuôn khổ các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
- Nhà đầu tư sẽ được hưởng các ưu đãi về đầu tư theo quy định pháp luật.
Mặc dù vậy, quy định này vẫn chưa được cụ thể, chỉ mang tính chất là một quy định khung của Luật đầu tư 2005 mà không có những ưu đãi nổi trội so với pháp luật của các nước khác. Nó có ý nghĩa hay không là tuỳ thuộc vào các quy định cụ thể về ưu đãi đầu tư với hoạt động ĐTTTRNN.
- Tuyển dụng lao động Việt Nam sang làm việc tại cơ sở sản xuất kinh doanh do nhà đầu tư thành lập ở nước ngoài.
Với quy định này, nhà nước Việt Nam vừa tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc tìm hiểu nhân công lao động trong nước vừa giải quyết được vấn đề việc làm cho người lao động thể hiện sự nhất quán với quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư cũng như được quy định tại Điều 75 Luật đầu tư. Nhà đầu tư được hưởng quyền lợi trên đồng thời cũng phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu về thủ tục đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc tại dự án đầu tư theo quy định pháp luật về lao động, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người lao động Việt Nam ở nước ngoài và chịu trách nhiệm giải quyết các vấn đề phát sinh theo hợp đồng đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc tại dự án đầu tư cùng với các quy định khác của pháp luật liên quan.
Bên cạnh các quyền lợi kể trên, các nhà đầu tư phải tuân thủ nghiêm ngặt những nghĩa vụ tương ứng:
- Tuân thủ pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.
Theo thông lệ quốc tế, bất cứ một hoạt động ĐTRNN nào cũng đều chịu sự điều chỉnh của cả 2 hệ thống pháp luật: pháp luật của nước đầu tư và pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư. Vì vậy, bên cạnh việc tuân thủ pháp luật Việt Nam, các nhà đầu tư khi tiến hành ĐTTTRNN đều phải chấp hành các quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
- Chuyển lợi nhuận và các khoản thu từ việc ĐTRNN về nước theo quy định pháp luật.
Nghĩa vụ này được quy định cụ thể tại Điều 25 NĐ 78 năm 2006, cụ thể:
+ Trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày có quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi nhuận và các khoản thu nhập khác từ dự án đầu tư về Việt Nam.
+ Trường hợp có nhu cầu kéo dài thời hạn quy định trên, nhà đầu tư phải có văn bản đề nghị và nêu rõ lý do gửi Ngân hàng nhà nước Việt Nam xem xét, quyết định việc gia hạn được thực hiện không quá 2 lần, mỗi lần không quá 6 tháng.
- Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ về tài chính và hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
Nghĩa vụ này cũng được cụ thể hoá tại Điều 22 NĐ 78 năm 2006, theo đó, hàng năm, trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư có văn bản báo cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư kèm theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư gửi Bộ KH - ĐT, Bộ tài chính, Bộ thương mại, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bộ quản lý ngành Kinh tế - kỹ thuật và UBND cấp tỉnh nơi nhà đầu tư đặt trụ sở.
Mặc dù đã được quy định rõ tuy nhiên việc chấp hành và thực hiện của các DN Việt Nam trong thời gian qua là chưa thật sự nghiêm túc. Các doanh nghiệp chưa tự giác thực hiện chế độ báo cáo định kỳ hoạt động kinh doanh ở nước ngoài của mình. Điều này gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc thống kê, giám sát tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời cũng gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp đi sau khi muốn tìm hiểu về thực trạng đầu tư kinh doanh trên thị trường mà mình quan tâm.
- Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam.
Điều 27 NĐ 78 năm 2006 quy định về các nghĩa vụ tài chính mà các nhà đầu tư phải thực hiện như sau:
+ Nhà đầu tư có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam theo quy định pháp luật.
+ Trường hợp dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư thì mức thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam đối với phần lợi nhuận chuyển về nước được áp dụng như mức thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng đối với dự án đầu tư trong nước trong cùng lĩnh vực đầu tư.
+ Trường hợp nước tiếp nhận đầu tư là quốc gia hoặc thuộc vùng lãnh thổ đã ký hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với Việt Nam thực hiện theo quy định của hiệp định đó.
+ Trường hợp nước tiếp nhận đầu tư là quốc gia thuộc vùng lãnh thổ chưa ký hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với Việt Nam thì khoản thuế thu nhập doanh nghiệp đã được nộp ở nước tiếp nhận đầu tư sẽ được khấu trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam.
+ Việc miễn thuế xuất khẩu đối với tài sản mang ra nước ngoài để triển khai dự án đầu tư thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Khi kết thúc đầu tư ở nước ngoài, chuyển toàn bộ vốn, tài sản hợp pháp về nước theo quy định của pháp luật.
Cũng cùng một mục đích với việc chuyển lợi nhuận về nước, Điều 26 NĐ 78 năm 2006 quy định về việc thanh lý dự án đầu tư như sau:
+ Ngay sau khi kết thúc dự án đầu tư, nhà đầu tư phải thanh lý dự án đầu tư theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
+ Trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày kết thúc việc thanh lý dự án đầu tư, nhà đầu tư phải chuyển về nước toàn bộ các khoản thu từ việc thanh lý dự án đầu tư.
+ Trường hợp có nhu cầu kéo dài thời hạn quy định tại khoản 2 điều này, nhà đầu tư phải có văn bản đề nghị và nêu rõ lý do gửi Bộ KH - ĐT xem xét, quyết định. Việc gia hạn được thực hiện 1 lần và không quá 6 tháng.
- Trường hợp nhà đầu tư chưa chuyển về nước vốn, tài sản, lợi nhuận và các khoản thu nhập từ việc đầu tư ở nước ngoài như các nghĩa vụ trên đây thì phải được sự đồng ý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, các quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư đã được pháp luật quy định rõ trong Luật đầu tư và NĐ 78 năm 2006, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động ĐTTTRNN. Các quyền và nghĩa vụ được quy định rõ ràng giúp cho các doanh nghiệp có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi bị cơ quan quản lý nhà nước gây phiền nhiễu.
2.7 Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Hoạt động ĐTTTRNN của các doanh nghiệp chịu trách nhiệm quản lý nhà nước của Chính phủ, Bộ KH - ĐT và các Bộ, cơ quan ngang Bộ khác. Trong đó pháp luật quy định cụ thể về trách nhiệm của Chính phủ là thống nhất quản lý nhà nước về ĐTTTRNN trong phạm vi cả nước; của Bộ KH - ĐT là chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về ĐTTTRNN và của các Bộ, cơ quan ngang bộ là trong phạm vi nhiệm vụ của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về ĐTTTRNN trong lĩnh vực được phân công. NĐ 78 năm 2006 đã có các quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước liên quan đến hoạt động ĐTTTRNN một cách rõ ràng và cụ thể hơn nhiều so với NĐ 22 năm 1999 trước đây.
Trách nhiệm của Bộ KH - ĐT, của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, của Bộ tài chính, Bộ thương mại, Bộ Lao động - thương binh và xã hội, của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ khác, cũng như của UBND cấp tỉnh được quy định tại các điều từ 31 đến điều 37- NĐ 78/2006 thể hiện sự quan tâm và một thái độ cực kỳ nghiêm túc của các nhà lãnh đạo nhà nước đối với hoạt động ĐTTTRNN hiện nay.
Không chỉ gắn liền với trách nhiệm quản lý nhà nước bằng hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, pháp luật còn hỗ trợ các nhà đầu tư ở nước ngoài thông qua hoạt động của các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nuớc ngoài, tạo điều kiện và tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án đầu tư nhằm bảo đảm cho hoạt động đầu tư được diễn ra một cách thuận lợi, suôn sẻ và thu về hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Chương 3:
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Khuôn khổ pháp lý của hoạt động ĐTTTRNN đang dần được hoàn thiện thông qua việc ban hành Luật đầu tư 2005, đồng thời NĐ 78 năm 2006 đã thay thế NĐ 22 năm 1999 và thủ tục ĐTRNN đã được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, đơn giản tại Quyết định số 1175/2007/QĐ – BKH ngày 10/10/2007 của Bộ KH - ĐT. Tuy nhiên, để đảm bảo thực thi pháp luật về ĐTTTRNN, các quy định của pháp luật cần không ngừng được hoàn thiện trong tương lai, từng bước khắc phục hạn chế, giải quyết tốt nhiều điểm bất cập.
Thứ nhất: Chính phủ cần nhanh chóng ban hành danh mục các lĩnh vực khuyến khích, hạn chế và không cấp phép ĐTTTRNN.
Điều 75 Luật đầu tư 2005 chỉ mới có quy định khung về các lĩnh vực khuyến khích, cấm ĐTRNN, Điều 79 Luật này nêu rõ: “Chính phủ quy định cụ thể lĩnh vực khuyến khích, cấm, hạn chế ĐTRNN”, và tại Điều 5 NĐ 78 năm 2006 cũng có quy định: “căn cứ các quy định tại Điều 75 của Luật đầu tư và tình hình kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, Thủ tướng chính phủ ban hành các lĩnh vực khuyến khích, cấm, hạn chế ĐTTTRNN”, song đến thời điểm hiện nay khi mà Luật đầu tư và NĐ 78 năm 2006 đã đi vào thực hiện một thời gian nhưng vẫn chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Chính phủ không chỉ xem xét để ban hành danh mục các lĩnh vực khuyến khích ĐTTTRNN nhằm hướng các doanh nghiệp tận dụng được tối đa sự hỗ trợ từ nhà nước và không ngừng đẩy mạnh hiệu quả kinh doanh; mà Chính phủ còn phải tìm hiểu và nghiên cứu kỹ càng để xây dựng nên danh mục các lĩnh vực hạn chế cấp phép ĐTTTRNN, tránh kiểu suy nghĩ “thông thoáng” một cách chủ quan là khuyến khích vô điều kiện tất cả các hoạt động đầu tư thuộc tất cả các lĩnh vực, ra tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ miễn sao không gây phương hại đến bí mật, an ninh quốc gia, quốc phòng, lịch sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục của Việt Nam. Đối với một lĩnh vực đầu tư sẽ thích hợp với một số các quốc gia, vùng lãnh thổ nhất định mà không phải bao giờ chấp nhận cho các doanh nghiệp mạnh dạn tiến hành ĐTTTRNN cũng có thể thu lại được lợi nhuận một cách dễ dàng. Suy nghĩ một cách sâu sắc hơn, chúng ta đã bao giờ đặt câu hỏi: tại sao Nhật, EU không chuyển giao cho ta công nghệ chế biến cà phê? Đơn giản bởi vì nếu chuyển giao thì cà phê của họ sẽ mất tính cạnh tranh với cà phê Việt Nam. Thời gian trước, Tanzania đã từng có nhã ý muốn ta chuyển giao công nghệ chế biến hạt điều [26]. Nhưng không thể làm theo cách nghĩ đơn giản của nhiều quan chức vì những mặt lợi trước mắt dễ dàng nhận thấy là họ có giá lao động rất rẻ, sản lượng hạt điều lại lớn. Song nếu cho họ công nghệ hay nói cách khác là tiến hành ĐTTT vào Tanzania trong lĩnh vực chế biến hạt điều thì ngay lập tức hạt điều Việt Nam sẽ có một đối thủ cạnh tranh đáng gườm. Vậy nên tư duy quản lý phải biết nhìn nhận đúng đắn ở chỗ này, có tính định hướng chứ không phải chỉ biết hạn chế một cách chung chung, để biết doanh nghiệp Việt Nam có thể đầu tư cái gì và nên đầu tư cái gì ra nước ngoài để đất nước được lợi.
Ban hành danh mục các lĩnh vực khuyến khích, cấm, hạn chế ĐTTTRNN sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có định hướng cụ thể trong kế hoạch ĐTRNN của mình trên cơ sở đó lựa chọn lĩnh vực đầu tư phù hợp, hưởng các chính sách khuyến khích ưu đãi từ nhà nước.
Thứ hai: Chính phủ cần ban hành danh mục các lĩnh vực đặc thù, địa bàn đặc thù hoặc cơ sở pháp lý để xác định một lĩnh vực, địa bàn được coi như là đặc thù.
Quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư tại Luật đầu tư 2005 là một điều hết sức cần thiết, thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành ĐTTTRNN, không những vậy NĐ 78 năm 2006 cũng đã có quy định về lĩnh vực đặc thù, địa bàn đặc thù và cơ sở pháp lý của nó là theo các quy định riêng của Chính phủ. Có thể lấy ví dụ về một lĩnh vực đặc thù phổ biến hiện nay như hoạt động ĐTTTRNN trong lĩnh vực dầu khí đã được thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký ban hành tại Nghị định số 121/2007/NĐ-CP ngày 25/7/2007 [23].
Theo đó, các dự án dầu khí được đầu tư thông qua các hình thức: ký kết hợp đồng dầu khí; chuyển nhượng 1 phần hoặc toàn bộ công ty vào các dự án tìm kiếm, thăm dò, phát triển, khai thác hoặc dự án bắt đầu từ giai đoạn phát triển, khai thác dầu khí. Đối với các dự án dầu khí có sử dụng vốn nhà nước từ 1.000 tỷ đồng trở lên, hoặc vốn của các thành phần kinh tế từ 3.000 tỷ đồng trở lên phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
Nghị định số 121/2007cũng quy định trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày có quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi nhuận về Việt Nam trừ các khoản lợi nhuận được giữ lại để tái đầu tư hoặc đầu tư cho các dự án dầu khí khác. Trường hợp có nhu cầu kéo dài thời hạn trên, nhà đầu tư phải có văn bản nêu rõ lý do, trình NHNN Việt Nam xem xét, quyết định. Việc gia hạn được thực hiện không quá 2 lần, mỗi lần không quá 6 tháng.
Xuất phát từ tính chất đặc thù của các lĩnh vực đầu tư cũng như địa bàn đầu tư mà việc Chính phủ ban hành riêng từng văn bản pháp luật là điều cần thiết. Tuy nhiên ngoài quy định rất chung chung này tại khoản 2 Điều1 NĐ 78 năm 2006 thì pháp luật không hề có một quy định cụ thể nào về vấn đề này nữa. Chúng ta chưa hề có tiêu chí nào để xác định một địa bàn, lĩnh vực như thế nào thì được coi là đặc thù. Và ngoài Nghị định số 121/2007 điều chỉnh hoạt động ĐTTTRNN của các nhà đầu tư tại Việt Nam trong hoạt động dầu khí, các quy định cụ thể về hoạt động ĐTTTRNN của các lĩnh vực đặc thù khác tại địa bàn đặc thù khác cũng đang bị bỏ ngõ. Trong rất nhiều các lĩnh vực, địa bàn mà nhà nước cho phép đầu tư, thậm chí khuyến khích đầu tư nhưng cả nhà quản lý và đối tượng quản lý đều không có cơ sở pháp lý nào để xác định đó có phải là địa bàn, lĩnh vực đặc thù hay không và nếu là đặc thù thì quy phạm pháp luật điều chỉnh nó được quy định tại đâu. Điều này gây không ít khó khăn cho hoạt động quản lý, đồng thời sự lỏng lẻo của các quy định pháp luật dẫn tới sự tuỳ tiện, bừa bãi của các cơ quan chức năng.
Thứ ba: Xây dựng đề án khuyến khích ĐTRNN theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
Việc xây dựng một đề án bàn đến việc thúc đẩy đầu tư của các DN Việt Nam ra nước ngoài là một điều hết sức cần thiết để doanh nghiệp trong nước vươn ra thị trường quốc tế trong tư thế bình đẳng với doanh nghiệp các quốc gia khác khi Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO.
Luật đầu tư 2005 và NĐ 78 năm 2006 mới chỉ đi vào vấn đề nguyên tắc và những hướng dẫn mang tính thủ tục. Còn đề án sẽ tập trung vào việc khuyến khích, thúc đẩy đầu tư của DN Việt Nam ra nước ngoài, vào những địa bàn, lĩnh vực cụ thể, nhất là trong các lĩnh vực có thế mạnh và cần thiết như: khai thác dầu mỏ, làm thuỷ điện, trồng cây nguyên liệu công nghiệp, khai khoáng… và có những cơ chế để thúc đẩy đầu tư. Không những vậy, sự thiếu sót của Luật đầu tư cũng như NĐ 78 năm 2006 khi chưa có quy định cụ thể nào về các biện pháp khuyến khích ĐTTTRNN nên được bổ sung kịp thời tại đề án này là điều hết sức hợp lý.
Thông thường, pháp luật các nước Mỹ, Singapore hay Trung Quốc thường dùng chính sách thuế để thực hiện khuyến khích ĐTTT của các doanh nghiệp ra nước ngoài. Trong đó Mỹ dùng chính sách miễn giảm thuế và xem xét các khoản vay ưu đãi cho doanh nghiệp đối với các dự án thuộc danh mục khuyến khích ĐTTTRNN [9].
Theo thông tin từ cuối năm 2006, Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ KH - ĐT cho biết, cơ quan này đang xây dựng đề án khuyến khích ĐTRNN theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Dự thảo hoàn chỉnh của đề án này dự kiến sẽ được trình lên Chính phủ vào khoảng đầu năm 2007 [17]. Nhưng cho tới thời điểm này, nghĩa là đã hơn một năm - mà đề án vẫn chưa được ban hành.
Thứ tư: Ban hành văn bản pháp luật quy định về bảo hiểm ĐTRNN.
Bảo hiểm là hình thức phòng tránh và khắc phục rủi ro. Đặc biệt đối với hoạt động ĐTTTRNN - theo nguyên tắc phân tán rủi ro - có bản chất là hoạt động nhằm phân tán rủi ro, tránh “bỏ chung trứng vào một giỏ”. Nhưng một khi doanh nghiệp đặt chân vào môi trường kinh doanh thế giới rộng lớn thì việc phải đối diện với rất nhiều khó khăn, thử thách, không chỉ về kinh tế, về sức cạnh tranh mạnh mẽ và quyết liệt của các bạn hàng mà còn chịu sự tác động nhiều về chính trị, an ninh, quốc phòng… là không thể tránh khỏi. Vì vậy, nếu pháp luật trong nước xây dựng được cơ chế bảo hiểm cho các rủi ro đó sẽ phần nào làm cho doanh nghiệp yên tâm, đồng thời gánh bớt một phần rủi ro cho họ.
Thứ năm: Các Bộ, ngành liên quan trong quản lý nhà nước về ĐTTTRNN như: Bộ KH - ĐT, NHNN Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ thương mại, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, UBND cấp tỉnh và các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ khác cần nhanh chóng xây dựng và ban hành văn bản pháp quy về lĩnh vực mà mình quản lý để tạo điều kiện cho nhà đầu tư hoàn tất thủ tục xin phép đầu tư, triển khai dự án đầu tư.
Luật đầu tư 2005 và NĐ 78 năm 2006 đã hoàn thiện hơn các văn bản pháp luật trước kia khi có các quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTTTRNN của các Bộ, ngành liên quan, tuy nhiên do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn nên gây không ít khó khăn cho việc thực thi và chấp hành pháp luật. Vì vậy, cần có hướng dẫn cụ thể về thủ tục đăng ký, thẩm định, cấp giấy chứng nhận đầu tư; mẫu các văn bản trong hồ sơ cấp giấy chứng nhận đầu tư như: Văn bản đề nghị thẩm định, mẫu giải trình về dự án đầu tư.
Việc quy định một cách rõ ràng các nội dung này, không chỉ giúp cho các tổ chức, cá nhân trong quá trình lập hồ sơ, tháo dỡ phần nào tính rườm rà, phức tạp của các yêu cầu về thủ tục hành chính. Mà còn tạo thuận lợi cho việc xem xét, ra quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tránh được tình trạng trả lại hồ sơ do không đúng quy cách hay còn thiếu nội dung dẫn đến kéo dài thời gian thực hiện đăng ký, thẩm định cấp giấy phép đầu tư.
Một điều đáng nói nữa là sự ra đời tương đối sớm của cơ quan chuyên trách để lo giải quyết những vấn đề về ĐTNN là Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ trưởng Bộ KH - ĐT đã quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của cơ quan này tại Quyết định số 523/QĐ - BKH ngày 31/7/2003, tuy nhiên công tác quản lý của cơ quan này đối với lĩnh vực ĐTTTRNN lại chưa thật sự hiệu quả. Nên chăng pháp luật cần tách bạch các quy định về chức năng, nhiệm vụ của Cục ĐTNN riêng ra đối với từng hoạt động: ĐTRNN và ĐTNN vào Việt Nam nhằm tăng cường hơn nữa chức năng quản lý nhà nước và không ngừng tạo mọi điều kiện hỗ trợ DN Việt Nam ĐTTTRNN.
Thứ sáu: Cần sớm phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương được trực tiếp tiến hành cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án ĐTTTRNN.
Việc giao cho các địa phương cấp giấy chứng nhận đầu tư như trường hợp các dự án ĐTNN vào Việt Nam sẽ phần nào giúp cho công tác quản lý trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn, giảm một số lượng công việc đáng kể cho Bộ KH – ĐT. Theo quan điểm của các nhà làm luật hiện nay thì lượng vốn cũng như các dự án của DN Việt Nam ĐTRNN vẫn quá ít, chưa nhiều đến mức phải tiến hành phân cấp nên mới chỉ giao việc cho UBND cấp tỉnh. Tuy nhiên, theo quy định mới chủ thể ĐTTTRNN đã được mở rộng một cách đáng kể. Trong thời gian tới số lượng hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận đầu tư nhất định sẽ tăng cao, công việc quản lý nhiều hơn, phức tạp hơn nên cần thiết phải có sự phân cấp quản lý để phù hợp với quy định của Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã đồng thời giảm bớt chi phí đi lại, đơn giản về thủ tục cho các nhà đầu tư.
Thứ bảy: Nhà nước cần ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan ngoại giao ở nước ngoài trong quản lý nhà nước về ĐTTTRNN.
Theo quy định của NĐ 78 năm 2006, các cơ quan ngoại giao là cơ quan có chức năng hỗ trợ đầu tư ở nước ngoài cho các nhà đầu tư. Nhưng trong thời gian qua, các cơ quan này làm việc chưa thật sự hiệu quả, chưa hỗ trợ đựơc nhiều cho các doanh nghiệp ĐTTTRNN. Mối liên hệ giữa cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với các nhà đầu tư còn lỏng lẻo nên khi có vụ việc tranh chấp xảy ra sẽ không tranh thủ được tối đa sự hỗ trợ của nhà nước. Thực trạng này một phần xuất phát từ nguyên nhân thiếu các quy định pháp luật rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn… của các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài. Chính vì vậy, trong thời gian tới, cần ban hành văn bản pháp luật quy định về vấn đề này để cơ quan ngoại giao ở nước ngoài thật sự là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường sở tại, để quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài được bảo vệ một cách chính đáng.
3.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang trên đà tăng trưởng, đã có thêm nhiều DN Việt Nam có khả năng tài chính cũng như kinh nghiệm để ĐTRNN. Mặt khác, các DN Việt Nam cũng nhận thức được lợi ích của việc ĐTRNN trong bối cảnh hội nhập sâu vào đời sống kinh tế khu vực và quốc tế. Nhất là khi Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới WTO cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động đầu tư, thương mại của doanh nghiệp, trong đó có hoạt động ĐTTTRNN của DN Việt Nam. Pháp luật không chỉ phải được hoàn thiện phù hợp với sự phát triển của kinh tế và sự vận động không ngừng của các quan hệ xã hội, mà còn được thực thi một cách nghiêm chỉnh, người dân có ý thức chấp hành cao, để các quy định của pháp luật về ĐTTTRNN thực sự đi vào cuộc sống.
Thứ nhất: Đẩy mạnh công tác hỗ trợ cung cấp thông tin có liên quan đến hoạt động ĐTTTRNN cho nhà đầu tư dưới nhiều hình thức.
Pháp luật nói chung và pháp luật ĐTTTRNN nói riêng muốn có hiệu quả thực thi cao thì trước hết phải được phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Đặc biệt đối với lĩnh vực không thể thiếu các thông tin như ĐTTTRNN, nhà nước càng cần phải có một hệ thống cung cấp thông tin rộng rãi, phổ biến trên toàn quốc, không ngừng cập nhật, đổi mới và phát triển. Bên cạnh các hình thức truyền thống như thông qua phát thanh, truyền hình, báo chí trung ương, địa phương, một hình thức mới mẻ đang là xu hướng thịnh hành và tiến bộ bây giờ là qua Internet. Việc lập ra các trang web là cách thức mới trong thời gian gần đây và đã thu lại được hiệu quả đáng kể trong một số lĩnh vực [10]. Việc cung cấp các thông tin thường xuyên trên mạng Internet sẽ giúp cho các nhà đầu tư có một bước tiến trong việc tiếp cận lĩnh vực này. Giúp cho họ nắm bắt được thời cơ, tận dụng được lợi thế và tiến hành ĐTTTRNN một cách có hiệu quả. Đây được coi là một trong các biện pháp đơn giản nhất nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp mạnh dạn ĐTRNN. Không chỉ có lợi cho các nhà đầu tư, việc phổ biến các thông tin về pháp luật một cách thường xuyên và đầy đủ, làm cho ý thức chấp hành và thực hiện pháp luật trong hoạt động này nói riêng và đời sống nói chung không ngừng được củng cố và nâng cao. Các nhà đầu tư hiểu rõ hơn ai hết quyền và nghĩa vụ của mình, trên cơ sở đó thực hiện những hành vi mà pháp luật không cấm và chịu trách nhiệm về sự ràng buộc đối với pháp luật khi tham gia vào mối quan hệ này.
Cơ quan quản lý nhà nước mà Bộ KH - ĐT chủ trì cần phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức thu thập thông tin định kỳ hàng năm biên soạn thành sách, hoặc qua internet để cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp đang có ý định ĐTRNN về: chính sách thu hút đầu tư, luật pháp chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại nước sở tại; các tiềm năng và cơ hội đầu tư trong một số ngành, lĩnh vực cụ thể tại nước sở tại; các dự án đầu tư cụ thể được Chính phủ 2 nước ký thoả thuận; các dự án kêu gọi ĐTNN của nước sở tại. Đồng thời cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại các nền kinh tế cũng cần cung cấp cho doanh nghiệp đang và sẽ hoạt động đầu tư tại nước sở tại cũng như cơ quan quản lý nhà nước liên quan các loại thông tin như: thông tin về chính sách thu hút đầu tư và các chính sách, luật pháp liên quan trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp; thường xuyên cập nhật các thay đổi về quy định pháp luật để cung cấp cho doanh nghiệp; định kỳ cung cấp các chỉ số kinh tế vĩ mô của nước sở tại về: quy mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế..., quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước và tổ chức thu thập thông tin về các thị trường cụ thể mà nhà đầu tư quan tâm.
Thứ hai: Nhà nước thành lập hoặc khuyến khích thành lập các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp hoạt động trên phạm vi toàn quốc để cung cấp các thông tin cần thiết về pháp luật, thị trường, đối tác, kinh nghiệm, các dịch vụ xúc tiến thương mại, dịch vụ hỗ trợ tư pháp và thủ tục hành chính.
Một trong những khó khăn lớn nhất mà các nhà đầu tư thường gặp phải khi tiến hành ĐTTTRNN là phải trải qua rất nhiều các yêu cầu về thủ tục đăng ký, thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư, thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài… gây mất rất nhiều thời gian và cơ hội đầu tư. Thông qua các tổ chức tư vấn này, các doanh nghiệp sẽ bớt bở ngỡ hơn, tiến hành thuận lợi hơn và mất ít thời gian hơn. Bằng việc cung cấp thông tin pháp luật cho khách hàng khi có yêu cầu, giúp khách hàng hiểu đúng pháp luật từ đó chấp hành nghiêm chỉnh hoặc thông qua việc nhận uỷ quyền của các nhà đầu tư thực hiện các thủ tục pháp lý như xin giấy chúng nhận đầu tư, vay vốn, chuyển tiền… theo quy định của pháp luật. Hoạt động của các tổ chức này phải được tiến hành một cách chuyên nghiệp, có quy mô rộng lớn với đội ngũ nhân viên tư vấn am hiểu sâu sắc pháp luật, làm việc năng suất, hiệu quả, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu và nguyện vọng của các nhà đầu tư.
Thứ ba: Nhà nước cần tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện với các quốc gia khác trên thế giới, không ngừng ký kết các điều ước quốc tế về ĐTTTRNN.
Việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới là tiền đề thúc đẩy hoạt động ĐTTT có cơ hội xâm nhập ra nhiều quốc gia khác nhau. Các hiệp định song phương về bảo đảm đầu tư là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng trong bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư ở các nước mà chúng ta có ký hiệp định song phương, đó sẽ là cơ sở pháp lý chung điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp tác đầu tư giữa các nước, tạo cơ chế pháp lý ổn định giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh khi đầu tư sang những nước cũng cùng tham gia và nâng cao khả năng tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp khi thực hiện dự án ở nước ngoài.
Các điều ước quốc tế nói chung và hiệp định song phương nói riêng cùng với hệ thống pháp luật trong nước điều chỉnh lĩnh vực này sẽ không ngừng tác động lẫn nhau theo hướng hỗ trợ và bổ sung cho nhau, cùng xây dựng nên hệ thống quy phạm pháp luật về ĐTTTRNN ngày càng hoàn thiện, phát triển, nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi pháp luật ĐTTTRNN của các doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư: Tăng cường các biện pháp chế tài về trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo, thống kê định kỳ của các doanh nghiệp.
Một trong những bất cập gặp phải kể từ khi bắt đầu triển khai thực hiện Luật đầu tư 2005 và NĐ 78 năm 2006 là công tác quản lý các dự án ĐTRNN chưa thật sự hiệu quả và còn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính là do việc thực hiện chế độ báo cáo, thống kê định kỳ của các dự án chưa đầy đủ.
Để khắc phục được hạn chế trên, pháp luật cần phải quy định rõ hơn nữa về các biện pháp chế tài đối với việc thực hiện nghĩa vụ này. Ràng buộc trách nhiệm, đảm bảo sự tuân thủ nghiêm chỉnh của các doanh nghiệp như đôn đốc thường xuyên, đồng thời áp dụng ngay các biện pháp chế tài khi có vi phạm. Theo phân tích đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về ĐTTTRNN thời gian qua thì nguyên nhân của tình trạng báo cáo chưa đầy đủ một phần là do cơ quan nhà nước không có sự đôn đốc, nhắc nhở thường xuyên, lơ là trong việc quản lý và không có chế tài khi doanh nghiệp chậm hay không báo cáo. Vì vậy, để đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách nghiêm túc và đúng đắn, các cơ quan nhà nước phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ ban ngành, đồng thời đẩy mạnh công tác kiểm tra giám sát để có những đánh giá toàn diện về dự án, sớm phát hiện những vi phạm và kịp thời chấn chỉnh theo đúng quy định pháp luật.
Thứ năm: Chính phủ nên thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với các doanh nghiệp ĐTTTRNN.
Thông qua hoạt động này, Chính phủ sẽ trực tiếp nắm bắt được tình hình hoạt động của các dự án ĐTTTRNN, từ đó xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật phù hợp. Đồng thời, thể hiện sự quan tâm thường xuyên và kịp thời của các nhà lãnh đạo cấp cao đối với các nhà ĐTTTRNN cho thấy thái độ của nhà nước đối với chính hoạt động này. Buộc các nhà đầu tư đã, đang và sẽ tiến hành ĐTTTRNN phải tự gắn trách nhiệm của bản thân đối với nhà nước, ý thức cao về việc tuân thủ và thực hiện đúng đắn các quy định của pháp luật.
Thứ sáu: Cần sớm có sự thay đổi nhận thức về ĐTTTRNN đồng thời các cán bộ trực tiếp thực hiện hoạt động quản lý nhà nước không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
Theo quan niệm truyền thống, ở các nước có nền kinh tế đang phát triển thường chỉ chú ý đến vai trò của thu hút ĐTTTNN vào nước mình. Trong thời điểm hiện nay, khi mà bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra ngày một sâu sắc, các quốc gia đang phát triển đánh giá và nhìn nhận lại một cách chính xác và đầy đủ. Lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh rằng, một nước mà dòng ĐTRNN càng mạnh thì càng có nhiều khả năng mở rộng thị trường và tăng cơ hội kinh doanh, từ đó tăng việc làm, tăng động lực phát triển kinh tế đất nước và tăng thu hút dòng vốn đầu tư vào. Các quốc gia trên thế giới như: Mỹ, Anh, Nhật, Đức…là trung tâm thu hút đầu tư của thế giới và cũng là các quốc gia ĐTRNN lớn nhất thế giới [16].
Tại Việt Nam, thời gian trước một trong những yếu tố khiến quy định ĐTTTRNN chưa thoáng là do cách nghĩ đem tiền ra nước ngoài là đất nước bị hụt vốn. Đó là cách nghĩ phi kinh tế, bởi ĐTRNN không những cần mà còn là một xu hướng tất yếu. Các nước phát triển ĐTTTRNN để lợi dụng nhân công rẻ, nhưng đối với các nước đang phát triển như chúng ta, đến một mức độ nào đó dứt khoát cũng phải đầu tư ra, bởi đó là hành động chuyển những công nghệ hiện tại của chúng ta ra khỏi biên giới. Trung Quốc đang làm như thế, để họ có thể nhập về những công nghệ hiện đại hơn. Nếu Việt Nam không ĐTRNN thì vấn đề đổi mới công nghệ rất khó giải quyết. ĐTRNN lại hoàn toàn phù hợp với sự hội nhập của Việt Nam; nó tạo lực mới cho nền kinh tế. Vì vậy việc thay đổi suy nghĩ và cách nhìn đối với hoạt động này là cần thiết và mang tính tất yếu. Có như vậy thì việc triển khai thực hiện mới thật sự thu được hiệu quả.
Đội ngũ cán bộ cũng như các nhà cầm quyền cần có nhận thức sáng suốt theo quan điểm mới, từ đó phát huy tư duy theo cách nghĩ này, không ngừng rèn luyện, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn để có những đóng góp tích cực đẩy mạnh hoạt động ĐTTTRNN, đưa đất nước tiến lên theo kịp xu thế thời đại.
Kinh tế càng phát triển, nhu cầu điều chỉnh bởi công cụ pháp luật ngày càng tăng cao. Pháp luật không chỉ phải theo kịp và giải quyết tốt các mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực kinh tế đó mà pháp luật còn phải mang tính định hướng, dự đoán được trước các vấn đề có thể phát sinh. Việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật nhằm xây dựng nên một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với điều kiện khách quan, đồng thời đưa nó vào cuộc sống, thiết thực, tạo dựng một môi trường pháp lý thuận lợi, lý tưởng, tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các văn bản pháp luật.
Luật đầu tư 2005
Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 của Chính phủ quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài của Doanh nghiệp Việt Nam.
Nghị định số 121/2007/NĐ-CP ngày 25/7/2007 của Chính phủ quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nhà đầu tư tại Việt Nam trong hoạt động dầu khí.
Thông tư 05/2001/TT-BKH ngày 30/8/2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Doanh nghiệp Việt Nam.
Thông tư số 01/2001/TT-NHNN ngày 19/1/2001 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.
Các tài liệu chuyên khảo.
Nguyễn Khắc Định, Hoàn thiện pháp luật về ĐTTTNN trong xu hướng nhất thể hoá pháp luật về đầu tư ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội 2003.
Th.s Đoàn Trung Kiên, Những điểm mới cơ bản của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, Tạp chí Luật học, số 12/2006.
Bùi Thị Thu Hiền, Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động ĐTTTRNN của các DN Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội 2007.
Nguyễn Thị Len, ĐTTTRNN theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp - Đại học Luật Hà Nội 2007
Nguyễn Xuân Hoà, Trần Thị Thanh Nga, ĐTRNN chính sách phát triển mới của Trung Quốc, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 3/2006.
Nguyễn Thị Thuỷ, Mua lại và sáp nhập: có thể là hình thức cho các công ty muốn ĐTRNN, Đại học Kinh tế- Đại học Đà Nẵng.
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh (chủ biên), Thúc đẩy DN Việt Nam ĐTTTRNN, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội 2006.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật đầu tư, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội 2006.
TAND Tối cao, trường Cán bộ Toà án- Những vấn đề pháp lý cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội 2005.
Các trang web.
16. Mạng http: //www.mof.gov.vn
17. Mạng http: //www.vietba
o.vn
18. Mạng http: //www.vnexpres.net
19. Mạng http: //www.vov.org.vn
20. Mạng http: // www.vnn.vn
21. Mạng http: // www.mpi.gov.vn
22. Mạng http: // www. Irv.moi.gov.vn
23. Mạng http: // www.doanhnghiep24g.com.vn
24. Mạng http: // www.vami.com.vn
25. Mạng http: // www.ncseif.gov.vn
26. Mạng http: // www.vibonline.com.vn
27. Mạng http: // www.tapchicongsan. Org.vn
28. Mạng http: // www.vi. Wikipedia. Org
29. Mạng http: // www.my.opera.com
30. Mạng http: // www. Tayninhtrade.com.vn
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA
NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI 3
1.1. Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 3
1.1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 3
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 5
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 7
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 12
1.2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của pháp luật về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài 12
1.2.2. Vai trò của pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 15
1.2.3. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của một số nước
trên thế giới 15
1.2.4. Khái lược sự hình thành và phát triển của pháp luật về
ĐTTTRNN ở Việt Nam 19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 23
2.1. Về chủ thể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 23
2.2. Về điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 25
2.3. Về thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 26
2.4. Về hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 35
2.5. Về lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 37
2.6. Về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài 39
2.7. Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 43
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA
NƯỚC NGOÀI 45
3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài 45
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài 51
KẾT LUẬN 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam.doc