Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Đây là một vấn đề được các nhà lãnh đạo và các nhà nghiên cứu rất quan tâm. Có nhiều quan điểm khác nhau, có những quan điểm có thể đi đến kết luận thống nhất, song cũng có những quan điểm còn đang trong quá trình thảo luận chưa đi đến thống nhất.
Kinh nghiệm thành công của quá trình chuyển đổi nền kinh tế trong thời gian qua là sự thay đổi tư duy và nhận thức về vai trò của Nhà nước trong công cuộc phát triển đất nước. Chính vì vậy, sự thành công của giai đoạn phát triển tiếp theo sẽ lệ thuộc rất nhiều vào việc xác định lại một cách hợp lý vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý kinh tế.
84 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3410 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
S chủ yếu diễn ra trên thị trường thứ cấp với mục đích mua bán các BĐS của những người không có nhu cầu sử dụng nhưng được quyền chuyển nhượng. Để điều tiết về “cầu”, Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp như cho những người có QSDĐ do chuyển nhượng ngầm qua tay nhiều người, nhiều lần như là chuyển nhượng lần đầu, được cấp giấy chứng nhận QSDĐ hợp pháp; thực hiện quản lý chặt các dòng di dân nông thôn, quản lý quy mô gia tăng cơ học dân số của các thành phố; đề ra tiêu chuẩn khách hàng được nhận chuyển nhượng BĐS phải có hộ khẩu thường trú.
d. Thành lập trung tâm giao dịch BĐS
Để khắc phục tình trạng không có cơ quan chịu trách nhiệm cung cấp thông tin chính thức cũng như thiếu cơ quan tư vấn tin cậy có tính pháp lý để hỗ trợ cả người bán và người mua khi tham gia giao dịch trên TTBĐS hiện nay, các địa phương, đặc biệt là các thành phố lớn cần phải thành lập các trung tâm giao dịch BĐS với các chức năng cơ bản sau:
+ Thông tin về các nguồn “cung” BĐS của cả khu vực nhà nước, các doanh nghiệp và cá nhân có BĐS tham gia trên thị trường.
+ Thẩm định các đặc trưng, tính pháp lý, giá cả của BĐS, cũng như thực hiện dịch vụ pháp lý cho các BĐS tham gia các giao dịch trên TTBĐS.
+ Là cầu nối thực hiện thanh toán giữa các bên tham gia TTBĐS cũng như giới thiệu các nguồn cung cấp tài chính cho các đơn vị cá nhân có nhu cầu vay vốn, thế chấp bằng chính các BĐS tham gia giao dịch trên thị trường.
Để thực hiện tốt các chức năng trên, trung tâm giao dịch BĐS phải có một đội ngũ chuyên gia được đào tạo bài bản về giao dịch, định giá và thẩm định BĐS. Trung tâm phải có mối liên hệ chặt chẽ với các cơ quan QLNN về BĐS như Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Quy hoạch và Kiến trúc đô thị, cơ quan thuế, ngân hàng và các ngành có liên quan.
đ. Chống đầu cơ BĐS
Để hạn chế tiến tới ngăn chặn và xóa bỏ hoàn toàn tệ nạn đầu cơ BĐS, cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu sau:
- Tăng cường hoạt động quản lý sau giao đất. Cụ thể, cần thực hiện nghiêm quy định về thời hạn đưa đất vào sử dụng. Nếu các đối tượng được giao đất mà không sử dụng trong thời hạn 1 năm, kéo dài thời gian đầu tư quá 2 năm hoặc sử dụng không đúng mục đích được giao thì sẽ bị thu hồi. Không nên thực hiện miễn, giảm tiền thuê đất, giao cho các đơn vị đầu tư BĐS mà chỉ miễn giảm cho người sử dụng sau khi mua lại hoặc thuê lại.
- Thường xuyên công bố quy hoạch sử dụng đất và các dự án đầu tư phát triển các công trình BĐS. Quản lý chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất giữa 3 nhóm: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng, nhất là chuyển đổi hình thức sử dụng từ đất nông nghiệp thành đất phi nông nghiệp. Sự chuyển đổi mục đích sử dụng trong nội bộ từng nhóm sẽ do chính quyền phường, xã quyết định.
- Luật hóa vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng trên cơ sở hoàn thiện thêm về chính sách đền bù hiện nay. Trong đền bù, cần quy định rõ:
+ Giá đền bù do Nhà nước quy định cho từng loại đất theo mục đích sử dụng khi giao đất, kiên quyết không đền bù cho đất nông nghiệp chuyển đổi trái phép mục đích sử dụng thành đất phi nông nghiệp và đất khác.
+ Quy định trách nhiệm về tổ chức nhà ở tái định cư.
+ Quy định trách nhiệm đào tạo nghề, bố trí việc làm hoặc hỗ trợ tạo việc làm cho người dân trong trường hợp bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp.
e. Hoàn thiện chính sách tài chính về đất đai
- Hạ thấp hơn nữa thuế suất chuyển nhượng đất đai để khuyến khích người dân hợp thức hóa BĐS của mình.
- Đơn giản hóa thủ tục đăng lý cấp giấy chứng nhận QSDĐ và giảm các khoản thu khi thực hiện đăng ký QSDĐ lần đầu đối với mọi loại đất có nguồn gốc hợp pháp bất kể đối tượng nhận QSDĐ là cá nhân hay tập thể thuộc các thành phần kinh tế trong nước.
- Chính phủ chỉ nên đề ra các nguyên tắc chỉ đạo và giao quyền cho các địa phương tự quy định giá, chỉ thực hiện thẩm định giá trong những trường hợp cần thiết (và phải có quy định cụ thể để thực hiện). Thực hiện triệt để việc đấu thầu QSDĐ. Khi thực hiện chính sách này, cần tăng cường giao nhiều quyền hạn hơn cho các địa phương trong việc xây dựng và thẩm định giá BĐS.
- Các chính sách nên hướng tới sự bình đẳng đối với các đối tượng nhận chuyển nhượng, được giao đất, cho thuê đất.
- Thực hiện việc điều tiết phần giá trị tăng thêm của BĐS khi Nhà nước đầu tư vào các công trình hạ tầng, thay đổi quy hoạch hoặc tăng giá đất đai khu vực có BĐS đó.
g. Bảo đảm sự phát triển đồng bộ của TTBĐS với các thị trường khác
- Mở rộng và bảo đảm tính pháp lý cao trong hoạt động thế chấp bằng BĐS, kể cả BĐS hình thành sau đầu tư, để cấp vốn tín dụng cho hoạt động của các thành phần kinh tế.
- Hoàn thiện cơ chế thực hiện việc góp vốn liên doanh bằng QSDĐ,
- Tạo mọi điều kiện để các cá nhân, tập thể thuộc mọi thành phần kinh tế có tiềm lực về vốn, khoa học – công nghệ… tiếp cận được với BĐS để đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất.
- Hoàn thiện các chính sách tài chính, thực hiện các khoản thu liên quan đến hoạt động của TTBĐS như các loại thuế và phí: tiền sử dụng đất, thuế trước bạ, thuế chuyển QSDĐ, lệ phí cấp giấy chứng nhận…
Chương III
MỘT SỐ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CỦA TRUNG QUỐC
I. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VỀ HỖ TRỢ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN DỰ ÁN FDI
Sau những năm thực hiện cải cách mở cửa, bằng những chính sách và biện pháp pháp thích hợp, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng khâm phục trong việc thu hút và triển khai thực hiện các dự án FDI.
Về hình thức đầu tư, ngoài ba hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu như ở Việt Nam như doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp hợp tác kinh doanh và doanh nghiệp sở hữu nước ngoài, Trung Quốc còn ban hành một số hình thức khác, có tính đặc thù cho từng lĩnh vực, như (i) hình thức hợp tác phát triển ứng dụng trong khai thác dầu khí và mỏ tự nhiên, (ii) hình thức BOT áp dụng trong phát triển cơ sở hạ tầng, (iii) công ty đầu tư nhằm khuyến khích các tập đoàn lớn của nước ngoài phát triển các dự án đầu tư. Hiện nay các hình thức này được các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) quan tâm, (iv) công ty cổ phần đầu tư nước ngoài. Đây là công ty được thành lập mới, hoặc mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá. Công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn đầu tư nước ngoài có thể chuyển đổi thành công ty cổ phần. Hình thức phổ biến trên thế giới là hình thức mua lại hoặc sáp nhập (M&A) đã được Trung Quốc nghiên cứu áp dụng. Như vậy, với việc thực hiện đa dạng hoá đầu tư, một mặt, cho phép Trung Quốc có thể thu hút được nhiều dự án FDI hơn. Mặt khác, tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc tái cấu trúc lại các dự án FDI trong quá trình triển khai thực hiện. So với Việt Nam, sự hấp dẫn hơn trong các hình thức FDI của Trung Quốc ở chỗ (i) ba hình thức cơ bản của Trung Quốc đều là doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, trong khi hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh ở Việt Nam không thành lập pháp nhân mới. Đây là điều mà rất nhiều nhà ĐTNN mong muốn ở Việt Nam sửa đổi, vì họ không có cơ hội khuyếch trương uy tín trên thị trường Việt Nam, phải “mượn” tư cách pháp nhân của đối tác Việt Nam; (ii) Trung Quốc đã nhanh chóng ban hành các hình thức công ty cổ phần đầu tư nước ngoài, cho phép thành lập mới, hoặc các công ty TNHH chuyển thành công ty cổ phần đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, ở Việt Nam, chúng ta đang thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn FDI. Vì vậy, thời gian qua, có rất nhiều dự án FDI gặp khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện muốn thay đổi chủ đầu tư, tái cơ cấu vốn… nhưng không thể thực hiện được, hoặc phải qua các thủ tục rất phiền hà.
Về giá cả phục vụ, kể từ tháng 01 năm 1998, Trung Quốc bãi bỏ thuế nhập khẩu và thuế VAT khi nhà đầu tư cung ứng thiết bị máy móc cho các công trình có vốn ĐTNN. Tiếp tục mở cửa thị trường dịch vụ cho FDI trong các lĩnh vực nhạy cảm như tài chính, bảo hiểm, viễn thông, du lịch và ngoại thương. Quy định này góp phần thu hút FDI vào phát triển các ngành dịch vụ.
Để góp vốn và tái đầu tư, nhà ĐTNN có thể góp vốn bằng những hình thức khác nhau như ngoại tệ mạnh, máy móc, thiết bị, quyền sở hữu công nghiệp, công nghệ độc quyền với giá xác định. Hơn nữa, nhà ĐTNN có thể sử dụng lợi nhuận bằng đồng nhân dân tệ của tất cả các doanh nghiệp có vốn FDI kinh doanh trên lãnh thổ Trung Quốc để tái đầu tư. Các nhà ĐTNN không chỉ sử dụng lợi nhuận của bản thân doanh nghiệp mình để tái đầu tư, mà còn có thể sử dụng lợi nhuận của các doanh nghiệp khác miễn là doanh nghiệp đó thành lập và hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ Trung Quốc.
Về quản lý ngoại hối, các doanh nghiệp có vốn FDI có thể tiếp nhận các dịch vụ bảo đảm cung ứng tiền mặt, các khoản vay bằng nhân dân tệ theo một số điều kiện nào đó. Ngoài ra, đển bảo đảm chủ động ngoại tệ trong kinh doanh, doanh nghiệp có vốn FDI còn được vay nước ngoài, phát hành trái phiếu ngoại tệ và các công cụ nợ khác, nhưng phải đăng ký. Về các thủ tục liên quan đến chứng nhận quản lý ngoại hối, trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được giấy phép đầu tư, doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quản lý ngoại hối ở địa phương. Sau khi được cơ quan quản lý ngoại hối phê chuẩn, doanh nghiệp có vốn FDI có thể mở tài khoản ngoại tệ tại bất kỳ tổ chức tín dụng trong và ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Ngoài ra, các doanh nghiệp có vốn FDI có thể sử dụng ngoại tệ để tái đầu tư, hoặc chuyển lợi nhuận và các khoản chi phí khác bằng ngoại tệ về nước, nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan quản lý ngoại hối. Đối với Việt Nam, cũng cho phép các nhà ĐTNN mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài, nhưng chỉ là tài khoản vốn vay, chứ không phải phục vụ mục đích giao dịch kinh doanh. Đây chính là một điểm thông thoáng trong Luật đầu tư nước ngoài của Trung Quốc so với Việt Nam. Để quản lý chặt sự di chuyển của nguồn ngoại tệ, Trung Quốc quy định khi chuyển nhượng vốn cần có sự phê duyệt của cơ quan nhà nước về quản lý ngoại hối, hàng tháng phải nộp báo cáo cho cơ quan này.
Về sử dụng đất, cũng giống như Việt Nam, Trung Quốc coi đất đai là sở hữu của Nhà nước. Vì vậy, các nhà ĐTNN có thể nhận các “quyền sử dụng đất” nhưng không phải là quyền sở hữu đối với đất đai. Đối với doanh nghiệp trong nước, quyền sử dụng đất được xác lập thông qua 3 cách thức là cấp đất, thuê đất và thậm chí có thể mua bán đất. Đối với doanh nghiệp FDI có quyền được sử dụng đất được xác lập thông qua 2 cách thức là bên Trung Quốc góp và thuê đất, hoặc qua chuyển nhượng doanh nghiệp, chứ không được phép mua bán. Các doanh nghiệp có vốn FDI có quyền được sử dụng đất trong thời hạn tối thiểu là 40 năm và tối đa là 70 năm, tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng đất cho dự án. Các nhà ĐTNN có quyền thế chấp đất đai tại các tổ chức tín dụng để huy động vốn nhưng phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng thế chấp. Quá trình đăng ký thuê đất mất khoảng 2 tháng, đây là thời gian dài so với quy định của Việt Nam, nhưng đó là thời gian thực.
Về tuyển chọn và sử dụng lao động, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, cũng như Việt Nam, Trung Quốc buộc các doanh nghiệp đấu tư nước ngoài phải chấp hành nghiêm chỉnh bộ luật lao động của nước sở tại. Nhất thiết các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải ký kết hợp đồng lao động với công nhân trong một thời gian nhất định sau ngày được tuyển dụng. Nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong kinh doanh, các nhà ĐTNN ở Trung Quốc có thể tự quyết định thời gian, quy mô, điều kiện và phương thức tuyển dụng. Các nhà ĐTNN có quyền tuyển lao động trực tiếp mà không phải tuyển qua cơ quan quản lý lao động của địa phương, bởi vậy, họ có thể chủ động trong tuyển dụng lao động. Chỉ trong trường hợp tuyển dụng lao động là người nước ngoài, các nhà ĐTNN phải nộp đơn xin phép lên cơ quan quản lý lao động và An ninh xã hội của địa phương. Giấy phép tuyển dụng đối với lao động nước ngoài là bắt buộc. Tuy thủ tục giấy phép không khó, nhưng mất nhiều thời gian, có thể kéo dài từ 1 đến 2 tháng, do các doanh nghiệp có vốn FDI phải thực hiện quy trình 4 bước và làm việc với 4 cơ quan thẩm quyền mới xin được giấy phép lao động cho người nước ngoài.
Về quyền hạn của các dự án FDI, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có toàn quyền quyết định về quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính phủ Trung Quốc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài áp dụng các biện pháp quản lý khoa học tiên tiến trên thế giới. Trong phạm vi kinh doanh được phê duyệt, các nhà ĐTNN có quyền tự quyết định về lập kế hoạch kinh doanh, tăng huy động và sử dụng vốn, mua nguyên liệu sản xuất, thành lập văn phòng và số lượng lao động. Điều này tạo điều kiện rất thuận lợi cho các nhà ĐTNN chủ động trong việc tái cơ cấu và điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp khi cần thiết, kể từ khi triển khai thực hiện cho đến khi vận hành dự án FDI.
Nói chung, Trung Quốc đã tạo ra một môi trường khá thuận lợi và ổn định cho các nhà ĐTNN, tạo cho họ lòng tin. Nhờ các quy định thông thoáng trong quá trình triển khai thực hiện nên Trung Quốc đã thu hút được luồng đầu tư lớn, hình thức và đối tác phong phú. Ngoài việc cải thiện môi trường đầu tư nói chung, Trung Quốc còn tạo và cung cấp thêm các dịch vụ xã hội cho các nhà doanh nghiệp có vốn FDI.
II. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC TRONG VIỆC QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH DOANH
A - MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRUNG QUỐC TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH DOANH
1. Hỗ trợ cho những ngành tiềm năng và các lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao
Hiện nay Trung quốc có 5 ngành nghề đang là điểm nóng gồm: ôtô, thép, luyện nhôm, xi măng và dệt. Các ngành này đang có tốc độ phát triển nhanh nhất Trung Quốc.
+ Ngành ôtô; Sản lượng tăng 35% nên nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư vào ngành này. Thực tiễn yêu cầu 2,4 triệu chiếc/năm, tăng 30% so với năm 2003. Nhiều doanh nghiệp sản xuất ôtô đã thu hút được vốn từ nhân dân và vốn từ nước ngoài nên phát triển rất nhanh. Mỗi tuần có một mẫu xe mới ra đời vì vậy vấn đề ở đây là phải điều chỉnh chủng loại xe ôtô nhằm thu hồi vốn nhanh, phát triển sản xuất. Để giải quyết vốn, Trung Quốc thu hút qua các kênh vay nước ngoài, thu hút vốn đầu tư. Chính vì tốc độ phát triển các doanh nghiệp sản xuất ôtô như vậy nên giá ôtô giảm nhanh. Ngoài ra, nhiều nhà đầu tư quốc tế đầu tư vào ngành này tại Trung Quốc. Do vậy, để phát triển bền vững ngành này, Trung Quốc có sự điều chỉnh qua sáp nhập một số doanh nghiệp và đi vào chất lượng.
+ Ngành thép: ngành này những năm gần đây phát triển mạnh vì Trung Quốc có sản lượng sản xuất và tiêu thụ thép lớn nhất thế giới do nhu cầu xây dựng của Trung Quốc tăng nhanh. Trên 200 triệu tấn thép được sản xuất năm 2003. Vì vậy, nhu cầu nhập nguyên liệu để sản xuất thép rất lớn do khả năng tự cấp nguyên liệu của Trung Quốc thấp. Sự phát triển này dẫn đến tình trạng ở các vùng ven sông, vùng duyên hải chưa có quy hoạch thống nhất nên chỉ quản lý được việc đầu tư sản xuất, nhập khẩu nguyên liệu mà chưa quản lý được khâu bảo vệ môi trường, do vậy, vấn đề ô nhiễm môi trường rất trầm trọng.
+ Ngành luyện nhôm có tình trạng tương tự như ngành thép.
+ Ngành xi măng: ngành này phát triển rất nhanh vì Trung Quốc là một nước tiêu thụ xi măng lớn nhất do thị trường xây dựng và thị trường bất động sản lớn. Trong ngành xi măng, có tình trạng đầu tư sai, công nghệ sản xuất lạc hậu nên chất lượng kém, thiếu nguyên liệu. Nhà nước xây dựng chính sách thanh lọc chỉ để lại những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao, yêu cầu các doanh nghiệp phải tiết kiệm năng lượng trong quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Ngành dệt: Trung Quốc sản xuất và xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Năm 2002, Trong Quốc sản xuất được 17 triệu tấn sợi, chiếm khoảng 30% thế giới. Năm 2004, sản xuất tăng sẽ tăng khoảng 30% và như vậy lợi nhuận cũng tăng. Tuy nhiên, ngành dệt đứng trước tình trạng lạc hậu so với thế giới dẫn đến tình trạng sức cạnh tranh của ngành suy yếu. Chính phủ nhận thấy được điều đó nên yêu cầu các doanh nghiệp ngành dệt tăng hàm lượng công nghệ.
Trung Quốc không có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp cũng như các ngành nghề. Các doanh nghiệp xuất phát từ lợi ích của mình, Chính phủ đứng trên góc độ tổng thể nên sự phối hợp rất quan trọng. Chính phủ cần cung cấp thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp muốn phát triển phải tuân thủ các chính sách của Chính phủ. Các quốc gia cạnh tranh với nhau trên thực tế là giữa các doanh nghiệp. Chính phủ làm sao đưa ra các cơ chế cạnh tranh đó và Chính phủ phải đảm bảo được cạnh trạnh bình đẳng trên thị trường. Trung Quốc đã có những quy định cụ thể để thực thi trên thực tế sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Nhờ vậy, trong thời gian qua nhìn chung kinh tế Trung Quốc phát triển một cách tương đối lành mạnh.
2. Chính sách phát triển doanh nghiệp hương trấn tại Trung Quốc
Xí nghiệp hương trấn ở Trung Quốc phát triển rất mạnh, chiếm phần lớn khu vực ngoài quốc doanh. Năm 1978, xí nghiệp hương trấn chỉ chiếm 9% tổng sản lượng công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, đến năm 1995, tỷ trọng này đã tăng lên 24,7%. Số việc làm của khu vực này tăng trung bình 9,3%/năm. Năm 1995, xí nghiệp hương trấn chiếm 56% tổng sản lượng công nghiệp, vượt xa so với tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay số người làm việc trong khu vực này vào khoảng 130 triệu người, gấp 2 lần so với lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước. Các nghiên cứu cho thấy rằng các xí nghiệp hương trấn hoạt động hiệu quả hơn nhiều so với doanh nghiệp nhà nước.
Khác với cải cách doanh nghiệp nhà nước, sự phát triển của xí nghiệp hương trấn ở Trung Quốc mang tình tự phát. Hình thức sở hữu cũng rất đa dạng, có thể chủ yếu thuộc sở hữu của chính quyền địa phương như ở Giang Tô; ở Quảng Đông thì lại thuộc sở hữu hỗn hợp giữa chính quyền địa phương, các cá nhân và cả nhà đầu tư nước ngoài; còn ở Ôn Châu thì hầu hết các xí nghiệp hương trấn lại thuộc sở hữu tư nhân, vai trò của chính quyền rất nhỏ.
Xí nghiệp chịu sự quản lý của chính quyền địa phương, ít chịu sự can thiệp trực tiếp của cấp chính quyền cao hơn trong những vấn đề như sản xuất, đầu tư, định giá, tuyển dụng và tiền lương. Các giám đốc của các xí nghiệp có quyền quyết định trong quản lý điều hành tác nghiệp. So với xí nghiệp hương trấn sở hữu tập thể thì xí nghiệp hương trấn sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp có nhiều quyền tự quyết hơn.
Tuy nhiên, hiện nay có một số khó khăn của xí nghiệp hương trấn đang tồn tại cần giải quyết. Đó là việc xác định quyền sở hữu xí nghiệp hương trấn, do xí nghiệp hương trấn được đặt ở một xã nào đó, ban đầu vị xã trưởng đóng góp một phần vốn rất nhỏ, nhưng khi doanh nghiệp phát triển lên thì người quản lý của xã lại coi là doanh nghiệp của xã chứ không phải của tư nhân.
Trường hợp một ông chủ của xí nghiệp thành công ở Hàng Châu đã giải quyết điều này rất tốt, ngay chưa có sự quản lý về xí nghiệp hương trấn, ông chủ này đã tách bạch rõ ràng xí nghiệp ra khỏi sự khống chế của xã. Một phần nhờ quan hệ của ông chủ này với các cấp chính quyền rất tốt thông qua việc nộp thuế và đóng góp các khoản tiền cho địa phương nên mọi việc thuận lợi.
Năm 1994, xí nghiệp hương trấn này đã xây dựng theo mô hình công ty mẹ - công ty con và đã tham gia thị trường chứng khoán ở Thẩm Quyến. Năm 2000, xí nghiệp thành lập công ty đầu tư, là mô hình rất ít xí nghiệp hương trấn có thể làm được. Xí nghiệp đã đăng ký vốn gần 300 triệu nhân dân tệ (RMB), Uỷ ban nhân dân tỉnh góp 30 triệu RMB, thành phố góp 5 triệu RMB. Năm 2001, xí nghiệp được phép Bộ Tài chính cho phép thành lập công ty tài chính và Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cũng ủng hộ việc thành lập này. Xí nghiệp thành lập quỹ mạo hiểm và quỹ cho những người có phát minh, sáng chế. Xí nghiệp sử dụng nhân công theo hợp đồng tạm thời, hợp đồng thử việc, hợp đồng dài hạn và hợp đồng suốt đời. Ai đạt thu nhập trên 3 triệu nhân dân tệ thì trở thành hợp đồng suốt đời và sẽ được hưởng lương hưu.
Kinh nghiệm cho thấy, đối với xí nghiệp hương trấn, trước tiên phải chú trọng đến người lao động, tiếp đó đến công ty và cuối cùng là Nhà nước. Thu nhập được phân phối theo 3 phương pháp:
- Theo lao động (với lao động tạm thời, lao động thử việc thì phân phối thu nhập theo sự cống hiến của họ);
- Theo hiệu quả công việc (áp dụng đối với hợp đồng tạm thời); và
- Theo lợi nhuận (với các lao động suốt đời).
Như vậy, xí nghiệp hương trấn của Trung Quốc đã ngày càng phát triển khoa học hơn, hiệu quả hơn với đóng góp ngày càng lớn hơn. Nó đã thể hiện được vai trò của thành phần kinh tế tập thể trong nền kinh tế. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định cả về mô hình cũng như phương thức vận hành, phát triển. Khu vực này đã thể hiện vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế địa phương.
3. Chính sách hỗ trợ phát triển của các loại hình doanh nghiệp
Hội nghị kinh tế đầu năm 2004, đưa ra 32 từ cơ bản cho phát triển: ổn định chính sách, điều chỉnh một cách thích hợp, tiếp tục cải cách, mở rộng đổi mới, nắm vững toàn cục, giải quyết mâu thuẫn, đảm bảo sự phát triển công bằng, hài hoà – phát triển bền vững - giữa các khu vực (Đông - Tây, nông thôn - thành thị, con người - tự nhiên, thị trường trong nước và ngoài nước), phát triển cân bằng ngành, nghề, cân bằng thị trường trong và ngoài nước.
Chính phủ Trung Quốc tin tưởng vào tương lai do biết học tập nhân dân. Nếu không có nhân dân thì Trung Quốc không thể đạt được kết quả như ngày nay. Nhân dân đã gánh vác nhiều hy sinh. đảm nhận nhiều khó khăn, họ có sự bao dung cao độ, cũng giúp cho Chính phủ khắc phục khó khăn, cùng với Chính phủ đi tới thành công như ngày nay. Chính phủ và các chính quyền địa phương đã có những bước đi đúng đắn trong quá trình thực hiện cải cách kinh tế.
Sau khu gia nhập WTO, Trung Quốc trở thành thị trường rất lớn đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Đây là thị trường có nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển. Ngoài nỗ lực của bản thân doanh nghiệp thì Chính phủ cũng cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Chính phủ phải có chính sách hỗ trợ nhằm đảm bảo ưu thế phát triển của các doanh nghiệp Trung Quốc. Nhà nước đã có một số hỗ trợ cho doanh nghiệp như sau:
+ Hỗ trợ về giáo dục: các thành phố của Trung Quốc tập trung nhiều lao động nên việc nâng cao chất lượng lao động cũng là nhiệm vụ quan trọng. Nếu Trung Quốc nâng cao được chất lượng tại các thị trấn, thành phố nhỏ thì Trung Quốc sẽ có được một lực lượng lao động có trình độ cao, giá rẻ.
+ Hướng dẫn và định hướng cho các doanh nghiệp nhằm hạn chế việc đầu tư sai và không hiệu quả. Nhiều công ty đa quốc gia đã đầu tư vào Trung Quốc tạo ra sự cạnh tranh rất khốc liệt. các doanh nghiệp Trung Quốc đứng trước thách thức lớn phải hết sức cố gắng mới có thể cạnh tranh với công ty đa quốc gia. Trong quá trình cạnh tranh giúp các doanh nghiệp hiểu ra nhiều vấn đề mới. Trong xu thế các doanh nghiệp đầu tư vào Trung Quốc có giá thành thấp nhưng hiệu quả cao. điều đó cho các nhà doanh nghiệp thấy khả năng cạnh tranh cao của các doanh nghiệp đầu tư vào Trung Quốc. Vì vậy, các doanh nghiệp Trung Quốc phải nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong thời gian qua ở Trung Quốc có tình trạng các nhà đầu tư đổ xô vào đầu tư theo phong trào, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp làm cho giá bị đẩy xuống dưới giá thành, tác động xấu đến sự phát triển của các doanh nghiệp. Thời kỳ đầu, Chính phủ cũng khống chế để ngăn chặn không xảy ra tình trạng đó, nhưng Chính phủ đã không làm nổi. Ví dụ: về thị trường thép, Chính phủ nghĩ ra các biện pháp để khống chế, nhưng thép ở trong nước và thế giới vẫn phát triển mạnh. Chính phủ đưa ra các tiêu chí cho phép hoạt động như quy mô, môi trường, nhân lực… song cũng không đạt kết quả mong muốn. Sau đó, Chính phủ dùng biện pháp mạnh hơn là áp dụng biện pháp hành chính để ngăn chặn. Đối với những xí nghiệp đã ra đời thì không bắt đóng cửa vì ảnh hưởng đến công ăn việc làm, mà Chính phủ có biện pháp giúp đỡ để nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản xuất tạo thế mạnh trong cạnh tranh.
Để đảm bảo tốc độ và định hướng phát triển, Trung Quốc đưa ra chiến lược phát triển trong giai đoạn mới:
1) Phát triển kinh tế mạng (trên một mạng lưới), điều chỉnh toàn bộ kết cấu nền kinh tế quốc dân.
2) Phát triển trung tâm công nghệ cao.
Lực lượng lao động dồi dào không còn được coi là ưu thế. Công nghệ đã trở thành nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Vì vậy, Trung Quốc cần có chiến lược phát triển khoa học công nghệ.
3) Thúc đẩy việc tái sử dụng lao động, giải quyết công ăn việc làm.
Chiến lược của Trung Quốc trong năm 2004 là tiếp tục phát triển, tiếp thu khoa học tiên tiến của nước ngoài và phát triển ra nước ngoài. Mặt khác, Trung Quốc chú trọng vào phát triển bền vững. Trước đây, miền Duyên Hải tương đối phát triển, sau Trung Quốc chú ý phát triển đồng đều hơn nên có sự điều chỉnh phát triển từ Đông sang Tây.
4. Khuyến khích và đối xử bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp
Ở Trung Quốc, doanh nghiệp được quyền kinh doanh những điều pháp luật không cấm, trách nhiệm của Chính phủ chỉ là thu thuế, nếu có cơ sở kinh doanh đi vào hoạt động phải nộp thuế cho Nhà nước. Chính phủ chỉ can thiệp vào những doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ sở hữu. Vi phạm của các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là trốn lậu thuế như lập hoá đơn giả, kê khai không đủ về doanh thu… Để kiểm soát vấn đề này, Chính phủ đã thành lập các công ty kiểm toán và các công ty này hiện nay phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các kết quả kiểm toán của mình. Đối với doanh nghiệp, cũng đã quy định rất rõ ngoài giám đốc là người chịu trách nhiệm cao nhất, kế toán trưởng cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các báo cáo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính phủ không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp hoạt động tốt, nộp thuế nhiều thì được biểu dương.
Các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp nước ngoài được phép cạnh tranh bình đẳng với nhau. Các chính sách hỗ trợ thường áp dụng đối với doanh nghiệp có đủ điều kiện được hỗ trợ mà không phân biệt loại hình doanh nghiệp cũng như hình thức sở hữu. Chính phủ Trung Quốc không ngăn cấm các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài, vấn đề là do thị trường quyết định.
Tuy nhiên, có một số lĩnh vực kinh doanh bị Nhà nước hạn chế hoặc phải tuân thủ những điều kiện nhất định: ví dụ, sản xuất dược liệu và thiết bị chữa bệnh, thực phẩm… cần phải đáp ứng những điều kiện kinh doanh cụ thể như điều kiện về môi trường, điều kiện về mặt bằng, điều kiện về vệ sinh, v.v… đây là những quy định cụ thể mà khi đã tham gia vào đó thì phải đáp ứng được các yêu cầu, điều kiện đó. Ngoài những quy định chung của Nhà nước, các doanh nghiệp Trung Quốc được quyền áp dụng những biện pháp phù hợp để khuyến khích nhân viên của mình nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trung Quốc vẫn tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước theo mô hình sở hữu hỗn hợp và mô hình công ty. Trước khi đầu tư phải có bàn bạc cụ thể về mô hình hoạt động, hiêu quả sử dụng vốn, lợi nhuận và vai trò của chủ sở hữu. Hiện nay, Chính phủ đã giải quyết xong vấn đề sở hữu. Các công ty tư nhân, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có quyền tham gia cổ phần vào doanh nghiệp nhà nước. Trong điều tra 4.000 doanh nghiệp thì mô hình hỗn hợp chiếm tới 70%, trong đó 2/3 có nhiều loại hình tham gia. Tổng số vốn đầu tư đã lên tới 10.000 tỷ nhân dân tệ, trong đó 75% là vốn của Nhà nước và còn lại là vốn ngoài Nhà nước. Đã có ½ doanh nghiệp nhà nước chuyển sang hình thức hỗn hợp và đây là mô hình của các doanh nghiệp nhà nước trong tương lai. Công ty tư nhân không nên lạm dụng quá nhiều ưu ái của Chính phủ, cũng không nên để Chính phủ can thiệp sâu vào công việc kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp nhà nước cũng vậy. Tuy nhiên, Chính phủ phải khống chế và điều tiết nền kinh tế vĩ mô ở mức độ nhất định, và phải đảm bảo an ninh kinh tế. Vì vậy, Trung Quốc duy trì khoảng 140 doanh nghiệp nhà nước lớn, không cho phép các nhà đầu tư khác tham gia. Ví dụ, trong lĩnh vực sản xuất máy bay thì tư nhân sẽ rất khó được phép tham gia chỉ doanh nghiệp nhà nước mới được tham gia. Cho nên, việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước phải căn cứ vào ngành nghề và nhu cầu của thị trường, điều kiện thực tế.
Chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp dân doanh cũng là một hướng phát triển đang được thực hiện tại Trung Quốc. Vấn đề quan trọng của doanh nghiệp không phải là chủ sở hữu mà chủ yếu là cơ chế hoạt động. Một doanh nghiệp hoạt động tốt điều quan trọng là doanh nghiệp đó có đủ tài nguyên, tiền vốn và người quản lý tốt. Một giám đốc không có năng lực dù có tiền vốn, các điều kiện nhưng cũng khó có thể phát triển. Sự phát triển của các doanh nghiệp là sự cạnh tranh công bằng giữa các giám đốc. Các doanh nghiệp dựa trên điều kiện và yêu cầu của thị trường để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nếu can thiệp của Chính phủ với doanh nghiệp nhà nước ít và chỉ định hướng thì những doanh nghiệp này hoạt động như doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp dân doanh thì quan trọng là ngành đó, lĩnh vực đó có thể chuyển sang được không, các yêu cầu khác có đáp ứng được không.
Quan điểm của Trung Quốc là không phải tất cả các doanh nghiệp nhà nước chuyển sang doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều có hiệu quả mà cơ bản là do cơ chế, chính sách quản lý doanh nghiệp quyết định. Quản lý doanh nghiệp dân doanh cũng chỉ có một số quốc gia tốt còn số không tốt như châu Phi. Theo nhiều nhà kinh tế Trung Quốc thì vấn đề sở hữu không phải là vấn đề chủ chốt, quyết định hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Quan hệ giữa doanh nghiệp với Chính phủ thì công ty nào cũng có, các doanh nghiệp cần tranh thủ sự ủng hộ của Chính phủ để có được điều kiện kinh doanh thuận lợi hơn. Bất kỳ công ty quốc doanh, nước ngoài hay tư nhân đều có các văn phòng, và nhiệm vụ chủ yếu của văn phòng trong các công ty là lobby. Ngoài ra, tất cả các tập đoàn và công ty lớn đều thành lập một bộ phận chuyên trách để thực hiện nhiệm vụ đó.
Doanh nghiệp dân doanh phát triển mạnh trong những năm gần đây. Chính phủ Trung Quốc đã có những biện pháp khuyến khích, hướng dẫn, trợ giúp cho khu vực này phát triển.
Các doanh nghiệp trẻ được hỗ trợ khởi nghiệp, miễn thuế 3 năm, miễn phí bảo vệ môi trường, và một số chính sách hỗ trợ tiền vốn. Nhà nước xem xét lĩnh vực đó có tiềm năng phát triển không, nếu có thì sẽ hỗ trợ.
Khi gia nhập WTO, doanh nghiệp Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn do quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu… làm thế nào để khắc phục được những khó khăn đó khi tham gia quá trình toàn cầu hoá. Có những vấn đề Chính phủ có thể hỗ trợ, có những vấn đề Chính phủ không thể hỗ trợ. Ví dụ như vấn đề vốn, muốn có vốn hoạt động, các doanh nghiệp phát huy động vốn trên thị trường tài chính xã hội chứ Nhà nước không cung cấp cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp Trung Quốc phần lớn quy mô nhỏ, thiết bị lạc hậu những vẫn phải tự mình vươn lên cạnh tranh để tồn tại trong quá trình gia nhập WTO. Các doanh nghiệp phát triển từ nhỏ đến lớn, không ỷ lại, dựa vào Chính phủ, một số doanh nghiệp tự lực vươn lên và khi họ đã khẳng định được vị thế của mình thì Chính phủ đã chú ý đến và có những cơ chế thích hợp để hỗ trợ. Các doanh nghiệp phải cạnh tranh bình đẳng trên thị trường và phải phấn đấu vượt qua các doanh nghiệp khác. Những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp nhỏ có xu hướng hợp nhất với nhau để có quy mô lớn hơn nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Mặc dù áp dụng chính sách theo cơ chế thị trường nhưng trong quá trình phát triển, Trung Quốc cũng đã có những biện pháp mạnh như ra lệnh đóng cửa một số nhà máy: nhà máy sợi Thượng Hải, một số lò than tư nhân… Nhưng những quyết định đó đã gây ra hậu quả hết sức nặng nề: hàng loạt công nhân mất việc, chính quyền địa phương cũng đã phải tạo mọi điều kiện để giải quyết việc làm cho họ.
5. Chính sách bảo vệ môi trường
Gần đây, Chính phủ Trung Quốc đã có chính sách ưu đãi và tạo điều kiện đối với doanh nghiệp có chiến lược bảo vệ môi trường và kiên quyết xử lý các doanh nghiệp vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường.
Bảo vệ môi trường cũng là một trong những vấn đề cấp bách trong việc phát triển doanh nghiệp ở Trung Quốc. Nâng cao chất lượng bảo vệ môi trường thì sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm. Trên thực tế vấn đề môi trường bắt buộc các nhà doanh nghiệp phải nghĩ tới. Nếu trong giai đoạn phát triển ban đầu còn thô sơ của thị trường, nếu gây ảnh hưởng đến môi trường thì có thể vẫn có lợi nhuận. Hiện nay coi vấn đề bảo vệ môi trường là rất quan trọng. Trước đây Trung Quốc chỉ có chính sách nhưng chưa có ai giám sát, thực hiện chính sách đó. Chính phủ thì mỗi năm kiểm tra một lần, nếu doanh nghiệp nào vi phạm về môi trường thì phạt, nhưng hiện nay đã khác. Chính sách vẫn như cũ nhưng đã đưa ra được những quy định cụ thể về bảo vệ môi trường. Nhưng điều quan trong hơn là nhân dân nhận thức đối với môi trường đã được nâng cao. Nhân dân đưa ra những yêu cầu về bảo vệ môi trường rất nghiêm ngặt. Nếu doanh nghiệp đóng trên địa bàn mà không duy trì được môi trường thì người dân có ý kiến phản đối ngay. Do vậy, vấn đề môi trường ở Trung Quốc hiện nay là vấn đề của toàn dân.
Từ năm 2004, nếu doanh nghiệp nào có chính sách bảo vệ môi trường tốt sẽ có chính sách ưu đãi thuế. Có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong vấn đề bảo vệ môi trường. Ví dụ, sản phẩm từ những doanh nghiệp gây ảnh hưởng đến môi trường lớn hơn sẽ không được người tiêu dùng ủng hộ. Trong hiệp hội các nhà doanh nghiệp có tổ chuyên giám sát việc bảo vệ môi trường và tổ này còn nghiên cứu tại sao các doanh nghiệp lại không thực hiện yêu cầu bảo vệ môi trường. Tổ này còn đưa ra những tiêu chuẩn cao hơn tiêu chuẩn nhà nước đặt ra nhưng sau đó hạ thấp xuống. Cùng hiệp hội cũng đã phối hợp với các trường đại học để đào tạo về bảo vệ môi trường. Hiện nay đời sống đã được nâng cao nên người dân cũng ý thức được vấn đề môi trường. Ở những thành phố nhỏ thì vấn đề môi trường vẫn là cấp bách. Trung Quốc có nhiều biện pháp để đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường. Ngoài ra các hiệp hội cùng giúp đỡ các doanh nghiệp tiếp cận với cơ quan chính phủ khi đăng ký hỗ trợ vốn về bảo vệ môi trường. Do đó, chính sách của Nhà nước Trung Quốc đã có tác động tới ý thức của mọi người, và cả doanh nghiệp lẫn người dân đều chú ý đến các biện pháp bảo vệ môi trường. Hiện nay, nhiều người dân Trung Quốc có nhiều tiền chọn những nơi có núi, sông để sống, còn những nơi ô nhiễm môi trường họ không ở. Tuy nhiên, phải lưu ý rằng vấn đề bảo vệ môi trường đã được chú ý ở các thành phố lớn, các doanh nghiệp lớn, còn các vùng xa xôi, các doanh nghiệp nhỏ thì vấn đề về môi trường còn chưa được chú ý đúng mức.
B. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH DOANH
Trong điều kiện nhiều khó khăn và áp lực lớn về mọi mặt, Trung Quốc vẫn từng bước vượt qua và đạt được sự tăng trưởng, phát triển đáng khâm phục. Quan hội thảo về kinh nghiệm quản lý điều hành và phát triển kinh doanh của Trung Quốc, bước đầu có thể rút ra được những bài học sau cho Việt Nam.
1. Việc quản lý điều hành và phát triển kinh doanh chỉ có thể đạt kết quả mong muốn nếu như nó được xây dựng, hình thành một cách bài bản, có tính chiến lược, có sự tham gia tích cực và phối hợp từ cả 2 phía: Phía Nhà nước và phía các doanh nghiệp
Có thể nói rằng đây là kinh nghiệm sâu sắc nhất của Trung Quốc. Để phát triển được thì phải học hỏi, phải có tầm nhìn xa, trông rộng và phải đổi mới tư duy. Đổi mới triệt để cả từ phía Nhà nước cũng như từ phía các doanh nghiệp. Quản lý điều hành và phát triển kinh doanh không được nóng vội, phải tiến hành từng bước vững chắc theo một lộ trình có mục tiêu cụ thể. Trong điều kiện như vậy thì tuy bước nhỏ (từng bước cải thiện và học hỏi), nhưng đổi mới nhanh thì cũng sẽ phát triển nhanh.
Trong đổi mới điều hành và phát triển kinh doanh, Nhà nước có vai trò tạo ra các cơ chế khuyến khích và thúc đẩy các doanh nghiệp dám đổi mới, giúp cho các doanh nghiệp học cách tiếp cận mới trong kinh doanh. Các doanh nghiệp phải tìm hiểu và biết cách khai thác những thuận lợi mà Nhà nước đã tạo ra cho các doanh nghiệp trong từng thời kỳ, trên cơ sở đó các doanh nghiệp tự do phát triển, tự tìm con đường phát triển riêng có hiệu quả nhất. Sau mỗi một giai đoạn nhất định các quy định đổi mới quản lý điều hành và phát triển kinh doanh sẽ được tổng kết, kể cả từ phía doanh nghiệp và từ phía Nhà nước, sau đó Nhà nước sẽ có sự điều chỉnh cho phù hợp với định hướng chung của cả quốc gia. Theo các chuyên gia Trung Quốc thì Chính phủ Trung Quốc quan niệm rằng chỉ có khi nào dân giàu thì nước mới mạnh, các doanh nghiệp có phát triển thì đất nứôc mới phát triển được. Sự đổi mới trong quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp còn được thể hiện trong cách thức và phương pháp làm việc với các doanh nghiệp, mục tiêu là tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong khuôn khổ pháp luật quy định.
2. Tạo ra môi trường hoạt động thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
Tăng cường cải cách doanh nghiệp nhà nước và khuyến khích phát triển các doanh nghiệp dân doanh. Không phân biệt đối xử, có các chính sách, biện pháp cụ thể nhằm giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
Kinh nghiệm của Trung Quốc trong quản lý điều hành và phát triển kinh doanh là chính sách Nhà nước quản lý các doanh nghiệp phải rất cụ thể và bảo đảm tính bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Chính phủ Trung Quốc khuyến cáo các doanh nghiệp phải nhận thức rõ được xu thế hội nhập và tất yếu và phải biết chủ động tận dụng ưu thế và những điều kiện hiện có của mình để giành ưu thế trong kinh doanh, mỗi loại hình doanh nghiệp đều có lợi thế và bất lợi của mình, nếu biết cách tận dụng và khai thác lợi thế của loại hình doanh nghiệp mình thì vẫn thành công và phát triển. Về phía chính sách nhà nước cần đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhằm tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải tự mình đổi mới vươn lên, nếu không thì sẽ không đủ sức cạnh tranh và tồn tại trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế.
Trung Quốc hiện nay có hai loại vấn đề lớn trong phát triển doanh nghiệp, một là cải cách doanh nghiệp nhà nước, hai là phát triển doanh nghiệp dân doanh. Trong đó, khó khăn lớn hơn cả là cải cách doanh nghiệp nhà nước, vì không chỉ liên quan về quan điểm, đường lối, mà cả về kỹ thuật, nghiệp vụ. Trung Quốc và Việt Nam đều đang đứng trước khó khăn đó. Theo Đại hội XVI, Trung Quốc chủ trương “kiên trì và hoàn thiện chế độ kinh tế cơ bản lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển”.
Về cải cách doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc coi việc giảm tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước trong GDP và trong giá trị tổng sản phẩm công nghiệp nhưng vẫn giữ được vị trí chi phối các ngành công nghiệp nặng, khoa học kỹ thuật mũi nhọn, cơ sở hạ tầng và dịch vụ then chốt của nền kinh tế là một thành tựu trong điều chỉnh cơ cấu chiến lược của cải cách doanh nghiệp nhà nước phù hợp với đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường mang đặc sắc Trung Quốc. Đây là kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam.
Về phát triển doanh nghiệp dân doanh, Trung Quốc cũng đang giải quyết nhiều biện pháp để thúc đẩy kinh tế dân doanh, theo hướng “khuyến khích, trợ giúp, hướng dẫn”, đòi hỏi các cơ quan nhà nước đổi mới cung cách làm việc, sát doanh nghiệp và phục vụ doanh nghiệp.
3. Khuyến khích liên kết kinh tế giữa các loại hình doanh nghiệp thông qua hình thành, phát triển các tập đoàn kinh doanh và nâng cao vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp là giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả quản lý điều hành và phát triển kinh doanh
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy rằng, việc thành lập các tập đoàn kinh doanh, một sự đổi mới về thể chế tổ chức doanh nghiệp, tạo ra các mối liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp là một giải pháp hữu hiệu để tăng cường sự cạnh tranh của các thành viên tập đoàn cũng như toàn tập đoàn nói chung. Tập đoàn kinh doanh được coi là một tổ hợp kinh doanh bao gồm nhiều doanh nghiệp có liên quan với nhau trên cơ sở mối liên kết phổ biến là “Công ty mẹ - Công ty con”. Công ty mẹ hoạt động như là hạt nhân của tập đoàn, còn các công ty con chia sẻ các quyền dân sự có liên quan và chịu trách nhiệm dân sự phát sinh theo các hợp đồng ký kết giữa các thành viên và được pháp luật công nhận. Các công ty trực thuộc hoặc đơn vị không phải là pháp nhân sẽ không phải là các thành viên độc lập của tập đoàn.
Tập đoàn kinh doanh có những tác dụng rất quan trọng trong nền kinh tế Trung Quốc trong thời gian qua. Các tập đoàn là trụ cột của nền kinh tế quốc dân; góp phàn cải cách nhân sự, cơ cấu doanh nghiệp; đỡ đầu và là động lực thúc đẩy hoạt động cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; thúc đẩy cải cách kỹ thuật; thực hiện các chính sách vĩ mô có hiệu quả; và cuối cùng là góp phần quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi ngành hàng cũng như của cả quốc gia. Đó cũng là kinh nghiệm tốt cho Việt Nam trong việc thực hiện chủ trương thành lập các tập đoàn kinh tế.
Một vấn đề nữa có thể học tập được từ kinh nghiệm của Trung Quốc đó là cơ chế hoạt động và phương thức phát huy vai trò của hiệp hội doanh nghiệp. Với một cơ cấu tổ chức lớn và được chia theo nghề nghiệp, theo ngành nghề kinh doanh và theo khu vực địa lý, hiệp hội các doanh nghiệp của Trung Quốc đã hỗ trợ rất tích cực cho các doanh nghiệp phát triển và phát huy vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và Nhà nước, tham gia trong quá trình quản lý doanh nghiệp về kinh tế và hoạch định chính sách của Nhà nước. Có thể nói họ đã có trình độ tổ chức rất tốt và đã thành công trong vai trò của mình. Hiệp hội doanh nghiệp phát triển đem lại nhiều lợi ích cho cả doanh nghiệp và Nhà nước, nó tạo diễn đàn có tổ chức cho các doanh nghiệp nói lên tiếng nói của mình và Nhà nước cũng hiểu các doanh nghiệp hơn, cập nhật thông tin trực tiếp từ các doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình giải quyết những mâu thuẫn và bất đồng nảy sinh giữa các doanh nghiệp và Nhà nước, tạo điều kiện hợp tác chặt chẽ hơn và quan trọng là hình thành giới chủ doanh nghiệp có trình độ và có văn hoá kinh doanh. Đó cũng là nguồn nhân lực rất quan trọng của một quốc gia.
4. Chăm lo xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp, doanh nhân mạnh, có ý chí và nghị lực vươn lên là yếu tố quyết định cho việc đạt được thành công trong quản lý điều hành và phát triển kinh doanh
Chính phủ Trung Quốc coi trọng khu vực doanh nghiệp và tôn vinh các nhà doanh nghiệp và doanh nhân giỏi. Tuy nhiên, không chủ trương bảo hộ và bao cấp cho doanh nghiệp. Nhà nước Trung Quốc đã tạo sức ép các doanh nghiệp phải có phương hướng phát triển đúng đắn, phù hợp và góp phần vào sự phát triển chung của quốc gia, buộc các doanh nghiệp phải biết cách khai thác những thuận lợi của thị trường trong nước và điều kiện mà Nhà nước tạo cho, mặt khác cũng phải quan tâm tới việc tạo điều kiện để tái sử dụng lao động, tạo công ăn việc làm và có nghĩa vụ trách nhiệm với Nhà nước.
Trong quản lý điều hành và phát triển kinh doanh, doanh nghiệp phải nhận thức được rằng; bản thân mỗi doanh nghiệp tự quyết định chiến lược và hướng phát triển của mình và họ được tự do phát triển nhưng không tách rời sự quản lý chung của Nhà nước. Nhà nước cùng với các doanh nghiệp thực hiện sự đổi mới này từng bước một. Với tiêu chí đặt ra cho các xí nghiệp trong quá trình phát triển: đó là mục tiêu mình muốn vươn tới cái gì, khả năng của mình như thế nào, luật pháp cho phép mình làm gì. Ba yếu tố này có giao điểm chung là tiêu điểm có thể xây dựng chiến lược của doanh nghiệp.
Vai trò của người chủ doanh nghiệp là rất quan trọng trong sự thành công của doanh nghiệp. Các nhà doanh nghiệp Trung Quốc cho rằng, muốn đổi mới thì phải học hỏi, học hỏi trở thành nhu cầu của các doanh nghiệp. Toàn dân học hỏi, không chỉ những người lao động trực tiếp lao động sản xuất, lao động kỹ thuật cao mà cả đội ngũ lãnh đạo của doanh nghiệp. Theo báo cáo của hai bà chuyên gia Trung Quốc, Trần Anh và Trần Khiết trong hội thảo ngày 14 – 15 tháng 4 năm 2002 tại Hà Nội, đến nay vẫn có tới 60% các nhà quản lý doanh nghiệp theo học các khoá đào tạo để trau dồi thêm kiến thức. Nhờ vậy, các doanh nghiệp Trung Quốc đã có năng lực quản lý và tổ chức mang tính hiện đại và thị trường hơn. Điều này được thể hiện ngay trong mục tiêu chiến lược của họ đã đề ra “khiêm tốn, lặng lẽ và học hỏi” có lẽ đó là một trong những bí quyết thành công của họ trong quản lý điều hành và phát triển doanh nghiệp trong thời gian qua.
5. Thu hút nhân tài, chăm lo xây dựng văn hoá doanh nghiệp là yếu tố không thể thiếu tạo nên thành công trong quản lý điều hành và phát triển doanh nghiệp
Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy muốn nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, việc thu hút nhân tài là vô cùng quan trọng. Những doanh nghiệp thành công, cạnh tranh tốt trên thị trường đều là các doanh nghiệp làm tốt khâu này. Sau khi thu hút nhân tài, việc giữ các nhân tài làm việc lâu dài gắn bó với doanh nghiệp cũng là một vấn đề. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, việc xây dựng văn hoá dân chủ và liên tục mở rộng và tạo cơ sở cho nhân tài phát triển cũng là một biện pháp quan trọng. Ngoài việc trả lương xứng đáng, thì địa vị chức vụ cũng đóng một vai trò đáng kể khuyến khích nhân tài cống hiến sức lao động sáng tạo cho doanh nghiệp. Hơn nữa, không thể không kể đến vai trò của mối quan hệ giữa nhân tài và chủ doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phát triển tốt thường là những doanh nghiệp coi trọng ý kiến của nhân viên, đặc biệt là ý kiến của các nhân tài. Hàng năm, chủ doanh nghiệp đều tham khảo ý kiến nhân viên và công nhân trong các hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, có thể thấy rằng tiền lương, tiền thưởng cũng quan trọng nhưng chưa phải là nhân tố quan trọng nhất đối với họ mà có lẽ văn hoá và nếp sống của doanh nghiệp mới là nhân tố quan trọng nhất. Trong môi trường văn hoá doanh nghiệp lành mạnh, nhân viên được tôn trọng, họ thấy sự cống hiến của mình có ích. Đây cũng là một kinh nghiệm trong quản lý điều hành và phát triển kinh doanh mà các doanh nghiệp Việt Nam cần học hỏi trong quá trình học hỏi của mình.
6. Nhận thức rõ những khó khăn, thuận lợi, chủ động đề ra các giải pháp phù hợp để hội nhập kinh tế quốc tế là rất cần thiết với cả Nhà nước lẫn Chính phủ
Qua việc gia nhập WTO của Trung Quốc, Việt Nam cũng có thể học hỏi được cách ứng xử đối với những thách thức mới, cũng như cách nắm bắt những cơ hội mới. Thách thức gia nhập WTO đối với Trung Quốc không ít, đó là: xí nghiệp Trung Quốc đa số quy mô nhỏ, còn yếu kém về công nghệ; nhiều biện pháp bảo hộ nay bị xoá bỏ, phải cạnh tranh với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, v.v… Tuy nhiên, gia nhập WTO cũng tạo ra nhiều cơ hội mới cho doanh nghiệp, đó là khả năng mở rộng thị trường, khả năng tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật mới, kể cả những kỹ thuật quản lý mới. Khi Trung Quốc gia nhập WTO, một số ngành công nghiệp như công nghiệp ôtô, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm đang được mở cửa cho nước ngoài, sẽ có cạnh tranh gay gắt giữa xí nghiệp quốc hữu và các hãng nước ngoài và hàng hoá nhập khẩu. Trung Quốc đã đề ra những biện pháp giải quyết là:
- Đổi mới tư duy của xí nghiệp cho thích ứng với kinh tế thị trường, thay đổi cơ chế quản lý thích hợp với tình hình mới.
- Đặc biệt quan tâm thu hút nhân tài, coi nhân tài là yếu tố quyết định cho sự phát triển của xí nghiệp. Điều quan trọng là trong điều kiện toàn cầu hoá, tận dụng cơ hội sử dụng nhân tài của thiên hạ.
- Thực hiện các biện pháp liên kết, hợp tác giữa các xí nghiệp trong nước, với các xí nghiệp nước ngoài. Thế giới đã có nhiều kinh nghiệm có thể áp dụng như: đưa công nghệ cao ra nước ngoài và sử dụng nhân công rẻ ở nước đó, tạo khả năng cạnh tranh.
- Chú trọng phát triển thị trường, không những khai thức thị trường nước ngoài mà còn tìm cách tận dụng tối đa thị trường trong nước.
- Chính phủ có những trợ giúp cần thiết.
Theo các chuyên gia Trung Quốc thì sau khi gia nhập WTO, hầu hết các doanh nghiệp Trung Quốc đã đứng vững được và phát triển tốt. Tình hình tốt đẹp hơn nhiều so với dự đoán của các chuyên gia trước đó. Điều này góp phần củng cố niềm tin cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. TS. Phương Ngọc Thạch: Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm qua; Tạp chí Phát triển kinh tế, số 175 (tháng 5/2005).
2. TS. Đinh Văn Ân: Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; Tạp chí Quản lý Kinh tế, số 1/2005.
3. GS. TS. Chu Văn Cấp: Phương pháp luận nghiên cứu thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Tạp chí Lý luận Chính trị, tháng 9/2004.
4. TS. Nguyễn Quán: Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường (bài viết cho chuyên đề).
5. TS. Đỗ Như Khuê: Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp (bài viết cho chuyên đề).
6. GS. TSKH. Vũ Huy Từ: Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp dân doanh; Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 9/2003.
7. Phạm Đức Trung: Một số giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 11/2003.
8. GS. TS. Hoàng Ngọc Hoà: Quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Thực trạng và một số kiến nghị; Tạp chí Lý luận Chính trị, tháng 10/2004.
9. Vũ Ngọc Kích (Chuyên viên chính Vụ Đất đai - Bộ Tài nguyên và Môi trường): Một số vấn đề về quản lý nhà nước đối với đất đai (bài viết cho chuyên đề).
10. PGS. TS. Ngô Quang Minh: Quản lý nhà nước và phát triển thị trường thương mại nội địa theo mục tiêu CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế; Nguồn: www. Mot. gov.vn (Bộ Thương mại).
11. TS. Phạm Quốc Trung: Điều tiết của Nhà nước trong sự phát triển thị trường xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay; Tạp chí Lý luận Chính trị, số 7/2004.
12. Nguyễn Ký: Những vấn đề cần quan tâm trong quản lý nhà nước về đất đai; Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 3/2004.
13. GS. TSKH. Lê Đình Thắng: Quản lý nhà nước về thị trường bất động sản; Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 4/2004.
14. ThS. Nguyễn Hoàng Hải: Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 4/2005.
15. Chính sách phát triển kinh tế: Kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc, tập III, Nxb Giao thông vận tải, năm 2004.
Trung t©m Th«ng tin vµ dù b¸o Kinh tÕ - x· héi Quèc gia
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.doc