Cuối cùng, theo điều tra xã hội học của chúng tôi, 
không ít người dân tại TP.HCM mới chỉ biết khẩu 
hiệu mang nội dung dân chủ “dân biết, dân bàn, dân 
làm, dân kiểm tra”; còn nội hàm của từng khái niệm 
thì họ chưa hiểu tường tận. Vì vậy, phải tiếp tục 
tuyên truyền, phổ biến nội dung Quy chế dân chủ c ơ 
sở, làm cho nhân dân ý thức được việc thực hiện Quy 
chế là vì mình, vì một xã hội tốt đẹp; hạn chế tới mức 
tối đa việc hiểu và vận dụng sai tinh thần Quy chế, 
huy động quá khả năng đóng góp về vật chất và tinh 
thần của nhân dân.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 23 trang
23 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2841 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tìm hiểu việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại 
thành phố Hồ Chí Minh 
NGUYỄN THANH MINH 
Trường ĐH Luật TP. HCM 
1. Những kết quả đạt được 
Trước đây, khi Quy chế dân chủ cơ sở chưa được 
triển khai, dân chủ chưa được phát huy sâu rộng, 
người dân chưa ý thức được đầy đủ quyền và nghĩa 
vụ của mình. Ở một số địa phương, thay vì phải khiếu 
kiện đúng trình tự thủ tục thì người dân kéo cả đoàn 
tới chỗ đông người. Tiêu biểu nhất là đoàn khiếu kiện 
từ Sóc Trăng, Long An, Bạc Liêu, Tiền Giang lên TP. 
HCM, tập trung trước cổng Cơ quan thường trực cuả 
Văn phòng Chính phủ ( số 7 Lê Duẩn ), trương gần 
20 biểu ngữ đòi đất, đòi nhà, đòi đền bù giải toả. Tại 
Tp Hồ Chí Minh, cũng có một số vụ khiếu kiện về 
việc đền bù giải tỏa tại Rạch Miễu, Nguyễn Văn 
Luông, Tân Túc, khiếu nại của các tiểu thương ở chợ 
Thiếc... Nguyên nhân của những vụ việc trên hầu hết 
đều xuất phát từ hiện tượng mất dân chủ kéo dài, 
khiến cho nhân dân giảm niềm tin đối với Đảng và 
Nhà nước. 
Từ năm 1998 đến nay, nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ của 
Thành uỷ và UBND thành phố Hồ Chí Minh, Quy 
chế dân chủ cơ sở đã dần dần đi vào cuộc sống và 
phát huy được tác dụng tại địa phương. Theo Báo cáo 
số 79 của UBND TP.HCM, Báo cáo số 62 của Ủy 
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM, Báo cáo 
số 28 của Ban Dân vận Thành uỷ TP. HCM, việc đưa 
Quy chế đến người dân đã đạt được những kết quả 
khả quan. 
Thứ nhất, đối với những việc chính quyền địa 
phương phải thông tin và công khai để dân biết, nếu 
như những năm trước đó chỉ tiến hành tại các cuộc 
họp ấp, tổ dân phố thì nay đã được thực hiện bằng 
nhiều hình thức thông tin đa dạng như tờ tin, bản tin 
hàng tháng, tài liệu bướm ( có tài liệu được dịch ra 
tiếng Hoa), xe loa, thuyền hoa... Qua đó, UBND 
phường, xã, thị trấn phối hợp Mặt trận Tổ quốc đã 
truyền tải những nội dung công khai đến tận người 
dân, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân biết những 
thông tin cần thiết ở địa phương. Riêng Ủy ban Mặt 
trận Tổ quốc còn tổ chức phổ biến pháp luật, chủ 
trương của Đảng và Nhà nước trong hệ thống Mặt 
trận. 
Theo tinh thần dân chủ, các kỳ họp của Hội đồng 
nhân dân TP.HCM đã được truyền thanh trực tiếp để 
công chúng theo dõi; từ đó dân có thể kiểm tra, giám 
sát, đánh giá trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của các 
đại biểu Hội đồng nhân dân. Tiếp thu phản ánh của 
nhân dân, UBND thành phố đã đưa ra chỉ thị số 
15/2001/ CT - UB về quản lý, sử dụng, công khai tài 
chính các quỹ có nguồn thu từ các khoản đóng góp 
của nhân dân; do đó tình trạng tham nhũng công quỹ 
cũng đã từng bước bị đẩy lùi... 
Thông qua việc xây dựng các chương trình, kế hoạch 
phát triển kinh tế xã hội của địa phương, cải cách 
hành chính, sửa đổi lề lối làm việc, thái độ, tác phong 
tiếp dân... nhân dân đã góp phần xóa bỏ tệ nạn quan 
liêu, mệnh lệnh, áp đặt của từng địa phương, làm cho 
việc xây dựng Đảng và chính quyền ngày càng trong 
sạch, vững mạnh. Việc công khai trên báo về quy 
hoạch xây dựng nhà cửa như quy hoạch quận 7 - khu 
vực phát triển đô thị mới phía Nam1 - là một trong 
những kết quả có ý nghĩa, khẳng định tác dụng tốt 
cuả việc thực hiện Quy chế dân chủ. Tình trạng dân 
chúng phải “ lo lót” cho cán bộ phòng quản lý đô thị 
để biết thông tin không còn; người dân yên tâm 
chuyển nhượng đất đai, xin phép xây dựng nhà cửa 
đúng pháp luật; hiện tượng một số cán bộ lợi dụng 
chức quyền trục lợi đất quy hoạch mà họ biết trước 
thông tin giảm. Từ đó, niềm tin của dân chúng vào 
Đảng, Nhà nước ngày càng tăng hơn. 
Thứ hai, những việc nhân dân bàn bạc, tham gia ý 
kiến và quyết định ở cơ sở đã được đông đảo dân 
chúng quan tâm. Nhiều dự án, chương trình của Nhà 
nước trước khi trình cấp có thẩm quyền quyết định đã 
được nhân dân góp ý với ý thức trách nhiệm cao (như 
công trình Đại lộ Đông - Tây của thành phố). Đặc 
biệt, ở kỳ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp 
nhiệm kỳ 1999- 2004, nhân dân đã tham gia tích cực 
vào việc mạn đàm, bàn bạc về nhân sự, ứng cử viên, 
bầu cử nghiêm túc (thành phố đạt tỷ lệ 99,84% cử tri 
đi bầu). Thực hiện phương châm “Nhà nước và dân 
cùng làm”, dân ở nhiều phường, xã đã đóng góp tiền 
bạc, sức lực duy tu hoặc làm mới các ngõ hẻm, hệ 
thống thoát nước, cột điện, đèn đường, nhà tình 
nghĩa, nhà tình thương, chốt dân phòng, trường học. 
Tại khu phố 1 phường 5, Quận 5 sau khi xây dựng 
Quy ước tổ dân phố và thảo luận dân chủ tại các buổi 
họp, nhân dân đã phản ánh những bức xúc của họ về 
tình trạng buôn bán các loại hàng “lạc xoong” như 
phụ tùng xe máy, ốc vít, hàng điện tử cũ lấn chiếm 
lòng lề đường Nguyễn Chí Thanh2. Việc buôn bán 
này đã tạo điều kiện cho những tội xâm phạm quyền 
sở hữu phát triển (vì mọi loại phụ tùng ăn cắp được 
bán tại đây) và làm mất vẻ mỹ quan cuả đô thị. Lúc 
đầu do lợi ích kinh tế, nhiều gia đình giữ xe đã cho 
những người bán hàng chạy vào nhà mình tạm lánh 
công an khi họ bị truy quét. Do dân không hợp tác 
nên cái chợ trôi nổi này sau khi xoá xong lại hoạt 
động như cũ. Sau đó, nhờ các Đảng viên, cán bộ khu 
phố và bà con xung quanh vận động, các hộ dân giữ 
xe đã cùng công an kiên quyết “giải phóng” vỉa hè, 
trả lại vẻ đẹp vốn có của tuyến đường này. 
- Những việc nhân dân giám sát, kiểm tra. Qua phản 
ánh của nhân dân, UBND thành phố đã cho biết: hiện 
nay, tại thành phố có hơn 50 dự án đang có khiếu 
kiện. Trong đó, riêng 6 vụ khiếu kiện đông người đã 
được Đoàn công tác liên ngành của Chính phủ kiểm 
tra và kết luận (khu siêu thị An Lạc, khu du lịch Bạch 
Đàn, khu dân cư Rạch Miễu, khu chế xuất Tân 
Thuận, dự án chợ An Khánh và dự án đường xa lộ 
song hành Hà Nội), thành phố đã tổ chức thực hiện 
theo kết luận; ban hành chính sách sửa đổi, bổ sung 
và chỉ đạo giá đền bù theo chính sách mới. Tuy 
nhiên, trong các dự án vẫn còn một số hộ dân khiếu 
nại3. Còn về công trình đường liên cảng A5, UBND 
đã cho biết kết quả thanh tra: có 20 sai sót, vi phạm; 
thanh tra đã buộc đơn vị thi công nộp ngân sách Nhà 
nước 862,9 triệu đồng, đồng thời khiển trách 8, cảnh 
cáo 3, chuyển công tác khác với mức lương thấp hơn 
5, cho nghỉ việc 1, phê bình rút kinh nhiệm 3 đối với 
các cá nhân vi phạm. Về hình sự, đã chuyển hồ sơ 
cho cơ quan điều tra vụ việc tiêu cực xảy ra tại Công 
ty xây dựng giao thông Sài Gòn trong khi thi công 
đường liên cảng A5... Gần đây nhất, nhân dân đã đưa 
ra ánh sáng về “sự cố hầm chui Văn Thánh 2”4, và 
gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh những đơn vị thi 
công không có trách nhiệm. Ngay sau đó, báo Tuổi 
Trẻ đã vào cuộc; nhờ bài phỏng vấn của phóng viên 
bản báo đối với Tiến sĩ Nguyễn Văn Đạt - chuyên 
viên cao cấp ngành xây dựng sau khi ông trực tiếp 
khảo sát thực địa - chúng ta mới được rõ: vì bên thi 
công dùng cừ tràm (thay vì phải dùng bê tông cốt 
thép đúc sẵn) để đóng móng công trình nên dẫn đến 
sự cố hầm lún nứt và có khả năng sập hầm chui trong 
vòng 6 tháng tới (trong khi đây là công trình vĩnh 
cửu, được thiết kế có sức chịu tải H30, tức cho đoàn 
xe 30 tấn )5. 
2. Một số tồn tại và hướng giải quyết 
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Quy 
chế dân chủ cơ sở tại TP Hồ Chí Minh vẫn còn một 
số tồn tại cần phải khắc phục kịp thời. Ở đây, sau khi 
nêu lên từng vướng mắc cụ thể, chúng tôi mạnh dạn 
đưa ra một số giải pháp ban đầu. 
- Những việc chính quyền địa phương phải thông tin 
và công khai để dân biết: 
Khoản 6 Điều 4 quy định phải công khai dự toán và 
quyết toán ngân sách xã hàng năm. Nhưng trên thực 
tế, việc công khai tài chính trên thường chỉ mới được 
thông qua tại Hội đồng nhân dân phường xã và cũng 
chỉ nêu lên tỷ lệ phần trăm hoặc nêu chung chung 
ngân sách năm nay cao hơn năm trước. Cách báo cáo 
này chính là kẽ hở để tham nhũng có cơ hội phát 
triển. Vì vậy UBND thành phố nên quy định: nếu 
không thuộc bí mật Nhà nước, người có thẩm quyền 
báo cáo bắt buộc phải có trách nhiệm đưa ra những 
số liệu cụ thể, chi tiết và chính xác để dân biết. 
Khoản 7 Điều 4 quy định: chính quyền địa phương 
phải thông tin “dự toán và quyết toán thu chi các quỹ, 
dự án, các khoản huy động đóng góp xây dựng cơ sở 
hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng của xã 
thôn, làng, ấp, bản và kết quả thực hiện”. Việc thiếu 
đồng bộ giữa cấp trên và cơ sở, nhất là trong lĩnh vực 
xây dựng, giải tỏa, giao thông công chánh, mức thuế 
của các hộ kinh doanh... dẫn đến tình trạng khiếu 
kiện ở các quận 2, 7, 9, Phú Nhuận, Bình Thạnh, 
Bình Chánh. Việc chặt tỉa bớt nhánh cây xanh, đào 
đường, do không thông báo công khai cho người dân 
biết trước nên đã làm ảnh hưởng đến việc đi lại và 
sinh hoạt của dân như ở quận 1, 4, 8...Ở đây, vấn đề 
nổi cộm là chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các 
bộ phận chỉ đạo, thiếu thông tin giữa cơ quan chức 
năng này và cơ quan chức năng kia, giữa cơ quan nhà 
nước và nhân dân. Nếu UBND các cấp thống nhất chỉ 
đạo qua các cuộc giao ban liên ngành, đưa những 
thông tin này công khai trên báo, đài phát thanh, hoặc 
thông báo đến từng tổ dân phố có liên quan đến vụ 
việc thì tình trạng trên sẽ phần nào được hạn chế. 
- Những việc nhân dân bàn bạc, tham gia ý kiến và 
quyết định ở cơ sở: 
Theo nhận xét của luật sư Nguyễn Hữu Danh - Phó 
trưởng ban Dân chủ và pháp luật tại Ủy ban Mặt trận 
Tổ quốc Việt Nam TP.HCM - những nội dung về 
những việc nhân dân bàn bạc, tham gia ý kiến, quyết 
định ở cơ sở về cơ bản là hợp lòng dân, được nhân 
dân nhiệt tình hưởng ứng; tuy nhiên, việc xây dựng 
hương ước, quy ước làng văn hoá... chưa được nhân 
dân thực sự quan tâm. Nhiều nơi rập khuôn quy ước 
tổ dân phố mẫu trên đưa xuống áp dụng cho địa 
phương mình. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến 
địa phương vì quy ước mẫu không phù hợp với tình 
hình khu phố và nhu cầu người dân. Riêng quận 10 là 
cơ sở đáng hoan nghênh, ngay cả việc bầu trưởng khu 
phố cũng được nhân dân bỏ phiếu kín tín nhiệm. 
Theo luật sư Nguyễn Hữu Danh thì cần phải tuyên 
truyền, phổ biến cho nhân dân để họ hiểu được quyền 
lợi của mỗi cá nhân cũng như cộng đồng dân cư nếu 
lập được quy ước tổ dân phố sát với tình hình địa 
phương. 
Việc nhân dân thảo luận, bàn bạc còn lệ thuộc vào 
việc nhận thức, vận dụng của cấp ủy, chính quyền cơ 
sở tại địa bàn cư trú và chính bản thân người dân. Cơ 
sở nào có nhiều cán bộ hưu trí mạnh dạn hơn thì việc 
phát biểu, phê phán những biểu hiện quan liêu, làm 
giàu bất chính của cán bộ; nhưng ở những nơi khác, 
các ý kiến đóng góp của người dân chỉ có tính chất 
chiếu lệ, thái độ còn dè dặt. Đơn cử như trường hợp 
tuyến cống hộp ở phường 15 quận 10 - tuyến cống 
hộp Kim Ngân - Bắc Hải - Bao Ngạn. Dự án cải tạo 
hệ thống thoát nước cống hộp phường 15, quận 10 do 
UBND TP.HCM phê duyệt ngày 11/9/1993 với tổng 
vốn vốn đầu tư 15.238.000.000 đồng, ngân sách 
thành phố cấp6. Công trình do Sở GTCC TP.HCM 
làm chủ đầu tư, Công ty tư vấn xây dựng công trình 
GTCC đảm nhiệm việc thiết kế và Công ty TNHH 
xây dựng công trình Hùng Vương là đơn vị thi công. 
Ngay từ giai đoạn đầu thi công, đã có hơn 150 hộ dân 
gửi đơn kiến nghị với HĐND về việc không có biện 
pháp hữu hiệu để thoát nước sinh hoạt và xin lắp đặt 
hệ thống cống phụ nhưng không được giải quyết. 
Tiếp đó nhân dân đã gửi đơn tố cáo lên HĐND Q. 10 
về việc đơn vị thi công vòi vĩnh dân mỗi hộ phải “ 
bồi dưỡng từ 400.000 - 600.000 cho việc lắp đặt cống 
từ nhà vào cống hộp nhưng lời tố giác của nhân dân 
vẫn không được xem xét. Ngày 21/12/1995 công 
trình được nghiệm thu. Tháng 4/2001, UBND Q10 có 
quyết định đầu tư tuyến đường trên cống hộp. Chính 
trong quá trình “giám sát” thi công tuyến đường trên, 
bằng cách tự chui xuống lòng cống, chụp hình, quay 
phim, người dân đã phát hiện những sai phạm 
nghiêm trọng của công trình cống hộp. Theo kết quả 
của thanh tra thì toàn bộ công trình có tổng cộng 
2.291 vị trí hư hỏng do thi công7. Tuy nhiên tại hội 
thảo ngày 9.4.2002 tại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 
TP.HCM, các cán bộ hưu trí vẫn chưa đồng ý với kết 
quả trên. Theo ông Trần Nhật Đức, kỹ sư cầu đường 
đã nghỉ hưu và ông Hoàng Trọng Trạch phải có đến 
3094 điểm hư hỏng. Một công trình vĩnh cửu mà mới 
đưa vào sử dụng hơn 5 năm đã gần như bị phá hủy 
hoàn toàn. Ông Hoàng Trọng Trạch, Trần Bình Đẳng, 
Hoàng Quốc Tín... và những người khác trong hội 
thảo đã tỏ ra nghi ngờ về kết quả của thanh tra và họ 
cũng thể hiện rõ thái độ của mình đối với công trình 
này. 
- Những việc nhân dân giám sát, kiểm tra: 
Qua đánh giá, khâu kiểm tra là khâu yếu nhất trong 
toàn bỏ. Đối với các công trình tại cộng đồng nơi 
người dân sinh hoạt, việc giám sát tương đối tốt. 
Nhưng đối với những công trình có quy mô lớn (do 
thành phố và quận đầu tư) thì chức năng giám sát của 
dân chưa thật sự đạt được hiệu quả. Một mặt, số 
người tham gia giám sát còn ít, những người chủ yếu 
được cử vào Ban quản lý giám sát công trình, thanh 
tra nhân dân... thường chỉ là trưởng hoặc phó khu 
phố, ấp, tổ dân phố. Mặt khác, cơ chế để nhân dân 
tham gia và nội dung thực hiện giám sát, kiểm tra 
chưa được quy định rõ nên hình thức và nội dung 
giám sát, kiểm tra của nhân dân trong thời gian qua 
hiệu quả chưa cao. Tuy nhiên, thông qua các vụ việc 
tiêu cực mà người dân phản ảnh như đường liên cảng 
A5, quốc lộ 15 huyện Nhà Bè, dự án bãi rác Đông 
Thạnh, Hóc Môn, kết nạp Đảng lầm đối tượng tại 
phường 14 quận 5... ta cũng thấy được tấm lòng yêu 
nước, yêu chế độ của nhân dân đối với đất nước. 
Khoản 6 Điều 11 quy định nhân dân được kiểm tra 
kết quả nghiệm thu và quyết toán công trình do nhân 
dân đóng góp xây dựng và các chương trình dự án do 
Nhà nước, các tổ chức và cá nhân đầu tư tài trợ trực 
tiếp cho xã. Theo quy định của Nhà nước người giám 
sát công trình phải có trình độ chuyên môn. Nhưng 
khi người giám sát không có trình độ chuyên môn; 
hoặc phản ánh của nhân dân mâu thuẫn với kết luận 
của thanh tra chuyên ngành thì giải quyết như thế nào 
cho thỏa đáng? Theo chúng tôi có thể có hai cách giải 
quyết: (1) ngay từ lúc đầu, nên chọn người có chuyên 
môn ở lĩnh vực họ tham gia giám sát; (2) để cho 
người giám sát có chuyên môn cao hơn và thanh tra 
chuyên ngành cấp trên giải quyết tiếp vụ việc nếu nếu 
ý kiến của giám sát đại diện cho dân mâu thuẫn với 
thanh tra chuyên ngành. 
Khoản 1 Điều 12 quy định “nhân dân giám sát hoạt 
động và tư cách đại biểu Hội đồng nhân dân, các 
thành viên Ủy ban nhân dân. Có quyền kiến nghị, 
khiếu nại, tố cáo các hành vi xâm phạm quyền làm 
chủ của nhân dân, vi phạm pháp luật, tham nhũng, 
tiêu cực của đại biểu Hội đồng nhân dân và các thành 
viên Ủy ban nhân dân”. Theo đó, người dân có quyền 
khiếu nại, tố cáo nhưng Quy chế chưa nêu rõ cơ quan 
nào giải quyết, biện pháp chế tài thế nào nếu cơ quan 
có trách nhiệm không giải quyết thoả đáng hoặc 
không trả lời. Ở đây, theo chúng tôi, cơ quan có trách 
nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân phải là 
HĐND hoặc UBND cấp cao hơn, thậm chí có thể là 
Tòa án. 
Khoản 2 Điều 12 có quy định “Các kỳ họp của 
HĐND xã mời đại diện các tổ chức đoàn thể tham dự 
và mời đại diện nhân dân dự thính”. Tuy nhiên, nên 
quy định cụ thể cách thức, tiêu chí của đại diện nhân 
dân dự thính, quyền hạn và trách nhiệm của đại diện 
nhân dân dự thính để chất lượng kì họp cao hơn. 
- Về hình thức thực hiện Quy chế và trách nhiệm của 
những cá nhân, tổ chức liên quan: 
Trong quá trình triển khai thực hiện Quy chế, một số 
cán bộ vẫn còn thái độ bàng quan, ỷ lại, chưa nhận 
thức rõ vai trò của mình; Quy chế chưa thực sự trở 
thành một hoạt động thường xuyên, có lúc, có nơi 
còn bị kẻ xấu lợi dụng để gây rối. Muốn khắc phục 
được thực trạng này, phải tăng cường vai trò lãnh đạo 
của Đảng, nâng cao ý thức trách nhiệm và tính gương 
mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, chú trọng vai trò 
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, phối hợp nhịp 
nhàng giữa các ban ngành đoàn thể, nâng cao chất 
lượng hoạt động dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp 
thông qua hoạt động của Hội đồng nhân dân và đại 
biểu Hội đồng nhân dân, xử lý thích đáng những 
hành vi lợi dụng dân chủ để gây rối theo pháp luật... 
Điều 14 của Quy chế có quy định hội nghị thôn, làng, 
ấp, bản được tổ chức 6 tháng 1 lần hoặc bất thường 
gồm toàn thể cử tri hoặc các chủ hộ do trưởng thôn 
phối hợp với ban công tác mặt trận, các đoàn thể triệu 
tập. Trong trường hợp chủ hộ không dự được nên cho 
phép đại diện hộ đi dự thay (đại diện hộ là những 
người có năng lực hành vi dân sự và không phạm 
pháp, không đang ở trong giai đoạn bị truy tố hoặc 
chấp hành án phạt tù...) và nên quy định hội nghị 
được tiến hành khi có ít nhất 2/3 số hộ trong tổ dân 
phố, ấp dự họp. Nội dung họp là kiểm điểm công tác 
của chủ tịch HĐND, UBND xã, phường và những 
vấn đề khác. Về thực tiễn, theo luật sư Nguyễn Hữu 
Danh, tuy 6 tháng mới có một lần họp nhưng các 
phường chưa thực hiện việc kiểm điểm chủ tịch 
UBND.... Đây là bước dân chủ nhưng rất khó thực 
hiện. Theo chúng tôi, thời gian họp xã, phường, ấp, 
nên cách nhau 3 tháng/ lần thay vì 6 tháng/ lần như 
Điều 14 đã quy định. 
Điều 16 của Quy chế dân chủ quy định “hương ước, 
quy ước do dân xây dựng, chủ tịch HĐND xã đề nghị 
và chủ tịch UBND huyện phê duyệt hương ước, quy 
ước đó”. Thực tiễn cho thấy không nhất thiết phải 
thông qua HĐND xã, và chủ tịch UBND huyện phê 
duyệt vì mất rất nhiều thời gian. Nên chăng cho phép 
chủ tịch UBND quận, huyện ủy quyền hoặc giao hẳn 
cho chủ tịch UBND phường, xã quyết định công 
nhận quy ước tổ dân phố - ấp, hương ước, quy ước 
của xã...và quy định trách nhiệm cuả chủ tịch UBND 
xã đối với việc này. Ngoài ra, theo chúng tôi cần có 
những hướng dẫn cụ thể về chuyên môn của ngành 
liên quan đến việc thực hiện Quy chế dân chủ ở 
phường - xã - thị trấn như công tác hòa giải, công tác 
giám sát, công tác thanh tra để địa phương có thể 
thực hiện thống nhất. 
Trong toàn bộ nội dung Quy chế, nhân dân chỉ có 
quyền yêu cầu, đề nghị các cá nhân, tổ chức thực 
hiện những quy định liên quan tới mình nhưng Quy 
chế lại không có chế tài cụ thể đối với các cá nhân, tổ 
chức liên quan nếu họ không thực hiện đúng các quy 
định. Theo chúng tôi đây là hạn chế lớn nhất của Quy 
chế, dẫn đến thái độ bàng quan của chính quyền đối 
với việc của dân, vì không thực hiện họ cũng không 
bị ảnh hưởng gì. Vì vậy cần phải sửa đổi, bổ sung 
Quy chế theo hướng quy định cụ thể chế tài cho 
những đối tượng có liên quan. 
Cuối cùng, theo điều tra xã hội học của chúng tôi, 
không ít người dân tại TP.HCM mới chỉ biết khẩu 
hiệu mang nội dung dân chủ “dân biết, dân bàn, dân 
làm, dân kiểm tra”; còn nội hàm của từng khái niệm 
thì họ chưa hiểu tường tận. Vì vậy, phải tiếp tục 
tuyên truyền, phổ biến nội dung Quy chế dân chủ cơ 
sở, làm cho nhân dân ý thức được việc thực hiện Quy 
chế là vì mình, vì một xã hội tốt đẹp; hạn chế tới mức 
tối đa việc hiểu và vận dụng sai tinh thần Quy chế, 
huy động quá khả năng đóng góp về vật chất và tinh 
thần của nhân dân. · 
1 Huy Giang, Quy hoạch chung quận 7 - Khu vực 
phát triển đô thị mới phía Nam, Báo Tuổi Trẻ 
16.4.2002. 
2 Hàn Ni, Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở- Quy 
ước tổ dân phố phải đi vào cuộc sống, Báo Sài Gòn 
giải phóng 5.4.2002. 
3 Vũ Thượng, Đoàn đại biểu quốc hội TP.HCM làm 
việc với UBND TP.HCM: Các vụ tiêu cực đã xử lý 
đến đâu?, Báo Tuổi Trẻ, 25.4.2002 
4 Tự Trung - V.T - H.G, Qua sự cố hầm chui cầu Văn 
Thánh 2: Không thể chấp nhận cách làm ăn qua quýt, 
Báo Tuổi Trẻ 16.4.2002. 
5 Phạm Oanh, Hầm chui Văn Thánh 2: Lún nứt do 
đóng cừ tràm, Báo Tuổi Trẻ 25.4.2002 
6 Ngọc Linh, Công trình xây dựng cống hộp P15, 
Q10: Sai phạm nhiều nhưng không ai bị đề nghị xử 
lý, Báo Phụ nữ 8.12.2001 
7 Kim Long, Kết quả thanh tra tuyến cống hộp Kim 
Ngân- Bắc Hải- Bao Ngạn, Báo Người lao động 
24.10.2001 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 54_1319.pdf 54_1319.pdf