Ngoài ra,UBCKNN cần đưa vào các quy định cấm các tổ chức ,cá nhân cùng
thực hiện lệnh mua và bán cùng một loại chứng khoán trong một phiên giao dịch
để tránh việc "làm giá"gây rối loạn thị trường .Đối với các cổ phiếu cố giá giao
dịch đụng trần trong nhiều phiên liên tục thì nên đưa vào diện kiểm soát và có
mức khống chế giao dịch và biên độ giá dao động riêng cho loại cổ phiếu này
.Chưa nên cho phép công ty niêm yết mua lại cổ phiếu và chưa áp dụng việc giao
dịch thâu tóm doanh nghiệp.
48 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2833 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường này
phát triển không kém gì thị trường chính thức đồng thời nó còn mua bán cả
những chứng khoán đã được niêm yết. (OTC - over the counter market ) tuy thị
trường này có phí giao dịch thấp hơn so với phí của SGDCK nhưng dù sao khi
mua chứng khoán qua SGDCK các nhà đầu tư cũng cảm thấy an tâm hơn.
2) Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán:
Hoạt động của thị trường chứng khoán của một quốc gia thường lôi cuốn tất
cả hoặc hầu hết các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư tham gia. Đặc biệt
là sự tham gia đông đảo của các tổ chức tài chính như ngân hàng đầu tư , ngân
hàng thương mại ,công ty tài chính , công ty chứng khoán , công ty bảo hiểm, các
quỹ đầu tư . . .
2.1 Công ty chứng khoán.
a) Tiêu chuẩn để công ty chứng khoán được là thành viên của SGDC.Thành viên
của SGDCK là các công ty chứng khoán hoạt động tại sàn giao dịch. Mỗi nước có
thể có hàng trăm thậm chí hàng nghìn công ty chứng khoán nhưng không phải
công ty nào cũng được là thành viên của SGDCK. Ví dụ nước Nhật có 240 công ty
chứng khoán nhưng chỉ có 124 công ty được là thành viên của SGDCK. Thông
thường có những công ty là thành viên của sở giao dịch chứng khoán phải hội đủ
những điều kiện như :
- Có giấy phép hoạt động của cơ quan nhà nước cấp.
- Có số vốn tối thiểu theo quy định.
- Tập hợp được các chuyên gia chứng khoán đã qua đào tạo được cấp giấy chứng
nhận và có đạo đức. (Brockers, dealers).
b) Chức năng của công ty chứng khoán trên SGDCK.
- Giao dịch chứng khoán trên thị trường : Một công ty được nhà nước cấp giấy
phép hợp lệ sẽ được quyền thực hiện toàn bộ nghiệp vụ giao dịch chứng khoán
từ khâu tiếp nhận đơn đặt hàng cho đến khâu tham gia mua bán chứng khoán
công khai trên thị trường. Tuỳ theo quy mô hoạt động mà công ty chứng khoán có
thể được phép thực hiện một hay nhiều nghiệp vụ giao dịch sau đây:
+ Môi giới trung gian mua bán chứng khoán theo lệnh đặt hàng của thân chủ để
hưởng hoa hồng.
+ Nghiệp vụ buôn bán chứng khoán : công ty chứng khoán sẽ sử dụng vốn tự có để
mua bán chứng khoán cho chính mình nhằm kiếm lời từ chênh lệch giá Thực
hiện nhiệm vụ này là những giao dịch viên hay những thương gia chứng khoán
có đăng ký (registered dealers). Khi thực hiện những nhiệm vụ này công ty phải
gánh chịu những rủi ro , cho nên phải nghiên cứu rất kỹ thị trường và các lại chứng
khoán muốn mua hay muốn bán. Công ty phải tuân thủ một số quy định sau:
- Công ty không được cạnh tranh trực tiếp với thân chủ và không được phép giữ
quá 1% nghạch số phát hành của bất cứ loại chứng khoán nào.Nghiêm cấm công ty
mua bán cho mình nhiều loại chứng khoán được phát hành bởi các hiệp hội các
công ty chứng khoán với tư cách là giám đốc hay quản trị viên .
+ Đại lý phát hành chứng khoán (distribuor): Công ty nhận phân phối chứng khoán
ra thị trường cho cơ quan phát hành để hưởng hoa hồng, khi thực hiện nghiệp vụ
này thì :
Công ty không hứa mua trực tiếp số chứng khoán phân phối hộ . Công ty không
hứa bán với một giá nhất định. Công ty không hứa bán hết hay mua số chứng hoán
không bán hết.
+ Bảo lãnh phát hành chứng khoán ( underwriter): Công ty thực hiện bảo lãnh phát
hành chứng khoán khi có một khả năng tài chính vững mạnh, thường đó là một
tập đoàn tài chính đứng ra đảm bảo thực hiện thành công việc phát hành
chứng khoán với chủ thể phát hành bằng cách :
Hứa mua toàn bộ hay một phần số cổ phiếu phát hành.
Đảm bảo bán với một giá nhất định.
Cam kết mua số cổ phiếu không bán hết.
Qua các nghiệp vụ trên của công ty chứng khoán cho thấy sự có mặt của các công
ty này có vai trò vô cùng quan trọng trong việc kết nối những nguồn cung chứng
khoán và nguồn cầu chứng khoán. Chức năng này của công ty chứng khoán góp
phần đẩy nhanh quá trình lưu thông và phân phối chứng khoán , qua đó giúp cho
quá trình giao lưu vốn trên thị trường được thông suốt liên tục.
-Trung tâm thông tin và tư vấn cho các nhà đầu tư chứng khoán:
Với một đội ngũ chuyên gia chứng khoán thông thạo nghiệp vụ giỏi chuyên môn và
nhiều kinh nghiệm , công ty chứng khoán không chỉ đơn thuần hoạt động như
người trung gian thực hiện lệnh mua bán chứng khoán của khách hàng mà còn là
cố vấn thực sự cần thiết cho khách hàng khi ra quyết định đầu tư.Để công việc
tư vấn cho khách hàng đầu tư có hiệu quả, công ty chứng khoán phải là nơi nắm
bắt và cung cấp các thông tin cần thiết về thị trường, về chứng khoán và về các
chủ thể phát hành, xử lý phân tích các thông tin để làm cơ sở cho tư vấn đầu
tư.
Chức năng này được xem như một trong những tiêu chuẩn quyết định chất
lượng hoạt động của công ty môi giới, quyết định sự tín nhiệm của người đầu tư
và đồng thời cũng quyết định sự tồn tại của công ty trong quá trình cạnh trạnh.
- Can thiệp trên thị trường chứng khoán góp phần điều tiết giá chứng
khoán.Theo quy định của Uỷ ban chứng khoán quốc gia các nước phát triển. Các
công ty chứng khoán nếu có nhiệm vụ kinh doanh chứng khoán phi tham gia can
thiệp trên thị trường chứng khoán để điều tiết giá chứng khoán thông qua việc
mua chứng khoán vào khi giá chứng khoán giảm và tung chứng khoán dự trữ ra khi
giá chứng khoán tăng. Theo quyết định này kinh doanh chứng khoán phải dành
một tỷ lệ 60% giao dịch của mình cho hoạt động có tính chất ổn định trên thị
trường.
2.2 Công ty đầu tư
a- Khái niệm
Công ty đầu tư là một dạng doanh nghiệp của công ty cổ phần nó phát hành và
bán cổ phiếu để lấy vốn hoạt động. Đây là một loại doanh nghiệp đặc biệt nó
không dùng vốn của mình để mua máy móc, thiết bị và các yếu tố suất nhập
xuất khác để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh mà dùng vốn để
đầu tư dài hạn qua góp vốn liên doanh mua cổ phần hoặc các loại cổ phiếu khác
với mục đích thu lợi nhuận. Hoạt động của công ty đầu tư là kinh doanh đầu tư
vốn bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.Đầu tử trực tiếp là việc các
công ty dùng vốn của mình để thâm nhập trực tiếp vào các công ty các dự án
bằng cách góp cổ phần mua cổ phiếu , phát hành với tư cách là cổ đông sáng lập
như các sáng lập viên khác.
Đầu tư gián tiếp là việc các công ty đầu tư vốn của mình tham gia vào các thị
trường chứng khoán với các tư cách là một nhà kinh doanh chứng
khoán mua đi bán lại các chứng khoán nhằm hưởng chênh lệch gi hay nhận cổ tức
từ các công ty. Tuy nhiên công ty đầu tư không phải là thành viên của thị trường
chứng khoán tập trung do đó việc mua bán cổ phiếu của công ty đầu tư ở thị
trường này phải thông qua các công ty chứng khoán.
b) Phân loại quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư có nhiều loại khác nhau và mỗi quỹ đầu tư có đặc thù, một
định hướng hoạt động khác nhau nhưng có thể phân chia theo các cách sau:
- Căn cứ vào quy mô, cách thức và tính chất góp vốn quỹ đầu tư gồm hai loại :
+ Quỹ đầu tư dạng đóng ( close and funds) đây là quỹ đầu tư theo điều lệ quy
định thường chỉ tạo vốn qua một lần bán chứng khoán cho công chúng. Quỹ này
có thể phát hành cổ phiếu thông thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu. Ngoài
ra quỹ không được phát hành thêm bất cứ loại cổ phiếu nào để huy động thêm
vốn và cũng không được mua lại các cổ phiếu đã được phát hành. Giá thị trường cổ
phiếu của quỹ đầu tư dạng đóng phụ thuộc vào lượng cung cầu như khi áp dụng
đối với các loại chứng khoán khác chứ không trực tiếp liên quan đến giá trị tài sản
thuần (Net asset value - NAV) của mỗi cổ
phần. Vì thế,một quỹ đầu tư dạng đóng có thể bán theo giá cao hơn giá trị tài
sản thuần hoặc thấp hơn giá trị tài sản thuần. Quy mô vốn của các quỹ này chỉ
có thể tăng lên từ các khoản lợi nhuận thu được mà thôi.
+ Quỹ đầu tư dạng mở (open- endfunds) : Khác quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu
tư dạng mở luôn phát hành thêm những cổ phiếu mới để tăng thêm vốn và cũng
sẵn sàng mua lại nhứng cổ phiếu đã phát hành. Cổ phiếu này được bán trực tiếp
cho công chúng thông qua thị trường chứng khoán. Muốn mua cổ phiếu chỉ cần
viết thư hoặc điện thoại trực tiếp cho quỹ xin giấy tờ cần thiết nên tạo cơ hội
cho bất kỳ ai cũng có thể tham gia và trở thành chủ sở hữu của quỹ . Tất cả các
cổ phiếu phát hành của quỹ đầu tư là cổ phiếu thông thường . So với quĩ đầu tư
dạng đóng thì quỹ đầu tư dạng mở rõ ràng có ưu thế hơn trong huy động , mở
rộng qui mô vốn do đó nó linh hoạt hơn trong việc lựa chọn các dự án đầu tư
- Căn cứ vào tính chất và mục đích hoạt động, các quĩ đầu tư được chia làm
:
+ Quỹ đầu tư chứng khoán dài hạn: Đối tượng của quỹ này khá đa dạng gồm cả
đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Quỹ đầu tư chứng khoán ngắn hạn :Loại
này chủ yếu đầu tư vào các loại chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ .
+ Quỹ đầu tư hỗn hợp : Loại này thực hiện đầu tư cả vào chứng khoán ngắn hạn
và chứng khoán dài hạn . Đây là dạng quĩ đầu tư kết hợp cả hai dạng trên thực
hiện đầu tư theo kiểu này có ưu điểm là độ an toàn cao .
2.3--Công ty cổ phần
a/ Khái niệm : Công ty cổ phần là đơn vị kinh tế mà số vốn sở hữu được chia
làm nhiều phần bằng nhau. Những người tham gia hùn vốn vào công ty cổ phần
được gọi là cổ đông . Cổ đông góp vốn vào công ty cổ phần dưới hình thức mua
cổ phần .Chứng từ ghi nhận số cổ phần đóng góp của cổ đông là cổ phiếu
.Công ty cổ phần sinh ra cổ phiếu do đó nó gắn chặt với thị trường chứng khoán
như hình với bóng
Công ty cổ phần là một đặc trưng của nền kinh tế thị trường .Nó có những
đặc điểm sau:
-Vốn sở hữu của công ty cổ phần là vốn cổ phần mỗi cổ đông là một chủ sở hữu
một phần của doanh nghiệp tương đương với tỷ lệ vốn góp của mình
-Công ty cổ phần là một pháp nhân tồn tại độc lập với chủ sở hữu
-Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty trong giới hạn số vốn
cổ phần của mình.
-Cổ đông có quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần qua việc bán cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán
-Công ty cổ phần có khả năng huy động vốn rất lớn.
-Công ty cổ phần có thể tồn tại qua nhiều thế hệ cổ đông.
-Công ty cổ phần pphát triển đã liên kết mở rộng các nguồn vốn từ các nhà đầu tư
trong và ngoài nước cũng như huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong quần chúng
.Đồng thời cũng phát huy dược trình độ khả năng của các nhà
quản lý chuyên nghiệp tạo ra hiệu quả kinh tế lớn,tạo ra các tập đoàn kinh tế lớn
có đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
b/ Các hình thức tổ chức công ty cổ phần:
Trên thế giới hiện có hai loại công ty cổ phần
-Công ty cổ phần đại chúng (public company) được thành lập với số vốn chia
thành nhiều cổ phần bán cho công chúng .Cổ phiếu của loại hình công ty này
thường là cổ phiếu vô danh để có thể chuyển nhượng tự do và mua bán trên thị
trường chứng khoán .
-Công ty cổ phần tư nhân (Private company) loại công ty này cũng chia vốn của
mình thành những cổ phần nhưng không được phép bán cổ phiếu cho công
chúng .Các cổ phiếu do các hội viên công ty nắm giữ và không được phép
chuyển nhượng cho người khác trừ khi được sự đồng ý của các thành viên khác
2.4/ Hàng hoá chứng khoán :
a/ Khái niệm : CK là các loại giấy có giá ,chứng nhận sự góp vốn hay cho vay dài
hạn đối với chủ thể phát hành .Đây là một công cụ rất hữu hiệu trong nền kinh
tế thị trường để tạo nên một lượng vốn tiền tệ khổng lồ ,tài trợ dài hạn cho các
mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hay các dự án đầu
tư của nhà nước và tư nhân .Cũng như các loại hàng hoá khác ,chứng khoán là loại
hàng hoá đặc biệt lưu thông trên thị trường riêng của nó: Thị trường chứng khoán.
b/ Phân loại chứng khoán:
- Căn cứ vào nội dung chứng khoán ta có thể chia ra thành chứng khoán nợ và
chứng khoán vốn :
+Chứng khoán nợ là giấy chứng nhận nợ do nhà nước hoặc doanh nghiệp phát
hành khi cần huy động vốn cho mục đích tài trợ dài hạn. Điển hình chứng
khoán nợ là các loại trái phiếu
+Chứng khoán vốn là giấy chứng nhận góp vốn kinh doanh vào các công ty cổ
phần .Đó là các loại cổ phiếu ,gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
-Căn cứ vào hình thức chứng khoán được phát hành thì chứng khoán gồm có :
+ Chứng khoán vô danh: Trên các giấy chứng nhận nợ hay góp vốn không ghi tên
người sở hữu. Loại chứng khoán này có thể dễ dàng mua bán chuyển đổi trên thị
trường chứng khoán.
+ Chứng khoán ký danh là loại chứng khoán mà tên người sở hữu được ghi trong hồ
sơ của chủ thể phát hành cũng như trên các giấy tờ chứng khoán. Việc chuyển
quyền sử hữu chứng khoán này có phần khó khăn hơn loại chứng khoán trên .
- Căn cứ vào lợi tức chứng khoán người ta chia thành:
+ Chứng khoán có lợi tức ổn định là loại chứng khoán mà người cầm giữ nó được
hưởng lợi tức ổn định theo tỷ lệ lãi suất tính trên mệnh giá chứng khoán .Điển
hình của loại này là các trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi .
+ Chứng khoán có lợi tức không ổn định là loại chứng khoán mà người giữ chứng
khoán này yêu cầu phải có lãi suất cao hơn nhiều so với mức lãi xuất ổn định.
Điển hình của loại chứng khoán này là cổ phiếu thường của các công ty cổ phần.
3) Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế:
Thị trường chứng khoán ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình vận
hành của nền kinh tế mỗi quốc gia cũng như trong hệ thống kinh tế toàn cầu.
Qua lịch sử phát triển của nền kinh tế thị trường của các quốc gia phát triển, thị
trường chứng khoán có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với sự tăng trưởng một
quốc gia. Cụ thể là:
- Công cụ tài trợ cho nền kinh tế: Vai trò quan trọng đầu tiên của thị trường
chứng khoán là thu hút tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để hình
thành các nguồn vốn khổng lồ có khả năng tài trợ cho các dự án đầu tư dài hạn phát
triển kinh tế.
Thị trường chứng khoán là công cụ huy động vốn hết sức hữu hiệu không chỉ
vốn trong nước mà cả ngoài nước. Đối với nước ta một nước có nguồn vốn tiềm tàng
trong dân cư chưa được đưa vào sản xuất kinh doanh thì việc hoàn thiện thị
trường chứng khoán là một chiến lược phát triển kinh tế trước mắt cũng như lâu
dài:
- Khuyến khích tiết kiệm, tạo thói quen để dành tích cực:
Thị trường chứng khoán tạo cơ hội thuận tiện khuyến khích mọi người dân
tiết kiệm và biết cách sử dụng tiền iết kiệm một cách tích cực mang lại hiệu
quả kinh tế thông qua việc đầu tư vào các loại chứng khoán. Mỗi người trong xã
hội chỉ có một số tiền tiết kiệm nhỏ bé nhưng tổng số tiền đó của xã hội sẽ lớn
hơn bất cứ tài sản của cá nhân nào.
Mặt khác, trong xã hội cũng luôn tồn tại các quỹ tiền tệ tập trung như ngân
hàng đầu tư, ngân hàng thương mại, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư v.v. đều nhằm
mục đích khuyến khích tiết kiệm nhưng các quỹ tiền tệ này cũng chỉ mang
lại hiệu qủa cao khi có một thị trường chứng khoán tồn tại song hành với nó.
- Công cụ bảo đảm tính thanh khoản cho số tiết kiệm phục vụ đầu tư dài hạn:
Vai trò này của thị trường chứng khoán thể hiện qua việc bảo đảm cho quá trình
chuyển các chứng khoán có giá trị tiền mặt. Đây chính là một trong những
yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư đến với thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán hoạt động càng hữu hiệu thì tính thanh khoản càng cao.
- Công cụ đo lường biểu hiện tình hình, khả năng kinh doanh của doanh nghiệp:
Những thông tin doanh nghiệp cung cấp cho các nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán qua các bảng phân tích đánh giá năng lực sản xuất của doanh nghiệp,
triển vọng của doanh nghiệp trên thị trường , khả năng sinh lợi của hoạt động sản
xuất kinh doanh, xu thế phát triển của doanh nghiệp trong thời kỳ tương lai.
Mặt khác, với tính chất đặc biệt nhạy bén của thị trường chứng khoán, sự lên
xuống giá cả chứng khoán trên thị trường cũng nói lên sự biến động của giá trị
doanh nghiệp tại bất cứ thời điểm nào.
- Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả hơn . Với nguyên tắc hoạt động chủ đạo trên thị trường chứng khoán là công
khai, công bằng và trung thực, mọi thông tin về doanh nghiệp đều được công
chúng kiểm tra, đánh giá phân tích. Thị trường chứng khoán vừa tạo điều kiện
nhưng đồng thời cũng bắt các doanh nghiệp làm làm ăn nghiêm túc.
- Thị trường chứng khoán cũng là công cụ làm giảm lạm phát. Ngân hàng trung
ương với vai trò điều hoà hệ thống tiền tệ sẽ tung ra nhiều trái phiếu kho bạc
bán trên thị trường chứng khoán với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền mặt trong
lưu thông nhờ đó số lượng tiền sẽ giảm bớt và hạn chế được lạm phát.
- Thị trường chứng khoán có vai trò hỗ trợ ccho hoạt động của công ty cổ phần
trong việc đưa cổ phiếu tới tay công chúng, giúp cho quá trình phát hành và lưu
hành cổ phiếu đạt hiệu quả cao.
II)Sự cần thiết của thị trường chứng khoán đối với nền
kinh tế Việt Nam:
1) Hiện tượng đói vốn đạng ngày càng gay gắt :
Tính đến hết năm 2000, nước ta đã thực hiện xong ba lần kế hoạch 5 năm:
Lần 1 từ 1986 đến1990
Lần 2 từ 1991 đến 1995
Lần 3 từ 1996 đến 2000
Và chúng ta cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc phát triển
kinh tế. Cụ thể là hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ do đại hội VII đề ra, đưa
nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, kiểm soát được phần nào tình trạng lạm
phát, tăng thu nhập bình quân trên đầu người, cải thiện đời sống nhân dân v.v.
đã và đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tuy
nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn đang ở trong tình trạng chậm phát triển do một số
nguyên nhân:
- Việc đổi mới cơ chế quản lý tuy đã bỏ ra những công sức nhứng còn nhiều bất
cập. Ví dụ ngay như việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp. Nhà nước có
chính sách cổ phần hoá từ 1992 nhưng cho tới 6 năm sau số doanh nghiệp đã cổ
phần hoá mới chỉ đạt con số 29 doanh nghiệp mà chủ yếu doanh nghiệp làm ăn
không có hiệu quả.
- Doanh nghiệp nhà nước thiếu vốn kinh doanh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh
phát triển chậm lại do thiếu nguồn đầu tư trong khi tỷ lệ tiết kiệm nội địa của
tư nhân tăng vọt từ 7,4% năm 90 lên 14,6% năm 1993 và ổn định ở khoảng 12%
cho đến nay. Theo ước tính của một số nhà kinh tế thì nguồn lực tồn trữ này có
thể lên tới 7 đến 10 tỷ USD.
- Theo báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư , số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
đăng ký trong những năm gần đây bị chựng lại do cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ nổ ra gây ảnh hưởng lớn đến tâm lý của các nhà đầu tư. Nhiều liên
doanh công bố kết quả kinh doanh thua lỗ như hầu hết các liên doanh lắp ráp ô tô
tại Việt Nam đều lỗ do hàng sản xuất ra không bán được v.v.
Nói tóm lại nền kinh tế Việt Nam hiện ở trong tình trạng thiếu vốn trầm
trọng mặc dù nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp khắc phục.
2) Việc hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam là điều
kiện
cho sự phát triển kinh tế.
Trong những năm gần đây nền kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng ở mức độ cao,
nhưng đang trong tình trạng thiếu vốn gay gắt. Vốn trong nước huy động đầu tư
trực tiếp vào nền kinh tế đang có xu hướng chựng lại. Vốn nước ngoài do ảnh
hưởng của cuộcc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại các nước trong khu vực nên các
nhà đầu tư còn đang do dự. Trước tình hình đó thì việc hoàn thiện và phát
triển của thị trường chứng khoán sẽ giúp ta có được môt công cụ sắc bén để phát
huy tối đa nội lực đồng thời cũng là công cụ giúp ta nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế nhất là trong giai đoạn khu vực hoá, toàn cầu hoánền kinh tế. Thị
trường chứng khoán thực chất chỉ là địa điểm giao lưu giữa những người có vốn
và những người cần vốn. Nhưng đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện
nay thì việc hoàn thiện thị trường chứng khoán sẽ giúp Nhà nước và các doanh
nghiệp qua đó huy động vốn lớn cho các công trình trọng điểm, cho những
nghành nghề đang có nhu cầu phát triển nhưng thiếu vốn.
Đối với các nước đang phát triển như nước ta nếu chỉ dựa vào nội lực không thể đủ
mà phải thông qua hoạt động hợp tác quốc tế để thu hút thêm ngoại lực.
Một hình thức thu hút ngoại lực hết sức quan trọng mà lâu nay ta chưa sử
dụng là bán cổ phần của các doanh nghiệp trong nước cho các nhà đầu tư nước
ngoài. Đây là một trong những hình thức đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên để các nhà đầu tư nước ngoài không thể chi
phối hoạt động của các doanh nghiệp trong nước , nhà nước phải số cổ tối đa của
mỗi doanh nghiệp có thể bán ra cho người nước ngoài. Hình thức thu hút vốn này
hiện nay đang được triển khai mạnh mẽ bởi chương trình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước đang được thực hiện mạnh và nhất là thị trường chứng khoán đã
ra đời và đi vầo hoạt động tháng 7 năm 2000.
Qua đây có thể thấy , việc củng cố và phát triển thị trường chứng khoán là
bước đi tất yếu của nền kinh tế thị trường nước ta. Vấn đề đặt ra lúc này là
chúng ta cần phải củng cố và hoàn thiện thị trường chứng khoán như thế nào để
đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
CHƯƠNG II: Thực trạng của nền kinh tế VIệT NAM trong thời gian qua
I/ Những thời cơ và thuận lợi:
Chúng ta có hệ thống chính trị ổn định. Sau nhiều năm đổi mới Việt nam
đã đạt được những thành tựu quan trọng trong mọi mặt của đời sống kinh tế xã
hội đất nước. Nền kinh tế vẫn đang tăng trưởng với tốc độ khá cao. Tốc độ tăng
trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân từ 6 % đến 7%/năm trong
nhiều năm qua và của 6 tháng đầu năm 2000 là 6,2%.Tốc độ tăng trưởng công
nghiệp là 14,3% cao hơn so với ccùng kỳ năm trước. Ngoại thương phát triển khá
mạnh với kim nghạch xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD tăng 28,5% so với cùng kỳ năm
1999. Bên cạnh đó là sự ra đời của hơn 5000 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là
trên 4000 tỷ đồng. Đây là dấu hiệu đáng mừng của nền kinh tế Việt Nam và
được các nhà tài trợ đánh giá cao. Đồng thời đây cũng là tiền đề quan trọng tạo
điều kiện thuận lợi cho nhiều doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và huy
động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán, tạo ra sức hút mạnh mẽ của thị
trường chứng khoán Việt Nam. Hiện nay mức sống của mọi tầng lớp dân cư trong
xã hội được cải thiện và gia tăng rõ rệt, nhân dân cũng như các nhà đầu tư trong
và ngoài nước ngày càng vững tin hơn.
Đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng trong những năm cải cách và đổi mới đã
ra đời và phát triển các ngân hàng thương mại các tổ chức bảo hiểm và các
định chế tài chính khác. Từ đây đã tạo nên và thúc đẩy tính hiệu quả trong
mọi hoạt động kinh doanh, dịch vụ đối với khu vực này đồng thời lãi xuất cho vay
cũng ngày một giảm. Đây là các nhân tố và điều kiện quan trọng đối với sự phát
triển thị trường tài chính nói chung và là tiền đề quan trọng để xây dựng và
phát triển thị trường chứng khoán nói riêng.
Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế của
Đảng và Nhà nước đang giải phóng mọi năng lực trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất và thị trường vốn. Chính
phủ cũng đã thành lập ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương với công
trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước . Sự thành công của nó có ý nghĩa
vô cùng to lớn đối với việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam. cho đến nay chúng ta đã thực hiện cổ phần hoá thành công hơn 600 doanh
nghiệp trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước.
Hệ thống pháp luật ở nước ta không ngừng được bổ xung và ngày càng hoàn
thiện. Điều này đã tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho sự ra đời và phát triển
của thị trường chứng khoán Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển thị
trường chứng khoán được đánh dấu thông qua việc cổ phần đã ban hành các văn
bản pháp luật quan trọgn trong đó là Nghị định số 75/CP ngày 28 tháng 11 năm
1996 về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán nhà nước và Nghị định số
48/1998/NĐ/CP ngày 11- 7 - 1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán
...Đây là những cơ sở pháp lý căn bản, quan trọng nhất đối với quá trình xây dựng
và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta.
Chế độ kế toấn doanh nghiệp mới sửa đổi ban hành được áp dụng thực hiện
trên thực tế đã gần gũi hơn với những chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó hệ thống
kiểm toán nhà nước và phi nhà nước, kiểm toán nước ngoài đã đượcc hình thành và
phát triển. Đây cũng là một trong những mắt xích và đầu mối quan trọng
không thể thiếu được trong qua trình hình thành và phát triển thị trường chứng
khoán.
Hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống thông tin ở nước ta đang đà phát triển
mạnh. Chiến lược tăng tốc của nghành bưu điện đã và đang thu được nhiều kết
quả tốt đẹp và là điều kiện hỗ trợ quan trọng để hình thành và phát triển thị
trường chứng khoán. Có thể nói trình độ của nghành tin học Việt Nam cho đến
nay đã đủ khẩ nănng tham gia vào việc xây dựng cấc chương trình của hêj thống
giao dịch điện tử của thị trường chứng khoán.
Một số thuận lợi rất quan trọng khác đó là Việt Nam là nước phát triển sau nên
có thể tranh thủ học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước. Nhờ chính sách kinh
tế mở cửa, hội nhập với bên ngoài làm cho kinh tế trong nước cũng như kinh tế
đối ngoại ngày càng thu được nhiều thành quả rất đáng phấn khởi.Bên cạnh đó
là sự giúp đỡ nhiệt tình và hiệu quả cuả các quốc gia,các tổ chức quốc tế. Yếu
tố này đã có tác động tích cực đến quá trình hình thành và phát triển thị
trường chứng khoán của nước ta.
II/ Những khó khăn và thách thức:
Đã nói đến thị trường hàng hoá đến giao dịch trên thị trường đó,trên thực tế
hàng hóa của thị trường chứng khoấn Việt Nam rất nghèo nàn cả về số lượngvà
chủng loại, những công ty cổ phần đủ tiêu chuẩn niêm yết tại thị trường giao dịch
chứng khoán còn rất hạn chế.
Hiện nay ở nước ta có 43 công ty cổ phần đủ điều kiện niêm yết trên thị
trường chứng khoán. nếu so với tổng số công ty cổ phần hiện có là khoảng 630
thì con số này quả là khá khiêm tốn. Trong số các công ty cổ phần đó thì mới có 6
công ty tham gia niêm yết tại thị trường giao dịch chứng khoán.
Hệ thống kiêm toán của nước ta tuy đã được hình thành và phát triển từng bước
nhưng vẫn chưa thể đáp ứng đưọc nhu cầu của thị trường chứng khoán kể cả về
số lượng và chất lượng đặcc biệt khi quy mô hoạt động của thị trường chứng
khoán đang được mở rộng. Tính đến thời điểm này nước ta có khoảng 20000
doanh nghiệp nếu chỉ cần 1/10 số doanh nghiệp này đăng ký và phát hành
chứng khoán và đều cần đến kiểm toán thì với khả năng hiện tại của nghành
kiểm toán sẽ mất bao nhiêu thời gian để hoàn thành công việc này. ngoài ra còn
phải nói đến chất lượng của công việc kiểm toán đặc biệt là trên thực tế việc
thực thi còn có rất nhiều vấn đề cần xem xét lại.
Việt Nam là một trong số nước có bình quân thu nhập đầu người thấp nhất thế
giới. Do đó khi thực hiện cổ phần hoá và bán cổ phần ra công chúng với số lượng
lớn không phải là việc dễ dạng bởi tích luỹ trong dân không nhiều. Tập quán
thanh toán bằng tiền mạt vẫn là phổ biến trong dân chúng thậm chí với cả các
doanh nghiệp. Hệ thống thanh toán qua ngân hàng hiệu quả chưa cạ đổ vỡ cuả
một số ngân hàng thương mại một số quỹ tiết kiệm đã làm giảm lòng tin trong
dân chúng. Điều này gây ảnh hưởng không tốt đến tiến trình hình và phát
triển thị trường chứng khoán ở nước ta.
Đội ngũ cán bộ quản lý cũng là một vấn đề hết sức khó khăn . Chủ yếu cán bộ
quản lý điều hành thị trường chứng khoán còn non trẻ thiếu cả về số lượng kinh
nghiệm và kiến thức chuyên môn .Việc xây dựng một đội ngũ cán bộ có năng lực
,có kinh nghiệm đầy đủ cả về số lượng và chất lượng vào thời điểm hiện tại vẫn
còn là một thách thức lớn đối với nghành chứng khoán.
Qua thực tế cho thấy , hiện nay hầu hết những người bỏ vốn mua cổ phần cổ
phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá thường thiếu thông tin về các tổ chức
phát hành họ chỉ căn cứ vào các dấu hiệu bên ngoài , lời đồn đại và cảm tính
về uy tín và khả năng sinh lời của doanh nghiệp . Rất nhiều người không biết
việc đầu tư như thế là thiếu cơ sở khoa học ,không có căn cứ dễ dẫn tới rủi ro .
Vừa rồi chúng ta đã tiến hành điều tra trên địa bàn HN với 800 mẫu điều tra
thì thấy đại bộ phận dân chúng đều ở trong tình trạng hiểu biết mơ hồ về thị
trường chứng khoán . Họ đều muốn đồng vốn bỏ ra an toàn và có thu nhập ổn
định ,có tâm lý sợ rủi ro và vẫn quen gửi tiền vào ngân hàng hơn là mua chứng
khoán v.v.
Hệ thống trung gian tài chính với tư cách là hoạt chất bôi trơn hoạt động của
thị trường chứng khoán ,đang được đánh giá là vừa thiếu ,vừa yếu .Tại thời điểm
này chỉ mới có 6 công ty chứng khoán hoạt động trên một phạm vi hẹp ,chủ yếu
là địa bàn Hà Nội và TPHCM mà nhu cầu của các nhà đầu tư đã không được
đáp ứng đầy đủ vậy không biết nếu số lượng công ty cổ phần tăng nhanh và
đều cần đến công ty chứng khoán thì những công ty này sẽ giải quyết như thế
nào ? Hiện nay một biện pháp đang được thực hiện để giải quyết vấn đề này
là tăng số lượng các công ty chứng khoán .Nhưng chính biện pháp này đã làm phát
sinh mâu thuẫn mới .Đó là trong bối cảnh hàng hoá của thị trường còn quá nghèo
nàn việc mở thêm các công ty chứng khoán càng gây thêm khó khăn bởi các khoản
phí thu từ hoạt động giao dịch là quá nhỏ bé thậm chí có phiên chỉ thu được
20000 đồng . Bình quân giá trị giao dịch của thị trường chứng khoán đạt khoảng
1tỷ đồng /phiên .Như vậy tổngphí giao dịch mà các công ty chứng khoán được
phép thu theo quy định của UBCKNN là 8tr đồng .Rõ ràng với tình hình hoạt
động như hiện nay của thị trường chứng khoán thì chỉ một công ty hoạt động
cũng không thể hoà vốn .
Thực tế hoạt động của thị trường chứng khoán đã làm phát sinh thêm một khó
khăn nữa ,đó là quy mô của hệ thông lưu ký hiện nay quá nhỏ bé không thể đáp
ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư khu vực xa .Yêu cầu
đặt ra là phải xây dựng thêm các trung tâm lưu ký .Tuy nhiên việc này không
hề đơn giản ,theo các chuyên gia đi liền với việc mở rộng hê thông lưu ký cần
phát triển hạ tầng kỹ thuật thông tin hiện đại .Điều này đòi hỏi một khoản chi
phí không nhỏ khó có thể đáp ứng đựợc trong điều kiện hiện nay .
Với mục tiêu đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động an toàn ,công
khai,hiệu quả,bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư trong quản lý hoạt
động của thị trường ,UBCKNN đã sử dụng cả hai biện pháp :Hành chính và
kinh tế.
Biện pháp quản lý hành chính đầu tiên đã được áp dụng ngay tại phiên giao
dịch đầu tiên bằng cách công bố mức giá trần cho cả cổ phiếu REE và SAM lúc
8h 45' ngày 28/7/2000 chỉ 15' trước khi TTGDCK mở cửa . Biện pháp tình thế
này ,xét về mặt quản lý nhằm mục đích định hướng thị trường ,đồng thời giúp
nhà đầu tư có giá để tham chiếu và đưa ra quyết định hợp lý .Tuy nhiên việc
định giá trần của UBCKNN là hành động mang tính chủ quan do đó đánh giá
không đúng giá trị của cổ phiếu côg ty niêm yết và hệ quả là sự vắng mặt một
thời gian dài trên sàn giao dịch của cổ phiếu TMS.
Biện pháp hành chính kế tiếp được thực hiện trong phiên giao dịch thứ 2 qua
việc sửa đổi biên độ dao động giá từ 5% theo quy chế xuống còn 2%.Việc làm
này nhằm mục đích tránh biến động lớn cho thị trường trong tình hình có sự sự
khác biệt quá lớn giữa cung và cầu chứng khoán .Tuy nhiên liệu pháp này đã làm
cho thị trường thiếu đi tính hấp dẫn ,sôi động , sự háo hức ban đầu của thị
trường chứng khoán Việt Nam trong buổi đầu sơ khai .
III/ Một số thành tựu đạt được :
Nhờ sự nỗ lực của nghành chứng khoán và các ban nghành có liên quan
trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM đã ra đời ngày 20/7/2000 và chính
thức đi vào hoạt động với phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/7/2000 . Sự kiện này
đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển của nền kinh tế Việt
Nam . Đây chính là công cụ ,là phương tiện giúp cho nền kinh tế nước ta có thể
giao lưu ,hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới . Mặc dù trong phiên giao
dịch đầu tiên chỉ có sự tham gia của hai loại cổ phiếu REE và SAM với tổng giá
trị giao dịch là 70.4 tr đồng ,một con số hết sức khiêm tốn .Nhưng nó đã được
đánh giá là một sự khởi đầu thành công tốt đẹp .
Tuy trung tâm giao dịch chứng khoán VN hoạt động chưa được bao lâu nhưng
nó đã phần nào khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế VN .Cụ
thể là chỉ sau đúng 5 tháng đi vào hoạt động con số 2 thành viên và 70.4 triệu
đã được tăng lên 6 thành viên và trên 5 tỷ đồng tổng giá trị giao dịch trong một
phiên . Như vậy ,có thể kết luận hoạt động của thị trường chứng khoán đã và
đang thổi một luồng gió mới vào nền kinh tế giúp cho nền kinh tế nước nhà vươn
lên trong kỷ nguyên mới ,kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức .
CHƯƠNG III: Một số nhân xét về TTCKVN
Hiện nay, tâm lý phổ biến của giới kinh doanh liên quan đến hoạt động
chứng khoán có thể được tóm gọn trong hai chữ "Chờ thời ".Điều này không riêng
gì với các công ty chứng khoán ,các công ty đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường
,nhà đầu tư mà ngay cả với các công ty cổ phần đã có đủ hoặc gần đủ điều
kiện niêm yết cổ phiếu . Mỗi đối tượng đều đưa ra những nguyên nhân khác
nhau nhưng họ đều xuất phát từ một điểm .Đó là thị trường chứng khoán chưa hội
đủ những những yếu tố cần thiết để đảm bảo sự sôi động của thị trường và
sau đó mang lại lợi ích cho giới kinh doanh.
Thông điêp chung của các công ty chứng khoán là hoạt động cầm chừng để
chờ khi nào "hàng hoá "nhiều hơn ,khuôn khổ pháp lý nới rộng hơn và sự điều
hành của UBCKNN bớt đi sự can thiệp mang nặng tính hành chính thì mới
thực sự bước vào kinh doanh . Các công ty chứng khoán cho rằng hiện nay lượng
chứng khoán giao dịch quá ít lại bị gò ép trong các quy định khắt khe về giá
tham chiếu ,biên độ dao động v.v. Trong khi đó ,tuy được hưởng một khoản lệ
phí giao dịch nhưng không thấm gì so với những chi phí mang tính bắt buộc
mà họ phải chấp nhận khi tham gia hoạt động .
Đối với các công ty niêm yết thì hiện nay họ không có nhu cầu huy động vốn
do khó khăn về thị trường ,chưa thể mở rộng sản xuất kinh doanh .Lượng chứng
khoán giao dịch trên thị trường trong thời gian qua chủ yếu là của các chủ sở hữu
mua đi bán lại với nhau .Hiện tượng giá chứng khoán lên hay xuống không có nhiều
ý nghĩa vì khối lượng giao dịch nhỏ . Có thể coi đây chỉ là thủ pháp để nâng
giá ảo của những cổ đông lớn để thông qua đó khuyếch trương thương hiệu công
ty trên thị trường . Mặt khác cũng phải thừa nhận một thực tế là bản thân chủ sở
hữu cũng không muốn bán cổ phiếu một khi cổ tức cao hơn lãi suất ngân hàng
và xu thế có thể phát triển tốt hơn nữa
Từ góc độ nhà đầu tư ,nhận xét một cách kỹ lưỡng thì đã qua thời gian ban
đầu sốt sắng mua vì thị hiếu .Mặc dù hiện nay không phải không có người
muốn đầu tư nhưng họ có quá ít sự lựa chọn .Hơn thế, nhiều nhà đầu tư dường
như đang chờ đợi nền kinh tế nóng lên mới nhảy vào kinh doanh thật sự.
Cuối cùng với các công ty cổ phần họ vẫn giữ thái độ thờ ơ đối với thị trường
chứng khoán . Một số công ty chưa đủ điều kiện niêm yết thì đợi nới lỏng điều
kiện niêm yết ,một số khác thì chờ đợi hết thời gian ưu đãi đang được hưởng v.v.
Nói tóm lại , dù thế nào đi chăng nữa thì cũng chưa thể hy vọng thay đổi
được diện mạo của thị trường chứng khoán vào lúc này.
CHƯƠNG IV: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện TTCKVN
Việc thành lập một thị trường chứng khoán chỉ có ý nghĩa khi có thể bảo
đảm duy trì và phát triển hoạt động của thị trường . Muốn vậy,phải luôn luôn
duy trì và phát triển được nguồn cung và cầu chứng khoán cũng như không thể
thiếu các định chế tài chính trung gian làm cầu nối giữa cung -cầu chứng
khoán .
I/ Một số giải pháp tăng cung hàng hoá trên thị trường chứng khoán:
Thực tế tại các quốc gia có thị trường tài chính kém phát triển như VN thì
khả năng cung ưngs chứng khoán thường bị hạn chế do những nguyên nhân chủ
yếu sau:
- Có quá ít các công ty cổ phần đại chúng ,mà hình thức huy động vốn cho thị
trường lại là phát hành chứng khoán rộng rãi ra công chúng .
- Còn tòn tại chính sách ưu đãi tín dụng ,nhà nước tài trợ vốn cho các doanh
nghiệp với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường .
- Chính sách thuế không nhằm mục tiêu phát triển thị trường tài chính như mức
thuế đánh trên giao dịch chứng khoán quá cao, thuế đánh trên thu nhập cổ tức
của cổ đông . Cách đánh thuế như vậy không khuyến khích phát hành và lưu
thông chứng khoán .
-Sự thiếu vắng các công ty CK chuyên nghiệp phục vụ cho việc phá hành và lưu
hành chứng khoán ,sự thiếu vắng các nhà tạo môi trường và nhà môi giới.
-Thị trường tài chính không đủ các công cụ tài chính đa dạng đáp ứng nhu cầu
người sử dụng vốn và hấp dẫn các nhà đầu tư.
Rút kinh nghiệm từ thực tiễn trên cần có một số giả pháp tăng cung chứng khoán
như:
1/ Khuyến khích và tạo mọi điều kiện cần thiết cho việc thành lập các
công ty cổ phần đại chúng,đẩy mạnh chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp
.Sát nhập nhiều doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá hình thành công ty cổ
phần đại chúng có số cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt thuộc nhà nước
2/ Giảm bớt tiến tới xoá bỏ hẳn các hình thức phụ thuộc vào nguồn tín dụng ưu
đãi của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh . Mặt khác
,cần có giải pháp xử lý nợ tồn đọng trong các doanh nghiệp nhà nước một cách hợp
lý nhằm lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp,hấp dẫn các nhà đầu tư tiềm
năng ,tạo điều kiện cho doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường chứng khoán.
3/ Tăng cường hơn nữa các khuyến khích về thuế đối với việc phát hành chứng
khoán đại chúng
4/ Phát triển các tổ chức tài chính trung gian,các nhà môi giới ,nhà tạo thị trường
.Ngân hàng cần hoàn thiện điều kiện thành lập các công ty chưng khoán
chuyên nghiệp làm môi giới ,đại lý hay bảo lãnh phát hành chứng khoán ,kinh
doanh chứng khoán nhằm tạo ra thị trường và duy trì thị trường .
5/ Đa dạng hoá các công cụ tài chính : UBCKNN có trách nhiệm nghiên cứu nhằm
đa dạng hoá các loại chứng khoán có thể phát hành ở Việt Nam như:trái phiếu
chính phủ ,trái phiếu công ty,đặc biệt là các trái phiếu ngân hàng ,các tổ chức
tài chính phi ngân hàng . . . có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu về chứng
khoán
II/ Một số giải pháp nhằm tạo cầu chứng khoán:
ở các nước thị trường kém phát triển thì sức cầu chứng khoán cũng thường rất
thấp. Sở hữu chứng khoán chỉ tập chung trong tay một số người giàu có và ít
nhiều có quan hệ với các công ty cổ phần .Đại đa số dân chúng,với số tiền tiết
kiệm ít ỏi của mình và không hiểu biết về thị trường tài chính ,họ giữ số tiền
tiết kiệm này dưới hình thức mua kim loại quý hoặc mua bất đọng sản .Sự yếu
kém về khả năng cầ chứng khoán có thể được giải thích bởi những nguyên nhân
sau:
- Thiếu một mạng lưới ngân hàng năng động và hiệu quả ,đưa các dịch vụ đầu
tư đến tận những người có số tiết kiệm nhỏ. Hình thức thanh toán thường là tiền
mặt ,thu nhập thường thầp và chính phủ chưa có chương trình cụ thể khuyến
khích đầu tư chứng khoán thông qua các quỹ:quỹ đầu tư ,quỹ bảo hiểm ,quỹ hưu
trí . . .
- Dân chúng thiếu niềm tin vào sự ổn định của nền kinh tế ,điều này tạo
tâm lý tiết kiệm theo cách như trên và do đó xã hội mất đi những khoản tiết
kiệm nhỏ nhưng góp lại là nguồn vốn vô cùng to lớn.
- ở nhiều nước ,còn có tìh trạng chính sách thuế không thoả đáng cũng làm hạn
chế khả năng cầu chứng khoán .Ví dụ thuế đánh trên cổ tức của cổ đông trong
khi lợi tức tiền gửi ngân hàngthì không phải chịu thuế ,chênh lệch lãi do bán
chứng khoán cũng phải chịu thuế, . . .nên không khuyến khích người có tiền
tham gia đầu tư.
Xem xét điều kiện của nước ta ,rút kinh nghiệm của các nước đi trước ,nên chăng
trong giai đoạn đầu phát triển thị trường chứng khoán cần phải có một số giải
pháp sau:
1/ Nâng cấp ,cải tiến hoạt động của ngân hàng,đưa dịch vụ đến tận tay các
nhà đầu tư tiềm năng,tạo niềm tin vào sự tiện ích cũng như uy tín của ngân
hàng.
Khuyến khích các hình thức đầu tư đa dạng ,mở rộng quy mô bán chứng
khoán.Ngân hàng có thể áp dụng hình thức cho vay mua chứng khoán đối với một
số thành phần hoặc mua trả chậm như đối với công nhân viên chức chẳng hạn.
2/ Phát triển các công ty chưng khoán ,tuyên truyền vận động giáo dục dân
chúng về lợi ích đầu tư vào chứng khoán để tạo cho công chúng hiểu sâu về
chứng khoán và đầu tư chứng khoán.Đồng thời cải thiện tình hình cung cấp
thông tin của các công ty niêm yết ,tạo tính minh bạch cho thị trường chứng
khoán,xử lý mọi hành vi gian lận ,mua bán nội gián gây rối loạn thị trường làm
mất lòng tin của công chúng đầu tư.Bản tin thị trường chứng khoán ra ngày thứ 3
và thứ 5 hàng tuần của TTGDCK và các ấn phẩm chính thức của UBCKNN nên
phổ biến rộng rãi ,không nên gò bó trong việc phát hành nội bộ bởi đây là điều
kiện đưa kiến thức chứng khoán tới công chung đầu tư một cách hiệu quả ,vả lại
việc phát hành rộng rãi không dừng lại ở bản tin nội bộ tạo tâm lý tin tưởng vào
tính minh bạch của thị trường chứng khoán của công chúng ,người đang tìm mặt
gửi vàng và họ sẵn sàng tham gia vào thị trường chứng khoán.
3/ Cần có chính sách thuế công bằng đối với tiền gửi ngân hàng và đầu tư
vào chứng khoán ,không nên áp đặt ngay một mức thuế đánh vào thu nhập từ
mua bán chứng khoán ,miễn giảm đối với các cổ đông mua cổ phiếu không nhằm
mục đích kinh doanh. Tạm thời chưa thu thuế thu nhập đối với các khoản thu
nhập từ lãi tiền gửi ngân hàng ,lãi tiền gửi tiết kiệm ,lãi mua tín phiếu ,trái
phiếu kỳ phiếu ,cổ phiếu. Trong thời gian đầu khi mới hình thành thị trường
chứng khoán nên duy trì diều quy định này để khuyến khích mọi người mua
cổ phiếu và trái phiếu.
III/ Một số giải pháp phát triển và hoàn thiện các tổ chức tài chính trung gian.
Với đặc điểm của nước ta ,nền kinh tế mới chuyển đổi sang cơ chế thị
trường ,chưa có một hệ thống ngân hàng phát triển ,nhưng phải xây dựng thị
trường chứng khoán trong một thời gian ngắn ,để đảm bảo tính thanh khoản và
liên tục của thị trường cần phải có những giải pháp sớm cho ra đời một số định
chế tài chính trung gian với chức năng tạo lập thị trường .Đồng thời cần phải có
những giải giáp cụ thể :
1/ Nâng mức vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại quốc doanh để tăng
cường sức mạnh tài chính cho các ngân hàng tạo cơ sở thành lập các công ty
chứng khoán con ,chuyên nghiệp hoạt động môi giới và kinh doanh chứng khoán.
2/ Cho phép thành lập các công ty chứng khoán nhà nước ,công ty chứng khoán
liên doanh ,công ty chứng khoán cổ phần .Bước đầu ,nên phát triển công ty chứng
khoán nhà nước làm lực lượng nòng cốt và hướng dẫn các thành phần kinh tế khác
tham gia .
3/ Xem xét thực hiện miễn giảm thuế lợi tức đối với các công ty chứng khoán
trong 1 đến 2 năm đầu moứi thành lập để tăng cường sức mạnh tài chính của
các công ty khiến công ty có thể nhanh chóng hôị nhập vào thị trường vốn đang
cạnh tranh khốc liệt giữa các nước .
IV/ Một số giải pháp tổng thể:
1/ Tăng cường công tác quản lý của nhà nước
ở đây muốn nói đến khía cạnh đảm bảo lợi ích cho nhà đầu tư ,xử lý
nghiêm những trường hợp nội gián ,lũng đoạn thị trường . . .tiến tới giảm bớt các
biện pháp hành chính để quản lý thị trường .Về lâu dài ,khi hàng hoá đa dạng
về chủng loại ,nhiều về khối lượng thì nên cân nhắc điều chỉnh biên độ dao
động giá từ +-2%đến +-5%,khi tiềm lực kinh tế mạnh biên độ dao động giá có
thể tăng lên từ +-10%đến +-15%.Có như vậy mới tạo nên tính sinh động của thị
trườngchứng khoán ,tạo ra sự hấp dẫn của thị trường và thu hút được nhiều người
tham gia ,lúc đó thị trường chứng khoán mới thể hiện đúng bản chất của nó là
một thị trường bậc cao .Hầu hêt các thị trường mới nổi đều có quy định biên độ
giá nhằm hạn ché sự biến động quá mức giá cả trên thị trường .Vi dụ như SGDCK
Thái Lan quy định mức trần là 33%và sàn là 27%,SGDCK Ba Lan quy định
biên độ +-10% . . .một số nước không áp dụng biên độ nhưng có quy định ngừng
hoạt động của SGDCK trong những thời gian nhất định ,ví dụ như khi chỉ số
Dowjones giảm 250 điểm thì ngừng hoạt động 30 phút ,nếu giảm xuống 400
điểm thì ngừng 60 phút .So với biện pháp trên ,việc ngừng giao dịch có thể làm
giảm niềm tin của những người đầu tư vào thị trường .
Ngoài ra,UBCKNN cần đưa vào các quy định cấm các tổ chức ,cá nhân cùng
thực hiện lệnh mua và bán cùng một loại chứng khoán trong một phiên giao dịch
để tránh việc "làm giá"gây rối loạn thị trường .Đối với các cổ phiếu cố giá giao
dịch đụng trần trong nhiều phiên liên tục thì nên đưa vào diện kiểm soát và có
mức khống chế giao dịch và biên độ giá dao động riêng cho loại cổ phiếu này
.Chưa nên cho phép công ty niêm yết mua lại cổ phiếu và chưa áp dụng việc giao
dịch thâu tóm doanh nghiệp.
2/ Cần xây dựng thị trường chứng khoán phi tập chung (OTC)
Hiện nay ,do chưa có thị trường OTC ,việc mua bán trao tay các cổ phiếu của
các công ty chưa được niêm yết vẫn đang diễn ra một cách phức tạp và có nhiều
khó khăn trong giao dịch. việc mua bán những cổ phiếu này chủ yếu dựa vào tin
đồn,và đây là kẽ hở cho bọn đầu cơ trục lợi và tất nhiên phần thiệt thòi sẽ thuộc
về công chúng đầu tư .
Thực tế hiện nay trên cả nước có khoảng hơn 600 công ty cổ phần đang hoạt
động .Về triển vọng đây có thể là nguồn hàng rất loén cho thị trường .Tuy
nhiên,số nhiều công ty cố đủ điều kiện niêm yết trên thị trường tập trung trong
đó chưa nhiều trong khi cổ phiếu của nhiều công ty đang cố nhu cầu mua đi
bán lại .Một khi chưa tổ chức thị trường phi tập chung chính thức thì hoạt động
trên vẫn diễn ra tự phát và nhà nước không quản lý và kiểm soát được .Thiết nghĩ
việc tổ chức thị trường OTC hiện nay cũng chính là xuất phát từ nhu cầu của
thị trường và góp phần làm giảm áp lực cầu về chứng khoán trên TTCK tập
chung.
Được biết UBCKNN hiện nay đang soạn thảo đề án thành lập thị trường chứng
khoán OTC để trình chính phủ phê duyệt .Hy vộng rằng khi đề án được thông
qua ,thị trường OTC ra đời sẽ góp phần thúc đẩy và cải thiện được những mất
cân đối hiện nay của thị trường tập chung.
Tóm lại, để cho thị trường chứng khoán VN thực sự là một kênh huy động vốn
cho nền kinh tế phục vụ cho công cuộc CNH & HĐH đất nước thì phải tiến hành
hàng loạt các biện pháp trong đó có một số biện pháp đã nêu ở trên.Có như vậy thị
trường chứng khoán mới phát triển bền vững ,vững bước tiến vào kỷ nguyên mới ,kỷ
nguyên của nền kinh tế tri thức
Kết luận :
Mục tiêu cuối cùng của việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là
để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội của quốc gia . Thông qua thị
trường chứng khoán ,các luồng vốn trong và ngoài nước được tập trung và sử dụng
cho các dự án đầu tư, nhu cầu mở rộng sản xuất ,v.v. Nhưng thị trường chứng
khoán cũng có tác động như con dao 2 lưỡi ;nó cũng làm nảy sinh những vấn đề
tiêu cực; những tác động nguy hiểm lôi kéo, lũng đoạn ,phá hoại nền kinh tế khi
nó không được vận hành theo đúng cơ chế của nền kinh tế thị trường .
Thực tế tại các quốc gia phát triển ,thị trường chứng khoán đã từng trải qua
những cuộc khủng hoảng những ngày "đen tối" có tác động hết sức tồi tệ đến
nền kinh tế . Còn tại Việt Nam chúng ta có thể tránh được hoặc khắc phục
những rủi ro này nhờ sự can thiệp đúng đắn của chính phủ thông qua các công
cụ điều chỉnh . Từ đây chúng ta có thể lạc quan và tin tưởng vào sự phát triển
của thị trường chứng khoán trong tương lai .
TàI LIệU THAM KHảO
1.Cẩm nang hỏi đáp về thị trường chứng khoán -Tác giả Đặng Quang Gia
-Xuất bản năm 1996
2.Thị trường chứng khoán kỹ năng lựa chọn đầu tư
-Tác giả Huy Nam
-Xuất bản năm 2000
3.Xác định thời điểm mua bán cổ phiếu
-Tác giả Leeb do Trần Tuấn Thạc dịch
-Xuất bản năm 1996
4.Thị trường chứng khoán và bước đầu hình thành thị trường chứng khoán tại
Việt Nam
- Tác giả Võ Thành Hậu-Bùi Kim Yến
- Xuất bản năm 1998
5.Hướng dẫn đầu tư vào thị trường chứng khoán
- Minh Đức-Kim Chung biên dịch
6.Thị trường chứng khoán và công ty cổ phần
7.Quản lý và các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường chứng khoán
-Tác giả Đinh Xuân Hạ
8.Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
9.Thị trường chứng khoán
-Tác giả Lê Tùng Vân
-Xuất bản năm 1997
10.Lý thuyết tiền tệ
-Chủ biên:PGS.PTS Vũ Văn Hoá
-Nhà xuất bản tài chính -1998
11.Các quan điểm về chính sách tỉ giá hối đoái
12.Cẩm nang thị trường ngoại hối
13.Thời báo Kinh Tế và báo kinh tế Sài Gòn các số ra năm 2000
14.Tạp chí đầu tư chứng khoán các số : Số 28 ra ngày 16 tháng 6 năm 2000
Số 44 ra ngày 6 tháng 10 năm 2000
Số 45 ra ngày 13 tháng 10 năm 2000
Số 46 ra ngày 20 tháng 10 năm 2000
Số 47 ra ngày 27 tháng 10 năm 2000
Số 48 ra ngày 3 tháng 11 năm 2000
Số 49 ra ngày 10 tháng 11 năm 2000
Số 50 ra ngày 17 tháng 17 năm 2000
Số 59 + 60 + 61 ra ngày 19 tháng 1 năm
2001
15.Những kiến thức cơ bản về CK & môi giới CK
16.Tạp chí chứng khoán Việt Nam : Số 1 ra tháng 1 năm 2000
Số 4 ra tháng 4 năm 2000
Số 6 ra tháng 6 năm 2000
Số 8 ra tháng 8 năm 2000
Số 9 ra tháng 9 năm 2000
Số 11 ra tháng 11 năm 2000
MụC LụC
Trang
Lời nói đầu 1
Chương I: giới thiệu chung về thị trường chứng khoán 2
I. Khái niệm và vai trò của thị trường chứng khoán 2
1. Khái niệm 2
2. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 3
3. Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế 8
II. Sự cần thiết của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế Việt Nam 9
1. Hiện tượng đói vốn đang ngày càng tăng 9
2. Việc hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam là điều kiện
cho sự phát triển kinh tế
10
Chương II: Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua 11
I. Những thời cơ và thuận lợi 11
II. Những khó khăn 12
III. Một số thành tựu đạt được 14
Chương III: Một số nhận xét về TTCKVN 15
Chương IV: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện TTCKVN 16
I. Một số giải pháp tăng cung hàng hoá trên thị trường chứng khoán 16
II. Một số giải pháp nhằm tạo cầu chứng khoán 17
III. Một số giải pháp phát triển và hoàn thiện các tổ chức tài chính trung gian 18
IV. Một số giải pháp tổng thể 18
1. Tăng cường công tác quản lý của nhà nước 18
2. Cần xây dựng thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) 19
Kết luận 20
Tài liệu tham khảo 21
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lv_moi_truong_3__9925.pdf