1. Cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp có nhiều nội dung cần phát triển đồng
bộ: CGH sản xuất lúa, CGH rau màu, cây trồng cạn (mía, bắp, khoai lang.); CGH
vườn cây ăn quả; CGH nuôi trồng thuỷ sản; CGH chăn nuôi gia súc gia cầm, v.v.
2. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất lúa hàng hóa trong giai đoạn hội nhập, việc ứng
dụng cơ giới hóa đồng bộ vào sản xuất để tăng năng suất, đáp ứng tính thời vụ,
đảm bảo chất lượng sản phẩm, giảm tối đa tổn thất sau thu hoạch. là nhu cầu bức
thiết. Do đó, Nhà nước cần tiếp tục bổ sung hoàn thiện một số chính sách thúc đẩy
ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất lúa; đẩy mạnh quy hoạch xây dựng mô hình
“cánh đồng mẫu lớn”, nhằm phát huy tối đa vai trò liên kết “4 nhà”, đặc biệt là vai
trò chủ động của các doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu gạo trong việc đầu tư hệ
thống sấy lúa, kho chứa. để thu mua, tồn trữ lúa, nhất là giai đoạn thu hoạch rộ.
Đây chính là giải pháp thiết thực góp phần ổn định sản xuất, khắc phục tình trạng
“được mùa, mất giá” trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói
riêng.
3. Nhà nước cần có chính sách Chính sách thích hợp: hỗ trợ về vốn (trước đây có
một số NĐ, QĐ hỗ trợ vốn cho nông dân vay mua máy nhưng còn hiều bất cập nên
vốn khó đến tay nông dân); cần có chính sách hỗ trợ các đơn vị sản xuất cơ khí địa
phương như sản xuất máy GĐLH nội địa rất tốt nhưng công nghệ chế tạo kém, vì
vậy phải nhập đến 80%. Cần quan tâm công tác nghiên cứu và đào tạo, huấn luyện
CBKT cũng như công nhân ngành cơ khí nông nghiệp, dạy sử dụng và lái máy
nông nghiệp như máy GĐLH. Cần có chủ trương chỉ đạo ngành Công nghiệp hỗ
trợ cho cơ khí nông nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế tạo máy nông nghiệp. Xây
dựng các cơ sở chế biến hoặc sơ chế, dịch vụ cơ khí nông thôn (xưởng sửa chữa,
cửa hàng thiết bị, phụ tùng ). Có như vậy việc ứng dụng cơ giới hóa trong sản
xuất nông nghiệp nước nhà mới có cơ hội phát triển./.
10 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5365 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp dồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1/10
TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG CƠ GIỚI HÓA
TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP ĐBSCL
TS. Lê Văn Bảnh
Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL
I. Mở đầu
Đến nay, ở Việt Nam, việc thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn còn
yếu và thiếu đồng bộ, còn tùy thuộc rất lớn vào trình độ và nguồn vốn của nông hộ.
Cơ sở sản xuất công nghiệp phục vụ nông nghiệp còn rất yếu, trong khi máy móc
nhập từ nước ngoài thường không phù hợp trong sản xuất, hoặc quá cồng kềnh
hoặc quá đắc tiền so với qui mô sản xuất và khả năng của người nông dân trong
vùng. Lực lượng lao động qua đào tạo nghề ở nông thôn còn thấp... cũng là một
trong những trở ngại trong việc ứng dụng cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp,
phát triển nông thôn. Vì vậy, việc áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất còn hạn chế,
năng xuất lao động thấp, chi phí đầu tư cao, các dịch vụ cơ khí đi theo hoạt động
này kém phát triển, đời sống của bà con nông dân ở nông thôn còn nhiều khó khăn.
Trong sản xuất nông nghiệp, ngoài việc sử dụng các loại giống mới, quản lý nước,
phân bón, tín dụng và các chính sách giá cả lương thực của chính phủ; mô hình cơ
giới hoá phù hợp giữ vai trò quan trọng trong việc gia tăng sản lượng lương thực -
thực phẩm và tiêu chuẩn sống ở vùng nông thôn. Ngoài việc ứng dụng cơ giới
trong sản xuất, cần thiết quan tâm đến phát triển cơ sở chế biến (sơ chế) và dịch vụ
cơ khí (xưởng sửa chữa, cung cấp vật tư, phụ tùng) ở nông thôn
Ở những vùng canh tác được trên 2 vụ mỗi năm cần phải có cơ giới hoá nông
nghiệp để giải quyết kịp thời vụ, tránh được ảnh hưởng của thời tiết. Chẳng hạn, ở
đồng bằng sông Cửu long nhờ sử dụng máy móc như máy bơm nước để tưới tiêu,
máy gặt đập liên hợp (GĐLH), v.v. mà nông dân có thể gieo sạ sớm trước khi nước
rút ở đầu vụ Đông - Xuân (bơm nước ra) và do đó thu hoạch sớm để tiếp tục vụ Hè
- Thu, nhờ vậy, vụ Hè - Thu cũng thu hoạch sớm tránh được mưa lũ vào tháng 8 –
9 dương lịch.
Tóm lại, áp dụng cơ giới hoá nông nghiệp sẽ: a) Nâng cao hiệu quả kỹ thuật; b)
Nâng cao hiệu quả kinh tế; c) Giải phóng bớt lực lượng lao động trong nông
nghiệp; e) Giảm cường độ lao động nặng nhọc cho nông dân.
Cụ thể là:
● Tăng được hiệu quả sử dụng đất đai và lao động;
● Mở rộng được diện tích canh tác, đáp ứng yêu cầu sản xuất lớn;
● Tiết kiệm các nguồn: giống, phân bón, nước, năng lượng, lao động, ...
2/10
● Cải thiện được chất lượng nông sản, sản phẩm;
● Bảo vệ môi trường;
● Tăng cường khả năng bền vững của sản xuất nông nghiệp;
● Giảm bớt cường độ lao động nặng nhọc và vất vả cho người lao động;
● Tăng lợi tức trong sản xuất nông nghiệp;
● Tạo ra các ngành nghề hấp dẫn lao động nông thôn;
● Đáp ứng kịp thời vụ, tăng mùa vụ, hạn chế ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu.
Trong canh tác lúa, việc cơ giới hóa được áp dụng vào các khâu chính như sau:
1. Cơ giới hóa làm đất (cày, bừa, xới, trục, trang…) ;
2. Cơ giới hóa khâu tưới, tiêu;
3. Cơ giới hóa khâu gieo-cấy;
4. Cơ giới hóa khâu chăm sóc, bón phân, bảo vệ thực vật;
5. Cơ giới hóa khâu thu hoạch: gặt, tuốt đập;
6. Cơ giới hóa sau thu hoạch: phơi sấy, bảo quản tồn trữ, xay xát…; và
7. Cơ giới hóa trong khâu vận chuyển.
Việc ứng dụng cơ giới trong sản xuất lúa đã được nông dân và chính quyền địa
phương quan tâm từ nhiều năm nay, nhưng việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn.
Cơ giới hoá đồng bộ là yếu tố cơ bản để tiến tới phát triển nền nông nghiệp công
nghệ cao, đặc biệt là trong sản xuất lúa. Để đảm bảo cho việc cơ giới hoá đồng bộ
trong sản xuất lúa được thuận lợi, cần giải quyết các vấn đề như sau:
- Diện tích lô thửa cần đủ rộng để máy xoay trở thuận lợi lúc vận hành;
- Giao thông nông thôn thuỷ, bộ cần được thuận lợi cho máy móc đi lại;
- Quản lý nước trên động ruộng, chủ động rút khô ruộng trước lúc thu hoạch;
- Cần có cày ải hàng năm để tạo tầng đế cày, tránh bị lầy lún;
- Cần san ủi để có mặt ruộng tương đối bằng phẳng;
- Cần có qui trình canh tác tốt tránh lúa bị đổ ngả lúc thu hoạch;
- Chọn máy thu hoạch thích hợp: gặt rải hàng, gặt đập liên hợp.
II. Cơ giới hóa trong sản xuất lúa
2.1 Phát triển giao thông nông thôn: để thực hiện tốt CGH trong sản xuất, nhất
thiết cần có đường giao thông thuỷ bộ thuận tiện cho máy móc đi lại, đi từ đồng
này sang đồng kia, từ lô ruộng này sang lô ruộng khác. Ở vùng ĐBSCL có đặc
điểm là kênh rạch chằng chịch, đường giao thông nông thôn lại rất hạn chế, nhỏ
hẹp, do vậy máy móc đi lại rất khó khăn, đặc biệt máy GĐLH thường cồng kềnh
đi lại càng khó khăn hơn, nhất là trong mùa mưa, lũ.
2.2 San ủi đồng ruộng
3/10
Trong canh tác lúa, nếu đồng ruộng được san phẳng sẽ rất thuận lợi cho việc dùng
cơ giới: chủ động cung cấp nước cũng như thoát nước đồng đều trên đồng ruộng,
khống chế cỏ dại dễ dàng; quản lý được ốc bưu vàng vì chúng thường ở những
vùng nước trũng. Mặt đồng có độ bằng phẳng tốt rất thuận lợi khi dùng máy gieo
hàng hoặc máy cấy, khi dùng máy thu hoạch cũng rất thuận lợi. Mặt khác, theo
nghiên cứu của các nhà nông học cho thấy rằng khi mặt đồng ruộng được cải tạo
san phẳng, dễ dàng trong quản lý nước, tiết kiệm nước, quản lý được cỏ dại và tiết
kiệm bón phân... lúa sẽ cho năng suất cao hơn đồng ruộng còn gò, trũng từ 5 –
10%. Do vậy, việc san ủi tạo độ bằng phẳng mặt ruộng là rất cần thiết, từ lâu nông
dân cũng đã có trang phẳng mặt ruộng bằng các thiết bị thông thường nhờ can mực
nước nhưng độ đồng đều không cao.
Ở các nước tiên tiến, người ta thường rất quan tâm đến độ bằng phẳng của mặt
ruộng, họ dùng máy san điều khiển bằng tia laser, việc làm này tuy có đầu tư nhiều
hơn san ủi bình thường nhưng rất thuận lợi, độ chênh lệch cao trình có thể đạt đến
< 2cm. Những năm gần đây, Viện nghiên cứu lúa Quốc tế IRRI đã có chuyển giao
qua VN công nghệ này, ĐBSCL có một số nơi áp dụng rất hiệu quả.
Cơ giới hóa nông nghiệp ngoài mục đích tăng năng suất lao động, còn nhắm tăng
năng suất cây trồng nhờ làm kịp thời vụ, giảm chi phí đầu vào như phân bón, thuốc
sâu bệnh, nước tưới... góp phần nâng cao lợi tức của người nông dân. San phẳng
ruộng lúa điều khiển bằng tia laser (gọi tắt là san phẳng laser, laser leveling) là một
kỹ thuật tạo điều kiện cho các mục đích này.
San phẳng laser được dùng nhiều trong nông nghiệp Mỹ, Nhật, Úc, và bước đầu
được áp dụng ở các nước đang phát triển. Theo TS. Phan Hiếu Hiền, giảng viên
trường Đại học Nông lâm TP. HCM, kết quả thực nghiệm của Viện Nghiên cứu
Lúa Quốc tế (IRRI) tại Philippines, Ấn độ và Campuchia cho thấy các lợi điểm của
mặt ruộng bằng phẳng:
a/ Tăng năng suất lúa khoảng 0,5 tấn/ha;
b/ Dễ kiểm soát cỏ dại, do khống chế mức nước, giảm 70% công lao động làm
cỏ;
c/ Tăng diện tích đất hữu hiệu thêm khoảng 5- 7% vì không cần bờ ruộng;
d/ Vận hành máy hiệu quả hơn, do giảm được 10- 15% thời gian quay vòng;
e/ Thuận tiện cho sử dụng máy sạ hàng;
f/ Tiết kiệm nước, ví dụ một cánh đồng chênh nhau 160 mm sẽ đòi hỏi
100mm nước nhiều hơn, tức là hơn gấp đôi nhu cầu nước cho cây lúa.
Qui tất cả thành tiền, hiệu quả kinh tế khá rõ rệt. So với máy san phẳng thông
thường, san phẳng laser đòi hỏi đầu tư thiết bị laser khá cao, cần người vận hành
thành thạo, bù lại có thể kiểm soát độ chênh lệch mặt ruộng ở mức ≈ 20 mm.
2.3 Làm đất: Cày, bừa, trục, phay
4/10
Làm đất là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong canh tác cây trồng,
nhằm mục đích duy trì và nâng cao độ phì của đất, tạo điều kiện cho sự sinh trưởng
và phát triển của hạt giống và cây trồng. Theo kết quả nghiên cứu được công bố
bởi bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), nếu lấy giá trị toàn bộ phần tăng lên về năng suất
cây trồng do tác động của tất cả các khâu canh tác là 100% thì trong đó do khâu
làm đất chiếm 25%. Do vậy, khâu làm đất đạt tiêu chuẩn là hết sức quan trọng.
Trong canh tác lúa, khâu làm đất rất quan trọng, trong nhiều năm qua ở vùng
ĐBSCL, bà con nông dân thường làm đất tối thiểu, vụ Hè Thu (HT) chỉ dùng máy
phay đất sau đó cho nước vào, trục đất và gieo sạ. Vụ Đông Xuân (ĐX), sau khi
nước lũ rút đi người ta dùng máy kéo mang bánh lồng trục trước khi gieo sạ, thậm
chí có nơi người nông dân còn sạ chai (không cần làm đất). Cách làm đất này nếu
kéo dài nhiều năm sẽ làm mất đi tầng đế cày, tầng canh tác không rõ ràng, mặt
ruộng rất dễ bị lầy lún khi dùng máy cơ giới có tải trọng lớn như máy gặt đập liên
hợp.
Do vậy, hàng năm bà con nông dân nên có một lần cày ải phơi đất ít nhất 3 tuần
để ngoài việc tiêu diệt cỏ dại, vệ sinh đồng ruộng tránh sâu rầy và bệnh lưu trú
truyền từ vụ trước sang vụ sau, tạo tầng canh tác đảm bảo cây lúa phát triển bộ rễ
tốt tránh đổ ngả, thuận lợi lúc thu hoạch, tạo tầng đế cày có nền đất vững chắc để
dễ sử dụng cơ giới trong canh tác lúa.
2.4 Cơ giới trong gieo cấy lúa
2.4.1 Công cụ và máy gieo lúa theo hàng:
Ở nước ta, đặc biệt là Đồng Bằng sông Cửu long, do nông dân ở đây có diện tích
gieo trồng lúa lớn, công làm đất cho kỹ đủ tiêu chuẩn để cấy rất tốn kém. Do đó
nông dân ở đây có tập quán sạ lan, sạ lan có ưu điểm là không cần phải làm đất kỹ,
năng suất sạ tay rất cao, một người sạ lúa giỏi có thể sạ được vài hecta trong một
ngày. Nhưng nó có nhược điểm là tốn rất nhiều hạt giống (từ 200 đến 250 kg /ha).
Mặt khác, mật độ sạ quá dày như vậy dễ gây ra nhiều sâu bệnh cho cây lúa, khó
thực hiện việc cơ giới hoá trong khâu làm cỏ, bón phân. đặc biệt là không thể sản
xuất lúa giống tốt được vì chúng lẫn nhiều lúa nền, lúa cỏ.v.v.. rất khó khử lẫn.
Diện tích lúa sạ lan ở miền Nam hiện nay còn rất lớn, khoảng gần 80% diện tích.
Để khắc phục các nhược điểm trên của tập quán sạ lan, Viện lúa ĐBSCL qua nhiều
năm nghiên cứu, sau khi nghiên cứu thành công đã có khuyến cáo bà con nông dân
dùng công cụ, thiết bị gieo, đặc biệt là các đơn vị sản xuất lúa giống nên dùng máy
gieo sạ lúa theo hàng thay tập quán sạ lan. Giải pháp nông học này rất có hiệu quả:
giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất, tăng chất lượng hạt giống và cả chất lượng
hạt gạo.
Thí nghiệm của Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long so sánh giữa lúa gieo hàng và
lúa sạ lan đã khẳng định tính ưu việt hơn hẳn của lúa gieo hàng, mật độ hạt gieo
phân bổ đều, không khí thông thoáng, tiếp thu ánh sáng tốt làm cho cây lúa phát
triển tốt nên: giảm sâu bệnh, tiết kiệm giống (40 - 50%), thuận tiện trong cơ giới
5/10
hóa bón phân, diệt cỏ dễ hơn, giảm chi phí trong sản xuất, năng suất lúa tăng (15 -
20%).
So với tập quán sạ lan (gieo vãi) thì gieo thành hàng bằng công cụ này đã đem lại
lợi ích rất lớn (năng suất lúa tăng, tiết kiệm giống, làm cỏ dễ), là nhân tố chủ lực
của chương trình 3 giảm 3 tăng trong thâm canh tổng hợp lúa ở ĐBSCL. Do đó,
công cụ gieo lúa kiểu trống này được nông dân hoan nghênh, đang phát triển mạnh
ở Đồng bằng sông Cửu Long và đã được công ty TNHH Hoàng Thắng sản xuất
hàng loạt bằng vật liệu nhựa với hai loại GL -01/L6 và GL -01/L8, do dùng vật liệu
nhựa nên công cụ vừa nhẹ hơn vừa rẻ tiền. Công cụ sạ hàng này được sử dụng rộng
rãi ở ĐBSCL và nay đã triển khai ra đồng bằng sông Hồng rất có hiệu quả.
Để tăng công suất gieo sạ hàng, các nhà khoa học của Viện lúa ĐBSCL đã nghiên
cứu chế tạo máy sạ hàng liên hợp với máy kéo 4 bánh dùng cho những thửa ruộng
lớn với công suất gieo từ 3-5ha/ngày.
2.4.2 Máy cấy lúa
Hiện nay, việc dùng máy cấy để cấy mạ được ứng dụng rộng rãi ở các nước trồng
lúa nước có trình độ cơ giới hoá cao như: Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan, và gần
đây là Trung quốc, v.v… Việc dùng máy cấy đòi hỏi phải có đòi hỏi nhất định: kỹ
thuật làm mạ, mặt đồng ruộng có độ bằng phẳng tương đối tốt, kỹ thuật vận hành
của công nhân, v.v… nhưng có nhiều cái lợi: tiết kiệm hạt giống (chỉ 30 –
40kg/ha); tránh được ốc bưu vàng (chỉ ăn mầm và thân mạ non) làm giảm được
lượng thuốc sát trùng đáng kể (lợi về kinh tế và môi trường); giảm thời gian lúa
đứng trên đồng (15-20 ngày) phù hợp cho vùng lũ rút chậm, giảm việc sạ ngầm
phải dùng quá nhiều hoá chất độc làm ô nhiễm môi trường hoặc tránh được ngập
mặn cuối vụ ở vùng nhiễm mặn ven biển; lúa được cấy (sâu 3-5cm) ít đổ ngả, dễ
cơ giới trong khâu chăm sóc và thu hoạch bằng cơ giới.
Tuy hiện nay máy cấy chưa được ứng dụng tại vùng ĐBSCL, nhưng cũng cần
nghiên cứu áp dụng thử trong thời gian tới vì những lợi ích thiết thực của nó.
2.5 Cơ giới hóa tưới tiêu – chăm sóc
2.5.1 Tưới tiêu
Ở vùng đồng bằng sông Cửu long, việc tưới tiêu trong sản xuất lúa có nhiều thuận
lợi, đa số nông dân tận dụng vào thủy triều và nước trời, như vụ Hè Thu thường
vào mùa mưa nên nông dân thường giảm chi phí bơm tưới, chỉ có vụ 3 cần chủ
động bơm nước, vụ Đông Xuân ở khu vực đầu nguồn nông dân muốn gieo sạ sớm
phải bơm rút nước ra. Do mực thủy cấp thấp nên máy bơm thường là loại bơm
hướng trục, bơm lùa có áp lực thấp nhưng lưu lượng lớn, rất ít khi dùng bơm áp
lực cao vừa tốn kém lại ít hiệu quả.
Trong những thập niên qua, nhà nước đã đầu tư rất mạnh về công tác thủy lợi, các
kênh chính đã được qui hoạch và một phần đê bao chống lũ đều đã được thi công
khá hoàn thiện, nông dân chỉ lo các kênh nhánh, kênh nội đồng.
6/10
Từ đó, các nông hộ dùng máy bơm gia đình, đa số là loại bơm hướng trục, động cơ
vận hành dùng máy nổ là chính, chỉ các nông trường, trạm, trại hoặc tổ hợp tác sản
xuất mới dùng bơm điện thuận lợi và có hiệu quả kinh tế hơn. Đa số nông hộ dùng
máy nổ làm động cơ bơm nước, vì máy nổ rất cơ động, lại có thể liên hoàn làm
nhiều việc khác ngòai bơm nước như: vận chuyển (tàu thuyền, kéo rơmóoc…), gắn
lên máy đập lúa, chạy quạt cho máy sấy, kéo đinamô phát điện, vận hành máy xay
xát nhỏ, v.v…
2.5.2 Máy phun thuốc - Máy bón phân
Khoảng giữa khâu gieo cấy và thu hoạch, khâu chăm sóc lúa cũng rất quan trọng,
nhưng ở Cần thơ do đa số là nông hộ nhỏ và vừa nên đến nay đại đa số dùng thủ
công như: bón phân, làm cỏ, phun xịt thuốc bảo vệ thực vật hoặc diệt cỏ bằng
thuốc hóa học thông thường bằng dụng cụ bơm xịt tay, chỉ có những nông trường
lớn mới có máy phun xịt bằng động cơ.
Đến nay, có nhiều loại máy bón phân được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp,
đặc biệt là trong sản xuất lúa. Có loại dùng bón lót khi chưa gieo cấy lúc đang làm
đất người ta dùng máy tung hoặc rải phân lân, phân hữu cơ trên mặt đồng khô rất
thuận lợi. Nhưng khi bón phân đạm hoặc phân hỗn hợp NPK, DAP... cần bón đúng
thời điểm theo chu kỳ sinh trưởng của cây lúa, bón trên đồng ruộng ngập nước nên
phân bón thường bị bay hơi, cây lúa hấp thu không kịp bị xả trôi, v.v... theo tính
toán của các nhà khoa học cho thấy mức độ hao hụt lên đến 30 – 40%. Do vậy,
người ta dùng phân có bao hợp chất chậm tan hoặc nén phân này thành viên để có
thể dùng máy dúi vào đất để cây lúa hấp thu dần, tránh hao hụt, tiết kiệm được
lượng phân bón đáng kể. Công cụ này trước đây Viện nghiên cứu Lúa Quốc tế
(IRRI) cũng đã nghiên cứu đưa vào sử dụng nhưng còn nhiều bất cập nên chưa
được ứng dụng rộng rãi.
2.6 Cơ giới hóa trong thu hoạch lúa
2.6.1 Gặt xếp dải (rải hàng):
Là loại máy thu hoạch có kết cấu tương đối gọn nhẹ do một người điều khiển. Máy
có thể dùng bánh hơi trong trường hợp vận chuyển trên đường giao thông hoặc gặt
trên nền đất khô (vụ Đông xuân) sẽ vận hành được dễ dàng hơn, trường hợp gặt
lúa trên nền ruộng ướt, có sình lầy người ta thay bánh hơi bởi bánh lồng, tuy lái
nặng hơn nhưng tránh được lầy lún. Máy gặt xếp dải chỉ thực hiện thao tác gặt và
xếp thành dải (hàng), sau đó cần được thu gom, bốc vác, vận chuyển đến cho máy
đập. Máy gặt xếp dải có ưu điểm: gọn, nhẹ, dễ chế tạo, dễ vận hành. Tỷ lệ làm rơi
rụng lúa thấp, nông dân chấp nhận được. Vận hành dễ dàng trên các lô ruộng có
diện tích nhỏ, giá máy thấp (khoảng 18- 20 triệu đồng) phù hợp với túi tiền nông
dân. Năng suất thu hoạch mỗi ngày từ 1 – 1,5ha. Tuy vậy, máy cũng có một số
nhược điểm như: bị hạn chế khi gặt sáng sớm rạ còn ẩm sương khó cắt rạ; gặp
ruộng lúa đổ ngả quá máy khó gặt được.
Hạn chế lớn nhất của máy gặt này là vấn đề điều chỉnh chiều cao cắt, nếu máy chỉ
chiều cao cắt từ 20 – 25cm, gặp phải loại lúa thân cao sẽ cho mớ rơm quá dài, làm
7/10
khó khăn cho máy đập, đôi khi do dài quá máy đập bị rơm cuốn trống đập không
đập được. Một nhược điểm khác là sau khi dùng máy này gặt, phải tốn công thu
gom lúa mớ vận chuyển đến nơi máy đập khá vất vả trong khi hiện nay ở nông
thôn đang thiếu công lao động. Để khắc phục nhược điểm này, hiện nay cơ sở Cơ
khí ở Đồng tháp đã sản xuất ra máy gom đập lúa, có năng suất làm việc khoảng
3ha/ngày. Máy này phối hợp với 2 máy gặt xếp dải là tương đương với một máy
GĐLH loại trung bình. Hiện nay, ở ĐBSCL có khoảng 3.400 máy gặt xếp dải.
Do diện tích lô thửa ruộng lúa của nông hộ còn nhỏ hẹp, đường giao thông nông
thôn còn nhiều hạn chế thì máy gặt xếp dải vẫn phát huy tác dụng tốt nếu giải
quyết được một số nhược điểm như vừa được trình bày trên.
Lúa sau khi gặt (gặt thủ công xếp thành mớ hoặc gặt máy xếp dải xếp thành hàng),
được vận chuyển gom lại nơi đặt máy đập để ra hạt. Lúa mớ được cho vào máy
đập, trong quá trình vận hành trống đập sẽ tách rời hạt lúa với rơm. Rơm được
phóng ra ngoài theo cửa ra, hỗn hợp lúa, tạp chất sẽ qua sàng phân loại làm sạch.
Hạt lúa ở cửa ra bên dưới có tỷ lệ sạch khá cao (96 – 98%) được cho vào bao bán
ngay hoặc đem đi phơi sấy.
2.6.2 Máy gặt đập liên hợp (GĐLH):
Là loại máy đa năng vừa gặt, vận hành lúa mớ vừa gặt lên cho vào bộ phận đập,
làm sạch và cho ra hạt vào bao. Do vậy cấu tạo của máy rất phức tạp: vừa di
chuyển trên địa hình không được thuận lợi (như mặt ruộng thường khi sình lầy,
mặt đồng ít khi được bằng phẳng, qua nhiều bờ lô, kênh rạch, v.v...), thao tác gặt
lúa, vận chuyển lúa mớ lên cho vào bộ phận đập, phóng rơm ra, có sàng làm sạch
sơ bộ hạt thóc, cho vào bao hoặc thùng chứa trên máy. Do trong cùng một lúc máy
phải làm nhiều công đoạn phức tạp như vậy trên địa hình khó khăn (như mặt ruộng
sình lầy, ẩm ướt...) nên chất lượng vật liệu và công nghệ chế tạo máy GĐLH có
yêu cầu đạt tiêu chuẩn cao mới đảm bảo máy hoạt động tốt.
Máy GĐLH có những ưu điểm là: thu hoạch 1 giai đoạn, rút ngắn 3 công đoạn: cắt,
thu gom, đập, do vậy tăng năng suất, giảm được công lao động đang thiếu hụt
trong mùa vụ, thu hoạch nhanh, đảm bảo thời vụ. Nhờ rút ngắn 3 công đoạn trên
vào thu hoạch 1 lần ( 3 trong 1) nên có thể giảm được hao hụt lúa lúc thu hoạch.
Tuy vậy, máy này cũng có một số nhược điểm: khó vận hành trên các lô thửa nhỏ,
mặt đồng ẩm ướt lầy thụt, đường giao thông kênh rạch, bờ phân lô nhiều nhiều hạn
chế việc di chuyển của máy, khi gặt ở cánh đồng có thân lúa cao (lúa nếp ở AG)
cũng gặp trỡ ngại khâu đập như trường hợp máy gặt xếp dải. Giá máy GĐLH đạt
tiêu chuẩn còn khá cao (hiện nay máy chế tạo trong nước khoảng 200 triệu đồng,
máy Trung Quốc từ 220 – 250 triệu đồng, máy Nhật trên 500 triệu đồng).
Do nhu cầu nhu cầu cấp thiết trong thu hoạch lúa ở ĐBSCL, nhiều doanh nghiệp
và cơ sở cơ khí địa phương cũng đã thiết kế, chế tạo ra nhiều kiểu, mẫu máy
GĐLH. Từ năm 2006 đến nay, hàng năm Bộ nông nghiệp và PTNT có tổ chức
bình tuyển đánh giá những máy gặt hiện có được tổ chức tại nông trường Sông
Hậu (2006), Kiên giang (2007), Đồng tháp (2008), An giang (2009), Sóc Trăng
8/10
(2010) và Bình Định (2011). Qua những kỳ hội thi này đã mang lại thành công lớn
trong trong quá trình triển khai cơ giới hoá trong thu hoạch lúa.
Trong mỗi kỳ hội thi, các cơ sở cơ khí trong và ngoài nước có điều kiện học tập lẫn
nhau để hoàn thiện và nâng cao chất lượng máy GĐLH của mình. Nhờ vậy, đến
nay máy GĐLH mà trước đây tưởng chừng như không thể hoạt động ở vùng ruộng
sình lầy sông nước ĐBSCL, nay đã làm việc rất tốt: gặt được lúa đổ ngả, vận hành
được trên đất ướt, trời mưa của vụ lúa Hè Thu, giảm thất thu trong thu hoạch từ 4-
6% nay còn < 2%, giải quyết được công thu hoạch là công nặng nhọc nhất trong
sản xuất lúa, máy hoạt động tốt chỉ trong 2 năm là có thể hoàn vốn.
Qua hội thi, bà con nông dân dễ dàng chọn lựa những máy thích hợp với nhu cầu
của mình, có địa chỉ để tự chọn lựa để mua, v.v... Vì vậy, ĐBSCL đã có bước đột
phá trong việc ứng dụng CGH trong thu hoạch lúa. Từ vài chục máy GĐLH năm
2006 đến nay ĐBSCL đã có trên 7.000 máy GĐLH, giải quyết CGH khâu thu
hoạch lúa được trên 40% diện tích lúa trong vùng.
Tình hình thu hoạch bằng máy ở vùng ĐBSCL
● Máy gặt xếp dải: 3.400 – Khả năng TB: 60ha/năm; đáp ứng : 200.000ha/năm
● Máy GĐLH: 7.000 – Khả năng TB: 200ha/năm; đáp ứng 1.400.000ha/năm
● Diện tích thu hoạch bằng máy trong năm = 1.600.000ha
● Diện tích gieo trồng lúa ĐBSCL cả năm # 4,0 triệu ha
● Tỷ lệ thu hoạch bằng máy # 40%
● Nhu cầu máy GĐLH còn rất lớn
2.7 Các phương pháp sấy và máy sấy lúa đang được sử dụng có hiệu quả
Máy sấy tĩnh vỉ ngang, (lò sấy), đây là phương pháp sấy khá phổ biến ở vùng
ĐBSCL, sấy ở nhiệt độ cao nên tốc độ sấy nhanh và sấy được khối lượng lớn.
Trong thời kỳ đầu của quá trình sấy, vùng sấy được thành lập ở lớp tiếp xúc nhiệt
đầu tiên và bắt đầu di chuyển dần xuyên vào lớp hạt. Nhiệt độ và ẩm độ tương đối
của tác nhân sấy làm cho hạt ở lớp dưới có ẩm độ tiến tới cân bằng với không khí
sấy. Khi vùng sấy xuyên khối hạt dần lên trên đến khi ẩm độ trung bình của hạt
trong mẻ sấy đạt yêu cầu, lúc đó là hoàn thành mẻ sấy.
Loại sấy tĩnh nhiệt độ cao làm cho lớp tiếp xúc đầu tiên với khí nóng (tác nhân
sấy) khô trước và chịu nhiệt lâu nên dễ hư hỏng, do đó, tùy đối tượng hạt là hạt
giống, hạt lương thực hay dùng làm thức ăn gia súc mà người ta chọn nhiệt độ sấy
cho phù hợp. Chiều dày lớp hạt thông thường từ 20-40 cm, đôi khi có thể lên 60-
100 cm nhưng phải tính toán trở lực để chọn quạt sao cho lưu lượng gió L(m3/s),
áp lực quạt (tĩnh áp mmH2O) và nhiệt lượng (Q) cung cấp tác nhân sấy cho phù
hợp.
Ngoài ra, ở các doanh nghiệp lương thực, các nông trường, v.v.. người ta dùng máy
sấy với công suất lớn vài trăm tấn/ngày, như máy sấy tháp, sấy tầng sôi, hoặc dùng
hệ thống sấy tĩnh vỉ ngang 4-6 máy liền kề công suất lên đến 200 – 300T/mẻ, v.v...
9/10
với hệ thống vận chuyển lúa bằng băng chuyền (lúa vô bao) hoặc hút, xả lúa rời
bằng khí động.
Sấy lúa là khâu yếu nhất trong sản xuất lúa hiện nay, và cũng là khâu làm tổn thất
lớn cả về số lượng và chất lượng. Trong sản xuất lúa hàng hóa không chỉ quan tâm
đến sấy trong mùa mưa (HT) mà cần chủ động sấy lúa thu hoạch trong mùa khô
(ĐX). Các năm qua, tuy có nhiều cố gắng, về công nghệ sấy, chủng loại máy sấy
có cải tiến nhưng tỷ lệ sấy lúa hè Thu bình quân chỉ ở mức khoảng 35%, còn trên
65% nông dân phải tự phơi thủ công rất vất vả. Đây là điểm mà các nhà quản lý
cần quan tâm để tránh mất mùa sau thu hoạch.
Bảng 1: Tình hình sấy lúa Hè Thu ở vùng ĐBSCL (2011)
TT Tên tỉnh, thành phố Số lượng máy Tỷ lệ sấy lúa (%)
1 An Giang 2.327 70
2 Kiên Giang 2.293 65
3 Long An 1.356 45
4 Cần Thơ 796 40
5 Đồng Tháp 742 35
6 Sóc Trăng 602 39
7 Hậu Giang 425 30
8 Tiền Giang 395 35
9 Trà Vinh 230 35
10 Bạc Liêu 200 05
11 Vĩnh Long 174 21
12 Cà Mau 50 03
10/10
13 Bến Tre 18 *
Tổng cộng 9.608 32 -34
III. Kết luận
1. Cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp có nhiều nội dung cần phát triển đồng
bộ: CGH sản xuất lúa, CGH rau màu, cây trồng cạn (mía, bắp, khoai lang...); CGH
vườn cây ăn quả; CGH nuôi trồng thuỷ sản; CGH chăn nuôi gia súc gia cầm, v.v....
2. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất lúa hàng hóa trong giai đoạn hội nhập, việc ứng
dụng cơ giới hóa đồng bộ vào sản xuất để tăng năng suất, đáp ứng tính thời vụ,
đảm bảo chất lượng sản phẩm, giảm tối đa tổn thất sau thu hoạch... là nhu cầu bức
thiết. Do đó, Nhà nước cần tiếp tục bổ sung hoàn thiện một số chính sách thúc đẩy
ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất lúa; đẩy mạnh quy hoạch xây dựng mô hình
“cánh đồng mẫu lớn”, nhằm phát huy tối đa vai trò liên kết “4 nhà”, đặc biệt là vai
trò chủ động của các doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu gạo trong việc đầu tư hệ
thống sấy lúa, kho chứa... để thu mua, tồn trữ lúa, nhất là giai đoạn thu hoạch rộ.
Đây chính là giải pháp thiết thực góp phần ổn định sản xuất, khắc phục tình trạng
“được mùa, mất giá” trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói
riêng.
3. Nhà nước cần có chính sách Chính sách thích hợp: hỗ trợ về vốn (trước đây có
một số NĐ, QĐ hỗ trợ vốn cho nông dân vay mua máy nhưng còn hiều bất cập nên
vốn khó đến tay nông dân); cần có chính sách hỗ trợ các đơn vị sản xuất cơ khí địa
phương như sản xuất máy GĐLH nội địa rất tốt nhưng công nghệ chế tạo kém, vì
vậy phải nhập đến 80%. Cần quan tâm công tác nghiên cứu và đào tạo, huấn luyện
CBKT cũng như công nhân ngành cơ khí nông nghiệp, dạy sử dụng và lái máy
nông nghiệp như máy GĐLH. Cần có chủ trương chỉ đạo ngành Công nghiệp hỗ
trợ cho cơ khí nông nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế tạo máy nông nghiệp. Xây
dựng các cơ sở chế biến hoặc sơ chế, dịch vụ cơ khí nông thôn (xưởng sửa chữa,
cửa hàng thiết bị, phụ tùng…). Có như vậy việc ứng dụng cơ giới hóa trong sản
xuất nông nghiệp nước nhà mới có cơ hội phát triển./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2levanbanh_4326.pdf