Hãy nhận xét quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can của cơ quan điều tra huyện H.
Theo dữ kiện đề bài, M, N và Q “vào kho quân nhu của quân đội trộm cắp quần áo bộ đội trị giá 15 triệu đồng”, tức hành vi phạm tội của M, N và Q đã gây thiệt hại cho quân đội. Khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự đã quy định thẩm quyền xét xử đối với những trường hợp phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội thuộc về Tòa án quân sự, do đó vụ án này thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, cụ thể là thuộc về Tòa án quân sự khu vực. Khoản 1 Điều 15 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội nhân dân như sau: Cơ quan điều tra hình sự khu vực điều tra các vụ án hình sự về
9 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4721 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình huống tố tụng hình sự và bài giải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Hãy nhận xét quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can của cơ quan điều tra huyện H.
Theo dữ kiện đề bài, M, N và Q “vào kho quân nhu của quân đội trộm cắp quần áo bộ đội trị giá 15 triệu đồng”, tức hành vi phạm tội của M, N và Q đã gây thiệt hại cho quân đội. Khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự đã quy định thẩm quyền xét xử đối với những trường hợp phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội thuộc về Tòa án quân sự, do đó vụ án này thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, cụ thể là thuộc về Tòa án quân sự khu vực. Khoản 1 Điều 15 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội nhân dân như sau: Cơ quan điều tra hình sự khu vực điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXIII của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự khu vực, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương. Do đó thẩm quyền điều tra vụ án này thuộc về Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội nhân dân cấp khu vực, hay cơ quan điều tra Công an huyện H đã điều tra không đúng thẩm quyền.
Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 (viết tắt là BLTTHS) quy định thẩm quyền điều tra thuộc về Cơ quan điều tra có thẩm quyền nơi xảy ra hành vi phạm tội. Vì vậy, nếu kho quân nhu của quân đội không nằm trên địa bàn nơi M, N, Q cư trú thì cơ quan điều tra Công an huyện H đã vi phạm cả thẩm quyền điều tra theo lãnh thổ.
Nói tóm lại, cơ quan điều tra Công an huyện H đã điều tra không đúng thẩm quyền. Do đó, quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can của cơ quan điều tra huyện H là không đúng thẩm quyền.
2. Khi kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát thấy rằng việc điều tra của cơ quan điều tra không đúng thẩm quyền, Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan điều tra công an huyện H ra quyết định chuyển vụ án cho cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân. Quyết định đó của Viện kiểm sát đúng hay sai? Tại sao?
Yêu cầu của Viện kiểm sát là sai, vì:
Theo như phân tích ở trên thì việc điều tra của cơ quan điều tra công an huyện H là không đúng thẩm quyền, nhưng thẩm quyền chuyển vụ án trong trường hợp này không thuộc về cơ quan điều tra huyện H. Điều 116 BLTTHS đã quy định: Trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền điểu tra của mình, Cơ quan điều tra phải đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án cho cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiếp tục điều tra; trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp có trách nhiệm ra quyết định chuyển vụ án. Việc chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu quyết định. Do đó, trong trường hợp này, khi phát hiện ra việc điều tra của cơ quan điều tra huyện H là không đúng thẩm quyền thì Viện kiểm sát phải ra quyết định chuyển vụ án cho cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân chứ không phải yêu cầu cơ quan điều tra huyện H chuyển vụ án.
Quy định này xuất phát từ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Do đó, hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra cũng phải nằm dưới sự kiểm sát chặt chẽ của Viện kiểm sát và Viện kiểm sát có quyền và có trách nhiệm xử lý những sai phạm, những lệnh, quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra.
3. Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, cơ quan điều tra có thẩm quyền phát hiện dấu hiệu của tội cướp tài sản do M và N đã thực hiện trước đó. Cơ quan điều tra giải quyết như thế nào? Tại sao?
Trong trường hợp này cơ quan điều tra có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội cướp tài sản theo căn cứ khởi tố vụ án hình sự tại điều 100 BLTTHS vì đã xác định có dấu hiệu tội phạm.
Lúc này sẽ có hai trường hợp có thể xảy ra :
– Trường hợp thứ nhất, sau khi điều tra đã đủ căn cứ xác định M và N có hành vi phạm tội cướp tài sản thì cơ quan điều tra sẽ ra quyết định khởi tố bị can đối với M và N về tội cướp tài sản (theo tiểu mục 11.3 mục 11 Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP, gọi tắt là Thông tư 05)
Ngoài ra, có thể thấy đây là trường hợp bị can phạm nhiều tội nên cơ quan điều tra có thẩm quyền còn phải xem xét việc nhập hai vụ án để tiến hành điều tra theo quy định tại khoản 1 Điều 117 BLTTHS: Cơ quan điều tra có thể nhập để tiến hành điều tra trong cùng một vụ án những trường hợp bị can phạm nhiều tội, nhiều bị can cùng tham gia một tội phạm …
Sở dĩ Bộ luật có quy định trên là do trong những trường hợp bị can phạm nhiều tội, rất có thể các tội phạm trên có liên quan đến nhau cần phải được cùng xem xét trong một vụ án để tiết kiệm thời gian, công sức đồng thời làm sáng tỏ hành vi phạm tội.
– Trong trường hợp không có đủ căn cứ xác định M và N có hành vi cướp tài sản thì cơ quan điều tra sẽ ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án cướp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 164 BLTTHS.
4. Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát thấy rằng việc điều tra của cơ quan điều tra chưa đầy đủ. Viện kiểm sát giải quyết như thế nào? Tại sao?
Theo tình tiết trong đề bài, trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát thấy rằng việc điều tra của Cơ quan điều tra chưa đầy đủ, theo đó sẽ có thể xảy ra các trường hợp sau :
– Nếu việc điều tra của Cơ quan điều tra là không đầy đủ nhưng việc thiếu sót đó không lớn, không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án thì Viện kiểm sát sẽ tiến hành các thủ tục tiếp theo.
– Nếu Cơ quan điều tra không đầy đủ, thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án nhưng Viện kiểm sát có thể tự mình bổ sung được thì Viện kiểm sát sẽ tiến hành bổ sung các chứng cứ đó và tiến hành các thủ tục tiếp theo; nhưng nếu Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung các chứng cứ đó thì Viện kiểm sát sẽ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo khoản 1 Điều 168 BLTTHS.
Theo như quy định tại khoản 2 Điều 121 BLTTHS thì Viện kiểm sát chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung không quá hai lần do đó, để tránh tình trạng đã sử dụng hết số lần được phép trả hồ sơ mà vẫn chưa giải quyết xong những vấn đề cần bổ sung thì Kiểm sát viên phải nghiên cứu ký hồ sơ tài liệu trong hồ sơ nhằm phát hiện tất cả các vấn đề cần bổ sung để chỉ trả hồ sơ một lần là giải quyết đầy đủ các vấn đề cần bổ sung hoặc làm rõ thêm.
Quy định này của pháp luật nhằm đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử thật sự khách quan, toàn diện và đầy đủ. Viện kiểm sát có quyền ra quyết định trả lại hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nhằm kịp thời khắc phục những thiếu sót và vi phạm của Cơ quan điều tra, bảo đảm giải quyết vụ án trong thời hạn mà pháp luật đã quy định.
5. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, M bỏ trốn, Tòa án sẽ giải quyết như thế nào? Tại sao?
Do M bỏ trốn khỏi nơi cư trú, không biết bị can này đang ở đâu nên Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa cần yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã với M theo Điều 161 BLTTHS. Nếu hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà vẫn không xác định được M ở đâu thì Thẩm phán đó ra quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với M theo Điều 180 và khoản 1 Điều 160 BLTTHS ( Điều 180 : Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy định tại Điều 160 của Bộ luật này.... Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả các bị can, bị cáo thì có thể tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo... ; khoản 1 Điều 160: ...Trong trường hợp chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu thì chỉ tạm đình chỉ điều tra khi đã hết thời hạn điều tra...).
6. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo N yêu cầu thay đổi thẩm phán chủ tọa phiên tòa vì cho rằng thẩm phán có mối quan hệ thân thiết với P là nguyên đơn dân sự trong vụ án. Hội đồng xét xử phải giải quyết như thế nào? Tại sao?
Điều kiện để thay đổi thẩm phán đó gồm có:
– Chủ thể yêu cầu thay đổi phải có quyền yêu cầu thay đổi. N là bị cáo trong vụ án này, thuộc vào trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 43 BLTTHS (gồm có bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ) tức N là người có quyền yêu cầu thay đổi.
– Thời điểm yêu cầu thay đổi phải đúng quy định của pháp luật. Yêu cầu thay đổi thẩm phán phải được đưa ra trước khi mở phiên tòa hoặc trong phiên tòa nhưng phải trước khi bắt đầu xét hỏi. Trong thủ tục bắt đầu phiên tòa, Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng đã được chủ tọa phiên tòa hỏi xem họ có yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, thư ký tòa án, người giám định, người phiên dịch hay không. Do đó khi đã chuyển sang thủ tục xét hỏi thì họ không có quyền yêu cầu thay đổi nữa. Trong tình huống này không đưa ra thông tin về thời điểm N yêu cầu thay đổi thẩm phán nên nếu N đưa ra yêu cầu trước khi bắt đầu xét hỏi thì yêu cầu đó sẽ được xem xét để đưa ra quyết định còn nếu được đưa sau khi đã sang thủ tục xét hỏi thì sẽ không được chấp nhận.
– Trường hợp này rơi vào một trong các trường hợp phải bị thay đổi. Căn cứ vào khoản 1 Điều 42 cũng như mục 2 phần I Nghị quyết số 03/2004/HĐTP ngày 02/10/2004, thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ rơi vào trường hợp phải thay đổi nếu có thể chứng minh rằng thẩm phán đó có quan hệ thân thích với P - nguyên đơn dân sự trong vụ án (như là thẩm phán đó rơi vào một trong các quan hệ sau với P : Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; Là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; Là cụ nội, cụ ngoại; là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột,...) hoặc có căn cứ rõ ràng để khẳng định rằng thẩm phán đó có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ (Ví dụ: thẩm phán đó và P là anh em kết nghĩa; Thẩm phán là con rể của P; P là Thủ trưởng cơ quan, nơi vợ của Thẩm phán làm việc... mà có căn cứ rõ ràng chứng minh là trong cuộc sống giữa họ có mối quan hệ tình cảm thân thiết với nhau, có mối quan hệ về kinh tế.....). Do đó, cần xem xét lý do N đưa ra có chính xác hay không và có thuộc trường hợp phải thay đổi hay không.
– Yêu cầu thay đổi thẩm phán được đưa ra tại phiên tòa nên việc có thay đổi thẩm phán đó hay không phụ thuộc vào quyết định của Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử sẽ biểu quyết tại phòng nghị án. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa được trình bày ý kiến của mình rồi Hội đồng xét xử sẽ quyết định theo đa số (theo khoản 2 Điều 46 BLTTHS).
Nếu phải thay đổi thẩm phán thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa, việc cử thành viên mới sẽ do Chánh án Tòa án quân sự khu vực đó quyết định. Nếu không thỏa mãn tất cả các điều kiện trên thì Hội đồng xét xử tuyên bố không chấp nhận yêu cầu của bị cáo, không thay đổi thẩm phán chủ tọa phiên tòa và tiếp tục xét xử. Tuy nhiên, nếu quyết định không thay đổi thẩm phán thì có một số điều cần chú ý :
+ Nếu trong Hội đồng xét xử có người đồng ý thay đổi thẩm phán thì người đó có quyền bảo lưu ý kiến của mình và đưa vào hồ sơ.
+ Nếu thấy giữa thẩm phán đó và P thật sự có mối quan hệ thân thiết cần thay đổi thì Hội đồng xét xử báo cáo cấp trên để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
7. Tòa sơ thẩm đã xử phạt M 2 năm tù, N và Q mỗi người 18 tháng tù, bị cáo M phải bồi thường cho P số tiền là 5 triệu đồng. P không đồng ý và đã gửi đơn kháng cáo tới tòa án đã xử sơ thẩm yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại và tăng mức hình phạt áp dụng với M. Tòa án cấp sơ thẩm phải giải quyết như thế nào? Tại sao?
Khoản 1 Điều 233 BLTTHS quy định rằng người kháng cáo phải gửi đơn đến Tòa án đã xử sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm. Theo tình huống đề bài đưa ra, P đã gửi đơn kháng cáo tới Tòa án đã xử sơ thẩm, tức P đã gửi đơn đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Sau khi nhận đơn kháng cáo của P, theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 mục 3 phần I Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP (gọi tắt là Nghị quyết 05), Toà án cấp sơ thẩm tiến hành các công việc cần thiết như kiểm tra người làm đơn kháng cáo có thuộc chủ thể có quyền kháng cáo và nội dung kháng cáo có thuộc giới hạn của việc kháng cáo được quy định tại hay không. Trong trường hợp này, P là nguyên đơn dân sự trong vụ án nên P có quyền kháng cáo đối với phần bản án liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại. Do đó trong trường hợp này kháng cáo của P đã có một phần vượt ra khỏi giới hạn kháng cáo theo quy định của pháp luật đó là phần kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt áp dụng đối với M.
Sau đó Tòa án sơ thẩm kiểm tra xem đơn kháng cáo có gửi đến trong thời hạn như quy định tại Điều 234 BLTTHS hay không. Nếu đơn kháng cáo được làm trong thời hạn luật định thì Tòa án sơ thẩm tiến hành các công việc tiếp theo còn nếu đơn kháng cáo của P không được làm trong thời hạn luật định thì Tòa án sơ thẩm làm hồ sơ kháng cáo quá hạn và gửi đơn kháng cáo cùng các giấy tờ, tài liệu kèm theo chứng minh lý do của việc kháng cáo quá hạn (nếu có) cho Tòa án phúc thẩm để xem xét theo thủ tục xét kháng cáo quá hạn (điểm e tiểu mục 3.1 Mục I Nghị quyết 05). Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành thì kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận nếu P có lý do chính đáng (khoản 1 Điều 235 BLTTHS). “Lý do chính đáng” là những trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác mà người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định, ví dụ: do thiên tai, lũ lụt; do ốm đau, tai nạn phải nằm viện điều trị... (tiểu mục 5.1 Mục I Nghị quyết 05). Lý do của P có chính đáng hay không sẽ do Hội đồng xét xử (gồm 3 thẩm phán, do Toà án cấp phúc thẩm thành lập riêng để xét lý do kháng cáo quá hạn) quyết định (khoản 2 Điều 235 BLTTHS). “Trong trường hợp cần thiết Hội đồng xét xử có quyền triệu tập người kháng cáo quá hạn đến phiên họp trình bày bổ sung về lý do kháng cáo quá hạn hoặc yêu cầu họ cung cấp giấy tờ, tài liệu bổ sung chứng minh cho việc kháng cáo quá hạn của mình là có lý do chính đáng” - tiểu mục 5.3 Mục I Nghị quyết 05. Từ đó Hội đồng xét xử sẽ quyết định chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo quá hạn của P.
Trong trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định chấp nhận kháng cáo quá hạn mà hồ sơ vụ án Toà án cấp phúc thẩm đã thụ lý, thì Toà án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm theo thủ tục chung đối với kháng cáo quá hạn đó. Nếu hồ sơ vụ án đang ở Toà án cấp sơ thẩm, thì sau khi nhận được quyết định chấp nhận kháng cáo quá hạn của Toà án cấp phúc thẩm, Toà án cấp sơ thẩm phải gửi ngay hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm.
8. Giả sử trong thời hạn luật định các bị cáo và P không kháng cáo, phiên tòa phúc thẩm do kháng nghị của viện kiểm sát yêu cầu giảm hình phạt cho M và N. Tại phiên tòa phúc thẩm P đề nghị tăng mức bồi thường, yêu cầu của P có được có được Hội đồng phúc thẩm chấp nhận không? Tại sao?
Trả lời: Đề nghị tăng mức bồi thường của P sẽ không được Hội đồng phúc thẩm chấp nhận.
Tại vì:
Thứ nhất, theo Điều 231 BLTTHS, “bị cáo, người bị hại, đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. P là người bị hại trong vụ án trên nên P có quyền kháng cáo. Trong thời hạn kháng cáo P đã không kháng cáo nên kháng cáo của P là kháng cáo quá hạn.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 1 Điều 238 BLTTHS năm 2003: “Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo”… Làm xấu hơn tình trạng của bị cáo là làm cho bị cáo có thể bị tòa án cấp phúc thẩm phạt nặng hơn hoặc tăng mức bồi thường thiệt hại so với quyết định của tòa án cấp sơ thẩm. Do đó người đã kháng cáo hoặc viện kiểm sát đã kháng nghị theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo so với quyết định của tòa án cấp sơ thẩm thì không được bổ sung hoặc thay đổi theo hướng tăng nặng cho bị cáo. Trong trường hợp đề bài đưa ra, P đã hết thời hạn kháng cáo, Viện kiểm sát thì tiến hành kháng nghị theo hướng yêu cầu giảm hình phạt cho M và N. Vì vậy, đề nghị của P tăng mức bồi thường – làm xấu hơn tình trạng bị cáo, làm thay đổi theo hướng tăng nặng cho bị cáo nên đề nghị của P không được Hội đồng phúc thẩm chấp nhận.
9. Khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, có căn cứ cho rằng việc giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, cần kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Hãy xác định thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm.
Trong vụ án này, thẩm quyền xét xử sơ thẩm thuộc về Tòa án quân sự cấp khu vực. Nhưng trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm đã có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, tương ứng với căn cứ quy định Điều 278 BLTTHS, tùy thuộc nội dung kháng nghị mà thời hạn này là khác nhau. Cụ thể:
+ Nếu kháng nghị theo hướng không có lợi cho M, N, Q là những người bị kết án thì thời hạn kháng nghị chỉ là 1 năm kể từ ngày bản án sơ thẩm đó có hiệu lực (theo khoản 1 Điều 278 BLTTHS).
+ Nếu kháng nghị theo hướng có lợi cho M, N, Q là những người bị kết án thì không có thời hạn xác định. Việc kháng nghị có thể được tiến hành bất cứ lúc nào, thậm chí là khi họ đã chết nếu cần minh oan cho họ (theo khoản 2 Điều 278 BLTTHS).
+ Nếu kháng nghị về vấn đề dân sự trong vụ án này thì theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự (theo khoản 3 Điều 278 BLTTHS). Theo Điều 288 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành việc kháng nghị trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
10. Trong thời gian đang chấp hành hình phạt tại trại giam, Q và N đã trốn khỏi trại giam. Giám thị trại giam ra quyết định khởi tố vụ án trốn khỏi nơi giam giữ (Điều 311 BLHS) và quyết định khởi tố bị can đối với Q và N. Các quyết định của Giám thị trại giam đúng hay sai? Tại sao?
Theo khoản 1 Điều 23 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009), trong khi làm nhiệm vụ của mình nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Giám thị trại giam có quyền ra quyết định khởi tố vụ án, lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan Cảnh sát điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Nhưng quyết định khởi tố vụ án trốn khỏi nơi giam phải dựa trên Điều 311 BLHS.
Theo tiểu mục 4.3 mục 4 Thông tư 05, trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù trốn khởi nơi giam thì Giám thị trại giam ra quyết định truy nã, tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để thụ lý vụ án theo quy định tại Điều 23 của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự.
Như vậy, Giám thị trại giam chỉ có quyền khởi tố vụ án, ra quyết định truy nã mà không có thẩm quyền khởi tố bị can nên quyết định khởi tố bị can của Giám thị trại giam là không đúng thẩm quyền.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tình huống tố tụng hình sự và bài giải.doc