Tình trạng và biện pháp cải tạo kênh Tân hỏa lò

Sông và kênh rạch của thành phố nối kết thành một mạng lưới phức hợp dài gần 100km. Các kênh chính là Bến Nghé, Tham Lương – Vàm Thuật, Nhiêu Lộc – Thị Nghè, Tàu Hũ – Đôi Tẻ và Tân Hóa – Lò Gốm. Các rãnh thu và chuyển nước thải và nước mưa tạo thành dòng chảy tự nhiên và kênh nhân tạo, các kênh này chảy vào các sông chính. Các dòng sông và kênh không chỉ có chức năng thoát nước mà còn là đường giao thông thủy và cảnh quan đô thị nói chung. Bờ sông và bờ kênh còn là nơi tập trung nhà lụp xụp và người nghèo đô thị cao nhất của thành phố. Cùng với mạng lưới kênh rạch của thành phố, kênh Tân Hóa – Lò Gốm bị ô nhiễm nặng nề bởi nước thải của người dân, nước thải công nghiệp và rác thải. Kênh bị ô nhiễm trầm trọng hơn do thiếu duy tu, thiếu hạ tầng môi trường phù hợp và thiếu nhận thức môi trường của người dân. MỤC LỤC Trang I/ Mở đầu . 1 II/ Nội dung 2 1/ Lịch sử kênh Tân Hóa- Lò . 2 2/ Tình trạng . 4 2.1/ Tình trạng ngập úng 4 2.1.1/ Nguyên nhân . 5 2.1.1/ Phương hướng giải quyết 7 2.2/ Ô nhiễm do rác thải sinh hoạt . 9 2.2.1/ Hiện trạng . 9 2.2.2/ Biện pháp và giải pháp . 10 2.3/ Ô nhiễm nước thải do sinh hoạt . 11 2.3.1/ Khái niệm 11 2.3.1/ Thành phần H2O thải sinh hoạt . 12 2.3.3/ Hiện trạng kênh Tân Hóa Lò Gốm . 13 2.4/ Ô nhiễm do H2O thải sản xuất 14 2.4.1/Thành phần H2O thải sản xuất . 14 2.4.2/ Hiện trạng ở kênh Tân Hóa- Lò Gốm . 15 2.4.3/ Biện pháp và giải pháp 17 2.5/ Khả năng tự làm sạch của nguồn H2O 17 3/ Các dự án cải tạo kênh Tân Hóa- Lò Gốm 19 3.1/Quản lí rác thải 19 3.1.1/ Quản lí rác thải rắn 21 3.1.2/ Trạm chuyển rác nhỏ . 23 3.2/ Xử lý nước thải . 25 3.3/ Mở rộng kè bờ . 27 3.4/ Tái định cư 28 3.5/ Nâng cấp đô thị . 29 III.Kết luận . 33

doc36 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4603 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình trạng và biện pháp cải tạo kênh Tân hỏa lò, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang I/ Mở đầu 1 II/ Nội dung 2 1/ Lịch sử kênh Tân Hóa- Lò 2 2/ Tình trạng 4 2.1/ Tình trạng ngập úng 4 2.1.1/ Nguyên nhân 5 2.1.1/ Phương hướng giải quyết 7 2.2/ Ô nhiễm do rác thải sinh hoạt 9 2.2.1/ Hiện trạng 9 2.2.2/ Biện pháp và giải pháp 10 2.3/ Ô nhiễm nước thải do sinh hoạt 11 2.3.1/ Khái niệm 11 2.3.1/ Thành phần H2O thải sinh hoạt 12 2.3.3/ Hiện trạng kênh Tân Hóa Lò Gốm 13 2.4/ Ô nhiễm do H2O thải sản xuất 14 2.4.1/Thành phần H2O thải sản xuất 14 2.4.2/ Hiện trạng ở kênh Tân Hóa- Lò Gốm 15 2.4.3/ Biện pháp và giải pháp 17 2.5/ Khả năng tự làm sạch của nguồn H2O 17 3/ Các dự án cải tạo kênh Tân Hóa- Lò Gốm 19 3.1/Quản lí rác thải 19 3.1.1/ Quản lí rác thải rắn 21 3.1.2/ Trạm chuyển rác nhỏ 23 3.2/ Xử lý nước thải 25 3.3/ Mở rộng kè bờ 27 3.4/ Tái định cư 28 3.5/ Nâng cấp đô thị 29 III.Kết luận 33 Tài Liệu Tham Khảo www.envietnam.org/E_News/E_267/TP_HCM_He_thong_kenh_rach_hung_chi www.hcmussh.edu.vn/USSH/ImportFile/Magazine/Journal051006032007.doc www.hutech.edu.vn/UserFiles/file/...CNSH/.../Chuong%201.pdf www.nea.gov.vn/ThongTinMT/NoiDung/sggp_7-11c.htm www.thiennhien.net/news/139/ARTICLE/7042/2008-11-01.html images.vietnamnet.vn/dataimages/200604/original/images943729_ngapnuoc01050406.jpg (images.vietnamnet.vn/dataimages/200604/original/images943729_ngapnuoc01050406.jpg) www.vnxanh.com/index.php?id=352&lg=vn&start=12 www2.btcctb.org/thlg/docs/thlg-final-p1-vn.pdf I. Mở đầu Sông và kênh rạch của thành phố nối kết thành một mạng lưới phức hợp dài gần 100km. Các kênh chính là Bến Nghé, Tham Lương – Vàm Thuật, Nhiêu Lộc – Thị Nghè, Tàu Hũ – Đôi Tẻ và Tân Hóa – Lò Gốm. Các rãnh thu và chuyển nước thải và nước mưa tạo thành dòng chảy tự nhiên và kênh nhân tạo, các kênh này chảy vào các sông chính. Các dòng sông và kênh không chỉ có chức năng thoát nước mà còn là đường giao thông thủy và cảnh quan đô thị nói chung. Bờ sông và bờ kênh còn là nơi tập trung nhà lụp xụp và người nghèo đô thị cao nhất của thành phố. Cùng với mạng lưới kênh rạch của thành phố, kênh Tân Hóa – Lò Gốm bị ô nhiễm nặng nề bởi nước thải của người dân, nước thải công nghiệp và rác thải. Kênh bị ô nhiễm trầm trọng hơn do thiếu duy tu, thiếu hạ tầng môi trường phù hợp và thiếu nhận thức môi trường của người dân. II. Nội dung 1. Lịch sử kênh Tân Hoá – Lò Gốm Kênh chính có chiều dài khoảng 7,600m chảy qua 3 quận (Tân Bình, quận 11 và quận 6) theo hướng Đông Bắc - Tây Nam và kết thúc tại kênh Tàu Hũ các kênh nhánh có chiều dài khoảng 12,000m. Lòng kênh hẹp và cạn, có nhiều nhà xây lấn chiếm dọc bờ kênh. Có 21 cây cầu, trong đó một số cầu tạo nên những điểm tắc nghẽn. 300 năm, kênh Tân Hóa – Lò Gốm đã đòng vai trò là hệ thống giao thông thủy nối phần phía Nam của thành phố với hệ thống kênh rạch tại đồng bằng sông Cửu Long. Vào những năm đầu thế kỷ 19, khu vực này chủ yếu là đầm lầy. Làng “Lò Gốm” là một trong những làng tiểu thủ công nghiệp nổi tiếng cùa Sài gòn xưa, hoạt động kinh tế chủ yếu thứ hai là nông nghiệp. Đầu những năm 1940 các lò nung gốm và gạch ngưng hoạt động. Giao thông bằng thuyền ghe đóng vai trò quan trọng trong khu vực. Hàng hóa được vận chuyển đến các vùng khác nhau dọc theo kênh. Điều này chứng tỏ mối liên lạc chặt chẽ của đường xá và kênh rạch giữa kênh Tân Hóa – Lò Gốm và phần còn lại của thành phố. Một số đường phố chính chạy dọc kênh như đường Renault (hiện nay là đường Hậu Giang), hoặc đường Alexandre de Rhodes (hiện nay là đường Hùng Vương). Năm 1880 thượng nguồn của kênh ngắn hơn. Trên thực tế, kênh Lò Gốm là đoạn kênh đào nối với sông Cần Giuộc. Tại thời điểm đó không có hạ tầng chính về phía Tây của kênh. Năm 1954, kênh được nối với 2 kênh khác : một nối với Chợ Lớn qua kênh”Bonnard”, kênh kia là “De Ceinture” chạy về phía Bắc. Cùng với quá trình đô thị hóa, sự phát triển giao thông đường thủy bị chậm lại. Do thương mại phát triển nhanh chóng trong khu vực Sài gòn, Chợ Lớn, hoạt động tiểu thủ công nghiệp bị đẩy ra ngoại ô. Trong khi các hoạt động kinh tế liên quan đến giao thông thủy bị chậm lại vào đầu những năm 1980, các khu vực bỏ trống dọc kênh dần dần bị người nhập cư lấn chiếm. Làn sóng người nhập cư đầu tiên là hậu quả của chiến tranh chống Mỹ. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng của thành phố tiếp theo “đổi mới” vào năm 1986, đã thúc đẩy quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa một cách tự phát. Làn sóng người nhập cư thứ hai, do nguyên nhân kinh tế, từ các vùng nông thôn nhập cư vào thành phố, đa số đến từ đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Trung. Dân nhập cư mua đất bất hợp pháp hoặc chiếm đất công. Những người đến trước xây những khu nhà lụp xụp trên bờ kênh, những người đến sau xây nhà ngay trên mặt kênh. Hiện nay, kênh đã và đang ô nhiễm nghiêm trọng. Nhiều đoạn kênh luôn bị tắc nghẽn do rác thải của một bộ phận người dân vẫn còn thói quen vứt rác, xả chất thải xuống kênh, các cơ sở sản xuất dọc theo kênh chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải hoàn chỉnh mà thường xả thẳng xuống kênh. Mạng lưới kênh rạch của thành phố bị ảnh hưởng mạnh bởi thủy triều, một số kênh còn bị ảnh hưởng từ nhiều hướng. Kết quả là các chất ô nhiễm vẫn còn lại trong kênh. Có thể thấy rõ ảnh hưởng của thủy triều dọc phần lớn kênh Tân Hóa – Lò Gốm. Nước trong kênh tan loãng vào nước sông rất chậm do tỉ trọng nước bị ô nhiễm cao hơn. Sự thay đổi khí hậu theo mùa cũng ảnh hưởng đền mực nước và độ mặn của nước. Nước chảy tràn từ kênh tạo ra ngập lụt tại một số khu vực, thêm vào các khu bị ngập do nước mưa. 2. Tình trạng: 2.1.Tình trạng ngập lụt: TP Hồ Chí Minh nằm ở vùng cửa nhiều con sông lớn thuộc hệ thống sông Đồng Nai, sát với Biển nên chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của những biến động dòng chảy trên Sông, dòng triều trên Biển, trong đó ảnh hưởng của Biển mang tính thống trị và đang có xu thế ngày càng gia tăng. Bùng binh Cây Gõ- Tân Hóa Đông- Lò Gốm (thuộc lưu vực Tân Hóa- Lò Gốm, Q.6), Bình Thạnh, Ngã tư Bốn Xã, khu vực kênh Ba Bò (Q. Thủ Đức) được xem là những “vùng rốn lũ” trong đô thị. Thống kê của Sở GTCC tính đến 1/2006 cho thấy, toàn thành phố 5 khu vực ngập. Trong đó có đến 105 điểm ngập (gấp hơn 1,5 lần so số liệu cũ). Khu vực bùng binh Cây Gõ - Tân Hòa Đông - Lò Gốm (Q.6) được coi là điển hình ngập do kênh rạch bị lấn chiếm, bồi lắng, không còn khả năng thoát nước… Tại đây, mực nước dâng trong kênh rạch cao hơn nhiều so với mực thủy triều tại các cửa sông và đó là nguyên nhân gây ngập phổ biến nhất. Nước mưa trong khu vực bị ứ lại gây nên tình trạng ngập sâu từ 0,3-0,6m. Sau khi thủy triều xuống và dứt mưa, phải cần từ 6 tiếng đến 18 tiếng mới có thể hết ngập. Điều đáng nói ở đây, tình trạng ngập xảy ra ngay cả khi chỉ có mưa ở thượng lưu kênh Tân Hóa (Q.Tân Bình) thì khu vực này cũng bị ngập do kênh rạch không thoát nổi lượng nước tràn về từ thượng lưu. +Tuyến kênh Tân Hóa dài khoảng 7,6km, bắt đầu từ láng Bàu Cát và kết thúc tại vị trí giao với kênh Tàu Hủ. Tuy nhiên, từ khi khu vực Bàu Cát trở thành khu đô thị hóa, diện tích đất thấm tự nhiên bị thu hẹp, cộng thêm tình trạng lấn chiếm kênh rạch ngày một gia tăng khiến tình hình ngập ở khu vực này ngày càng nặng hơn. +Bình Thạnh cũng được xem là khu vực ngập điển hình do triều cường và ngập nặng hơn khi triều cường trùng với mưa. Ở đây, mực nước ngập sâu, nước rút rất chậm do hệ thống thoát nước không đủ (thường là khoảng 3- 6 giờ). Bình Thạnh tuy không sánh bằng “vùng lũ” bùng binh Cây Gõ nhưng lại ngập trên diện rộng và gần như ngập thường xuyên kể cả trời không mưa. +Khu vực Ngã tư Bốn Xã (Q.Bình Tân) là một khu đô thị mới nhưng không được đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước đồng bộ. Nên khi triều cường dâng lên hoặc trời mưa, thời gian ngập ở đây kéo dài hơn một ngày, thậm chí vài ba ngày sau vẫn còn ngập. Khu vực kênh Ba Bò (Q.Thủ Đức) lại gánh chịu hậu quả của sự phát triển khu vực lân cận từ Bình Dương, làm tình hình ô nhiễm nơi đây trở nên rất nghiêm trọng. 2.1.1. Nguyên nhân + Sông rạch dày đặc, diện tích mặt nước lớn dễ truyền tải những biến động lan truyền vật chất, năng lượng, điều kiện ngập nước. +Sự phát triển đô thị cùng với sự gia tăng dân số ồ ạt trong những năm vừa qua, dẫn đến việc khai thác mặt bằng không quy hoạch, sông rạch như một bộ phận năng động nhất của thiên nhiên trở thành nơi thuận lợi để con người trút xuống mọi phế thải. Hậu quả là rác bẩn tích luỹ, kên rạch bồi lấp, mặt thoáng bị chiếm dụng, dòng chảy bị cản trở. +Địa hình thấp trũng, hướng địa hình là thấp dần về hạ lưu,hướng ra Biển. Trên 60% đất đai thành phố có cao trình thấp dưới 2m, những vùng trũng thấp cao trình < 0m -0.5m là những vùng ngập triều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu ảnh hưởng thủy triều  Nền địa chất yếu, dễ bị lún, nén và sạt lở. +Lượng nước cần tiêu thoát của thành phố. Nước mưa: lượng mưa lớn, tập trung. Nước thải (bao gồm, nước thải sinh hoạt và nước thải sản xuất). Theo tính toán sơ bộ thì lượng nước mưa trân trong khu vực nội thành ứng với tần suất 10% vào khoảng 5 triệu m3/ ngày – đêm. Lượng mưa đó sẽ sản sinh ra 2,6 triệu m3 dòng chảy mặt (trong điều kiện hiện tại), tương ứng với lưu lượng bình quân trong thời gian cấp nước là 31,0m3/s. Lượng nước cung cấp cho sinh hoạt và công nghiệp hiện tạI vào khoảng gần 1 triệu m3 /ngày – đêm. Có thể ước tính lượng nước xả tương đương vớI 70% lượng nước cấp. Lưu lượng nước thải bình quân khoảng 7,2 m3/s. Như vậy, lưu lượng hình thành từ nước mưa. Điều này cho phép ta có được nhận thức về quy mô, yêu cầu của hệ thống tiêu nước mưa và nước thải có thể tác biệt nhau. Việc tính toán mưa đã có nhiều cơ quan nghiên cứu trong nhiều năm và cũng đã đạt được những kết quả tốt. +Thành phố đang phát triển mạnh mẽ và có lịch sử phát triển trên 300 năm nên hệ thống tiêu thoát quá cũ kỹ, chắp vá và có nhiều điều bất cập. Quản lý hệ thống không khoa học.Theo đánh giá của cơ quan quản lý hệ thống đường cống (Công ty chiếu sáng thuộc Sở SGTCC), trong tổng số chiều dài các đường cống có kích thước trên 40 cm trở lên có 30% cần phải phục hồi và nâng cấp, 12% không đủ thoát gây úng ngập, 40% cần sửa chữa lớn, 18% cần sửa chữa vừa và nhỏ. Các giếng thu, giếng thăm dò và giếng kỹ thuật trong toàn hệ thống là 21.530 cái, trong đó 30% bị hư hỏng cần sử chữa lớn, 20% là không bảo đảm quy cách. +Tài nguyên Đất- Nước vùng này đang được khai thác mạnh mẽ phục vụ công cuộc phát triển : nông nghiệp, thủy điện, thủy sản, giao thông, xây dựng. Mặt khác đó cũng là nguyên nhân gây nên những tác động mạnh mẽ, những biến động bất lợi, trong đó ba tác động mạnh cần nêu : Xây dựng các công trình hồ chứa trên thượng lưu. Xây dựng đê ngăn lũ, ngăn triều, ngăn mặn dọc sông. San lấp các vùng trũng lấy đất xây dựng. Những tác động đó dẫn tới : Nguồn nước sông yếu dần, Biển xâm nhập sâu hơn vào nội địa.Các đê bao tập trung dòng chảy, dòng triều vào trong sông làm dâng cao mức nước đỉnh triều và hạ thấp mức nước chân triều. Biên độ triều , năng lượng triều gia tăng, dòng chảy bị dồn nén. Sông rạch tiếp nhận nước mưa từ hệ thống trở nên không thuận lợi. Xói lở bờ gia tăng.Việc san lấp các vùng trũng lấy đất xây dựng cùng với việc đắp đê bao làm mất đi các ô điều tiết nước ven sông. Quá trình khai thác thể hiện chúng ta thiếu một tầm nhìn chiến lược. Đáng chú ý là tình trạng ngập úng không những chỉ xảy ra ở những vùng có cao trình mặt đất tương đối cao, những vùng ở ngay cạnh sông, rạch nhận nước tiêu, do nhiều miệng cống, hố ga bị rác rưởi lầp đầy, và hàng chục nghìn hộ gia đình xây nhà lấn chiếm lòng kênh. 2.1.2.Phương hướng giải quyết + Một trong những vấn đề ưu tiên là cần xây dựng ngay một số đập và cống ngăn triều tại các cửa kênh rạch để cô lập triều, chống ngập do triều và biến kênh rạch thành hồ chứa điều hòa nước mưa chống ngập do mưa. (Lấy một cốt thủy triều cao nhất nào đó vừa xảy ra gần đây làm chuẩn để xác định lại cốt san nền và cao trình mặt đường trong qui hoạch tổng thể của toàn thành phố. Từ đó tính toán công suất cần thiết phải xây dựng các công trình xử lý nước thủy triều, đảm bảo sẽ không để mức thủy triều trong tương lai vượt quá mức chuẩn (hoặc dưới mức chuẩn đó một khoảng là X chẳng hạn). Tuy nhiên việc xây dựng hệ thống đê còn có nhiều ý kiến khác nhau: Theo GS.TSKH Lê Huy Bá giải pháp chống ngập của TP.HCM phải “đi từ trong ruột đi ra”, tức phải giải quyết những yếu kém của hệ thống thoát nước khu vực nội thành. Lưu lượng xả lũ trên sông Sài Gòn lớn, vận tốc dòng chảy mạnh, nếu đắp đê sẽ càng làm tăng áp lực dòng chảy, gây nguy cơ sạt lở bờ sông vốn đã rất yếu, dẫn đến vỡ đê. Chưa kể đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá những tác động về môi trường sinh thái mà giải pháp đê bao có thể gây ra. + Nâng cao cốt mặt đường ở những chỗ quá thấp so với mức thủy triều vào ngày nói trên (đảm bảo ít nhất cũng bằng với mức thủy triều đó). + Tính toán thiết kế hồ chứa để điều tiết nước thủy triều trên cơ sở đảm bảo cố định mức thủy triều vào thời điểm nhất định. + Nạo vét thường xuyên sông Sài Gòn, sông Đồng Nai và một số kênh lớn... + Xây dựng , hoàn thiện các công trình tiêu nước của thành phố .Sau đây là công thức tính toán quy mô hệ thống tiêu nước: Tính toán tiêu nước mưa các đô thị thường dung phương pháp cường độ giới hạn của Gorbachep trong đó thời gian tính toán mưa: t = t0 + tr + tc  Trong đó: t0 - thời gian tập trung nước mưa từ điểm xa nhất đến rãnh thoát nước – còn gọi là thời gian trung bề mặt, nó phụ thuộc kích thước địa hình của lưu vực, cường độ mưa và loại mặt phủ, lấy nước từ 5 đến 10 phút; tr - thờI gian nước chảy trong rãnh đến giếng thu gần nhất; tr = 1,25 x lr / vr lr – chiều dài của rãnh (m); vr - vận tốc nước chảy trong rãnh, m/phút; 1,25 - hệ số tính đến khả năng tăng tốc độ dòng chảy trong quá trình mưa; tc - thời gian nước chảy trong cống từ giếng thu đến tiết diện tính toán; tc = r x lc / vc tc - chiều dài đoạn cống tính toán; vc - Tốc độ nước chảy trong cống; r - hệ số, lấy phụ thuộc vào địa hình: khi địa hình bằng phẳng r = 2, khi địa hình dốc I > 0,03 thì r = 1,2. Theo L.T. Abramov: T0 = 1.5.n 0.6 .1 0.6 / Z 0.3 .i 0.5 . I 0.3 Z: hệ số mặt phủ N: hệ số nhám của bề mặt I: độ dốc bề mặt tập trung nước mưa L: chiều dài đường dòng nước (m) I: cường độ mưa (mm/ phút) I = h / t h: chiều cao lớp nước mưa t: thời gian mưa. Công thức trên áp dụng cho các bề mặt tập trung nước mưa đã được san nền, không có rãnh luống. Khi tính toán sơ bộ: t0 = 10 phút bên trong tiểu khu không có hệ thống thoát nước mưa t0 = 5 phút nếu bên trong tiểu khu có hệ thống thoát nước mưa. Nếu ta xem tiết diện tính toán của hệ thống tiêu nước vùng ảnh hưởng thuỷ triều tại cửa xả và áp dụng theo phương pháp cường độ giới hạn trong tính toán mưa tiêu của P.F.Gorbachep thì thời gian tiêu nước T = 2t và giả thiết thời gian triều cho phép tiêu là ttr; ttr phụ thuộc điều kiện thuỷ triều, nếu bán nhật triều thì ttr bé, nếu nhật triều thì ttr lớn. Trong tính toán tiêu nước đô thị chỉ được phép tiêu hết nước trong một chu kỳ triều. 2t ( ttr hoặc 2(t0 + 1,25. lr/ vr +rlc) ( ttr Và giả thiết vr = k x vc Với K < 1 ta có: Lc ( [(ttr – t0/2). k.vc – 1,25.lr] / kr Trong đó lr được xác định do bố trí khu dân cư, đường giao thông và được tính toán sao cho không bị ngập đường, ngập khu dân cư. Từ công thức trên sẽ xác định được lc’ tức là quy mộ hệ thống tiêu nước. Quy mô hệ thống tiêu nước liên quan chặt chẽ tới độ sâu đặt cống, cao trình cửa xả..... 2.2.Ô nhiễm do rác thải sinh hoạt 2.2.1. Hiện trạng Kênh Tân Hóa - Lò Gốm dài hơn 10km chảy qua 3 quận (Tân Bình, quận 11 và quận 6) theo hướng Đông Bắc - Tây Nam và kết thúc tại kênh Tàu Hũ, hiện nay đã ô nhiễm nghiêm trọng. Nhiều đoạn kênh luôn bị tắc nghẽn do rác thải của một bộ phận người dân vẫn còn thói quen vứt rác, xả chất thải xuống kênh(Hiện nay có hàng chục ngàn hộ dân đang sinh sống ở nhiều khu dân cư được xây cất ngay bên cạnh các dòng kênh rạch như các khu dân cư dọc kênh Tân Hóa-Lò Gốm). Bên cạnh đó còn có nhiều bến đậu ghe thuyền, chợ trên sông buôn bán hàng hóa từ các tỉnh miền Tây lên, được hình thành ngay trên các kênh rạch như bến Bình Đông (kênh Đôi), bến Trần Xuân Sọan trên kênh Tẻ (quận 4)... Từ họat động của các khu dân cư và các bến ghe thuyền ven kênh rạch đã  trực tiếp thải rác sinh họat, rác buôn bán, thậm chí xác súc vật ... xuống các kênh rạch, đã gây ô nhiễm nhiều kênh rạch, thậm chí nhiều kênh rạch đã bị rác thải lấp đầy đến mức ghe thuyền không thể di chuyển trên các dòng kênh. Bên cạnh đó, nhiều cửa cống cũng bị tắc nghẽn vì rác hoặc gây ngập lụt khi mưa làm  nuớc đen từ các kênh tràn vào các khu dân cư ven kênh rạch gây  mùi hôi thối làm người dân không chịu nổi. Phó Chủ tịch UBND quận Tân Bình Châu Văn La cho biết, kênh Tân Hóa - Lò Gốm ô nhiễm từ các hộ dân (khoảng 250 hộ) và các đơn vị kinh doanh dọc tuyến kênh. Tuyến kênh này được xem là “điểm nóng” về vệ sinh môi trường của quận nên các ban, ngành và Công ty Vệ sinh môi trường đã nhiều lần tổ chức tổng vệ sinh. Nhưng do không có lực lượng chốt giữ nên tình trạng mất vệ sinh do người dân thiếu ý thức liên tục tái diễn, làm phát sinh nhiều bãi rác tự phát dọc theo tuyến kênh. Chỉ một chiến dịch tổng vệ sinh 700m thượng nguồn kênh Tân Hoá - Lò Gốm (đoạn chảy qua khu vực đường Đồng Đen, quận Tân Bình), thu dọn được trên 20 tấn rác thải, xà bần, gỡ bỏ 12 bảng quảng cáo sai quy định. +Đoạn kênh chảy qua quận 11 với chiều dài khoảng 800m nhưng 300m thường xuyên bị tắc nghẽn do rác mà người dân vô ý thức thả và bùn đáy. +Đoạn từ đường Đồng Đen đến cửa xả nằm trên đường Âu Cơ, quận Tân Bình có chiều dài khoảng 700m, dù trời đang mưa nhưng nước từ lòng kênh vẫn bốc lên mùi hôi thối. Dọc theo 2 bên dòng kênh có rất nhiều biển, bảng cấm đổ rác với khẩu hiệu kêu gọi vì môi trường, vì văn minh đô thị nhưng nhiều miệng cống vẫn bị tắc nghẽn do ứ đọng rác, nước không lưu thoát được phát sinh nhiều ruồi, muỗi… 2.2.2.Biện pháp giải quyết +Để hạn chế nạn rác thải trên các hệ thống kênh rạch, chính quyền  Thành phố đã thực hiện giải tỏa hàng chục ngàn hộ dân sống ven các kênh để thực hiện việc nạo vét, cải tạo chất luợng nuớc hệ thống kênh này. Thành phố cũng đã giải tỏa trên 10.000 hộ dân sống ven kênh Tẻ-kênh Đôi để xây dựng  đại lộ Đông -Tây... +Công ty môi trường đô thị Thành phố còn thành lập nhiều đội vớt rác trên kênh rạch với trên 100 công nhân, 8 tàu vớt rác, 32 ghe thuyền.... hàng ngày thực hiện vớt rác trên các tuyến kênh rạch chính như Nhiêu Lộc-Thị Nghè, kênh Đôi-Kênh Tẻ với khối lựợng vớt được hàng chục tấn rác mỗi ngày. + Phải giảm được mức độ ô nhiễm ngay từ nguồn phát sinh. + Trên mọi ngả đường ở thành phố, người dân nhìn thấy những khẩu hiệu như “Hãy đổ chất thải đúng nơi qui định”, “Vì đường phố không rác”… được treo dọc theo lề đường kêu gọi mọi người cùng tham gia bảo vệ môi trường để hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới 5- 6. Tuy nhiên do việc phân cấp quản lý rác thải trên kênh rạch giũa các cơ quan của Thành phố với chính quyền các quận huyện, phường chưa rõ ràng và nhiều biện pháp ngăn chặn nạn thải rác xuống kênh rạch chưa phát huy hiệu quả, nên hàng ngày một khối luợng rác rất lớn vẫn tiếp tục xả xuống các kênh rạch. 2.3.Ô nhiễm do nước thải sinh hoạt 2.3.1. Khái niệm Nước thải sinh họat là nước được thải bỏ sau khi sử dụng cho các mục đích sinh hoạt của cộng đồng : tắm , giặt giũ , tẩy rữa, vệ sinh cá nhân,…chúng thường được thải ra từ các các căn hộ, cơ quan, trường học, bệnh viện, chợ, và các công trình công cộng khác. Lượng nước thải sinh họat của khu dân cư phụ thuộc vào dân số, vào tiêu chuẩn cấp nước và đặc điểm của hệ thống thóat nước. 2.3.2. Thành phần nước thải sinh hoạt Thành phần của nước thải sinh họat gồm 2 lọai: + Nước thải nhiễm bẩn do chất bài tiết của con người từ các phòng vệ sinh + Nước thải nhiễm bẫn do các chất thải sinh họat : cặn bã từ nhà bếp, các chất rửa trôi, kể cả làm vệ sinh sàn nhà. Nước thải sinh họat chứa nhiều chất hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học, ngòai ra còn có các thành phần vô cơ, vi sinh vật và vi trùng gây bệnh rất nguy hiểm. Chất hữu cơ chứa trong nước thải sinh họat baogồm các hợp chất như protein (40 – 50%); hydrat cacbon (40 - 50%) gồm tinh bột, đường và xenlulo;và các chất béo (5 -10%). Nồng độ chất hữu cơ trong nước thải sinh họat dao động trong khỏang 150 – 450%mg/l thoe trọng lượng khô.Có khỏang 20 – 40% chất hữu cơ khó phân hủy sinh học. Ở những khu dân cư đông đúc, điều kiện vệ sinh thấp kém, nước thải sinh hoat không được xử lý thích đáng là một trong những nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Lượng nước thải sinh hoạt dao động trong phạm vi rất lớn, tùy thuộc vào mức sống và các thói quen của người dân, có thể ước tính bằng 80% lượng nước được cấp. Giữa lượng nước thải và tải trọng chất thải của chúng biểu thị bằng các chất lắng hoặc BOD5 có 1 mối tương quan nhất định. Lưu lượng nước thải sinh hoạt: Qtb = N.q  Qnmax = Qtb . Kng Qs = Qtb /86400 Qsmax = Qs . Kc Trong đó : + N : Số dân cư + q : Tiêu chuẩn thoát nước + Kng :Hệ số không điều hòa ngày Hệ số không điều ngày của nước thải sinh hoạt khu dân cư lấy Kng = 1,15 – 1,3 + Kc : Hệ số không điều hòa chung Hệ số không điều hòa chung Kc = Kng . Kh Bảng.1.1. Tải trọng chất thải trung bình 1 ngày tính theo đầu người Các chất  Tổng chất thải (g/người.ngày)  Chất thải hữu cơ (g/người.ngày)  Chất thải vô cơ (g/người.ngày)   1. Tổng lượng chất thải 2. Các chất tan 3. Các chất không tan 4. Chất lắng 5. Chất lơ lửng  190 100 90 60 30  110 50 60 40 20  80 50 30 20 10   Nước thải sinh hoạt có thành phần với các giá trị điển hình như sau: COD=500 mg/l, BOD5=250 mg/l, SS=220 mg/l, photpho=8 mg/l, nitơ NH3 và nitơ hữu cơ=40 mg/l, pH=6.8, TS= 720mg/l. Như vậy, Nước thải sinh hoạt có hàm lượng các chất dinh dưỡng khá cao, đôi khi vượt cả yêu cầu cho quá trình xử lý sinh học. Thông thường các quá trình xử lý sinh học cần các chất dinh dưỡng theo tỷ lệ sau: BOD5:N:P = 100:5:1 Một tính chất đặc trưng nữa của Nước thải sinh hoạt là không phải tất cả các chất hữu cơ đều có thể bị phân hủy bởi các vi sinh vật và khoảng 20-40% BOD thoát ra khỏi các quá trình xử lý sinh học cùng với bùn. 2.3.3. Hiện trạng kênh Tân Hóa – Lò Gốm Đoạn kênh chảy qua địa bàn quận 11 có chiều dài 800m nhưng khoảng 300m từ vị trí cống xả hẻm 152 Lạc Long Quân đến khu vực chùa Giác Viên cũng thường xuyên bị tắc nghẽn do rác thải và bùn đáy. Càng về cuối tuyến kênh Tân Hóa - Lò Gốm (đoạn chảy qua quận 6), tình trạng ô nhiễm môi trường càng nghiêm trọng. Nước dưới dòng kênh đen đặc, mùi hôi bốc lên nồng nặc, nhiều miệng cống với dòng nước đỏ ngầu của vải nhuộm thoát ra từ các cơ sở sản xuất chảy thẳng ra kênh. Nhà trên kênh mọc san sát, khiến dòng chảy bị thu hẹp dần khi đến hạ nguồn. Phó Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường quận 6 Diệp Hồng Di cho biết, hầu hết các nhà dân tại đây không có hầm cầu tự hoại, người dân thường xả thẳng chất thải vào hệ thống kênh, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng nguồn nước mặt. Ở quận 6, để hạn chế tình hình dân thải chất thải sinh hoạt xuống kênh không qua xử lí, UBND quận 6 phối hợp với Công ty Dịch vụ Công ích TNXP xây dựng 1 nhà vệ sinh công cộng ven kênh. Tuy nhiên, nhiều người dân vẫn còn giữ thói quen tiêu, tiểu thẳng ra kênh.  2.4.Ô nhiễm do nước thải sản xuất 2.4.1. Thành phần nước thải sản xuất Nước thải sản xuất là lọai nước thải sau quá trình sản xuất, phục thhuộc loại hình công nghiệp. Đặc tính ô nhiễm và nồng độ của nước thải công nghiệp rất khác nhau phụ thuộc vào lọai hình công nghiệp và chế độ công nghệ Bảng 1. Tính chất đặc trưng nước thải của một số ngành công nghiệp Các chỉ tiêu  Chế biến sữa  Sản xuất thịt hộp  Dệt sợi tổng hợp  Sản xuất clorophenol   - BOD5 (mg/l) - COD (mg/l) - Tổng chất rắn(mg/l) - Chất rắn lơ lửng (mg/l) - Nitơ (mgN/l) - Photpho (mgP/l) - pH - Nhiệt độ (0C) - Dầu mỡ(mg/l) - Clorua (mg/l) - Phenol (mg/l)  1000 1900 1600 300 50 12 7 29 - - -  1400 2100 3300 1000 150 16 7 28 500 - -  1500 3300 8000 2000 30 0 5 - - - -  4300 5400 53000 1200 0 0 7 17 - 27000 140   Nước thải phụ thuộc vào quy mô, tính chất sản phẩm, quy trình công nghệ của từng nhà máy.Lưu lượng sản xuất có thể dùng công thức sau đây: Q = qtc x P  Trong đó : + P : Công suất sản phẩm của nhà máy + qtc : Tiêu chuẩn (định mức ) sử dụng nước cho sản xuất. Có thể tham khảo số liệu định mức xả thải của nhà máy trong bảng 1.10 Bảng 2. Tiêu chuẩn thải nước của một số ngành công nghiệp STT  Ngành sản xuất  nước thải/sản phẩm (qtc)   1  Chế biến mủ cao su  54 lit/tấn sản phẩm crếp   2  Chế biến thủy sản  20 – 100 m3/tấn   3  Chế biến nông sản  6 – 60 m3/tấn nông sản   4  Chế biến thịt  3 – 10 m3/tấn sản phẩm   5  Thuộc da  65 – 100 m3/tấn da ướt   6  Giặt giũ  33 lit/kg quần áo   7  Rượu bia  0,3 m3/giạ lúa (36 lit)   8  Cà phê  22 m3/tấn sản phẩm   9  Luyện dầu  3 m3/thùng dầu thô (150 l)   10  Luyện cán thép  0,1 – 0,8 m3/tấn thép   11  Chăn nuôi gia cầm  15 – 25 lit/kg gia cầm   12  Sản xuất giấy và bột giấy  60 – 240 m3/tấn sản phẩm   2.4.2. Hiện trạng ở kênh tân Hóa – Lò Gốm Tại thượng nguồn kênh Tân Hóa-Lò Gốm thuộc địa bàn quận Tân Bình, có chiều dài khoảng 700m, Đoàn kiểm tra đã trực tiếp chứng kiến cảnh nước thải chưa qua xử lý từ các nhà máy, nước thải sinh hoạt các khu dân cư được thải trực tiếp xuống kênh, mùi hôi bốc lên nồng nặc. Chủ tịch UBND quận Tân Bình Châu Văn La cho biết: Đoạn kênh này hứng nước thải từ 250 hộ dân và các đơn vị sản xuất kinh doanh dọc kênh. Các ngành kinh doanh ở đây gồm: thu mua phế liệu, sửa chữa cơ khí, dệt, phát sinh nước thải có nguy cơ ô nhiễm rất cao. Ví dụ như Xí nghiệp Kho vận trực thuộc Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Thủy sản, địa chỉ 3218C đường Âu Cơ, phường 14, quận Tân Bình có kho chứa hàng thủy hải sản đông lạnh trên khuôn viên có diện tích tới 24.000 m2 nhưng xây dựng hệ thống xử lý nước thải chỉ có công suất 40m3/ngày. Trong khi thực tế với công suất như trên, lượng nước thải của xí nghiệp này phải tới 120 m3/ngày, tức gấp ba lần công suất của hệ thống xử lý. Tại các khu vực có cụm công nghiệp, nhiều cơ sở khai thác nước ngầm (các quận 11, 12, Bình Tân, huyện Bình Chánh) đều bị ô nhiễm bởi các hợp chất nitơ. Số liệu quan trắc từ năm 2000 đến nay cho thấy mỗi năm mực nước ngầm hạ thấp 2-3m và đang có xu hướng hạ thấp nhanh, cá biệt tại Tân Tạo (quận Bình Tân) kết quả quan trắc lần 2-2006 cho thấy mực nước đã chênh lệch 3,1m so với quan trắc lần 1 (tháng 3-2006). Mức độ mặn, nhiễm mặn tại Tân Tạo cũng tăng gấp 2-3 lần so với cùng kỳ năm 2005. Mực nước hạ xuống quá sâu kéo theo một số hậu quả như sự xâm nhập mặn và các chất ô nhiễm vào tầng chứa nước, nguy cơ sụt lún mặt đất do tầng chứa nước bị tháo khô. Trong khi đó, lượng nước ngầm bổ sung tự nhiên hiện nay chưa tới 200.000m3/ngày, tức chưa bằng 1/3 lượng nước khai thác, lượng nước bổ sung ngày càng khan hiếm do bề mặt đất bị bêtông hóa vì tốc độ đô thị hóa quá nhanh. Theo ước tính của cơ quan chuyên môn, mực nước ngầm tụt nhanh trong thời gian gần đây sẽ phá vỡ hệ cân bằng tự nhiên, thay đổi về thủy lực nước ngầm và cả nước mặt. Hơn nữa, các cơ sở sản xuất nằm xen kẽ trong khu dân cư, nhiều cơ sở vẫn chưa trang bị hệ thống xử lý nước thải hoàn chỉnh đã góp phần làm ô nhiễm dòng kênh. Kết quả quan trắc thực hiện năm 2007 cho thấy nồng độ các chất gây ô nhiễm COD, BOD có trong nước mặt kênh Tân Hóa - Lò Gốm không giảm, ngược lại tại một số khu vực như cầu Hòa Bình, cầu Ông Buông, cầu Chà Và, rạch Ruột Ngựa… chỉ số ô nhiễm tăng cao đột biến so với năm 2006 ( ở một vài nơi DO = 0, dòng kênh trở thành dòng kêng chết). 2.4.3.Biện pháp giải quyết + Các nhà sản xuất phải thải nước thải đạt tiêu chuẩn cho phép. + Phải hạn chế các nguồn thải gây ô nhiễm từ các cơ sở sản xuất và khu dân cư. + Thắt chặt và hoàn chỉnh luật bảo vệ môi trường. 2.5. Khả năng tự làm sạch của nguồn nước Qúa trình tự làm sạch chia thành 2 giai đọan: xáo trộn và tự làm sạch. Sự tương quan giữa lưu lượng nguồn và lưu lượng nước thải là yếu tố quan trọng trong quá trình tự làm sạch: gọi là hệ số pha trộn n: n = (Q + q)/q = (C – Cng )/Cgh – Cng  Với: - C: hàm lượng bẩn của nước thải - Cng: hàm lượng bẩn của nguồn - Cgh: hàm lượng bẩn sau khi hòa trộn (yêu cầu) - Q: lưu lượng nước nguồn - q: lưu lượng nước thải xả vào nguồn Sự hòa tan oxy (DO) cũng là yếu tố quan hệ mật thiết đến QTTLS. Thực tế thì không phải tất cả lưu lượng nước nguồn tham gia vào quá trình xáo trộn mà chỉ một phần nào đó mà thôi. Phần nước nguồn tham gia vào quá trình được đặc trưng bởi hệ số xáo trộn. Công thức trên được viết thành: n = (γ .Q + q)/q - γ: Hệ số phụ thuộc đặc tính thủy lực và hình dạng dòng chảy của nước nguồn:   Hệ số cong ( =) (: của xả gần bờ;  cửa xả xa bờ E: Hệ số khuyếch tán  Trong đó: + l : Khoảng cách từ cửa xả nước thải đến mặt cắt tính toán (m) +α : Hệ số có tính đến ảnh hưởng thủy lực • VTB: Vận tốc dòng chảy trung bình • HTB: Chiều sâu trung bình dòng chảy • m : Tỷ lệ giữa vận tốc dòng chảy nước nguồn và nước thải qua miệng xả • c: nồng độ nhiễm bẩn của nước hồ chứa Lưu ý : Từ công thức trên ta thấy hệ số γ tiến tới đơn vị khi khoảng cách l dài ra vô cùng. Một khoảng cách như thế trong thực tế là không có. Chính vì vậy người ta chỉ xác định cho một khoảng cách nào đó để nước nguồn có thể tham gia được 70 – 80% lưu lượng vào quá trình xáo trộn đối với những nguồn nước nhỏ và 0.25 – 0.3 đối với những nguồn nước trung bình và lớn. 3.Dự án cải tạo kênh Tân Hóa - Lò Gốm Dự án cải tạo kênh Tân Hóa – Lò Gốm 1998 – 200 3.1.Quản Lý Chât Thải Rắn Rác thải từ các gia đình là nguồn đáng kể gây ô nhiễm kênh Tân Hóa – Lò Gốm. Một phần ba các hộ dân đổ rác thải xuống kênh. Rác thải từ các gia đình được thu gom, đặt phía trước các ngôi nhà để những người thu gom đến cho vào xe ba gác. Chính quyền địa phương không tổ chức hoạt động thu gom rác ở qui mô này. Người thu gom dân lập tại Quận 6 vận chuyển rác đến điểm hẹn lấy rác để chờ xe tải của quận đưa rác đến Trạm Trung Chuyển Lạc Long Quân. Từ đây, vào ban đêm xe tải của quận và thành phố vận chuyển rác đến bãi chôn rác. Hệ thống thu gom gồm 4 bước này rất nặng nề, tốn chi phí và rất cần được cải tiến. Vận chuyển rác do người thu gom dân lập thực hiện rất thiếu tổ chức và mất vệ sinh. Qui trình này cũng không phù hợp với việc quản lý tái chế rác. Để cải thiện việc thu gom rác thải từ các hộ gia đình và giảm bớt ô nhiễm kênh, dự án đã thực hiện các hoạt động sau đây tại 5 phường của Q.6: Tổ chức lại hệ thống thu gom rác thải quanh Trạm Trung Chuyển Bà Lài tại các P.3, 4, 7 và 8. Xây dựng một Trạm Trung chuyển rác nhỏ tại điểm hẹn lấy rác ở đường Bà Lài P.7.  Biểu đồ thể hiện những nơi dự án can thiệp vào hoạt động thu gom rác 3.1.1. Quản lý rác thải rắn Các đường dây thu gom rác thải của các hộ thu gom rác thường bị chồng chéo lên nhau một cách thiếu tổ chức. Một số hộ gia đình không muốn sử dụng dịch vụ và trả tiền rác cho các hộ thu gom. Chính quyền địa phương và cộng đồng không thể kiểm soát việc thu gom rác và thu tiền dịch vụ hàng tháng.  Mục tiêu Cải thiện môi trường và vệ sinh trong khu vực. Nâng cao nhận thức của người dân và tăng số lượng các hộ trả tiền thu gom rác Tổ chức lại các đường thu gom rác tư nhân, bảo đảm thời gian thu gom ngắn hơn và thu nhập cao hơn cho người thu gom rác. Cải tiến dụng cụ và đồng phục của người thu gom rác, giáo dục vệ sinh cho họ. Tăng cường năng lực chính quyền địa phương và cộng đồng trong quản lý rác thải.  Phương pháp tiếp cận Nhóm công tác xã hội quản lý quá trình tổ chức lại các đường thu gom rác, có sự tham gia trực tiếp của người thu gom, cộng đồng và sự hỗ trợ của chính quyền phường. Người chịu trách nhiệm quản lý rác thải cấp phường giữ vai trò quan trọng. Sự hỗ trợ của tổ trường dân phố và đại diện cộng đồng rất quan trọng trong việc giám sát và vận động các hộ sử dụng hệ thống thu gom rác.  Ngân sách 23,000 EUR  Kết quả Đã tổ chức lại các đường thu gom rác tại các phường 7,8,3,4. Ký hợp đồng với người thu gom rác và các hộ dân và số hộ dân tham gia tăng 90%. Đã thiết kế và đưa vào sử dụng 15 trong số 40 chiếc xe đẩy thu gom rác. Đưa vào sử dụng xe ba bánh cải tiến để thu gom rác ở xa Trạm Trung Chuyển hơn 1km Người thu gom rác nhận được đồng phục và dụng cụ bảo hộ lao động mới. Tổ chức lại các đường thu gom rác    Các bản đồ Các đường thu gom rác thải trước khi tái tổ chức Phường 3 Phường 4 Phường 7 Phường 8   Sắp tới Tăng số lượng hộ dân sử dụng hệ thống thu gom. Áp dụng để nhân rộng ra các phường, quận và các thành phố khác.  Thử thách và bài học kinh nghiệm Mặc dù đã được thiết kế và thử nghiệm với sự tham gia của người thu gom nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu; nếu thành phố không bắt buộc sử dụng xe đẩy thì xe ba gác cải tiến vẫn được sử dụng. Đề cập đến thu nhập của người thu gom (khi tổ chức lại đường thu gom rác) là vấn đề rất nhạy cảm cần được các nhân viên công tác xã hội có kinh nghiệm và kiên nhẫn thực hiện. Tham gia vào thiết kế xe đẩy cần giới hạn do trình độ kỹ thuật có hạn của người thu gom. 3.1.2.Trạm trung chuyển rác nhỏ    Trước đây người thu gom rác tư nhân chở rác đến địa điểm tập trung và phải đợi để đổ rác từ xe ba gác vào xe tải. Sau đó rác được chuyển đến trạm trung chuyển rác lớn trong thành phố. Buổi tối rác được chở từ địa điểm này đến đổ tại bãi rác. Quy trình này không hợp vệ sinh và mất rất nhiều thời gian. Mục tiêu Giảm bớt 1 bước trong hệ thống thu gom rác thải. Giảm thời gian chờ đợi tại các điểm tập kết rác. Cải tiến tổ chức các họat động tái chế rác. Cải thiện vệ sinh và môi trường gần nơi thu gom.   Bên trong Trạm Trung Chuyển Rác Nhỏ   Phương pháp tiếp cận Tỉ trọng rác thải là 400kg/m3; tương đối cao do có lượng chất thải hữu cơ. Nhà thiết kế đã thảo luận với các chuyên gia, các ban ngành liên quan và người dân về thiết kế của Trạm Trung Chuyển. Nhóm công tác xã hội cùng với người thu gom và chính quyền địa phương thiết lập các đường rác và hệ thống quản lý mới, và hỗ trợ trong việc thiết kế xe đẩy tay mới. Ngân sách 415,000 EUR (8,1 tỉ VNĐ) bao gồm cần cẩu, 6 container và 2 xe tải   Kết quả Trạm Trung Chuyển Rác Nhỏ (TTC) được bàn giao cho Công ty dịch vụ Công ích Quận 6 vào tháng 9 năm 2003. Ngoài Trạm thu gom và tái chế rác thải Trạm còn có chổ đậu xe và văn phòng, nhà vệ sinh. Tòa nhà TTC được cọ rửa hàng ngày bằng bơm cao áp. Rác thải được đổ trực tiếp từ xe đẩy xuống 4 hố container 25m3. Rác được giữ và che đậy kín trong container, và được cẩu lên xe tải để chuyển ra bãi rác vào buổi tối. Dung lượng trung chuyển qua trạm là 72 tấn/ngày cho 6 container, nhưng mới chỉ sử dụng một nửa công suất.  Mặt bằng trệt Trạm Trung Chuyển Rác Nhỏ  Sắp tới Có thể tăng dung lượng lên đến 10 container hoặc hơn 100 tấn rác thải một ngày. Họat động cần mở rộng ra các phường khác trong quận 6. Khi mật độ rác thải tại Q.6 (hiện nay là 400kg/m3) giảm xuống, có thể lắp đặt thêm một trục nén để tăng lượng rác chứa trong container.  Thử thách và bài học kinh nghiệm Người dân, người thu gom và chính quyền đã tham gia vào quá trình do nhóm công tác xã hội hướng dẫn nhưng có ý kiến cho rằng vẫn còn mùi hôi và rác thải. 3.2.Xử lý nước thải UBND TP.HCM đề nghị lựa chọn giải pháp phù hợp và so với ban đầu dự án đề xuất xây dựng một trạm xử lý gần kênh Tân Hóa - Lò Gốm. Do giá đất tăng vọt, nên phải dời ra vùng ngọai ô để xây dựng trạm xử lý. Do đây là trạm xử lý đầu tiên sử dụng công nghệ này tại Việt nam do đó vẫn còn mang nặng tính thử nghiệm. Mô tả Kênh Đen dài 4 km chảy theo hai quận Tân Phú và Bình Tân, hiện nay thu nhận nước thải từ 120,000 người dân và sẽ tăng lên đến 200,000 người vào năm 2020. Lưu vực của dự án là 785 ha. Diện tích của trạm xử lý nước thải là 33.2 ha. Trạm này sẽ xử lý nước thải từ kênh Đen vào mùa khô bằng công nghệ hồ sục khí và hồ ổn định sinh học. Hai hệ thống song song này được thiết kế để các trường đại học trong nước nghiên cứu thử nghiệm. Trạm xử lý nước thải sẽ được giao cho Công ty thoát nước đô thị TP.HCM quản lý hoạt động.  Mục tiêu Cải thiện chất lượng nước kênh Đen theo tiêu chuẩn TCVN 5945-1995 loại B; Đánh giá hệ thống và khả năng nhân rộng của nó; Củng cố năng lực của các thể chế liên quan đến công tác xử lý nước thải và tiến hành nghiên cứu với các trường đại học trong nước; Giữ một khoảng không gian xanh như đã đề xuất trong Qui hoạch tổng thể của thành phố. Hồ sục khí đã được vận hành.    Phưong pháp tiếp cận Các chuyên gia trong và ngoài nước đã thảo luận với các sở ngành của thành phố về việc lựa chọn công nghệ áp dụng cho dự án thí điểm này. Trạm XLNT bằng công nghệ hồ sục khí và hồ ổn định sinh học đã được lựa chọn thí điểm do công nghệ ít tốn kém và đánh giá khả năng nhân rộng. Các trường đại học trong và ngoài nước sẽ tiến hành các cuộc khảo sát để theo dõi họat động của hồ. Dự án sẽ huấn luyện nhân viên của Công ty thoát nước đô thị về công tác vận hành và duy tu trạm XLNT.  Ngân sách 2.5 triệu EUR (45 tỉ VNĐ) dành cho xây dựng và lắp đắt thiết bị cho hồ sinh hoc. 100 tỉ VND (5.5 triệu EUR) dành cho thu hồi đất.   Kết quả Báo cáo và bản vẽ thiết kế chi tiết đã hoàn tất vào tháng 8 năm 2003. Công tác thu hồi đất tuy chậm nhưng đã hoàn thành vào tháng 8 năm 2004. Công tác xây dựng theo lịch trình hoàn tất vào tháng 08 năm 2005, nhưng phải đến tháng 06 năm 2006 mới kết thúc, thiết bị đã được lắp đặt vào tháng 11 năm 2005. Dây chuyền đầu tiên đã bắt đầu vận hành vào tháng 12 năm 2005. Nhân viên của Công ty Thoát nước Đô thị đã được huấn luyện tại Bỉ về vận hành và duy tu. Trường đại học Ghent (giáo sư De Paw) và Liege (giáo sư Vasel) theo dõi công tác vận hành trong những tháng đầu và thiết lập chương trình hợp tác với các trường đại học tại TP.HCM.  Sắp tới Vận hành toàn bộ và bàn giao cho Công ty Thoát nước Đô thị vào tháng 4 năm 2006. Khánh thành công viên cho người dân sử dụng. Đánh giá khả năng nhân rộng sau 2 năm hoạt động.  Thử thách Công tác thu hồi đất gặp khó khăn do người sử dụng đất trước đây đã bán đất nông nghiệp theo giá bán đất xây dựng. Mặc dù các kết quả khả quan hiện nay, cần tiếp tục kiểm tra một số phiền toái có thể gây ra cho cộng đồng lân cận( muỗi, mùi hôi, tiếng ồn, ngập lụt …). Một phần của vùng đệm và hồ nối liền với diện tích công cộng, cần lưu ý các tai nạn có thể xảy ra trong quá trình xây dựng và chú ý đặc biệt đến an toàn dọc theo hồ. Khả năng nhân rộng tùy thuộc vào tổng chi phí / lợi ích đem lại sau khi đánh giá dự án, đặc biệt là chi phí tiền điện dùng cho vận hành rất cao. Việc hợp tác với các trường đại học và ngân sách sẽ quyết định công tác nghiên cứu cả ở trong nước và quốc tế. 3.3. Mở rộng kè bờ Mục tiêu Cải thiện chất lượng sống tại lưu vực Tân Hóa - Lò Gốm bằng cách cải thiện môi trường nước sạch hơn, kè bờ và trồng cây xanh dọc kênh. Củng cố năng lực trong phòng chống ngập lụt, môi trường và giao thông của các sở ngành và quận. Kè 340m bờ kênh bao gồm khoảng trống trồng cây xanh và đường nội bộ. Mở rộng kênh 24m và xây dựng cầu cảng cho phép các thuyền có trọng tải dưới 30 tấn lên xuống hàng vào chợ. Nâng cao khu vực dự án lên 2m so với mực nước biển. Phương pháp tiếp cận Tổ chức các cuộc thảo luận với các ban ngành thành phố và quận. Đã chấp thuận mở rộng khu vực dự án thí điểm đến 24m, cho phép các thuyền nhỏ hơn có thể cặp vào chợ mới. Đã lập cho toàn kênh. Cần tổ chức thu thập ý kiến của các chuyên gia, các sở ngành và ngừơi dân. Các ý kiến tập trung vào vấn đề môi trường, ngập lụt, sức khỏe, giao thông, kinh tế và chi phí của dự án. Ngân sách 935,000 EUR (17 tỷ đồng) dành cho kè bờ, đường và hạ tầng (Quỹ xóa nợ)  Kết quả Chính sách đền bù và tái định cư mới đã được phê duyệt. Đã chi trả tiền đền bù cho các hộ dân để mua căn hộ chung cư hoặc nền đất. Nhóm công tác xã hội tiếp tục tư vấn cho những gia đình bị ảnh hưởng bởi dự án để họ quyết định phương án tái định cư thích hợp nhất. Công tác xây dựng giai đoạn 1 đã hoàn thành đầu năm 2006 bao gồm đường, bờ kè, cầu cảng, chợ, xưởng thợ, 72 căn hộ chung cư, một quảng trường với nhà cộng đồng, các tiện ích cây xanh. Sắp tới Tìm nguồn tài chính và xây dựng bờ kè dọc toàn tuyến kênh như đã đề xuất. Thử thách Dự án đã bị chậm trễ nhiều do quá trình phê duyệt chính sách đền bù mới, thiết kế chung cư, quá trình đền bù mất nhiều thời gian, ưu tiên phê duyệt đấu thầu xây dựng (như đã nêu trên). 3.4.Tái định cư Nhà lụp xụp lấn chiếm dọc kênh Tân Hóa – Lò Gốm bị ô nhiễm nặng nề. Theo điều tra khảo sát của dự án cho thấy dân cư đã sống lâu năm ở khu vực này và phần lớn làm các nghề lao động không có chuyên môn. Dân cư tại P.11 phần lớn rất nghèo và phải đối mặt với các vấn đề xã hội như ma túy, mại dâm. Điều kiện nhà ở rất kém và ngay sát bên cạnh kênh. Cải thiện điều kiện sống dọc kênh đòi hỏi phải tái định cư một số hộ. Mục tiêu Cung cấp cho những người nghèo bị ảnh hưởng bởi dự án một giải pháp tái định cư phù hợp với các phương tiện tài chính và lối sống của họ. Tăng cường năng lực cộng đồng và chính quyền địa phương trong việc giải quyết các vấn đề về tái định cư. Đánh giá các phương án tái định cư khác nhau.Các phương án tái định cưCác phương án sau được đưa ra cho các hộ bị ảnh hưởng bởi dự án :        Tái định cư vào các chung cư thấp tầng do dự án thiết kế và xây dựng gần nơi ở cũ trên khu đất của xưởng bị di dời.  Tái định cư vào khu đất có hạ tầng cơ bản cách xa nơi ở cũ 8km tại Quận Bình Tân đề tự xây nhà với sự hỗ trợ của dự án.  Câp tiền đền bù để các hộ tự di dời.   Chính sách đền bù và tái định cư Lập chính sách đền bù và tái định cư chi tiết để hướng dẫn quá trình hỗ trợ các hộ dân di dời. Hầu hết các hộ dân đều rất nghèo, nhiều người có tình trạng nhà đất bất hợp pháp, mọi cố gắng về chính sách đền bù và tái định cư nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân để họ tự tạo nơi ở mới bằng cách: Xác định mức đền bù và hỗ trợ liên quan đến tình trạng pháp lý và đất, nhà ở và hạ tầng; Xác định các phương án tái định cư trong trường hợp đất đã có sẵn dành cho người dân và khả năng cho vay. Chính sách được triển khai dựa trên khuôn khổ luật pháp Việt nam và rút kinh nghiệm từ các dự án khác với các yếu tố đầu vào cuối cùng từ chính quyền thành 3.5. Nâng cấp đô thị Khu vực nằm kế bên kênh Tân Hóa - Lò Gốm bị ô nhiễm. Gồm có 166 gia đình nghèo sống trong các hẻm nhỏ ven kênh từ những năm 1970. Khu vực này thiếu các hạ tầng cơ bản như thoát nước, cấp điện, cấp nước được phải câu lại của tư nhân để dùng và phải trả tiền cao hơn. Nhiều hộ không có số nhà nên không đăng ký được đồng hồ điện, nước phải câu lại của tư nhân để dùng và phải trả tiền cao hơn.  Mục tiêu Cung cấp số nhà cho toàn bộ các hộ trong khu vực dự án. Cải thiện hạ tầng khu vực như: tráng nhựa hẻm, thoát nước, lắp đặt hệ thống chiếu sáng công cộng, cấp điện và cấp nước, làm hố xí tự hoại. Hỗ trợ người dân kết nối điện nước và xây dựng hố xí tự hoại.  Phương pháp tiếp cận Người dân địa phương tham gia điều tra khảo sát. Thiết kế dự án dựa trên ý kiến và nguyện vọng của nhân dân. Ngừơi dân tự lập nhóm cộng đồng để giám sát nhà thầu trong quá trìnhhực hiện. Người dân và chính quyền địa phương sẽ chịu trách nhiệm quản lý và duy tu. Nhóm công tác xã hội hỗ trợ hành chính và kỹ thuật về điện, nước, và xây hố xí tự họai. Các hộ gia đình có thể được hỗ trợ về tài chính qua các nhóm tín dụng và tiết kiệm.  Ngân sách 45,000 EUR (810 triệu VNĐ) hay 271 EUR (5 triệu VND) cho mỗi hộ. Kết quả Các hẻm được tráng nhựa và lắp đặt hệ thống chiếu sáng.     Biểu đồ kỹ thuật chi tiết     Kết nối điện và nước với hệ thống cấp điện, nước của thành phố, 166 hộ được gắn đồng hồ điện và nước.    Biểu đồ kỹ thuật chi tiết      Mở rộng hệ thống thoát nước, xây dựng hơn 20 hố xí tự họai được hỗ trợ kỹ thuật và 50% kinh phí.  Biểu đồ kỹ thuật chi tiết   Tiếp tục cải thiện nhà ở (nâng tầng, lát nền,quét vôi) không cần dự án hỗ trợ.  Sắp tới Mở rộng kênh và xây dựng kè bờ và cầu cảng cho khu vực dự án thí điểm Tìm nguồn tài trợ và xây bờ kè dọc toàn kênh như đề xuất trong NCKT Thử thách và bài học kinh nghiệm Tài chính phù hợp với khả năng thanh toán của các hộ bị ảnh hưởng bởi dự án và thành phố, dự án thí điểm là điển hình cho dự án Nâng Cấp Đô Thị do World Bank hỗ trợ. Dự án đã chứng minh tính trung hạn (10-15 năm) của giải pháp đối với các vấn đề cải thiện vệ sinh và người nghèo đô thị. Vẫn còn tồn tại tính thiếu bền vững đối với các hộ bị ảnh hưởng bởi dự án Việc lắp đặt hệ thống thoát nước và tôn cao nền hẻm để tránh ngập nước gây khó khăn cho việc kết nối các ngôi nhà dọc hẻm. Cần quy trách nhiệm duy tu các tiện ích mới (chiếu sáng công cộng, vv..). III. Kết luận Hệ thống kênh rạch thành phố Hồ Chí Minh vừa là hệ thống giao thông thủy lợi,cung cấp nước sinh hoạt, vừa tạo mỹ quan đô thị. Nhưng hiện nay hệ thống kênh rạch đang bị ô nhiễm nghiêm trọng do ảnh hưởng từ hoạt động sống sinh hoạt của người dân, các cơ sở sản xuất và sự thay đổi thời tiết khí hậu. Kênh Tân Hóa – Lò Gốm cũng không tránh khỏi tình trạng trên. Trước thực trạng nói trên, chính quyền và ủy ban nhân dân thành phố đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao ý thức của người dân sống ven kênh và các cơ sở sản xuất kinh doanh, nhưng do tiến hành không đồng bộ và không nhất quán nên hầu hết đều đạt hiệu quả không như mong muốn. Dự án cải tạo kênh và đường dọc kênh Tân Hoá – Lò Gốm, do Ban quản lý dự án nâng cấp đô thị thành phố làm chủ đầu tư bằng nguồn vốn vay ODA nhưng tới nay vẫn chưa vay được vốn.Trong khi chỉ riêng tiền đền bù giải toả cho các hộ dân đã hơn 200 triệu USD.  Riêng quận Tân Bình được UBND TP.HCM chấp thuận cho tách riêng đoạn kênh thuộc địa bàn quận Tân Bình để thực hiện trước, với nguồn vốn ngân sách thành phố. Dự án cải tạo đoạn kênh chảy trên địa bàn quận Tân Bình bắt đầu từ 15/10/2008, dự định hoàn thành vào tháng 5/2009. Năm 2003, Chương trình hợp tác môi trường Mỹ - Á, Quỹ châu Á và Đại học Porland (Mỹ) đã đầu tư 25.000 USD triển khai dự án Cải thiện chất lượng môi trường kênh Tân Hóa - Lò Gốm với sự tham gia của cộng đồng, đoạn 2 km thuộc phường 3, quận 11. Sau 2 năm triển khai so với các dự án cải tạo môi trường kênh, mương trong thành phố, số kinh phí này không lớn, tuy nhiên hiệu quả lớn nhất rút ra từ quá trình triển khai dự án là bài học về công tác giáo dục, vận động cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường.Song, để giải quyết hiệu quả tình trạng ô nhiễm cho dòng kênh này thì cần phối hợp các biện pháp khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTinh trang va bien phap cai tao kenh Tan Hoa Lo.doc