Thế kỷ XIII – khi quân đội Mông Gôn tiến hành chiến tranh xâm lược thế giới, các nước châu Âu đang chìm đắm trong chế độ phong kiến phân tán, lạc hậu; Trung Quốc và Ấn Độ không thực sự giữ vững sự ổn định bởi các biến động lịch sử, thì ĐNA vẫn giữ được sự phát triển của mình. Đây chính là nguyên nhân cơ bản khiến một đế chế hiếm khi thất bại trên chiến trường thế giới, lại không đạt được mục đích thâu tóm toàn bộ khu vực này. Thắng lợi của các dân tộc ĐNA trong cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên xâm lược gần nửa thế kỷ (1258 - 1301) là một trong những nhân tố góp phần giữ vững vị thế của khu vực này trong đời sống chính trị thế giới đương thời và để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử khu vực cũng như lịch sử mỗi quốc gia. Những biến cố lịch sử diễn ra trong nửa cuối thế kỷ XIII cho thấy, cuộc chiến tranh xâm lược của đế chế Mông-Nguyên ở ĐNA tuy không đạt được mục đích, nhưng đã có tác động không nhỏ đến tình hình chính trị và đã để lại những hệ lụy lịch sử lớn lao tại khu vực này.
27 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu [Tóm tắt] Luận án Các cuộc chiến tranh xâm lược Đông Nam Á của đế chế Mông-Nguyên và tác động của nó đến tình hình Đông Nam Á (thế kỷ XIII - XIV), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
BÙI THỊ ÁNH VÂN
CÁC CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC ĐÔNG NAM Á
CỦA ĐẾ CHẾ MÔNG-NGUYÊN
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN TÌNH HÌNH ĐÔNG NAM Á
(THẾ KỶ XIII - XIV)
Chuyên ngành: LỊCH SỬ THẾ GIỚI
Mã số: 62.22.03.11
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội – 2014
Công trình được hoàn thành tại: Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Ngô Văn Doanh
PGS. TS. Lại Bích Ngọc
Phản biện 1: PGS. TS. Phạm Hồng Thái
Tạp chí nghiên cứu Đông Băc Á
Phản biện 2: GS. TS. Trân Thị Vinh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Phản biện 3: PGS. TS. Lê Đình Sỹ
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp nhà nước họp tại
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2014
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- Thư viện Quốc Gia Việt Nam
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
Bùi Thị Ánh Vân, 2003, Về sự thay đổi bản đồ chính trị Đông Nam Á thế kỷ XIII, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, – Viện KHXH VN, Số tháng 3/ 2003, tr. 77 - 79.
Bùi Thị Ánh Vân, 2010, Làn sóng xâm lược của đế quốc Nguyên Mông xuống khu vực Đông Nam Á (thế kỷ XIII), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện KHXH VN, số 126 (tháng 9/2010), tr. 46 - 52.
Bùi Thị Ánh Vân, 2010, Những liên minh ở Đông Nam Á trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông (Thế kỷ XIII), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, – Viện KHXH VN, Số 129 (tháng 12/2010), Tr. 51 - 58.
Bùi Thị Ánh Vân, 2011, Vai trò vương triều Môjôpahit trong lịch sử Inđônêxia, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, – Viện KHXH VN, Số 132 (tháng 3/2011), Tr. 34 - 40.
Bùi Thị Ánh Vân, 2011, Cuộc chiến tranh xâm lược thế giới của đế quốc Nguyên Mông (Thế kỷ XIII), Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, – Viện KHXH VN, số 128 (tháng 5/2011), tr. 49 - 57 .
Bùi Thị Ánh Vân, 2012, Cuộc chiến tranh xâm lược Inđônêxia của đế quốc Nguyên Mông (Thế kỷ XIII), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á – Viện KHXH VN, số 146 (tháng 5. 2012), tr. 51 - 58.
Bùi Thị Ánh Vân, 2012, Cuộc chiến tranh xâm lược Myanmar của đế quốc Nguyên Mông (Thế kỷ XIII), Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á – Viện KHXH VN, số136 (tháng 6. 2012), tr. 32 - 43.
Bùi Thị Ánh Vân, 2012, Tìm hiểu nguyên nhân những thắng lợi của đế quốc Nguyên Mông trong cuộc chiến tranh xâm lược thế giới (Thế kỷ XIII), Tạp chí Nghiên cứu châu Âu – Viện KHXH VN, số142 ( tháng 7. 2012), tr. 62 - 72.
Bùi Thị Ánh Vân, 2012, Nguyên nhân người Thái Vân Nam – Trung Quốc di cư và lập quốc ở Đông Nam Á lục địa (thế kỷ XIII), số 142 (tháng 10. 2012), tr. 71 – 78.
Bùi Thị Ánh Vân, 2012, Kertanagara – Người lãnh đạo đầu tiên cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược ở Inđônêxia (Thế kỷ XIII), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện KHXHVN, số 153 (tháng 12. 2012), tr. 41 - 46.
Bùi Thị Ánh Vân, 2013, Sự thành lập các vương quốc Thái ở Đông Nam Á từ sau chiến tranh xâm lược Nguyên Mông (thế kỷ XIII), số 164 (tháng 11. 2013), tr. 82 – 84.
Bùi Thị Ánh Vân, 2014, Sự lớn mạnh của quân đội Mông Cổ (thế kỷ XIII), Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Viện KHXHVN, số 158 (tháng 4. 2014), tr. 73 - 78.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1. Trong khoa học lịch sử, đã xuất hiện những công trình có giá trị khi nghiên cứu về cuộc chiến tranh xâm lược thế giới của Mông – Nguyên. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh xâm lược Đông Nam Á (ĐNA) của đế chế này vẫn chưa được đề cập đến như một đối tượng độc lập trong các nghiên cứu đi trước.
2. Các cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA (1258 – 1301) của Mông-Nguyên đã có những tác động để lại nhiều hệ lụy lịch sử ở khu vực. Tìm hiểu về tình hình ĐNA từ sau cuộc chiến tranh này, góp phần làm sáng tỏ nhiều khía cạnh lịch sử - chính trị diễn ra trong khu vực cuối thế kỷ XIII – đầu thế kỷ XIV.
3. Nghiên cứu về cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA của đế chế Mông-Nguyên không chỉ đơn thuần giải đáp những vấn đề khoa học dưới góc độ lịch sử, mà còn mang lại những tư liệu hữu ích về việc nghiên cứu lịch sử chính trị của ĐNA trong mối quan hệ giữa các nước cùng khu vực và sự tác động từ cuộc chiến tranh xâm lược của Mông-Nguyên. Trong đó, nổi bật là những tác động trên phương diện chính trị, bao gồm: sự thay đổi bản đồ chính trị khu vực, sự liên kết các quốc gia ĐNA trước họa xâm lăng. Điều đặc biệt là, những tác động đó không chỉ ở một vài nước mà diễn ra trên toàn khu vực ĐNA và nó xảy ra không chỉ sau khi cuộc chiến tranh kết thúc mà ngay khi sự kiện này sắp diễn ra và đang diễn ra.
4. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà các nước ĐNA đang sát cánh bên nhau, cùng bảo vệ những lợi ích chính đáng của dân tộc trước những diễn biến căng thẳng và ngày càng leo thang ở Biển Đông do Trung Quốc gây ra, đang rất cần những sợi dây liên kết từ quá khứ. Sự đoàn kết giữa các quốc gia ĐNA trong chiến hào chống xâm lăng Mông-Nguyên ở thế kỷ XIII, chính là nền tảng, là cơ sở để củng cố mối quan hệ tốt đẹp truyền thống giữa các nước trong khu vực ở hiện tại và tương lai, khiến họ xích lại gần nhau hơn, cùng đối phó với nguy cơ chủ quyền lãnh thổ bị xâm phạm từ chính "người láng giềng khổng lồ". Có thể thấy rằng, nghiên cứu về cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA của đế chế Mông-Nguyên (từ nửa cuối thế kỷ XIII đến những năm đầu thế kỷ XIV) và những tác động của nó đến tình hình chính trị khu vực, không chỉ cần thiết cho việc nhận thức lịch sử một cách đơn thuần mà còn mang ý nghĩa thực tiễn trong cuộc sống đương đại.
5. Ngày nay, việc giảng dạy về lịch sử ĐNA ở các trường Cao đẳng, Đại học và nhà trường Phổ thông đang rất cần những tư liệu chuyên sâu về khu vực. Vì vậy, việc nghiên cứu về cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA của Mông-Nguyên sẽ mang lại một nguồn tài liệu vô cùng ý nghĩa đối với việc giảng dạy các nội dung về lịch sử ĐNA, đặc biệt về lịch sử thời kì cổ - trung đại.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Các cuộc chiến tranh xâm lược Đông Nam Á của đế chế Mông-Nguyên và tác động của nó đến tình hình Đông Nam Á (thế kỷ XIII - XIV)” làm đề tài Luận án.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu mà Luận án hướng tới là tình hình khu vực ĐNA thời gian trước, trong, sau chiến tranh xâm lược của Mông-Nguyên và các cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA của đế chế này.
Phạm vi:
- Thời gian: Thế kỷ XIII – XIV.
- Không gian: Khu vực ĐNA.
- Nội dung vấn đề nghiên cứu trong luận án là phân tích những mưu đồ chiến lược của Mông-Nguyên đối với các quốc gia ĐNA; nghiên cứu về diễn biến, kết quả các cuộc chiến tranh Mông-Nguyên xâm lược ĐNA ở phương diện chung của khu vực. Tác động của các cuộc chiến tranh này đến lịch sử ĐNA diễn ra trên tất cả các phương diện, tuy nhiên luận án chỉ đề cập những tác động đến tình hình chính trị của khu vực.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu
Mục tiêu của luận án là trình bày một cách hệ thống, toàn diện về các cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA của đế chế Mông-Nguyên (từ năm 1258 đến 1301); đưa ra những phân tích, đánh giá về cuộc chiến tranh này. Đồng thời tác giả cũng chứng minh rằng cuộc viễn chinh của Mông-Nguyên tuy không đạt được mục đích ở ĐNA, nhưng đã có tác động không nhỏ đến tình hình của toàn khu vực chứ không chỉ ở một vài quốc gia. Tác động của cuộc chiến tranh tới ĐNA thể hiện ở nhiều phương diện, nhưng trong nội dung luận án, tác giả chủ yếu đi sâu phân tích những tác động tới tình hình chính trị của khu vực.
Tác giả cũng hi vọng luận án có thể góp phần thúc đẩy việc nghiên cứu toàn diện về cuộc chiến tranh xâm lược của đế chế Mông-Nguyên đến ĐNA cũng như các khu vực khác và những tác động lịch sử do cuộc chiến tranh này gây nên.
* Nhiệm vụ
Để thực hiện những mục tiêu trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những yếu tố đưa đến các cuộc xâm lược ĐNA của đế chế Mông-Nguyên.
- Trình bày diễn biến và kết quả cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA của đế chế Mông-Nguyên theo từng giai đoạn và đưa ra những nhận xét, đánh giá ở phương diện chung của khu vực.
- Phân tích để làm rõ những tác động cơ bản từ cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA của đế chế Mông-Nguyên đến tình hình chính trị khu vực.
4. Nguồn tài liệu
Để thực hiện các mục tiêu của luận án, tác giả đã sử dụng những nguồn sử liệu của Trung Quốc, Việt Nam và các nước ĐNA; đồng thời tham khảo kết quả của các công trình nghiên cứu đi trước của học giả nước ngoài và Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học lịch sử: phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp liên ngành và phương pháp khu vực học để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu của luận án.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài luận án được thực hiện sẽ mang lại những đóng góp nhất định về mặt khoa học và thực tiễn:
1. Trình bày một cách hệ thống về những cuộc chiến tranh xâm lược các nước ĐNA của đế chế Mông-Nguyên ở góc độ khu vực - điều mà trước đây chưa được đề cập tới một cách đầy đủ trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào ở Việt Nam.
2. Góp phần làm sáng tỏ tác động từ cuộc chiến tranh xâm lược của Mông-Nguyên đối với tình hình chính trị ĐNA. Tác động của cuộc chiến tranh này đến ĐNA thì nhiều, nhưng tác giả tập trung đề cập những tác động để lại hệ quả cho cả khu vực.
3. Luận án có thể sẽ là tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử ĐNA, về mối quan hệ ngoại giao giữa các nước trong khu vực với Trung Quốc thời phong kiến.
7. Bố cục luận án:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Tình hình Đông Nam Á thế kỷ XIII và âm mưu xâm lược của đế chế Mông - Nguyên.
Chương 3: Các cuộc chiến tranh xâm lược Đông Nam Á của đế chế Mông - Nguyên.
Chương 4: Tác động từ cuộc chiến tranh xâm lược của đế chế Mông - Nguyên đến tình hình Đông Nam Á (thế kỷ XIII – XIV).
Các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án của tác giả được công bố trong 12 bài báo trên các tạp chí khoa học trong nước.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài
Ngay từ thời Pháp thuộc, đặc biệt là sau sự ra đời của trường Viễn Đông Bác cổ (EFEO), việc nghiên cứu về lịch sử khu vực ĐNA đã được các học giả quan tâm chú ý. Từ giữa thế kỷ XX, nhiều học giả Nga cũng đã có các công trình nghiên cứu về lịch sử - văn hóa khu vực ĐNA mang giá trị cao.
Nghiên cứu về lịch sử ĐNA có thể kể đến những công trình gắn với tên tuổi của G. Coedès, D.G.E. Hall, C.C. Berg, Pigeaud T.G.T, L.A. Xê-đốp, E.O. Bec-din Trong cuốn sách nổi tiếng Cổ sử các quốc gia Ấn độ hóa ở Viễn Đông, dù chỉ ở mức độ khái quát về các cuộc viễn chinh của người Mông Cổ đến một số nước ĐNA, nhưng G. Coedès đã dành cả một chương nói về một số hệ quả từ những chiến tranh này đối với khu vực. Tuy không hệ thống hóa về các cuộc chiến tranh xâm lược của đế chế Mông-Nguyên, nhưng cuốn Lịch sử Đông Nam Á của D.G.E. Hall đã phần nào phân tích được một số tác động của sự kiện này đến tình hình chính trị ĐNA. Bên cạnh đó, có nhiều tác phẩm khác, như Le Royaume de Champa của Geogres Maspero, History of Siam của W.A.R. Wood, Lịch sử Thái Lan tóm lược của E.O. Bec-din; Đế quốc Angco của L.A. Xê- đốp; các tác giả Édouard Huber với La fin de la dynastie de Pagan, Paul J. Bennet với The Fall of Pagan: continuity and change in 14th century Burma, I.V. Mô-day-cô và A.N. U- đi-a-nốp với Lịch sử Miến Điện đã tái hiện phần nào những trang sử của các quốc gia ĐNA trong thời kỳ trước, trong và sau khi bị đế chế Mông-Nguyên xâm lược.
Trên các tạp chí quốc tế chuyên ngành về ĐNA (như: Journal of the Siam Society, Journal of Southeast Asian Studies) có nhiều bài viết cũng đề cập khá sâu sắc về một số vấn đề lịch sử ở ĐNA trong thời gian Mông-Nguyên xâm lược cũng như một số tác động của cuộc chiến tranh này đến lịch sử khu vực.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu của học giả Việt Nam
Việc nghiên cứu về lịch sử của ĐNA mấy chục năm gần đây đã thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả Việt Nam và họ đã có những đóng góp đáng kể đối với sự nghiệp nghiên cứu về lịch sử - văn hoá của khu vực.
Điểm chung của các tác phẩm này là đều nghiên cứu ở góc độ kháng chiến khi viết về cuộc chiến tranh xâm lược Mông-Nguyên ở ĐNA. Tác phẩm Việt Nam và Đông Nam Á thời kỳ chống xâm lược Nguyên Mông (thế kỷ XIII) của Nguyễn Thị Thu Thủy đã có những phác thảo ban đầu về cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên của một số nước ĐNA. Tác phẩm Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm, Việt Nam ba lần đánh quân Nguyên toàn thắng của Nguyễn Lương Bích, đã viết rất rõ ràng về bối cảnh, diễn biến và nguyên nhân thắng lợi của ba cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên của Đại Việt thế kỷ XIII; đồng thời các tác giả này cũng dành một số trang viết về cuộc kháng chiến của nhân dân Champa.
Bên cạnh đó, cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên cũng hiện lên với những nét cơ bản trong các công trình nghiên cứu về lịch sử từng quốc gia ĐNA cũng như những bài viết trên các tạp chí chuyên ngành (như Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu).
1.2. Những vấn đề đã được giải quyết và chưa được giải quyết
1.2.1. Những vấn đề đã được giải quyết
- Các nghiên cứu đã trình bày những nét cơ bản về kháng chiến của ĐNA chống Mông-Nguyên xâm lược trong mối quan hệ với các diễn biến lịch sử khác.
- Đã có một số ý kiến bàn luận, nhận xét về các cuộc chiến tranh xâm lược Mông-Nguyên, nhưng ở góc độ riêng lẻ từng quốc gia. Ở Việt Nam, đã có công trình chuyên khảo về đề tài cuộc kháng chiến của Đại Việt chống Mông-Nguyên xâm lược, hoặc cuộc kháng chiến ở một vài quốc gia ĐNA.
- Tình hình chính trị ĐNA trong và sau khi chiến tranh xâm lược của Mông-Nguyên diễn ra đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến trong mối quan hệ với những diễn biến lịch sử khác ở thế kỷ XIII- XIV.
1.2.2. Những vấn đề chưa được giải quyết
Những vấn đề còn chưa được nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống, đó là:
- Âm mưu và những thủ đoạn trong việc xâm lược và nô dịch các nước ĐNA của đế chế Mông-Nguyên.
- Phân tích bối cảnh chung của các nước ĐNA trước khi bị xâm lược, từ đó có những lý giải đúng đắn về những kết quả mà sau này đế chế Mông-Nguyên thu nhận được trong các giai đoạn tấn công ĐNA sau này.
- Hệ thống hóa quá trình Mông-Nguyên xâm lược ĐNA theo các giai đoạn và trình bày ở góc độ khu vực, đánh giá ý nghĩa khu vực của các thắng lợi của các cuộc kháng chiến ở mỗi quốc gia dân tộc ĐNA.
- Phân tích tác động của cuộc chiến tranh xâm lược của đế chế Mông-Nguyên đến tình hình chính trị ĐNA trong thế kỷ XIII – XIV.
Dựa vào các nguồn tài liệu gốc (sử liệu Trung Quốc và Đông Nam Á) và kết quả từ những công trình nghiên cứu của các học giả đi trước ở trong và ngoài nước, tác giả sẽ cố gắng đi vào nghiên cứu để giải quyết các vấn đề còn bỏ ngỏ nói trên trong luận án của mình.
CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH ĐÔNG NAM Á THẾ KỶ XIII VÀ
ÂM MƯU XÂM LƯỢC CỦA ĐẾ CHẾ MÔNG-NGUYÊN
_______________________
2.1. Bối cảnh chính trị - xã hội Đông Nam Á thế kỷ XIII
Thế kỷ XIII là một dấu mốc nổi bật trong giai đoạn phát triển của các quốc gia ĐNA. Mặc dù vậy, sự phát triển của một số nước vẫn chưa thực sự ổn định. Đối phó với nguy cơ Mông-Nguyên xâm lược, tất cả các vương quốc ĐNA cần duy trì sự phát triển, khắc phục tình trạng bất ổn định để tập trung cho cuộc chiến tranh vệ quốc.
2.2. Đế chế Mông-Nguyên và âm mưu bành trướng khu vực ĐNA
2.2.1. Sự lớn mạnh của đế chế Mông-Nguyên
Năm 1206, một nhà nước phong kiến quân sự độc tài tập quyền ra đời ở Mông Cổ. Bắt đầu từ đây, đế chế này đã đẩy mạnh những cuộc chiến tranh xâm lược và nô dịch các dân tộc khác trên thế giới. Sau khi tiêu diệt xong Nam Tống (1271), các cuộc chiến tranh bành trướng đã được gắn liền với triều đại nhà Nguyên và từ đây Mông Gôn được sử sách nhắc đến với một tên gọi nữa: Đế chế Mông-Nguyên. Công cuộc bành trướng đã đem lại cho đế chế này một lãnh thổ rộng lớn trải dài từ châu Á sang châu Âu.
2.2.2. Âm mưu bành trướng ĐNA của đế chế Mông – Nguyên
Gần nửa thế kỷ (1258 – 1301), Mông-Nguyên tiến hành xâm lược ĐNA nhằm mở rộng bản đồ của đế chế, sáp nhập các nước này vào hệ thống cống nạp – thần thuộc (“Tribute system and depends”) của chúng. Sự giàu có về tài nguyên, sự phồn thịnh do kinh tế nông nghiệp và thương mại đem lại của các nước ĐNA chính là một trong những điều hấp dẫn đế chế này. Hơn nữa ĐNA còn là vùng đệm, kết nối Trung Quốc với Ấn Độ - một nước có diện tích rộng lớn, sở hữu nguồn tài nguyên giàu có và nền văn minh rực rỡ, lâu đời. Việc đánh chiếm ĐNA có kết quả sẽ giúp đế chế Mông-Nguyên tấn công đất nước Nam Á rộng lớn này dễ dàng hơn. Đồng thời, chiếm được ĐNA cũng có nghĩa là hoàng đế Mông-Nguyên đã sở hữu được một vị trí chiến lược quan trọng ở giữa Biển Đông, từ đó nắm được “con đường thương mại quan trọng từ Trung Nguyên đến khu vực Nam Á, mà xa hơn là Trung Đông và Bắc Phi”.
Rõ ràng mưu đồ thôn tính ĐNA của Mông-Nguyên không đơn thuần chỉ là áp đặt sự nô dịch của một đế chế lên một khu vực, mà nó mang tầm chiến lược có tính toàn cầu. Việc chinh phục và thâu tóm trọn vùng ĐNA là một trong những điều mà hoàng đế Mông - Nguyên nhận thức cần phải hoàn thành trên con đường thực hiện tham vọng thống trị thế giới.
2.3. Các hoạt động chuẩn bị thôn tính ĐNA của Mông-Nguyên
2.31. Mông Cổ xâm lược Đại Lý và Nam Tống
Năm 1253, Mông Cổ đánh chiếm Đại Lý (Nam Chiếu). Việc thôn tính được quốc gia này vào năm 1257, đã giúp quân xâm lược thuận lợi hơn trong việc đẩy mạnh hơn nữa cuộc chiến tranh xâm lược Nam Tống đang dở dang (1236 – 1271); đồng thời chúng đã tạo lập được bàn đạp trong việc chinh phục quốc gia đầu tiên ở ĐNA là Đại Việt (1258).
2.3.2. Đế chế Mông-Nguyên chiêu dụ các nước ĐNA thần phục
Để đỡ hao tổn binh lực, trước khi dụng binh đánh ĐNA, đế chế Mông-Nguyên đã cử các đoàn sứ giả đi chiêu dụ các quốc gia này thần phục. Tuy nhiên, sự kiên cường của các dân tộc ĐNA khiến cho những âm mưu này bị thất bại.
Tiểu kết chương 2
Từ thế kỷ X - XV, nhìn chung các nước trong khu vực ĐNA đều đang ở giai đoạn phát triển ; thậm chí một số vương quốc được các học giả gọi là đế chế (Chân Lạp, Srivijaya, Pagan). Tuy nhiên, xen lẫn trong sự phát triển, đã có những dấu hiệu ban đầu của sự khủng hoảng, suy yếu ở một số quốc gia. Cùng thời điểm đó tại Bắc Á, đế chế Mông-Nguyên ngày càng lớn mạnh bởi việc tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược thế giới. Chúng đã có nhiều hoạt động đe dọa độc lập – chủ quyền của các quốc gia ĐNA, hòng mở rộng bản đồ của đế chế và lấy khu vực này làm bàn đạp cho các cuộc chiến tranh xâm lược những khu vực khác.
CHƯƠNG 3
CÁC CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC ĐÔNG NAM Á
CỦA ĐẾ CHẾ MÔNG - NGUYÊN
3.1. Những cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA thời kỳ đế chế Mông Cổ (cuối những năm 50 – cuối những năm 70 của thế kỷ XIII)
3.1.1. Âm mưu của đế chế Mông Cổ
Cả hai cuộc tấn công đầu tiên ở ĐNA (Đại Việt - 1258 và Pagan - 1277) của Mông Cổ đều diễn ra trong khoảng thời gian mà chúng đang dồn lực lượng tiến đánh và bình định Nam Tống (1236 – 1271). Nếu chiếm được Đại Việt và Pagan, không những Mông Cổ thuận lợi trong việc tiêu diệt nhà Tống mà chúng còn tạo dựng được bàn đạp cho các cuộc tấn công ĐNA ở giai đoạn sau. Âm mưu của Mông Cổ là rất rõ ràng, nhưng lúc này chúng vẫn chưa phác họa một kế hoạch cụ thể để tiến đánh toàn bộ khu vực ĐNA.
3.1.2. Diễn biến các cuộc chiến tranh xâm lược
3.1.2.1. Mông Cổ xâm lược Đại Việt (1258)
Cuối năm 1257, hai vạn rưỡi quân Mông Gôn do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy tiến đánh Đại Việt. Do gặp nhiều khó khăn về hậu cần và liên tục bị quân dân nhà Trần tập kích, Mông Cổ buộc phải rút quân khỏi Đại Việt vào đầu năm 1258.
3.1.2.2. Mông Cổ xâm lược Pagan (1277)
Năm 1277, Mông Cổ xâm lược Pagan và đã dành được quyền kiểm soát được một vùng tương đối rộng ở biên giới. Tuy nhiên, khí hậu khắc nghiệt đã khiến Hốt Tất Liệt quyết định từ bỏ những thành quả đạt được ở Pagan và rút quân về nước.
3.1.3. Kết quả các cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA thời kỳ đế chế Mông Cổ
Hai cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA thời kỳ đế chế Mông Cổ đều thất bại và cũng vì thế, mưu đồ đánh Tống từ phía Nam lên cũng không thực hiện được. Nhưng qua các cuộc giao chiến với Đại Việt và Pagan, Mông Cổ đã xác định được phần nào sức mạnh, tiềm lực kháng chiến của mỗi nước. Điều này sẽ là cơ sở để chúng đưa ra những kế hoạch quân sự mới cho các cuộc tấn công xâm lược ĐNA trong giai đoạn sau.
3.2. Những cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA thời kỳ đế chế Mông Cổ lập nên nhà Nguyên trên đất Trung Hoa (từ những năm 80 của thế kỷ XIII đến những năm đầu thế kỷ XIV)
3.2.1. Kế hoạch thôn tính ĐNA của đế chế Mông-Nguyên
Năm 1279, sau khi đã hoàn thành công cuộc bình định đối với Trung Quốc, Hốt Tất Liệt tiếp tục triển khai các hoạt động quân sự ở ĐNA. Trong những năm 80 của thế kỷ XIII, quân xâm lược dồn dập tiến đánh ĐNA ở cả hai phía: Tây (Pagan) và Đông (Đại Việt), hòng tạo lập thế hai gọng kìm đối với các quốc gia ở ĐNA lục địa, rồi từ đây sẽ đánh tỏa xuống những nước ĐNA hải đảo. Nhưng sự thất bại của kế hoạch này đã buộc Mông-Nguyên chuyển xuống tấn công phía Nam (Singosari ở Java) và vùng trung tâm (các tiểu quốc Thái) của ĐNA để tạo dựng bàn đạp đánh các nước còn lại trong khu vực.
3.2.2. Diễn biến đợt 1 cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA của đế chế Mông- Nguyên (1282-1287)
3.2.2.1. Mông Nguyên xâm lược Champa (1282 – 1285) và đe dọa chủ quyền của Campuchia (1282 – 1283)
Cuối năm 1282, quân Nguyên do Toa Đô dẫn đầu vượt biển đến Champa, hòng lấy quốc gia này làm bàn đạp tấn công Đại Việt từ phía Nam. Nhưng sự kéo dài của cuộc chiến tranh khiến quân xâm lược gặp nhiều khó khăn. Khi cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt hoàn toàn thất bại (giữa năm 1285) thì Mông-Nguyên mới hoàn toàn rút quân ra khỏi vương quốc Champa.
Trong thời gian đánh Champa, Toa Đô đã cử một đội quân sang Campuchia (1282 – 1283) vừa chiêu dụ vừa đe dọa, hòng buộc quốc gia này hàng phục. Tuy nhiên đội quân này đã không hoàn thành sứ mệnh bởi sự kiên quyết từ chối của quốc vương Campuchia. Do đang vướng bận bởi chiến tranh ở Champa và Đại Việt, nên Hốt Tất Liệt đã không thể huy động thêm lực lượng để trừng phạt vương quốc này.
3.2.2.2. Mông-Nguyên xâm lược Đại Việt (1285)
Đầu năm 1285, quân Nguyên tấn công xâm lược Đại Việt từ hai hướng: một cánh quân từ phía Bắc (Trung Quốc) kéo xuống do Thoát Hoan chỉ huy và một đội quân từ phía Nam (Champa) do Toa Đô kéo lên. Cuộc chiến đấu đã diễn ra rất ác liệt giữa hai bên. Tuy nhiên, thời gian chiến tranh kéo dài khiến quân xâm lược gặp phải những bất lợi về lương thực và khí hậu nóng cùng dịch bệnh. Giữa năm 1285, Đại Việt tiến hành phản công và giành được những thắng lợi quan trọng ở Tây Kết, Hàm Tử và Chương Dương. Trước tình cảnh hiểm nghèo, Thoát Hoan ra lệnh rút quân về nước.
3.2.2.3. Mông-Nguyên xâm lược Pagan (1283 và 1287)
Cuối năm 1283, một vạn quân Nguyên được điều động đi đánh Pagan. Sau khi được tăng cường viện binh, Mông - Nguyên đã giành thế chủ động trên chiến trường và tuyên bố những vùng chiếm được là “tỉnh Miến”. Mặc dù vậy, sự quản lý của đế chế này đối với Pagan vẫn còn lỏng lẻo, nhất là khi Mông-Nguyên rút quân về nước.
Sau thất bại của công cuộc chiêu dụ Campuchia (1282 – 1283) cùng cuộc chiến ở Champa (1282 – 1285) và Đại Việt (1285), nhà Nguyên nhận thấy cần phải củng cố sự thống trị của mình ở Pagan và lấy đó làm căn cứ, mở đường đánh rộng sang các nước ĐNA lục địa. Đầu năm 1287, nhân cơ hội triều đình Pagan rối loạn, nhà Nguyên đã cho quân tiến đánh và dễ dàng thôn tính được quốc gia này. Với thắng lợi dành được ở Pagan, quân xâm lược đã mở được cánh cửa thứ nhất cho việc tấn công khu vực ĐNA.
3.2.3. Diễn biến đợt 2 cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA của Mông-Nguyên (1287-1301)
3.2.3.1. Mông-Nguyên xâm lược Đại Việt (1287 – 1288)
Việc chiếm được Pagan (1287) cho thấy, nếu cuộc tấn công ở Đại Việt thắng lợi, Mông-Nguyên sẽ kiến tạo được thế trận hai gọng kìm đánh ĐNA: Một ở phía Tây (Pagan) và một ở phía Đông của ĐNA lục địa (Đại Việt). Do sự quan trọng của Đại Việt trong chiến lược hai gọng kìm nên sau khi giành được thắng lợi ở Pagan, Hốt Tất Liệt quyết định dừng cuộc tấn công trả thù Nhật Bản, tập trung lực lượng để đánh quốc gia này.
Cuối năm 1287, quân Nguyên theo hai con đường: bộ (Thoát Hoan chỉ huy) và thủy (Ô Mã Nhi chỉ huy) ồ ạt tràn vào Đại Việt. Vì đoàn thuyền lương bị quân dân nhà Trần bị tiêu diệt, nên chúng đã gặp phải những khó khăn về hậu cần. Cùng với đó, Đại Việt thực hiện kế sách trá hàng và tiến hành chiến tranh du kích khiến quân xâm lược ngày càng lún sâu vào thế bị động, nên chúng đã quyết định rút chạy (3.1288). Trong bối cảnh đó, quân dân nhà Trần tiến hành phản công và liên tiếp thắng lợi, tiêu biểu là trận Bạch Đằng (4.1288). Cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần ba (1287 – 1288) của đế chế Mông-Nguyên đã hoàn toàn bị thất bại.
Mông-Nguyên xâm lược Singosari (1292 – 1293)
Sự thất bại liên tiếp của những cuộc chiến tranh xâm lược ở các nước ĐNA trong những năm 80 của thế kỷ XIII buộc nhà Nguyên phải quay xuống tấn công phía Nam khu vực này. Cuối năm 1292, binh thuyền của Mông-Nguyên dong buồm xuống tiến đánh Singosira (Java).
Trong khi nhân dân Java đang tập trung lực lượng cho cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên thì Jaya Catvang (tiểu vương Kediri) đã tạo phản và giết chết vua Singosari. Trước tình thế khó khăn này, Raden Vijaya (con rể quốc vương Singosari) đã khôn khéo lợi dụng sức mạnh của Mông-Nguyên để tiêu diệt kẻ tiếm ngôi; rồi sau đó, ông đã lãnh đạo nhân dân Java kháng chiến chống xâm lược thắng lợi (đầu năm 1293).
3.2.3.3. Mông-Nguyên xâm lược các vương quốc Thái (1292 – 1293 và 1300 – 1301)
Cuối năm 1292, nhân cơ hội vương quốc Haripunjaya cầu cứu vì bị Chiang Rai xâm chiếm, quân Nguyên lập tức tràn vào chiếm lưu vực Chaophraya, khống chế Chiang Rai và đe dọa độc lập – chủ quyền của các tiểu quốc Thái khác. Đầu năm 1293, sau hoạt động ngoại giao giữa Sukhothai với nhà Nguyên, quân xâm lược đã rút khỏi lưu vực Chaophraya.
Đến cuối những năm 90 của thế kỷ XIII, Lan Na (phát triển từ Chiang Rai – năm 1296) có những hoạt động ủng hộ người Shan và người Miến đấu tranh chống lại sự thống trị của Mông-Nguyên. Do đó, từ cuối năm 1300 đến đầu năm 1301, quân xâm lược đã tràn vào khống chế vương quốc Pagan và thủ đô Chiang Mai của Lan Na. Một lần nữa, bằng con đường ngoại giao, lực lượng kháng chiến đã buộc Mông-Nguyên phải rút quân về nước (4.1301).
3.2.4. Kết quả các cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA thời kỳ đế chế Mông-Nguyên
Các cuộc tấn công xâm lược ĐNA của Mông-Nguyên (từ 1283 đến năm 1301) cuối cùng đã không đạt kết quả như đế chế này mong muốn khi chỉ nhận được duy nhất sự thần phục của Pagan (1287). Âm mưu tạo lập hai gọng kìm đánh ĐNA không thực hiện được, ý đồ buộc chặt các nước trong khu vực này vào hệ thống cống nạp – thần thuộc của quân xâm lược đã bị thất bại.
Tiểu kết chương 3
Gần nửa thế kỷ (1258 - 1301), Mông-Nguyên tiến hành 11 cuộc tấn công ở tất cả các nước ĐNA. Các cuộc chiến tranh trong giai đoạn một (1258 - 1277) diễn ra ở Đại Việt (1258) và Pagan (1277) không đem lại cho chúng bất cứ sự kiểm soát nào. Ở giai đoạn hai (1282 - 1301), quân Nguyên triển khai thế hai gọng kìm tấn công ĐNA bằng việc tiến đánh Pagan ở phía Tây (1283 và 1287) và Đại Việt ở phía Đông (1285 và 1287 – 1288), nhưng đã bị thất bại vì chúng mới chỉ giành được thắng lợi duy nhất tại Pagan. Những cuộc viễn chinh tiếp theo được tiến hành tại Singosari (1292 – 1293) và các tiểu quốc Thái (1292 – 1293 và 1300 – 1301), nhưng cũng không giúp đế chế Mông-Nguyên thiết lập được thêm bất cứ sự thống trị nào tại ĐNA.
CHƯƠNG 4
TÁC ĐỘNG TỪ CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA
ĐẾ CHẾ MÔNG-NGUYÊN ĐẾN TÌNH HÌNH ĐÔNG NAM Á (THẾ KỶ XIII – XIV)
Trong khuôn khổ 150 trang quy định của một luận án Tiến sĩ, tác giả chỉ đi vào nghiên cứu tác động từ cuộc chiến tranh xâm lược của Mông-Nguyên đến tình hình chính trị ĐNA.
4.1. Sự thay đổi bản đồ địa - chính trị Đông Nam Á
4.1.1. Sự sụp đổ của Pagan
Sau khi cuộc kháng chiến thất bại (1287), Pagan đã hoàn toàn bị phụ thuộc vào nhà Nguyên. Mông - Nguyên đã thành lập ở Pagan những tỉnh mới của đế chế là Chiang-mien (Bắc Pagan) và Mieng-chung (miền Trung Pagan). Tranh thủ tình trạng hỗn loạn ở Pagan, người Thái trỗi dậy và chiếm giữ vai trò quan trọng trong đời sống chính trị ở các tiểu quốc độc lập trên đất nước này. Tuy cuộc đấu tranh giải phóng do ba thủ lĩnh người Thái lãnh đạo (từ những năm 90 của thế kỷ XIII đến những năm đầu thế kỷ XIV) đã thành công, nhưng Pagan đã bị suy yếu và không còn duy trì được sự thống nhất.
4.1.2. Sự di cư và ra đời các vương quốc của người Thái
Trước thế kỷ XIII, đã diễn ra sự di cư của người Thái ở Đại Lý (Vân Nam) xuống ĐNA lục địa nhưng rất lẻ tẻ. Từ giữa thế kỷ XIII, những đợt di cư này đã trở nên ồ ạt hơn khi Đại Lý bị Mông Cổ đánh chiếm (1257). Những cuộc tấn công ĐNA của đế chế Mông-Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích người Thái di cư xuống khu vực này. Nhân cơ hội Pagan bị suy yếu sau những cuộc tấn công của Mông-Nguyên, người Thái đã lập nên ba tiểu quốc ở vùng Kyauksè và chi phối toàn bộ vương quốc Ava. Đồng thời, nhận được sự ủng hộ của nhà Nguyên, họ đã đẩy mạnh các cuộc di cư đã và thành lập được nhiều tiểu quốc trên phần lãnh thổ thuộc sự quản lý của Campuchia, như Sukhothai, Chiang Rai (hay Lan Na), La Vô (hay Lôp Buri / La Hộc) và một số tụ điểm quần cư ở thượng lưu sông Mê Kong (đất Lào ngày nay)... Vào cuối thế kỷ XIII, nổi bật trong các vương quốc của người Thái là Sukhothai. Thời kỳ trị vì của vua Rama Kamheng, Sukhothai được đánh giá là một trong những nước hùng mạnh ở khu vực ĐNA. Chính điều này đã giúp Sukhothai liên tục thực hiện thành công các cuộc bành trướng trên phần lãnh thổ thuộc Campuchia, Pagan, Srivijaya quản lý.
4.1.3. Sự thu hẹp về lãnh thổ của Campuchia
Cuối thế kỉ XIII, vương quốc Campuchia không còn giữ được sự phát triển ổn định và bắt đầu suy yếu. Những bất ổn về chính trị - xã hội cùng sự rộng lớn quá mức của lãnh thổ, khiến triều đình Angco không thể quản lý được những vùng đất xa xôi. Do vậy, họ đã bị người Thái mới di cư đến giành mất quyền kiểm soát ở toàn bộ lưu vực Chaophraya và thượng nguồn sông Mekong.
4.1.4. Sự diệt vong của Haripunjaya
Sau nhiều năm chống lại sự bành trướng của người Thái, cuối năm 1292, Haripunjaya đã bị Chiang Rai thôn tính. Tuy nhiên, sự sai lầm của quốc vương nước này khi cầu cứu đế chế Mông-Nguyên đã khiến họ bị mất nước bởi chính sách ngoại giao linh hoạt, kịp thời với triều Nguyên của người Thái. Sau những thỏa thuận giữa Sukhothai với triều Nguyên, việc Haripunjaya buộc phải sát nhập nốt phần đất còn lại vào lãnh thổ của Sukhothai (1293) đã đánh dấu sự diệt vong của vương quốc này.
4.1.5. Sự sụp đổ của Singosari và sự ra đời của Mojopahit
Cuối năm 1292, khi cả nước Singosari đang tập trung toàn lực cho cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên xâm lược, tiểu vương Kediri đã tiến hành cuộc đảo chính cung đình. Sau khi vương quốc Singosari sụp đổ, Raden Vijaya (con rể vua Singosari) đã đứng lên lãnh đạo nhân dân Java đánh bại kẻ phản loạn và kháng chiến chống Mông-Nguyên thắng lợi (đầu năm 1293), thành lập nên vương triều Mojopahit và tiến hành thống nhất lãnh thổ.
4.1.6. Sự thay đổi về địa giới của Đại Việt và Champa
Bước sang thế kỷ XIV, mối liên kết giữa Đại Việt và Champa thiết lập trong thời gian chống Mông-Nguyên xâm lược vẫn được duy trì. Việc quốc vương Jaya Simhavarman IV dâng châu Ô và châu Lý làm sính lễ để cưới công chúa Huyền Trân (1306), chính là minh chứng cao nhất cho sự liên kết giữa hai nước. Điều này đã đem đến việc mở rộng về lãnh thổ của Đại Việt xuống phía Nam và cũng đồng thời đánh dấu sự thu hẹp trên bản đồ địa – chính trị của Champa. Trên tinh thần đó, có thể thấy đây cũng là một trong những hệ quả từ sự tác động mang tính gián tiếp của cuộc chiến tranh Mông-Nguyên xâm lược Champa, Đại Việt vào những năm 80 của thế kỷ XIII.
4.2. Sự hình thành các mối liên kết khu vực
4.2.1. Sự liên kết giữa các vương quốc Thái
Thời gian đầu di cư xuống ĐNA, quan hệ giữa các tiểu quốc của người Thái chỉ dừng lại ở mức độ láng giềng hữu hảo chứ chưa có ý thức tương trợ nhau. Nhưng sau khi nhà Nguyên thôn tính được vương quốc láng giềng là Pagan (1287), một liên minh giữa các tiểu quốc Thái đã được thành lập, gồm Chiang Rai, Phayao và Sukhothai. Ngay khi Mông-Nguyên xâm lược Chiang Rai (1292 - 1293), liên minh Thái đã thể hiện rất tốt vai trò của mình.
4.2.2. Sự liên kết giữa Champa - Singosari (ở Java) và các quốc đảo ở Sumatra
Quan hệ giữa Champa - Java và các tiểu quốc ở Sumatra trước thế kỷ XIII, được viết trong sử sách không được mấy tốt đẹp. Nhưng ngay khi hiểm hoạ xâm lăng từ phía Bắc đang đến gần, quốc vương của Singosari (ở Java) đã tìm cách hoà hảo thân thiện với Champa, đồng thời có những hoạt động bang giao tốt đẹp với Sumatra. Quan hệ tốt đẹp này đã khiến Champa không ngần ngại khi cử sứ giả sang cầu cứu Java trong cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên xâm lược (1282 – 1285); và đến khi Singosari bị đội quân của Hốt Tất Liệt tấn công (1292 – 1293), Champa đã từ chối không cho hải thuyền chúng neo đậu để nghỉ ngơi trước khi đánh quốc gia này.
4.2.3. Sự liên kết giữa Đại Việt và các nước ĐNA
4.2.3.1. Sự liên kết giữa Đại Việt và Champa
Trước thế kỷ XIII, sự hữu hảo và thù địch là hai yếu tố xen lẫn trong quan hệ bang giao giữa Đại Việt và Champa. Tuy nhiên, trước nguy cơ Mông-Nguyên xâm lược, hai nước đã có nhiều hoạt động mang tính liên kết. Khi Hốt Tất Liệt yêu cầu Đại Việt cho mượn đường đánh Champa, nhà Trần không những từ chối mà còn gửi viện binh trợ giúp dân tộc Chăm ngay trong khi họ cũng đang đứng trước nguy cơ Mông-Nguyên tái xâm lược lần hai. Sự kiên cường của Champa trong cuộc kháng chiến chống xâm lược (1282 - 1285) cũng đã làm cho ý đồ lấy vương quốc này làm bàn đạp tiến lên đánh Đại Việt từ phía Nam của nhà Nguyên bị thất bại.
4.2.3.2. Sự liên kết giữa Đại Việt và các quốc gia ĐNA khác
* Sự liên kết giữa Đại Việt – Campuchia – Champa
* Sự liên kết Đại Việt – Ai Lao
4.3. Ý nghĩa thắng lợi của các quốc gia dân tộc ĐNA trong cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên xâm lược
Chiến thắng của mỗi nước ĐNA trong trận tuyến chống Mông-Nguyên xâm lược không chỉ có ý nghĩa với chính họ, mà còn có những đóng góp nhất định vào việc bảo vệ an ninh, chủ quyền của cả khu vực. Đồng thời, sự thất bại của mỗi cuộc kháng chiến không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến độc lập – chủ quyền của một quốc gia cụ thể, mà còn có tác động tiêu cực đến diễn biến cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên trên toàn khu vực.
Tiểu kết chương 4
Các cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA của Mông-Nguyên hầu hết không đạt được kết quả (trừ Pagan), nhưng đã có những tác động (trực tiếp và gián tiếp) đến tình hình chính trị khu vực. Sự sụp đổ của Pagan và Singosari; sự ra đời các tiểu quốc của người Thái ở ĐNA lục địa và vương quốc Mojopahit ở Java; sự diệt vong của Haripunjaya; sự thu hẹp về lãnh thổ của Campuchia, Champa và sự mở rộng của Đại Việt là những diễn biến đồng thời từ trong và sau cuộc chiến tranh Mông-Nguyên xâm lược. Điều này đã khiến bản đồ địa - chính trị của ĐNA có sự thay đổi. Bên cạnh đó, sự sát cánh trong chiến hào chung chống xâm lăng đã đưa đến việc xuất hiện những mối liên kết rất tự nhiên giữa các nước ĐNA.
Từ những phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng, một trong các nguyên nhân đưa đến những thay đổi trong tình hình chính trị của ĐNA cuối thế kỷ XIII – đầu thế kỷ XIV, chắc chắn đã có sự tác động không nhỏ từ cuộc chiến tranh xâm lược mà đế chế Mông-Nguyên tiến hành xuống khu vực này đương thời.
KẾT LUẬN
1. Ngay từ đầu thế kỷ XIII, sau khi thành lập (1206), Mông Cổ đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm lược thế giới. Sau khi hoàn thành công cuộc bình định Trung Quốc (1279), đế chế này đã tăng cường các hoạt động ngoại giao và quân sự để mở rộng hệ thống cống nạp – thần thuộc của chúng bằng cách thôn tính các nước ở Đông Bắc Á và Đông Nam Á.
Thế kỷ XIII, xen lẫn với sự phát triển, ở một số quốc gia ĐNA đã bắt đầu có dấu hiệu của sự khủng hoảng. Điều này đòi họ cần phải duy trì sự ổn định về chính trị - xã hội, tập trung xây dựng tiềm lực cho cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên để bảo vệ độc lập - chủ quyền của dân tộc.
2. Cuộc chiến tranh xâm lược ĐNA của đế chế Mông-Nguyên diễn ra từ nửa cuối thế kỷ XIII đến những năm đầu thế kỷ XIV (1258 – 1301) và trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất bao gồm hai cuộc chiến tranh thời kỳ đế quốc Mông Cổ, diễn ra ở Đại Việt (1258) và Pagan (1277). Giai đoạn hai là chín cuộc chiến tranh thời kỳ nhà Nguyên, diễn ra ở Champa (1282 – 1285), Campuchia (1282 – 1283), Pagan (1283; 1287), Đại Việt (1285; 1287 – 1288), Singosari (1292 – 1293) và các vương quốc Thái (1292 – 1293; 1300 – 1301). Vương quốc duy nhất mà nhà Nguyên thiết lập được ách thống trị là Pagan (1287), còn ở các nước ĐNA khác, chúng đều bị thất bại. Đây là điều quân đội Mông Gôn hiếm khi gặp trong quá trình tiến hành chiến tranh xâm lược thế giới.
3. Trong quá trình xâm lược thế giới, không phải bất cứ cuộc chiến tranh nào Mông-Nguyên cũng giành được thắng lợi. Tuy nhiên, khi tương quan lực lượng nghiêng về phía đế chế Bắc Á, việc quân xâm lược không đạt được mục đích ở nhiều quốc gia trong cùng một khu vực, thì đây quả thực là một điều đặc biệt. Sức mạnh ý chí của các dân tộc ĐNA đã giúp những người lãnh đạo đất nước sáng suốt, tỉnh táo khi đề ra đường lối đúng đắn, phù hợp để đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Vì phải “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”, các dân tộc ĐNA đã phát huy cách đánh du kích, sử dụng kế trá hàng làm cho đại quân Mông-Nguyên mệt mỏi và bị giảm sức chiến đấu. Bên cạnh những trận đối đầu trực diện quyết liệt, họ còn biết sử dụng sức mạnh của đàm phán ngoại giao. Đồng thời, các dân tộc ĐNA đã biết tìm kiếm sức mạnh từ những mối liên kết trong khu vực. Có thể nói, những bài học từ cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên xâm lược của nhân dân các nước ĐNA đương thời, trong bối cảnh mới hiện nay ở khu vực, vẫn còn nguyên giá trị.
4. Những cuộc viễn chinh ở ĐNA của Mông-Nguyên tuy hầu hết không đạt được mục đích nhưng đã có tác động mạnh mẽ đến tình hình khu vực trong các diễn biến đương thời và cả những thế kỷ sau, mà rõ nét nhất trên phương diện chính trị. Sự sụp đổ của Singosari, Haripunjaya; sự thu hẹp về lãnh thổ của Campuchia, Champa và mở rộng của Đại Việt; Sự ra đời của các vương quốc Thái và Mojopahit đã khiến cho bản đồ địa – chính trị ĐNA có sự thay đổi đáng kể. Điều đặc biệt là những sự kiện này diễn ra đồng thời ở các nước ĐNA vào nửa cuối thế kỷ XIII – đầu thế kỷ XIV và đều là những tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp từ cuộc chiến tranh Mông-Nguyên xâm lược. Các tác động này xảy ra cùng lúc hoặc sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, nhưng cũng có những tác động diễn ra ngay khi cuộc chiến tranh mới sắp sửa bắt đầu. Tất cả những biến cố đó đã góp phần làm cho diện mạo chính trị khu vực có sự thay đổi lớn lao.
5. Trước nguy cơ xâm lược của đế chế Mông-Nguyên, ở ĐNA đã hình thành những mối liên kết giữa các nước cùng chung mục đích bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc. Ngay khi hiểm hoạ xâm lăng từ phía Bắc xuất hiện, ba vương quốc Thái Sukhothai – Chiang Rai – Phayao đã họp bàn và ký kết thành lập liên minh (năm 1287). Vương quốc Singosari (ở Java) đã tìm cách thiết lập quan hệ bang giao thân thiện với Champa và các tiểu quốc khác ở Sumatra. Đại Việt và Champa cũng điều chỉnh đường lối ngoại giao, dẹp bỏ những tỵ hiềm ở các thế kỷ trước, cùng nhau sát cánh trong một chiến hào chống xâm lăng từ phương Bắc, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Khi phải đối mặt với đại quân Mông-Nguyên (1283 - 1285), Champa đã rất tin tưởng Đại Việt, Campuchia và Java khi cử sứ giả sang những nước này cầu viện... Tất cả những hoạt động trên đây cho thấy các quốc gia ĐNA đã ý thức được sức mạnh từ việc đoàn kết, liên minh để cùng nhau chống lại làn sóng xâm lược đến từ phương Bắc.
Có thể thấy, về mặt khách quan, cuộc chiến tranh xâm lược của đế chế Mông-Nguyên ở thế kỷ XIII như một cú huých, thúc đẩy các quốc gia ĐNA gạt bỏ những mâu thuẫn nhỏ để liên kết, cùng sát cánh với nhau chống xâm lăng, bảo vệ nền độc lập. Mặc dù những mối liên kết này chưa thật hoàn chỉnh, nhưng sự thân hữu và giúp đỡ lẫn nhau giữa các quốc gia trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung lúc bấy giờ có giá trị hơn bất cứ bản hiệp ước nào. Sự liên kết giữa những quốc gia ĐNA thời kỳ chống xâm lược Mông-Nguyên thế kỷ XIII, chính là cơ sở để họ phát huy truyền thống đoàn kết, cùng sát cánh bên nhau bảo vệ chủ quyền biển đảo trước những hoạt động gây hấn của Trung Quốc gần đây ở Biển Đông.
Thế kỷ XIII – khi quân đội Mông Gôn tiến hành chiến tranh xâm lược thế giới, các nước châu Âu đang chìm đắm trong chế độ phong kiến phân tán, lạc hậu; Trung Quốc và Ấn Độ không thực sự giữ vững sự ổn định bởi các biến động lịch sử, thì ĐNA vẫn giữ được sự phát triển của mình. Đây chính là nguyên nhân cơ bản khiến một đế chế hiếm khi thất bại trên chiến trường thế giới, lại không đạt được mục đích thâu tóm toàn bộ khu vực này. Thắng lợi của các dân tộc ĐNA trong cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên xâm lược gần nửa thế kỷ (1258 - 1301) là một trong những nhân tố góp phần giữ vững vị thế của khu vực này trong đời sống chính trị thế giới đương thời và để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử khu vực cũng như lịch sử mỗi quốc gia. Những biến cố lịch sử diễn ra trong nửa cuối thế kỷ XIII cho thấy, cuộc chiến tranh xâm lược của đế chế Mông-Nguyên ở ĐNA tuy không đạt được mục đích, nhưng đã có tác động không nhỏ đến tình hình chính trị và đã để lại những hệ lụy lịch sử lớn lao tại khu vực này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_cuoc_chien_tranh_xam_luoc_dong_nam_a_cua_de_che_mong_nguyen_va_tac_dong_cua_no_den_tinh_hinh_don.doc