Tác giả xin đề xuất một số hướng nghiên cứu trong tương lai có thể
thực hiện như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp phân rã nguồn
tăng trưởng đầu ra từ phía cầu. Đây là một phương pháp tĩnh so sánh, do
đó, hướng nghiên cứu tiếp theo có thể thực hiện là sử dụng mô hình vào -
ra động để phân tích chiến lược CNH, thay đổi cơ cấu và tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam.
Thứ hai, các mô hình kinh tế lượng trong nghiên cứu này đã bỏ sót
hai vấn đề quan trọng là trễ và sai số theo không gian. Do đó, một hướng
nghiên cứu có thể thực hiện trong các nghiên cứu tiếp theo là sử dụng các
mô hình kinh tế lượng không gian để nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu ngành
và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
12 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 1916 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận án Các mô hình phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác đã được quan sát thấy từ những năm 1970: dịch vụ
đã trở thành hoạt động kinh tế chiếm ưu thế, trong khi vai trò của nông
nghiệp và công nghiệp chế biến chế tạo đã giảm xuống. Và như vậy, con
đường lịch sử mạnh mẽ của chuyển dịch cơ cấu là tất cả các nước dịch
chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và sau đó đến dịch vụ.
Các tài liệu đã trình bày một số lập luận để ủng hộ ý tưởng rằng:
trong quá trình CNH, HĐH, sự mở rộng của công nghiệp chế biến chế tạo
là động cơ chính của tăng trưởng kinh tế. Bởi vì so với các ngành khác,
công nghiệp chế biến chế tạo cung cấp nhiều cơ hội hơn để tích lũy vốn,
khai thác tính kinh tế theo quy mô, tiếp thu công nghệ mới, có khả năng
tạo ra năng suất cao hơn so với các ngành khác thông qua việc mở rộng
sản xuất. Sự năng động của khu vực chế biến chế tạo cũng có ảnh hưởng
quan trọng đến các khu vực còn lại của nền kinh tế thông qua các mối liên
kết sản xuất.
5
1.4. Các lý thuyết về sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Hầu hết các lý thuyết kinh điển của kinh tế phát triển như: lý thuyết
“cất cánh” của Walt Rostow (1960), các lý thuyết nhị nguyên (1954), lý
thuyết tăng trưởng cân đối (1953), lý thuyết tăng trưởng bất cân đối (1958),
mô hình đàn ngỗng bay (1960s), lý thuyết chuyển dịch cơ cấu của Moshe
Syrquin (1988), và lý thuyết kinh tế cơ cấu mới của Lin (2010) đều coi
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một trong những nội dung quan trọng
của sự phát triển trong thời kỳ CNH. Các lý thuyết đều thống nhất rằng sự
dịch chuyển các nguồn lực ra khỏi khu vực nông nghiệp truyền thống và các
hoạt động sơ cấp khác có năng suất thấp đã duy trì việc tăng năng suất, đó là
đặc trưng của phát triển kinh tế. Và trong quá trình CNH, sự lớn mạnh của
khu vực chế biến chế tạo là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các
lý thuyết này cũng chỉ ra rằng hình thức chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
nước chậm phát triển trong thời kỳ CNH, HĐH diễn ra rất phong phú, đa
dạng, khó tìm thấy một khuôn mẫu chung duy nhất cho mọi quốc gia. Đồng
thời, các lý thuyết này nêu ra một giải pháp mang tính nguyên tắc là phải xây
dựng một cơ cấu kinh tế có sự liên kết, thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình
CNH, và vai trò của chính phủ không thể được xem nhẹ trong quá trình này.
1.5. Tổng quan nghiên cứu về sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Luận án này trình bày tổng quan nghiên cứu theo ba phương pháp
tiếp cận phân tích:
Thứ nhất, đã có rất nhiều các nghiên cứu về nguồn tăng trưởng sản
lượng và thay đổi cơ cấu dựa trên mô hình vào - ra. Một số nghiên cứu điển
hình của: H.Chenery (1986); De Melo (1982), Takahiro Akita và Agus
Hermawan (2000), Mitsuhiro Hayashi (2005) đã áp dụng tiếp cận vào -
ra để xác định nguồn tăng trưởng và thay đổi cơ cấu ở một quốc gia trong
các thời kỳ khác nhau và so sánh giữa các quốc gia khác nhau trên cơ sở so
sánh sự khác nhau trong đóng góp tương đối của các thành phần của cầu
vào tăng trưởng tổng giá trị sản xuất.
Ở Việt Nam, tiếp cận vào - ra cũng được sử dụng trong một số ít các
nghiên cứu của: Takahiro Akita và Chu Thị Trung Hậu (2006) về “Mức độ
phụ thuộc lẫn nhau giữa các khu vực kinh tế và tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam: Phân tích so sánh với Indonesia và Malaysia” dựa trên các bảng vào -
ra của Việt Nam năm 1996 và 2000; Nguyễn Khắc Minh và Nguyễn Việt
Hùng (2008) về “Nguồn tăng trưởng công nghiệp ở Việt Nam: phân tích vào
- ra” đã sử dụng các bảng vào - ra của Việt Nam các năm 1989, 1996, 2000 .
6
Thứ hai, tiếp cận lý thuyết tăng trưởng mới, các nghiên cứu điển hình
của Ghani và Suri (1999), Jan Fagerberg (2000), Peneder (2003), Bartelman,
Haltiwanger và Scarpetta (2004), Yilimaz Kilicaslan (2005), Brown và Earle
(2008), Brosworth (2008), Saccone và Valli (2009), Dani Rodrik (2012) đều
thống nhất rằng đối với một nền kinh tế, tăng trưởng NSLĐ có thể đạt được
thông qua cải tiến công nghệ và/hoặc di chuyển các nguồn lực từ khu vực năng
suất thấp sang các khu vực có mức năng suất cao hơn. Hơn nữa, các nghiên
cứu đều chỉ ra rằng sự dịch chuyển lao động từ các hoạt động năng suất thấp
sang các hoạt động năng suất cao là nguồn tăng trưởng quan trọng đối với các
nước đang phát triển hơn là ở các nước phát triển, đặc biệt là ở các nước Châu
Á. Sự chuyển dịch diễn ra theo hướng ngược lại ở Châu Phi và Châu Mỹ Latin,
do đó, thay đổi cơ cấu làm giảm tăng trưởng ở các khu vực này.
Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu ngành và tăng trưởng NSLĐ là chủ
đề mới được nghiên cứu ở Việt Nam. Đáng chú ý có nghiên cứu của Nguyễn Thị
Tuệ Anh (2007) về tăng trưởng và thay đổi cơ cấu ở Việt Nam giai đoạn trước
khủng hoảng 1991 - 2006 bằng phương pháp SSA (Shift - Share Analysis). Sau
đó, Trần Văn Ẩn (2011) cũng sử dụng phương pháp này để phân tích vai trò
của chuyển dịch cơ cấu đối với tăng trưởng NSLĐ tỉnh Quảng Nam giai đoạn
1998 - 2010. Vậy chuyển dịch cơ cấu ngành có tầm quan trọng như thế nào đối
với tăng trưởng NSLĐ ở Việt Nam (cả trước và sau khủng hoảng kinh tế) là
một câu hỏi chưa được trả lời đầy đủ trong các nghiên cứu trước.
Thứ ba, tiếp cận kinh tế lượng, các nghiên cứu điển hình của:
Nguyễn Thị Minh (2009) chứng tỏ rằng chuyển dịch cơ cấu là rất cần thiết
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam thời kỳ 2000 - 2007; Đinh
Phi Hổ và Nguyễn Khánh Duy (2013) cho thấy chuyển dịch cơ cấu ngành
theo hướng CNH, HĐH có tác động thúc đẩy tăng trưởng NSLĐ và trình
độ phát triển ở Bến Tre thời kỳ 1998 - 2011.
Tóm lại, các nghiên cứu đã có ở Việt Nam về chủ đề này đã cố gắng
phân tích theo các cách tiếp cận khác nhau và trong những khoảng thời gian
khác nhau, nhưng tác giả vẫn chưa tìm thấy một nghiên cứu tổng hợp, sử dụng
các phương pháp tiếp cận khác nhau để đánh giá một cách đầy đủ và chính xác
về quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế kể từ sau Đổi mới. Nghiên cứu
này hy vọng có thể bổ sung cho các nghiên cứu trước bằng cách sử dụng ba
mô hình định lượng để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đặt ra.
7
Chương 2:
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1989 – 2014
Chương 2 của luận án trình bày một số phân tích ban đầu về thực
trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1989 – 2014
2.1. Một số chính sách liên quan đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế ở Việt Nam
Các chính sách có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu nền kinh
tế bao gồm: chính sách công nghiệp, chính sách thuế, chính sách tín dụng
và chính sách cán cân thanh toán quốc tế Cùng với các chính sách cạnh
tranh, khuyến khích chuyển giao khoa học và công nghệ, đầu tư và xúc tiến
xuất khẩu, phát triển nguồn nhân lực và các hình thức hỗ trợ doanh nghiệp
vừa và nhỏ, hệ thống các chính sách đã và đang từng bước đáp ứng được
yêu cầu của CNH, HĐH đất nước trong quá trình hội nhập với thế giới.
Quyết tâm CNH, HĐH nền kinh tế được thể hiện trong rất nhiều:
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án, chương trình (phát triển vùng kinh
tế, vùng kinh tế trọng điểm, ngành, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao) đã được phê duyệt và công bố rộng rãi. Tuy
nhiên, do có quá nhiều chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề
án tầm nhìn đến năm 2020, 2030 được xây dựng với nguồn lực hạn chế
cả về tài chính và nhân lực nên các chính sách có sự phân tán, thiếu trọng
tâm, và chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Vậy, dưới tác động của hệ thống các chính sách kinh tế đan xen
nhau, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam diễn ra như
thế nào? Phần tiếp theo trình bày một số phân tích ban đầu về diễn biến quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam kể từ sau Đổi mới.
2.2. Cơ cấu GDP, vốn và lao động theo ngành của nền kinh tế Việt Nam
Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua một
thời kỳ tăng trưởng cao và cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng công
nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH). Tỷ trọng đóng góp của nhóm ngành
nông nghiệp trong GDP có xu hướng giảm dần, và tỷ trọng đóng góp của các
ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần. Tuy nhiên, từ năm 2005 trở lại đây,
phần chia của khu vực công nghiệp trong GDP có xu hướng chững lại.
Cơ cấu vốn của nền kinh tế bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý. Hơn một
nửa lượng vốn chảy vào khu vực dịch vụ nhưng đóng góp của khu vực dịch
8
vụ vào GDP không tương xứng. Khu vực nông nghiệp đóng góp khoảng
20% GDP nhưng trong những năm gần đây vốn nông nghiệp chỉ chiếm 6 -
8% lượng vốn của nền kinh tế, do đó, nông nghiệp ngày càng tụt hậu so với
yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
Cơ cấu lao động theo ngành có những thay đổi quan trọng theo hướng
tiến bộ. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này không chỉ chậm mà còn có dấu hiệu
chững lại kể từ năm 2010, và nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ đạo
cung cấp việc làm cho phần lớn lực lượng lao động có việc làm của nền
kinh tế (từ năm 2010 trở lại đây, lao động nông nghiệp vẫn chiếm 46,9%).
2.3. Cơ cấu giá trị gia tăng, xuất khẩu và nhập khẩu theo ngành của
nền kinh tế
Cơ cấu giá trị gia tăng và cơ cấu xuất khẩu theo ngành của nền kinh tế đã
có những tín hiệu chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng đóng góp vào tổng giá trị gia
tăng, và tổng giá trị xuất khẩu của nhóm ngành nông nghiệp có xu hướng giảm
mạnh; của nhóm ngành công nghiệp có xu hướng tăng dần. Ngành công nghiệp,
đặc biệt là công nghiệp chế biến chế tạo, có đóng góp chủ yếu cho xuất khẩu của
Việt Nam. Tuy nhiên, tình trạng gia tăng chi phí trung gian trong quá trình sản
xuất của các ngành là điểm đáng lưu ý đối với quá trình CNH ở Việt Nam.
Cơ cấu nhập khẩu của nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng cường
nhập khẩu tư liệu sản xuất phục vụ cho các hoạt động sản xuất trong nước và
gia công xuất khẩu. Phần lớn nhập khẩu của nền kinh tế phục vụ cho sản xuất
công nghiệp, đặc biệt là sản xuất của khu vực công nghiệp chế biến chế tạo.
2.4. Năng suất lao động của các ngành và nền kinh tế
Khoảng cách lớn về NSLĐ giữa các ngành kinh tế đã dẫn đến sự dịch
chuyển lao động từ ngành có năng suất thấp sang các ngành có năng suất
cao hơn. Sự dịch chuyển này góp phần nâng cao NSLĐ và cải thiện năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy nhiên, mức NSLĐ thấp và tốc độ tăng
NSLĐ chậm chạp của các ngành và nền kinh tế, đi cùng với quá trình
chuyển dịch chậm chạp của lao động ra khỏi các ngành có năng suất thấp
đã tạo ra một cơ cấu ngành phát triển theo chiều rộng có giá trị gia tăng và
năng lực cạnh tranh thấp, chưa thực sự tạo ra các ngành phát triển theo
chiều sâu có giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh cao.
Trên đây là những kết quả nghiên cứu ban đầu về thực trạng chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Những
kết luận này sẽ tiếp tục được kiểm chứng sâu hơn bằng các nghiên cứu định
lượng trong chương tiếp theo.
9
Chương 3:
CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CÁC MÔ HÌNH PHÂN TÍCH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VÀ ƯỚC LƯỢNG
THỰC NGHIỆM CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1989 - 2014
Chương 3 trình bày cơ sở phương pháp luận ba mô hình định lượng
về CDCCN kinh tế và áp dụng ba mô hình này để phân tích sự CDCCN và
nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1989 - 2014.
A. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CÁC MÔ HÌNH PHÂN TÍCH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
3.1. Mô hình vào - ra phân tích nguồn tăng trưởng đầu ra và thay đổi
cơ cấu
Các ký hiệu:
Xi là sản lượng trong nước của ngành i, X là véc tơ tổng đầu ra của nền
kinh tế;
( )
nijaA = là ma trận hệ số vào - ra, với hệ số
j
ij
ij X
X
a =
;
V là véc tơ cầu trung gian, xác định theo công thức: AXV = ;
Fi là cầu cuối cùng trong nước đối với ngành i, F là véc tơ cầu cuối cùng
trong nước;
Ei là xuất khẩu hàng trong nước của ngành i, E là véc tơ xuất khẩu hàng
trong nước;
Các tỷ lệ cầu trong nước được giả thiết là cố định theo ngành được xác định
bởi công thức:
( )1d0,n1,i,
VF
EXd i
ii
ii
i ≤<=+
−
= .
Dạng ma trận của mô hình vào - ra trong nền kinh tế mở:
EAX)D(FEV)D(FX ++=++=
trong đó, D là ma trận đường chéo (các phần tử trên đường chéo là id ).
Hay E)(DFDA)(IX 1 +−= −
(3.1)
với DA là ma trận hệ số vào - ra hàng hoá trong nước.
Những thay đổi sản lượng được xác định bởi công thức:
(1)(2) XX∆X −=
( )∆FDR (1)(1)= Mở rộng cầu trong nước (DD)
( )∆ER (1)+ Mở rộng xuất khẩu (EE)
)VD)(F(R (2)(2)(1) +∆+ Thay thế nhập khẩu (IS)
10
(2)(1)(1) A)X(DR ∆+ Thay đổi công nghệ (IO) (3.2)
trong đó, 1)1()1()1( )( −−= ADIR và các chỉ số 1, 2 ký hiệu cho các thời kỳ.
3.2. “Mô hình cơ bản” phân tích vai trò của chuyển dịch cơ cấu ngành
đối với tăng trưởng năng suất lao động
Các ký hiệu:
R = tốc độ tăng trưởng năng suất trung bình của nền kinh tế;
iλ = tỷ trọng lao động của khu vực i trong nền kinh tế;
qi = NSLĐ trung bình của khu vực i;
ri = tăng trưởng năng suất ở khu vực i;
Q =∑ iiqλ , năng suất trung bình của nền kinh tế;
/Qqλk iii = , tỷ trọng sản lượng của khu vực i.
Tốc độ tăng năng suất tổng thể được tính theo công thức:
(3.17) )]/Qq)(qλ(λ)q)(qλ[(λrk R 'a'ss's'a'mm'mii∑ −−+−−+=
3.3. Các mô hình kinh tế lượng đánh giá tác động của chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế đến tăng trưởng kinh tế trong quá trình CNH, HĐH
Các biến:
lngdp, lngdpnn, lngdpcn, lngdpdv, lngdppnn thứ tự là logarit của
gdp, gdp nông nghiệp, gdp công nghiệp, gdp dịch vụ, và gdp phi nông
nghiệp của tỉnh;
lnk, lnknn, lnkcn, lnkdv, lnkpnn thứ tự là logarit của vốn, vốn nông
nghiệp, vốn công nghiệp, vốn dịch vụ, và vốn phi nông nghiệp của tỉnh;
lnl, lnlnn, lnlcn, lnldv, lnlpnn thứ tự là logarit của lao động, lao
động nông nghiệp, lao động công nghiệp, lao động dịch vụ, và lao động phi
nông nghiệp của tỉnh;
knn, kcn, kdv lần lượt là tỷ trọng vốn của các ngành nông nghiệp,
công nghiệp, dịch vụ trong tổng vốn của tỉnh;
l_nn, l_cn, l_dv lần lượt là tỷ trọng lao động của các ngành nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong tổng lao động của tỉnh;
i là chỉ số các tỉnh, t là chỉ số thời gian;
c là tham số đặc trưng cho sự không đồng nhất về các điều kiện
kinh tế khác của các tỉnh;
u là thành phần sai số ngẫu nhiên.
Mô hình 1 đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu đầu vào đến tăng
trưởng kinh tế:
=
+
+
+
+
_ +
_ + + (3.3b)
11
trong đó ý nghĩa của hệ số: () được giải thích là sự khác biệt giữa ảnh
hưởng của tỷ trọng vốn công nghiệp (vốn dịch vụ) đến tăng trưởng kinh tế
so với sự ảnh hưởng của tỷ trọng vốn nông nghiệp đến tăng trưởng kinh tế;
() được giải thích là sự khác biệt giữa ảnh hưởng của tỷ trọng lao
động công nghiệp (lao động dịch vụ) đến tăng trưởng kinh tế so với sự ảnh
hưởng của tỷ trọng lao động nông nghiệp đến tăng trưởng kinh tế.
Mô hình 2 đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu đầu vào đến tăng
trưởng của ngành nông nghiệp:
=
+
+
+
+
+
_ + + (. )
Mô hình 3 đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu đầu vào đến tăng
trưởng của ngành công nghiệp:
=
+
+
+
+
+
_ + + (. )
Mô hình 4 đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu đầu vào đến tăng
trưởng của ngành dịch vụ:
=
+
+
+
+
_ +
_ + + (. )
Mô hình 5 đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu đầu vào đến tăng
trưởng của các ngành phi nông nghiệp:
=
+
+
+
_ +
+ (. )
3.4. Số liệu sử dụng cho phân tích
Thứ nhất, nghiên cứu này sử dụng 4 bảng vào - ra các năm: 1989
(52 ngành); 1996 (52 ngành); 2000 (112 ngành); 2007 (138 ngành) đã được
chuẩn hoá theo giá so sánh năm 2000. Sau đó, các ngành trong các bảng
vào - ra được gộp thành 26 ngành.
Thứ hai, các số liệu vĩ mô do Tổng cục Thống kê tiến hành điều tra
trong thời kỳ 1995 – 2014 (được chuẩn hóa theo giá so sánh năm 2010) sẽ
được sử dụng cho mô hình thứ hai.
Thứ ba, để ước lượng các mô hình kinh tế lượng ở mục 3.3, tác giả
sử dụng số liệu GDP, vốn và lao động của ba ngành nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ của các tỉnh trên cả nước thời kỳ 1998 - 2011 do Tổng
cục Thống kê cung cấp.
B. ƯỚC LƯỢNG THỰC NGHIỆM CÁC MÔ HÌNH PHÂN TÍCH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH
CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC GIAI ĐOẠN 1989 - 2014
12
Phần B, tác giả sẽ áp dụng các mô hình đã trình bày trong phần A
để phân tích sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình CNH,
HĐH đất nước giai đoạn 1989 - 2014.
3.5. Sử dụng mô hình vào - ra để phân tích sự chuyển dịch cơ cấu
ngành và nguồn tăng trưởng sản lượng của các ngành và nền kinh tế
Việt Nam thời kỳ 1989 - 2007
Trong gần hai thập kỷ, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam gắn liền với
sự chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra theo hướng giảm tỷ trọng của các
ngành sơ cấp và tăng tỷ trọng của các ngành chế biến chế tạo trong cơ cấu
đóng góp vào tăng trưởng tổng giá trị sản xuất của nền kinh tế.
Cơ cấu của khu vực sơ cấp có những thay đổi rõ rệt: thời kỳ 1989 -
1996, mở rộng đầu ra của ngành nông nghiệp có ảnh hưởng lớn nhất đến tăng
trưởng sản lượng của khu vực sơ cấp; thời kỳ 1996 - 2000, sự mở rộng đầu ra
nhanh chóng của ngành khai khoáng chi phối tăng trưởng đầu ra của khu vực
sơ cấp; đến thời kỳ 2000 - 2007, tăng trưởng sản lượng của ngành thủy sản
giải thích hơn một nửa cho tăng trưởng đầu ra của khu vực sơ cấp. Cơ cấu
của cầu đối với các sản phẩm sơ cấp cũng có sự chuyển dịch rõ nét: thời kỳ
1989 - 1996, mở rộng cầu trong nước, đặc biệt là đối với các sản phẩm nông
nghiệp, là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng đầu ra của khu vực sơ cấp;
thời kỳ 1996 - 2000, tăng trưởng đầu ra sơ cấp dựa vào mở rộng xuất khẩu,
chủ yếu là mở rộng xuất khẩu của nhóm ngành khai khoáng; thời kỳ 2000 -
2007, tăng trưởng đầu ra của khu vực sơ cấp bị chi phối bởi mở rộng xuất
khẩu, nhưng mở rộng xuất khẩu tập trung vào các sản phẩm nông nghiệp và
thủy sản. So sánh với một số nền kinh tế khác, Việt Nam là một trong số rất
ít các quốc gia mà khu vực sơ cấp là khu vực định hướng xuất khẩu.
Ngành công nghiệp chế biến chế tạo đóng vai trò quan trọng đối
với quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Sự mở rộng đầu ra của các ngành
thâm dụng tài nguyên và lao động tuy vẫn đóng vai trò quan trọng đối với
tăng trưởng đầu ra của ngành công nghiệp chế biến chế tạo nhưng quy mô
ảnh hưởng đang giảm dần. Trong đó, các ngành chế biến thực phẩm và dệt
may đóng góp hơn một nửa cho tăng trưởng đầu ra của nhóm ngành thâm
dụng tài nguyên và lao động thời kỳ 1989 - 2007. Các ngành thâm dụng
vốn và công nghệ ngày càng mở rộng ảnh hưởng đối với tăng trưởng đầu ra
của ngành công nghiệp chế biến chế tạo và của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, mẫu hình tăng trưởng của Việt Nam trong thời kỳ
1989 - 2007 đã có những thay đổi đáng kể do những thay đổi về cơ cấu
đóng góp của các thành phần của cầu cuối cùng đối với tăng trưởng. CNH
hướng về xuất khẩu đã tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam. Thời kỳ 1989 - 1996, mở
rộng cầu cuối cùng trong nước là nguồn chính đóng góp vào tăng trưởng
13
giá trị sản xuất của nền kinh tế. Thời kỳ 1996 - 2000, tuy mở rộng cầu
trong nước vẫn là thành phần chủ đạo đóng góp vào tăng trưởng (chiếm
56,9%) nhưng mở rộng xuất khẩu cũng đóng vai trò quan trọng không kém
(chiếm 51,8%). Nếu so sánh được thực hiện giữa mở rộng trong nước và
mở rộng xuất khẩu trong các ngành: nông nghiệp, công nghiệp chế biến chế
tạo thâm dụng tài nguyên và lao động thì mở rộng cầu trong nước vẫn có
ảnh hưởng chi phối trong hầu hết các ngành này. Ngoài ra, tăng trưởng của
các ngành công nghiệp thâm dụng vốn và công nghệ chủ yếu là dựa vào
thay thế nhập khẩu. Thời kỳ 2000 - 2007, tầm quan trọng tương đối của mở
rộng cầu trong nước đã giảm xuống, mở rộng xuất khẩu đã trở thành nguồn
đóng góp chính cho tăng trưởng giá trị sản xuất của nền kinh tế. Mở rộng
xuất khẩu cũng là động lực dẫn dắt tăng trưởng của các ngành thuộc khu
vực nông nghiệp, và công nghiệp chế biến chế tạo.
Sự mở rộng đầu ra của khu vực dịch vụ đóng góp vào tăng trưởng
chung của nền kinh tế biểu hiện xu thế giảm. Hơn nữa, sự phát triển hướng nội
của khu vực này chủ yếu để đáp ứng sự mở rộng quy mô của cầu trong nước.
Trong thời kỳ 1989 - 2007, các ngành: chế biến thực phẩm, dệt may,
hóa chất, sản xuất kim loại và các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản xuất
các sản phẩm điện - điện tử luôn là các ngành có các chỉ số liên kết xuôi FL
và liên kết ngược BL đều lớn hơn 1. Sự phát triển của các ngành then chốt
này sẽ tạo ra mức độ ảnh hưởng đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu lớn
hơn so với các ngành còn lại trong hệ thống kinh tế.
Kết quả tính toán chỉ số thang đo dòng theo mô hình Ghosh cho thấy
trong thời kỳ 2000 - 2007, tăng trưởng sản lượng mạnh mẽ ở các ngành thủy
sản là do những thay đổi của cầu cuối cùng, còn ở một số ngành dịch vụ như:
dịch vụ lưu trú ăn uống, ngân hàng - tài chính - bảo hiểm, thông tin và truyền
thông là do những thay đổi đáng kể trong cả các mối quan hệ liên ngành và
cầu cuối cùng, riêng ngành vận tải, tăng trưởng đầu ra được gây ra bởi những
thay đổi của các hệ số kỹ thuật. Các kết quả tính toán chỉ số thang đo cột
cũng cho thấy tăng trưởng sản lượng ở các ngành: thủy sản, khai khoáng, chế
biến thực phẩm, dệt may, hóa chất, dịch vụ lưu trú ăn uống, ngân hàng - tài
chính - bảo hiểm, thông tin và truyền thông là do những thay đổi tích cực trên
cả hai phương diện phân bổ và giá trị gia tăng.
14
Bảng 3.1. Tỷ lệ % của các nhân tố đóng góp vào tăng trưởng sản lượng ở Việt Nam thời kỳ 1989 - 2007
(Đơn vị %)
STT Ngành 1989 - 1996 1996 - 2000 2000 - 2007 DD EE IS IO Tổng DD EE IS IO Tổng DD EE IS IO Tổng
I Nhóm ngành nông - lâm - thủy sản 8.79 5.98 -2.25 4.43 17 5.69 4.46 1.72 -1.72 10.2 -1.7 4.9 -2.01 2.88 4.11
1 Nông nghiệp 5.36 4.37 -2.42 5.37 12.7 4.11 3.37 1.78 -1.36 7.91 -2 3.45 -1.65 1.77 1.53
2 Lâm nghiệp 0.02 -0.02 -0.11 0.24 0.13 0.49 0.35 -0.08 -0.39 0.38 0.33 -0 -0.26 0.08 0.15
3 Thuỷ sản 3.41 1.63 0.28 -1.18 4.14 1.09 0.73 0.02 0.03 1.87 0.05 1.45 -0.1 1.03 2.44
II Nhóm ngành công nghiệp 34.8 18.9 6.48 -5.84 54.3 34 33.5 -10.7 6.83 63.6 20.8 39.2 -4.59 18.6 74
4 Khai khoáng 0.77 2.61 0.41 0.48 4.27 1.31 10.7 -0.41 -1.61 9.95 -0.7 0.4 -0.1 0.04 -0.36
Ngành công nghiệp chế biến - chế tạo 22.8 15.4 4.62 -5.6 37.2 20.5 20.7 -6.97 8.75 43 12.1 38.1 -8.3 18.8 60.8
5 Sản xuất, chế biến thực phẩm 12.5 6.94 2.16 -5.32 16.3 4.23 3.28 -0.04 2.09 9.56 -3.8 5.85 -1.28 9.14 9.92
6 Sản xuất đồ uống, thuốc lá 1.41 0.26 -0.1 -0.29 1.28 2.62 0.02 -0.21 0.37 2.8 0.9 1.24 -0 -0.09 2.04
7 Dệt, sản xuất trang phục, đồ da và các sản phẩm liên quan 0.69 4.64 0.2 -0.74 4.79 2.16 8.49 0.95 1.55 13.2 1.97 3.12 -0.47 0.75 5.37
8 Chế biến gỗ và sản xuất các sản phẩm từ gỗ 1.26 1.37 -0 -0.22 2.42 0.8 0.52 -0.25 -1.71 -0.63 -0.3 -0 -0.07 0.84 0.5
9 Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy, sản phẩm của nhà xuất bản 1.11 0.18 -0.22 -0.08 0.99 0.79 0.3 0.06 0.24 1.39 0.6 0.62 -0.12 0.58 1.69
10 Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất 0.38 0.41 0.48 0.29 1.55 0.77 0.64 0.98 -0.75 1.65 1.58 2.59 -2.35 1.67 3.49
11 Thuốc, hoá dược và dược liệu 0.15 0.02 0.18 -0.01 0.34 0.39 0.09 0 -0.05 0.43 0.16 0.21 -0.06 0.42 0.73
12 Cao su, plastic 0.32 0.37 -0.16 0.1 0.63 0.39 0.36 0.8 0.73 2.28 0.53 3.38 0.36 -0.73 3.55
13 Sản xuất các sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác 2.43 0.46 -0.53 0.56 2.92 2.31 0.15 0.4 -0.3 2.57 -1 3.15 0.04 1.52 3.73
14 Sản xuất kim loại và các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn 1.21 0.12 0.33 -0.12 1.54 0.01 0.87 2.64 -0.69 2.83 0.48 7.86 -4.08 4.59 8.85
15
Sản xuất các sản phẩm điện, điện tử, máy vi tính, sản phẩm
quang học 1.01 0.66 -0.35 0.07 1.39 -0.1 1.89 -0.25 -0.47 1.07 3 0.11 7.08 -0.49 9.7
16 Các ngành chế tác khác 0.25 -0.03 2.63 0.18 3.04 6.13 4.04 -12.1 7.73 5.85 7.9 10 -7.38 0.65 11.2
Các ngành công nghiệp khác 11.2 0.84 1.45 -0.7 12.8 12.2 2.14 -3.31 -0.3 10.7 9.41 0.64 3.83 -0.3 13.5
17 Sản xuất điện, nước, khí đốt 1.55 0.73 1.44 -0.34 3.39 1.59 1.94 -3.22 0.55 0.87 1.04 0.64 3.83 -1.84 3.66
18 Xây dựng 9.7 0.11 0 -0.39 9.42 10.6 0.2 -0.1 -0.86 9.87 8.37 -0 -0 1.51 9.88
III Nhóm ngành dịch vụ 19 7.1 -3.32 6.04 28.8 17.2 13.9 -12.4 7.51 26.2 13.8 1.95 8.02 -2.31 21.9
19 Thương nghiệp 1.77 1.98 0.01 2.05 5.81 7.53 5.66 -9.24 7.7 11.6 2.33 1.93 4.39 -2.47 6.18
20 Vận tải 0.7 1.42 -0.86 1.45 2.7 1.92 1.77 -1.16 -1.65 0.89 1.11 -0.1 1.65 1.15 3.77
21 Dịch vụ lưu trú, ăn uống 1.95 1.43 -0.86 0.65 3.16 0.86 2.14 -0 -0.04 2.95 1.9 -0.2 0.7 0.34 2.78
22 Hoạt động ngân hàng, tài chính, bảo hiểm 0.71 0.95 -0.67 0.42 1.4 0.26 0.73 -0.71 0.17 0.45 0.53 -0.1 1.2 -0.06 1.54
23 Thông tin và truyền thông 0.27 0.26 -0.08 0.53 0.98 0.47 0.67 0.15 0.42 1.72 0.99 -0.1 0.01 -0.11 0.82
24 Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 0.38 0.07 -0.08 -0.01 0.36 0.44 0.57 -0.08 -0.38 0.55 0.35 0.09 0.03 0.51 0.99
25 Văn hoá, giáo dục, y tế 4.55 0.37 -0.33 0.35 4.93 4.61 0.43 -1.3 -0.19 3.55 3 0.02 0.03 0.03 3.08
26 Các dịch vụ khác 8.64 0.63 -0.46 0.61 9.42 1.08 1.95 -0.07 1.49 4.45 3.6 0.42 0.46 -1.7 2.78
Tổng 62.5 31.9 0.91 4.64 100 56.9 51.8 -21.4 12.6 100 33 46 1.43 19.1 100
Nguồn: Tính toán của tác giả từ các bảng vào - ra 1989, 1996, 2000, 2007 của GSO.
15
3.6. Sử dụng “mô hình cơ bản” phân tích vai tr
cấu ngành đối với tăng trưởng năng su
1995 - 2014
Kết quả tính toán dựa trên việc áp d
động lực cốt lõi thúc đẩy tăng trưởng nă
2000–2010 là sự dịch chuyển lao động từ
ngành có năng suất cao hơn. Kết quả nghi
thời kỳ 1995–1999 và 2011–2014, tăng tr
nguồn chính của sự gia tăng năng suất lao
Hình 3.1. Nguồn tăng trưởng năng suấ
Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệ
Bảng 3.8 cho thấy xu thế tăng liên t
trong thời kỳ 1995 – 2014, song tốc đ
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đóng vai tr
trưởng NSLĐ tổng thể nền kinh tế, trong
hưởng mạnh nhất ở thời kỳ 2000 - 2010.
-0.03
-0.02
-0.01
0
0.01
0.02
0.03
0.04
0.05
0.06
0.07
1
9
9
6
1
9
9
7
1
9
9
8
1
9
9
9
2
0
0
0
2
0
0
1
2
0
0
2
2
0
0
3
2
0
0
4
2
0
0
5
2
0
0
6
2
0
0
7
ò của chuyển dịch cơ
ất lao động ở Việt Nam thời kỳ
ụng mô hình cơ bản cho thấy:
ng suất lao động Việt Nam thời kỳ
ngành có năng suất thấp sang các
ên cứu cũng cho thấy trong các
ưởng năng suất của các ngành là
động tổng thể của nền kinh tế.
t lao động Việt Nam, 1995 – 2014.
u của GSO.
ục của mức NSLĐ Việt Nam
ộ tăng trưởng NSLĐ lại giảm và
ò quan trọng đối với tăng
đó, chuyển dịch cơ cấu có ảnh
2
0
0
8
2
0
0
9
2
0
1
0
2
0
1
1
2
0
1
2
2
0
1
3
2
0
1
4
Đóng góp của
dịch chuyển lao
động giữa các
ngành có mức
NSLĐ khác
nhau
Đóng góp của
tăng trưởng
NSLĐ của các
ngành
16
Bảng 3.8. Đóng góp của chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành
vào tăng trưởng NSLĐ tổng thể nền kinh tế
Thời kỳ
NSLĐ
(triệu
đồng/người)
Tăng trưởng
NSLĐ
(%)
Đóng góp của chuyển
dịch cơ cấu cho tăng
trưởng NSLĐ
1995 – 1999 27,31 5,00 1,17 (23,35%)
2000 – 2010 38,14 3,65 2,94 (80,71%)
2011 – 2014 48,00 3,68 0,33 (9,09%)
1995 – 2014 36,85 3,94 2,02 (51,28%)
Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu của Tổng cục Thống kê.
3.7. Kết quả ước lượng các mô hình kinh tế lượng đánh giá tác động
của chuyển dịch cơ cấu ngành đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam thời
kỳ 1998 - 2011
Kết quả ước lượng mô hình (3.3b):
lnGDPit = 0.3883*lnkit + 0.3349*lnlit + 0.6539*kcnit
+ 0.4957*kdvit + 1.5823*l_cnit + 0.6905*l_dvit + 7.1664 + uit
Kết quả này cho thấy: mỗi sự gia tăng tỷ trọng vốn (lao động) vào
các ngành công nghiệp và dịch vụ có tác động mạnh hơn đến tăng trưởng
kinh tế so với tăng tỷ trọng vốn (lao động) nông nghiệp. Điều đó ngụ ý rằng
sự dịch chuyển vốn và lao động vào các ngành có năng suất cao đã góp
phần cải thiện chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam và kết quả này
hoàn toàn phù hợp với các lý thuyết kinh tế.
Kiểm định so sánh các hệ số ước lượng của mô hình (3.3b) cho
thấy một sự gia tăng trong tỷ trọng lao động của ngành công nghiệp sẽ có
tác động đến tăng trưởng mạnh nhất, tiếp đó là ảnh hưởng của gia tăng tỷ
trọng vốn công nghiệp, sau đó mới đến ảnh hưởng của tăng tỷ trọng vốn và
lao động dịch vụ.
Kết quả ước lượng mô hình (3.3c):
lnGDPnnit = 0.1556*lnknnit + 0.2059*lnlnn + 1.2277*kcnit
+ 1.0877*kdvit+ 0.9873*l_cnit + 0.8267*l_dvit + 9.4623 + uit
Kết quả ước lượng chứng tỏ tăng tỷ trọng vốn và lao động vào các ngành
công nghiệp và dịch vụ đều có tác động thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng.
Hơn nữa, một sự gia tăng tỷ trọng vốn dịch vụ sẽ có tác động đến tăng
trưởng nông nghiệp ít hơn là sự gia tăng tỷ trọng vốn công nghiệp.
17
Kết quả ước lượng mô hình (3.3d):
lnGDPcnit = 0.5475*lnkcnit + 0.2515*lnlcnit + 0.2251*knnit
+ 1.2062*kdvit − 0.9034*l_nnit − 0.1048*l_dvit+ 7.7897 + uit
Các kết quả ước lượng và kiểm định chứng tỏ rằng: thứ nhất, tăng
tỷ trọng vốn dịch vụ có tác động đến tăng trưởng công nghiệp lớn hơn so
với tăng tỷ trọng vốn công nghiệp, và/ hoặc tăng tỷ trọng lao động công
nghiệp có tác động đến tăng trưởng công nghiệp lớn hơn so với tăng tỷ
trọng lao động nông nghiệp; thứ hai, mỗi sự gia tăng như nhau về tỷ trọng
vốn công nghiệp và vốn nông nghiệp, hay lao động công nghiệp và lao
động dịch vụ đều có tác động như nhau đến tăng trưởng công nghiệp.
Kết quả ước lượng mô hình (3.3e):
lnGDPdvit = 0.4527*lnkdvit + 0.2958*lnldv + 0.4159*knnit
+ 1.1532*kcnit+ 0.6399*l_nnit + 1.9664*l_cnit + 6.5969 + uit
Kết quả ước lượng chứng tỏ: tăng tỷ trọng vốn vào các ngành nông
nghiệp, công nghiệp đều có tác động thúc đẩy tăng trưởng của ngành dịch
vụ mạnh hơn là tăng tỷ trọng vốn dịch vụ; và mỗi sự gia tăng tỷ trọng lao
động dịch vụ có tác động đến tăng trưởng của ngành dịch vụ ít hơn là tác
động của sự gia tăng tương ứng về tỷ trọng lao động công nghiệp. Hơn nữa,
mỗi sự gia tăng như nhau về tỷ trọng lao động nông nghiệp và dịch vụ đều
có tác động như nhau đến tăng trưởng của ngành dịch vụ.
Kết quả ước lượng mô hình (3.3f):
lnGDPpnnit = 0.5142*lnkpnnit + 0.2923*lnlpnn
+ 0.2477*kcnit + 1.041*l_cnit + 7.3401 + uit
Kết quả này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của ngành công nghiệp
trong việc thúc đẩy tăng trưởng của các ngành phi nông nghiệp. Hơn nữa,
mỗi sự gia tăng tỷ trọng lao động công nghiệp sẽ có ảnh hưởng đến tăng
trưởng của các ngành sản xuất phi nông nghiệp lớn hơn ảng hưởng của sự
gia tăng tương ứng tỷ trọng vốn công nghiệp.
Các kết quả ước lượng cho thấy CDCCN kinh tế có quan hệ chặt
chẽ với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam thời kỳ 1998 - 2011. Các kết quả
này cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của ngành công nghiệp trong việc
thu hút vốn và lao động để tạo ra sự CDCCN kinh tế và đóng góp vào tăng
trưởng của các ngành và nền kinh tế.
18
KẾT LUẬN, MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
VÀ ĐỀ XUẤT HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
1. Kết luận
Luận án “Các mô hình phân tích sự chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã sử
dụng ba mô hình: mô hình vào - ra, mô hình cơ bản và các mô hình kinh tế
lượng để phân tích sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam giai
đoạn 1989 - 2014. Qua phân tích, tác giả rút ra một số kết luận sau:
Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua
một thời kỳ tăng trưởng cao song hành với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế theo hướng CNH và ngày càng hiện đại. Điều này được minh chứng
trong sự dịch chuyển dài hạn trong cơ cấu GDP, cơ cấu lao động, cơ cấu
xuất khẩu và giá trị gia tăng của các ngành trong nền kinh tế. Tỷ trọng đóng
góp của ngành nông nghiệp có xu hướng giảm dần, các ngành công nghiệp
chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, còn tỷ trọng của các ngành dịch vụ tương đối
ổn định. Xét riêng từng nhóm ngành, cơ cấu ngành cũng có những chuyển
dịch tích cực và rõ nét.
Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam trong hơn hai thập kỷ đã chuyển
dịch từ trạng thái mà các sản phẩm nông nghiệp chiếm 22% kim ngạch xuất
khẩu vào năm 1995 và đến trạng thái mà hàng công nghiệp chiếm trên 90%
kim ngạch xuất khẩu năm 2012 của nền kinh tế. Đó là kết quả của việc thực
hiện có nguyên tắc một chiến lược kinh tế phù hợp với lợi thế so sánh của
quốc gia, đặc biệt trong các ngành công nghiệp thâm dụng tài nguyên và
lao động. Những thay đổi trong cơ cấu xuất khẩu hàng CNCBCT phản ánh
rằng chính phủ Việt Nam đã thành công trong việc cung cấp các thiết lập
thuận lợi ở cấp vĩ mô cho định hướng CNH hướng về xuất khẩu. Tuy
nhiên, điều đáng lo ngại là các ngành định hướng xuất khẩu của Việt Nam
hiện nay có hàm lượng giá trị gia tăng thấp; các hoạt động sản xuất, chế
biến hàng xuất khẩu phụ thuộc lớn vào đầu vào nhập khẩu. Hàm lượng nội
địa duy nhất của các sản phẩm chế biến chế tạo xuất khẩu là lao động kỹ
năng thấp hoặc trung bình được sử dụng cùng với với máy móc thiết bị và
nguyên phụ liệu nhập khẩu.
Bằng cách sử dụng kỹ thuật phân rã nguồn tăng trưởng theo
phương pháp tiếp cận vào - ra, có thể kết luận rằng sự thay đổi cơ cấu nền
kinh tế Việt Nam được thúc đẩy bởi sự dịch chuyển trong nhu cầu cuối
cùng - chủ yếu là tiêu dùng, thương mại, và những thay đổi trong mối quan
hệ giữa các ngành. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của các chính sách thương mại
và công nghiệp của Chính phủ cũng làm thay đổi cơ cấu nguồn tăng trưởng
đầu ra. Nếu cuối thập niên 80 đến nửa đầu thập niên 90, mở rộng cầu trong
nước là thành phần lớn nhất đóng góp cho tăng trưởng đầu ra thì đến cuối
19
thập niên 90, mở rộng cầu trong nước vẫn có ảnh hưởng chi phối đến tăng
trưởng đầu ra nhưng ảnh hưởng của mở rộng xuất khẩu có vai trò quan
trọng không kém, cho đến thập niên đầu của thế kỷ 21, mở rộng xuất khẩu
đã trở thành nguồn chính giải thích cho tăng trưởng đầu ra của nền kinh tế.
Tính đa dạng trong tăng trưởng và CDCCN phản ánh một phạm vi
rộng các khuynh hướng của quá trình CNH. Sự khác nhau giữa các ngành
phần lớn là do các nhân tố đặc trưng riêng cho từng ngành và sự khác nhau
về định hướng thương mại. Quá trình CDCCN cho thấy có sự thay đổi đáng
kể trong vai trò của các ngành sơ cấp và các ngành CNCBCT trong quá
trình CNH, HĐH đất nước. Cơ cấu ngành thay đổi theo hướng giảm tỷ
trọng của các ngành sơ cấp, tăng tỷ trọng đóng góp của các ngành
CNCBCT. Hơn nữa, trong cơ cấu ngành CNCBCT cũng có sự chuyển dịch
từ các ngành thâm dụng lao động đến các ngành thâm dụng vốn.
Nếu trong thời kỳ 1989 - 2000, khu vực sơ cấp đóng vai trò quan
trọng trong tăng trưởng đầu ra của nền kinh tế thì đến đầu những năm 2000,
đóng góp của khu vực này vào tăng trưởng đã giảm đi đáng kể. Cơ cấu của
khu vực sơ cấp cũng thay đổi theo thời gian: thời kỳ 1989 - 1996, mở rộng
đầu ra của ngành nông nghiệp có ảnh hưởng lớn nhất đến tăng trưởng sản
lượng của khu vực sơ cấp; thời kỳ 1996 - 2000, sự mở rộng đầu ra nhanh
chóng của ngành khai khoáng chi phối tăng trưởng đầu ra của khu vực sơ
cấp; đến thời kỳ 2000 - 2007, tăng trưởng sản lượng của ngành thủy sản
giải thích hơn một nửa cho tăng trưởng đầu ra của khu vực sơ cấp. Trong cả
thời kỳ 1989 - 2007, cơ cấu của cầu đối với các sản phẩm sơ cấp cũng có sự
chuyển dịch rõ nét. Mở rộng cầu trong nước, đặc biệt là đối với các sản
phẩm nông nghiệp, là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng đầu ra của khu
vực sơ cấp thời kỳ 1989 - 1996. Trong thời kỳ tiếp theo 1996 - 2000, tăng
trưởng đầu ra sơ cấp dựa vào mở rộng xuất khẩu, chủ yếu là mở rộng xuất
khẩu của nhóm ngành khai khoáng. Tương tự thời kỳ trước, thời kỳ 2000 -
2007 tăng trưởng đầu ra của khu vực sơ cấp bị chi phối bởi mở rộng xuất
khẩu, nhưng mở rộng xuất khẩu tập trung vào các sản phẩm nông nghiệp và
thủy sản, đồng thời thời kỳ này mối liên kết ngành giữa nông nghiệp và
thủy sản với các ngành trong nền kinh tế cũng được cải thiện. So sánh với
một số nền kinh tế khác, Việt Nam là một trong số rất ít các quốc gia mà
khu vực sơ cấp là khu vực định hướng xuất khẩu. Điếu đó cho thấy những
bước tiến trong quá trình CNH ở Việt Nam vẫn còn hết sức khiêm tốn.
Đóng vai trò then chốt trong tăng trưởng giá trị sản xuất của Việt
Nam qua các thời kỳ, ngành CNCBCT ngày càng mở rộng tầm ảnh hưởng
đối với tăng trưởng đầu ra của nền kinh tế, mặc dù phần đóng góp đó vẫn
còn khá khiêm tốn so với tiềm năng của ngành. Xét trên phương diện cơ
cấu ngành CNCBCT, nếu thời kỳ 1989 - 2000, tăng trưởng đầu ra của
20
nhóm ngành thâm dụng tài nguyên và lao động quyết định tăng trưởng đầu
ra của ngành CNCBCT, thì đến thời kỳ 2000 - 2007, mở rộng đầu ra của
các ngành thâm dụng vốn và công nghệ trở thành động lực dẫn dắt tăng
trưởng đầu ra bên cạnh những đóng góp không kém phần của các ngành
thâm dụng tài nguyên và lao động. Sự dịch chuyển cơ cấu của cầu đối với
hàng CNCBCT là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự mở rộng đầu
ra của ngành CNCBCT. Cuối thập niên 80, thành phần đóng góp quan
trọng nhất vào tăng trưởng đầu ra của ngành CNCBCT (đối với cả nhóm
ngành thâm dụng tài nguyên và lao động và nhóm ngành thâm dụng vốn và
công nghệ) là mở rộng cầu trong nước. Cuối thập niên 90, tăng trưởng đầu
ra của khu vực CNCBCT dựa vào sự mở rộng nhanh chóng của xuất khẩu,
trong đó mở rộng đầu ra của nhóm ngành thâm dụng tài nguyên và lao
động dựa vào sự mở rộng của cầu trong nước và xuất khẩu, và mở rộng đầu
ra của nhóm ngành thâm dụng vốn và công nghệ dựa vào thay thế nhập
khẩu và mở rộng xuất khẩu. Đến thập niên đầu của thế kỷ 21, mở rộng xuất
khẩu là khuynh hướng chủ đạo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự mở rộng đầu
ra của ngành CNCBCT. Trong đó, ngoài thành phần chính là mở rộng xuất
khẩu, tăng trưởng đầu ra của các ngành thâm dụng tài nguyên và lao động
được hậu thuẫn bởi những thay đổi trong các hệ số kỹ thuật cho thấy những
cải thiện đáng kể về tiến bộ công nghệ của các ngành có tác động tích cực
đến tăng trưởng đầu ra của nhóm ngành này; đối với nhóm ngành thâm
dụng vốn và công nghệ, ảnh hưởng của những thay đổi trong các hệ số kỹ
thuật không mạnh như ở các ngành thâm dụng tài nguyên và lao động
nhưng cộng hưởng cùng với sự mở rộng của cầu trong nước, tăng trưởng
đầu ra của nhóm ngành thâm dụng vốn và công nghệ đã thể hiện phần đóng
góp trội hơn vào tăng trưởng đầu ra so với các ngành thâm dụng tài nguyên
và lao động. Điều đó thể hiện thành công của các chính sách của chính phủ
như đẩy mạnh tự do thương mại, xúc tiến xuất khẩu và thu hút chuyển giao
công nghệ vào Việt Nam, và cho thấy những cải thiện đáng kể trong quá
trình hội nhập kinh tế của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới trong thời gian
qua. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, ngành CNCBCT, ngành đóng vai
trò chủ đạo đối với tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành ở Việt Nam,
cũng bộc lộ một số hạn chế như: mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu đang gia
tăng, xu hướng giảm giá trị gia tăng của sản phẩm. Những bất cập này một
phần là do sự kém phát triển của công nghiệp hỗ trợ.
Về các ngành thâm dụng tài nguyên và lao động, sự mở rộng đầu ra
của ngành tuy vẫn đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng đầu ra của
nền kinh tế nhưng quy mô ảnh hưởng đang giảm dần. Tăng trưởng đầu ra
của các ngành chế biến thực phẩm và dệt may đóng góp hơn một nửa cho
tăng trưởng đầu ra của nhóm ngành thâm dụng tài nguyên và lao động
21
trong thời kỳ 1989 - 2007. Một trong những đặc điểm đáng lưu ý đối với
hai ngành chủ lực đóng góp vào tăng trưởng là xu hướng gia tăng chi phí
trung gian trong quá trình sản xuất, điều này phản ánh quá trình sản xuất
mới chỉ dừng lại ở mức sơ chế hoặc làm hàng gia công. Sự dịch chuyển về
cơ cấu của cầu trong ngành chế biến thực phẩm lần lượt trải qua các giai
đoạn tăng trưởng từ dựa vào mở rộng cầu trong nước đến dựa vào mở rộng
cầu trung gian. Ngành dệt may luôn là ngành định hướng xuất khẩu trong
các thời kỳ nghiên cứu.
Các ngành thâm dụng vốn và công nghệ ngày càng mở rộng ảnh
hưởng đối với tăng trưởng đầu ra của khu vực CNCBCT và của nền kinh
tế. Trong thời kỳ 1989 - 2000, ngành hóa chất đi theo định hướng thay thế
nhập khẩu, ngành sản xuất kim loại và các sản phẩm từ kim loại chuyển
dịch từ dựa vào cầu trong nước đến thay thế nhập khẩu, ngành sản xuất cao
su - plastic dịch chuyển từ ngành định hướng xuất khẩu đến thay thề nhập
khẩu, ngành sản xuất các sản phẩm điện - điện tử từ dựa vào cầu trong
nước đến định hướng xuất khẩu. Trong thời kỳ 2000 - 2007, sự mở rộng
đầu ra nhanh chóng của các ngành như sản xuất kim loại và các sản phẩm
từ kim loại, hóa chất, cao su - plastic là do sự mở rộng nhanh chóng của
xuất khẩu. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại đối với các ngành sản phẩm từ kim
loại và hóa chất là cùng với sự mở rộng nhanh của xuất khẩu, tăng trưởng
đầu ra của hai ngành này phụ thuộc khá lớn vào đầu vào trung gian nhập
khẩu. Bên cạnh đó, với vai trò của một ngành thay thế nhập khẩu, ngành
sản xuất các sản phẩm điện - điện tử đã có những đóng góp to lớn vào tăng
trưởng đầu ra của nền kinh tế. Mặc dù là một ngành có lợi thế cạnh tranh và
tiềm năng phát triển nhưng cho đến nay, ngành công nghiệp được coi là
mũi nhọn này mới chỉ dừng lại ở các hoạt động lắp ráp đơn giản (kể cả các
thiết bị và linh kiện điện tử).
Hình mẫu tăng trưởng của ngành CNCBCT ở Việt Nam cũng diễn
ra tương tự như ở một số nền kinh tế thành công khác ở Đông Á đã trải
nghiệm như Hàn Quốc, Đài Loan. Kết quả phân tích cho thấy Việt Nam
đang đi theo con đường tăng trưởng của các nước Đông Á láng giềng có
đặc điểm là coi mở cửa và hội nhập là yếu tố tiên quyết đối với tăng trưởng
và mở rộng nền tảng công nghiệp (chuyển dịch cơ cấu). Tuy nhiên, điểm
đáng lưu ý trong quá trình CNH ở Việt Nam là tốc độ tăng giá trị gia tăng
của các ngành luôn thấp hơn so với tốc độ tăng giá trị sản xuất. Quá trình
chuyển dịch chậm đã tạo ra một cơ cấu ngành có năng lực cạnh tranh thấp.
Các kết quả phân tích so sánh cho thấy trình độ phát triển của nền kinh tế
Việt Nam vẫn còn ở giai đoạn đầu của quá trình CNH, HĐH, mặc dù đã có
những thay đổi đáng kể trong cơ cấu của các thành phần đóng góp vào tăng
trưởng sản lượng của các ngành và nền kinh tế.
22
Sự mở rộng đầu ra của khu vực dịch vụ đóng góp vào tăng
trưởng chung của nền kinh tế biểu hiện xu thế giảm. Hơn nữa, sự phát
triển hướng nội của khu vực này chủ yếu để đáp ứng sự mở rộng quy mô
của cầu trong nước.
Sự CDCCN từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ đã có ảnh
hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Mức tăng trưởng đạt
được chủ yếu là do sự mở rộng các yếu tố đầu vào (như vốn và lao động)
và sự CDCCN kinh tế theo chiều ngang từ các ngành có năng suất thấp
sang các ngành có năng suất cao, trong đó nhấn mạnh vai trò quan trọng
của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Sự chuyển dịch đó cũng đã có tác
động mạnh mẽ đến tăng trưởng của các ngành kinh tế của Việt Nam. Kết
quả ước lượng các mô hình kinh tế lượng cung cấp thêm cơ sở khoa học để
khẳng định rằng CDCCN theo hướng CNH, HĐH có tác động thúc đẩy và
nâng cao tốc độ tăng trưởng của các ngành phi nông nghiệp và của nền
kinh tế. Đồng thời, các kết quả này cũng cung cấp thêm bằng chứng thực
nghiệm chứng tỏ rằng tăng phần chia vốn công nghiệp và/hoặc vốn dịch vụ
trong tổng vốn, và/hoặc tăng phần chia lao động công nghiệp và/hoặc lao
động dịch vụ trong tổng lao động sẽ có khả năng thúc đẩy sản lượng của
các ngành và nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn. Các kết quả đều khẳng
định tầm quan trọng của việc nâng tỷ trọng vốn và đặc biệt là tỷ trọng lao
động công nghiệp đối với tăng trưởng sản lượng của các ngành phi nông
nhiệp và của nền kinh tế.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng đã giúp Việt Nam
gặt hái được những thành công nhất định trong quá trình từng bước cải
thiện NSLĐ, nâng cao năng lực cạnh tranh và giá trị nội tại của nền kinh tế.
Trong thời kỳ 1995–2014, dòng lao động dịch chuyển từ các hoạt động
năng suất thấp sang các hoạt động năng suất cao là động lực chính của sự
phát triển. Sự dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và
dịch vụ đã có đóng góp to lớn cho sự gia tăng NSLĐ ở Việt Nam, chủ yếu
là do khoảng cách lớn về năng suất giữa các ngành. Tuy nhiên, nhân tố chủ
đạo dẫn dắt và tạo nội lực cho tăng trưởng NSLĐ trong thời gian qua đã
bộc lộ xu hướng hụt hơi, được quan sát thấy từ năm 2011. Với tốc độ tăng
trưởng kinh tế đã đạt được, có lẽ Việt Nam không thể tiếp tục nâng cao tỷ
trọng đóng góp của tăng trưởng NSLĐ cho tăng trưởng kinh tế nhờ dịch
chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ như trước đây. Mặc dù
chuyển dịch cơ cấu vẫn tiếp tục có đóng góp tích cực cho tăng trưởng
NSLĐ của nền kinh tế vì tỷ trọng lao động nông nghiệp ở Việt Nam còn rất
lớn và khoảng cách về NSLĐ giữa công nghiệp và nông nghiệp vẫn đang
nối dài, nhưng sự tái phân bổ lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và
dịch vụ tất yếu sẽ suy giảm theo thời gian. Do đó, để giữ nhịp tăng trưởng
đã đạt được trong thời gian qua và bước vào giai đoạn tăng trưởng mới đầy
23
sinh lực, Việt Nam cần cải thiện mạnh mẽ hơn nữa NSLĐ của các ngành
kinh tế.
2. Một số khuyến nghị chính sách
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của chương 2 và chương 3, một
số khuyến nghị chính sách được đề xuất như sau:
Thứ nhất, Việt Nam cần xây dựng một lộ trình CNH rõ ràng, dài
hạn, phù hợp với các điều kiện và năng lực thực tế của nền kinh tế.
Thứ hai, khi xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển công nghiệp,
Việt Nam có thể tập trung vào những lĩnh vực giàu triển vọng bao gồm: thứ
nhất là những ngành Việt Nam đang có lợi thế so sánh tĩnh (bao gồm những
ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động giản đơn như: dệt may,
giày dép; và những ngành vừa có hàm lượng lao động cao vừa sử dụng nhiều
nguyên liệu nông - lâm - thuỷ sản như: thực phẩm, đồ uống ...); thứ hai là
những ngành, sản phẩm mà cầu của thế giới đang tăng đồng thời Việt Nam có
lợi thế so sánh động vì phát triển các ngành này sẽ làm chuyển dịch mạnh mẽ
cơ cấu sản xuất và xuất khẩu trong tương lai không xa. Những ngành hội tụ cả
hai yếu tố trên (cầu thế giới lớn và có lợi thế so sánh động) có thể là: những
ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động lành nghề, lao động có
kỹ năng cao với nhiều trình độ khác nhau (như đồ điện, điện tử gia dụng, xe
máy, máy bơm nước và các loại máy móc khác, các loại bộ phận, linh kiện
điện tử...); và những ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao (như sản
xuất các loại máy móc liên quan công nghệ thông tin như máy tính cá nhân,
điện thoại di động). Các chính sách phát triển ngành được xác định thuộc
nhóm thứ nhất phải hướng vào tăng năng suất đi cùng với tăng việc làm,
hướng đến những khâu có hàm lượng công nghệ vào giá trị gia tăng cao hơn
nhằm vừa tránh sức ép về gia tăng việc làm vừa chuyển dịch trôi chảy từ tăng
trưởng dựa vào tài nguyên và nhân công giá rẻ sang dựa vào lao động có tri
thức kỹ thuật cao và đổi mới công nghệ. Các chính sách liên quan đến các
ngành được xác định thuộc nhóm thứ hai cần chủ động chuyển hướng từ chiến
lược hướng nội sang chiến lược hướng ngoại, và đẩy mạnh xuất khẩu sản
phẩm nguyên chiếc.
Thứ ba, thúc đẩy tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến chế
tạo dựa vào tăng năng suất và cải tiến công nghệ, hỗ trợ phát triển các
ngành công nghiệp có công nghệ cao và theo chiều sâu. Một bước đi cần
thiết của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là phát triển công nghiệp hỗ trợ
nhằm ổn định thị trường đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến chế
tạo, điều này phần nào sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào đầu vào nhập khẩu,
thúc đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ vào Việt Nam, giúp hàng
hóa Việt Nam tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hiện nay, các
24
ngành công nghiệp hỗ trợ tạo ra những sản phẩm có nhu cầu lớn cần được
tập trung phát triển là: phụ liệu dệt may, giày dép, linh kiện điện tử
Thứ tư, nâng cao chất lượng dịch vụ ở các ngành dịch vụ truyền
thống và phát triển các ngành dịch vụ hiện đại, công nghệ cao. Những
ngành dịch vụ trọng tâm như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, viễn thông
cần được chú trọng phát triển nhằm tạo ra những tiền đề quan trọng để Việt
Nam phát triển một nền kinh tế có giá trị gia tăng cao.
Thứ năm, cần chú trọng phát triển các ngành nông nghiệp truyền
thống cùng với các ngành nông nghiệp kỹ thuật cao. Nâng cao NSLĐ nông
nghiệp bằng cách ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học.
Thứ sáu, Việt Nam cần tiếp tục duy trì nguồn vốn đầu tư và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhằm nâng cao năng suất của các ngành.
Tăng tỷ trọng vốn công nghiệp có đóng góp vào tăng trưởng lớn hơn so với
việc tăng tỷ trọng vốn nông nghiệp và dịch vụ. Vì vậy, để thúc đẩy tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu, khi phân bổ vốn cho các ngành trong nền
kinh tế, vốn công nghiệp cần được mở rộng cả về quy mô và tỷ trọng. Việc
đầu tư vào các ngành sản xuất thâm dụng vốn và công nghệ là cần thiết để
giữ nhịp tăng năng suất.
Thứ bảy, các chính sách phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc di
chuyển các nguồn lực một cách linh hoạt sang các hoạt động kinh tế có
năng suất cao hơn.
3. Đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo
Tác giả xin đề xuất một số hướng nghiên cứu trong tương lai có thể
thực hiện như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp phân rã nguồn
tăng trưởng đầu ra từ phía cầu. Đây là một phương pháp tĩnh so sánh, do
đó, hướng nghiên cứu tiếp theo có thể thực hiện là sử dụng mô hình vào -
ra động để phân tích chiến lược CNH, thay đổi cơ cấu và tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam.
Thứ hai, các mô hình kinh tế lượng trong nghiên cứu này đã bỏ sót
hai vấn đề quan trọng là trễ và sai số theo không gian. Do đó, một hướng
nghiên cứu có thể thực hiện trong các nghiên cứu tiếp theo là sử dụng các
mô hình kinh tế lượng không gian để nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu ngành
và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- la_nguyenthicamvan_tt_1321.pdf