Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đại đang phát triển như vũ
bão; toàn cầu hóa diễn ra sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực, tác động sâu xa đến
sự phát triển của các quốc gia dân tộc. Các nước, dù với chế độ chính trị khác
nhau đều phải chủ động xác định chiến lược phát triển cho riêng mình một
cách phù hợp mới mong tránh khỏi nguy cơ tụt hậu trong cuộc chạy đua toàn
cầu. Đối với Việt Nam trên hành trình mở cửa và hội nhập, đẩy nhanh tốc độ
phát triển để vươn tới một nước công nghiệp, đòi hỏi phải phát huy hết thảy
mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ và chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức nhà giáo ở bậc đại học. Đây là về một vấn đề vốn chứa đựng tính
phức tạp, nhạy cảm, khó đo lường. Qua nghiên cứu, tác giả luận án rút ra một
số nhận định khái quát sau:
23
1. Trí thức GDĐH là lực lượng nòng cốt trực tiếp tham gia vào quá trình
đào tạo ở bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần quan
trọng vào việc thực hiện “ba đột phá”, trong đó có đột phá xây dựng nguồn
nhân lực và điển hình là nguồn nhân lực chất lượng cao của quốc gia, dân
tộc; không chỉ trực tiếp tham gia phát triển khoa học - công nghệ mà còn
đem tài năng, sáng tạo, nhiệt huyết xây dựng các luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là các chính
sách GDĐH.
2. Lao động của trí thức GDĐH là lao động nghề nghiệp chuyên môn, đó
là lao động khoa học sư phạm bậc cao, là truyền thụ học vấn và đào tạo
hướng nghiệp đồng thời là giáo dục, trau dồi nhân cách, ở đó giảng dạy,
NCKH gắn bó chặt chẽ với nhau và được đảm bảo chủ yếu bởi lao động trí
tuệ, sáng tạo. Đây là đặc trưng cần tính đến khi hoạch định chính sách nâng
cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay.
28 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 1998 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức Giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đáng chú ý là những quan điểm xem
trí thức như một lực lượng xã hội, một nhóm xã hội - nghề nghiệp được nhận
diện và phân định bởi tính chất lao động trí óc, sáng tạo và phức tạp.
Hai là, những nghiên cứu lý luận về trí thức, trí thức GDĐH là khá phong
phú nhưng chưa có công trình nghiên cứu chuyên khảo hay các đề án,
chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, chưa có luận án, luận văn
nào trực tiếp đi sâu luận giải một cách có hệ thống về vấn đề chất lượng lao
động của trí thức GDĐH ở Việt Nam.
Ba là, dưới các góc độ, bình diện, phạm vi nghiên cứu khác nhau, những
công trình nghiên cứu đã đề cập đến đặc điểm lao động của giảng viên ở từng
khía cạnh cụ thể, chủ yếu luận bàn đến chức trách, nhiệm vụ, đối tượng, công
cụ tác động, tính chất lao động của giảng viên và nhà khoa học.
7Bốn là, trên bình diện chất lượng lao động của trí thức GDĐH, những công
trình nghiên cứu đã công bố chủ yếu chỉ chú trọng đánh giá nhiệm vụ giảng viên
theo góc độ tiếp cận giáo dục học. Trên thực tế, lý luận về chất lượng lao động
của trí thức GDĐH chưa được nghiên cứu theo quan điểm toàn diện, hệ thống
với giác độ tiếp cận liên ngành triết học - chính trị - xã hội - giáo dục.
Năm là, nhiều khía cạnh thực tiễn về nâng cao chất lượng lao động của
đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam chưa được làm sáng tỏ như: thực trạng,
những vấn đề đặt ra từ thực trạng; việc qui chế hoá chất lượng lao động của
đội ngũ trí thức GDĐH ở các cơ sở đào tạo trên phạm vi cả nước; cơ chế,
mức độ, hiệu quả tác động của chủ trương, chính sách, pháp luật đến việc
nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ này ở nước ta hiện nay.
Sáu là, việc làm rõ chất lượng lao động của đội ngũ trí thức quản lý giáo
dục ở bậc đại học nước ta còn là vấn đề mới mẻ, chưa có những công trình
nghiên cứu chuyên sâu theo hướng xây dựng thành lý luận và tổng kết thực tiễn
về chất lượng lao động của đội ngũ này đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn
diện GDĐH Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Bảy là, còn có nhiều vấn đề chưa được luận chứng mà tác giả luận án sẽ
tập trung giải quyết như:
- Với phương pháp tiếp cận liên ngành triết học - chính trị - xã hội - giáo
dục, luận án hình thành quan niệm mới có tính hệ thống về chất lượng lao
động của trí thức GDĐH.
- Xây dựng luận cứ khoa học cho tính tất yếu nâng cao chất lượng lao động
của trí thức GDĐH Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
- Luận án xác lập những tiêu chí đánh giá chất lượng lao động của trí thức
GDĐH làm cơ sở khoa học cho việc khảo sát thực trạng chất lượng lao động của
đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam ở một số trường đại học công lập.
- Luận án chỉ rõ một số vấn đề đặt ra đối với chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức GDĐH Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng
cao chất lượng lao động của đội ngũ này ở nước ta hiện nay.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG
CỦA TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
2.1. QUAN NIỆM VỀ TRÍ THỨC, TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ LAO
ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
2.1.1. Quan niệm về trí thức
Trí thức là một thuật ngữ, một khái niệm khoa học với những hàm nghĩa
khác nhau. Theo đó, khi xem xét quan niệm về trí thức đòi hỏi phải chú ý đến
tính lịch sử - cụ thể và giác độ tiếp cận. Thống nhất với quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức, chúng tôi cho
8rằng, trí thức là một tầng lớp xã hội được đặc trưng bởi phương thức lao
động trí óc, sáng tạo. Họ là lực lượng chủ yếu tham gia trực tiếp vào việc
phát kiến, giữ gìn và truyền bá tri thức góp phần thúc đẩy sự phát triển nhận
thức khoa học và sự tiến bộ của xã hội.
Cần nhận diện trí thức ở một số đặc trưng nổi trội sau: Trí thức không phải
là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội đặc biệt và đặc thù; trí thức cần
được xem như một cá thể - chủ thể mang nhân cách sáng tạo; học vấn, học
thức của người trí thức được gây dựng qua đào tạo, được bồi dưỡng và phát
triển không ngừng bằng con đường tự đào tạo, tự trau dồi và hoàn thiện của
cá nhân trong lao động và hoạt động sáng tạo; với trí thức chân chính, hiểu
biết phải gắn liền với cống hiến; lý tưởng chính trị và trách nhiệm xã hội phải
được biểu hiện thông qua lý tưởng nghề nghiệp, qua hoạt động chuyên môn
đặc thù, gắn bó sâu nặng với Tổ quốc và nhân dân.
2.1.2. Quan niệm về trí thức giáo dục đại học Việt Nam
Trí thức GDĐH Việt Nam là một lực lượng xã hội hay một nhóm xã hội -
nghề nghiệp đặc thù, tiêu biểu của trí thức; là chủ thể của hoạt động sư phạm
trong lĩnh vực GDĐH, có nhiệm vụ giảng dạy; NCKH, ứng dụng, chuyển giao
công nghệ; tổ chức, quản lý hoạt động sư phạm nhằm cao dân trí, đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ cao và phát triển nhân tài cho đất nước.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, vai trò, nhiệm
vụ của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam ngày càng được định hình rõ nét:
Một là, trí thức GDĐH Việt Nam phải trực tiếp gắn kết đào tạo với NCKH, liên
kết các hoạt động của nhà trường với sản xuất và dịch vụ cộng đồng.
Hai là, trí thức GDĐH Việt Nam là lực lượng xung kích, nòng cốt trực tiếp
xây dựng nền Giáo dục đại học Việt Nam tiên tiến, góp phần quan trọng vào
chấn hưng giáo dục nước nhà.
Ba là, với tư cách là nguồn lực trí tuệ, trí thức GDĐH Việt Nam trực tiếp
tham gia vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ chuyên gia,
những nhà khoa học đáp ứng yêu cầu về chất lượng lao động của nền kinh tế
- xã hội.
Bốn là, trí thức GDĐH Việt Nam góp phần nâng cao tiềm lực khoa học -
công nghệ quốc gia.
Năm là, trí thức GDĐH Việt Nam là lực lượng đem tài năng sáng tạo, nhiệt
huyết, trách nhiệm của mình vào việc xây dựng các luận cứ khoa học làm cơ sở
cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
2.1.3. Quan niệm về lao động của trí thức giáo dục đại học
Lao động của trí thức GDĐH là quá trình tác động có mục đích của nhà
giáo đến đối tượng người học nhằm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao. Lao động của trí thức GDĐH cần được nhìn nhận
trên các bình diện chủ yếu sau:
9Thứ nhất, với ý nghĩa là một công việc, lao động của trí thức GDĐH là
hoạt động lao động nghề nghiệp chuyên môn - giáo dục và đào tạo ở bậc đại
học mà đặc trưng nổi bật là hoạt động khoa học sư phạm, là truyền thụ học
vấn, đào tạo hướng nghiệp và đào tạo con người.
Thứ hai, lao động của trí thức GDĐH là lao động sáng tạo bậc cao, có vai
trò đặc biệt quan trọng nhằm tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần. Mỗi
thành công trong giảng dạy hay mỗi đóng góp mới trong nghiên cứu cũng
như trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của trí thức GDĐH đều góp phần xây
dựng tiềm lực trí tuệ cho dân tộc và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội của
đất nước.
Thứ ba, tiếp cận lao động của trí thức GDĐH trên bình diện chức năng, có
thể xem dạy chữ - dạy người - dạy nghề là ba hoạt động thống nhất trong quá
trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước.
Thứ tư, cần xem lao động của trí thức GDĐH, trước hết là lao động cá nhân
nhưng chính đặc thù nghề nghiệp đã mang lại và đòi hỏi một cách nghiêm
ngặt tính tập thể, tính phổ biến, tính tương tác và đồng thuận.
2.2. TÍNH ĐẶC THÙ CỦA LAO ĐỘNG TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
2.2.1. Lao động của trí thức giáo dục đại học là lao động trí óc, sáng tạo
Lao động của trí thức GDĐH trước hết là lao động trí óc. Tính đặc thù
trong lao động của họ biểu hiện ở việc thường xuyên phải huy động trí lực,
phát huy sức sáng tạo của tư duy, ở hàm lượng chất xám cao kết tinh trong
sản phẩm. Đó là những phát minh, sáng chế, sáng kiến, thậm chí là nhân cách
người học, là trình độ, kỹ năng lao động của nguồn nhân lực.
Nếu như sáng tạo trong giảng dạy của trí thức GDĐH là năng lực hệ thống
hóa, kế thừa, lựa chọn thông tin gắn với các thao tác phân tích, tổng hợp,
diễn giảng làm cho người học lĩnh hội và thâu thái tri thức thì sáng tạo trong
NCKH là đi tìm cái mới, đưa ra kiến giải mới hay một đề xuất mới đóng góp
vào vấn đề mà Lênin gọi là hạt chân lý của nhận thức.
Với tư cách là khoa học dùng người, hoạt động lãnh đạo, quản lý giáo dục
của trí thức GDĐH cũng là lao động trí óc, sáng tạo. Nó đòi hỏi chủ thể lãnh
đạo, quản lý phải khéo léo sử dụng tài năng, trí tuệ và tình cảm, bằng những
phương pháp khoa học, tư duy sáng tạo mới có sức thuyết phục trong việc
điều hành các hoạt động lao động của cả tập thể nhà giáo đại học.
2.2.2. Lao động của trí thức giáo dục đại học là lao động sư phạm bậc cao
Cốt lõi để phân biệt tính đặc thù này biểu hiện ở chức năng nghề nghiệp, ở
mục tiêu, phương thức lao động, tập trung trong yêu cầu phát triển trí tuệ,
hình thành năng lực tư duy, kỹ năng lao động cho nguồn nhân lực chất lượng
cao đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh CNH,
10
HĐH, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức. Điều này đòi hỏi ở mỗi
trí thức nhà giáo đại học những kỹ năng lao động sư phạm cấp cao - kỹ năng
định hướng hoạt động nhận thức, kỹ năng đào tạo nghề và kỹ năng cảm hóa
con người bằng đạo đức, nhân cách và tất cả tâm hồn mình.
Yêu cầu được đánh giá cao ở lao động sư phạm của người trí thức giảng
dạy bậc đại học là khả năng dẫn dắt sinh viên vào môi trường sáng tạo để tự
họ lao động trí tuệ và tự họ tìm đến tri thức trên cơ sở hướng dẫn của người
thầy. Đối với trí thức GDĐH, mọi tri thức và sự hiểu biết cần phải được
chuyển hóa thành phương pháp để một mặt sản sinh ra tri thức và làm mới tri
thức được sở hữu, mặt khác có thể định hướng, tổ chức hoạt động nhận thức
của người học, tạo ra bước chuyển hóa từ giáo dục sang tự giáo dục, từ đào
tạo sang tự đào tạo.
2.2.3. Giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai nhiệm vụ song hành
của phần lớn trí thức giáo dục đại học
Tuy không phải mọi trí thức GDĐH đều tham gia giảng dạy và NCKH
nhưng phần lớn trí thức là giảng viên và ngay cả lực lượng lãnh đạo, quản lý
giáo dục trong các trường đại học cũng tham gia giảng dạy, NCKH ở một
mức độ nhất định. Do vậy, có thể xem giảng dạy và NCKH là hai nhiệm vụ
song hành của phần lớn trí thức GDĐH.
Gắn bó biện chứng giữa giảng dạy với NCKH thực chất là yêu cầu có kiến
thức và biết truyền thụ kiến thức. Suy đến cùng, bồi dưỡng cho người học
năng lực tư duy, tự học, tự nghiên cứu chính là bồi dưỡng phương pháp
NCKH. Điều này đòi hỏi mỗi trí thức GDĐH chẳng những phải có hai cặp
phẩm chất, năng lực quan trọng nhất của người giảng viên, đó là xu hướng
nghề nghiệp sư phạm và năng lực sư phạm mà còn gắn liền với xu hướng
nghề nghiệp NCKH và năng lực NCKH. Trước hết, họ phải biết tổ chức quá
trình nhận thức của sinh viên bằng hoạt động giảng dạy, đồng thời phải biết
tự nghiên cứu, triển khai các ý tưởng khoa học, phát triển những năng lực,
phẩm chất tốt đẹp của một chuyên gia.
2.2.4. Sản phẩm lao động của trí thức giáo dục đại học góp phần phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước
Cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn đều tất yếu đòi hỏi trường đại học cần trở
thành nơi tiêu biểu cho đời sống trí tuệ và văn hóa tinh thần của xã hội. Đó là
những vườn ươm các tài năng khoa học tương lai, là cái nôi nuôi dưỡng
những trí tuệ khoa học thuộc nhiều thế hệ. Bằng tài năng, sự cống hiến và
cách thức riêng của mình, mỗi trí thức nhà giáo cần tham gia vào quá trình
sản xuất tri thức, kiến tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao của nước mình
từ mặt bằng chung tới mỗi nấc thang phát triển của nó để từng bước đáp ứng
những đòi hỏi khắt khe của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sự lớn mạnh của đội ngũ trí thức GDĐH nước ta cùng với sản phẩm
11
lao động của họ sẽ là nguồn bổ sung trực tiếp, lớn nhất để phát triển đội ngũ
trí thức và nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước.
2.3. QUAN NIỆM VỀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG VÀ CHẤT LƯỢNG LAO
ĐỘNGCỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
2.3.1. Quan niệm về chất lượng lao động
Tính nhiều mặt, nhiều cấp độ, tính chất đa nghĩa của phạm trù “chất lượng
lao động” về mặt phương pháp luận đòi hỏi phải nghiên cứu nó từ quan điểm
toàn diện, từ phương pháp tổng hợp và hệ thống. Theo chúng tôi, chất lượng
lao động là khái niệm dùng để chỉ mức độ thỏa mãn, khả năng đáp ứng các tiêu
chí, yêu cầu đặt ra của một công việc cụ thể nào đó. Chất lượng lao động bao
hàm trong bản thân nó hàng loạt các yếu tố, truớc hết là sự thỏa mãn, đáp ứng,
sự trùng khớp giữa kết quả lao động thực tế với nhu cầu, mong muốn của các
chủ thể hay mục tiêu định sẵn và những tiêu chuẩn xác định.
Chất lượng lao động của bất kỳ chủ thể nào cũng phản ánh giá trị lao động
thực tế của mỗi cá nhân. Trên phạm vi rộng lớn hơn, nó còn góp phần tạo
thành tấm gương phản chiếu giá trị lao động của toàn xã hội ở từng giai đoạn
lịch sử nhất định.
2.3.2. Quan niệm về chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục
đại học
Có thể nói, chất lượng lao động của trí thức GDĐH là một khái niệm đa
chiều, bao trùm chức trách, nhiệm vụ của nhà giáo ở bậc đại học, biểu hiện
kết quả tổng hợp các mặt hoạt động nghề nghiệp của người giảng viên.
Chúng tôi cho rằng, chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH cần
phải được xem xét như là kết quả từ việc hoàn thành chức trách của đội ngũ
giảng viên, đội ngũ cán bộ quản lý ở các cơ sở GDĐH với hiệu quả biến đổi
trình độ, năng lực tư duy, phát triển nhân cách của người học theo hướng
tích cực và tiến bộ; là đặc tính thỏa mãn tốt nhất và đáp ứng được yêu cầu
của khách hàng - những chủ thể hưởng lợi từ hoạt động nghề nghiệp chuyên
môn của trí thức nhà giáo ở bậc đại học.
Chất lượng giảng dạy của đội ngũ nhà giáo đại học ở nước ta hiện nay
không đơn thuần biểu hiện ở khối lượng thông tin truyền đạt mà được đánh
giá cao ở mức độ và hiệu quả hình thành năng lực nhận thức, tư duy, thực
hành cũng như khả năng tự tạo việc làm hay khả năng thích ứng và hội nhập
quốc tế của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Chất lượng NCKH, chuyển giao công nghệ của đội ngũ trí thức GDĐH được
biểu hiện ở mức độ sáng tạo, hiệu quả triển khai, ứng dụng kết quả nghiên cứu,
những phát minh, sáng kiến vào thực tiễn công tác đào tạo, bồi dưỡng của nhà
trường cũng như nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Chất lượng hoạt động quản lý của đội ngũ trí thức GDĐH được phản
chiếu ở hiệu quả xây dựng, triển khai, giám sát việc thực hiện kế hoạch
giảng dạy, học tập, NCKH và chuyển giao công nghệ của đội ngũ trí thức giữ
12
chức vụ lãnh đạo hoặc đảm trách một số các hoạt động kiêm nhiệm như cố
vấn học tập, chủ nhiệm lớp, công tác đoàn, hội.
2.3.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại
học Việt Nam hiện nay
Đánh giá chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH về thực chất là
sự phán đoán giá trị lao động nhằm làm rõ mức độ đóng góp trí tuệ cho xã
hội của đội ngũ giảng viên và những chủ thể quản lý giáo dục ở bậc đại học.
Đánh giá chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH cần tập trung vào
các tiêu chí cơ bản sau:
Một là, mức độ đáp ứng tiêu chuẩn nhà giáo của đội ngũ trí thức GDĐH.
Hai là, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ trí thức GDĐH theo chức
trách được giao.
Ba là, kết quả lao động thực tế của trí thức GDĐH.
Bốn là, mức độ hài lòng của giảng viên, sinh viên và các chủ thể sử dụng sản
phẩm GDĐH đối với kết quả lao động của đội ngũ trí thức GDĐH.
Năm là, khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực được đào tạo đối với thị
trường lao động. Tiêu chí này được lượng hóa ở tỷ lệ có việc làm của sinh
viên sau khi tốt nghiệp, ở chất lượng lao động của nguồn nhân lực được đào
tạo đại học.
2.4. TÍNH TẤT YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌCVIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
2.4.1. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học Việt Nam là đòi hỏi tất yếu từ yêu cầu phát triển của đất nước
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với mục tiêu giải phóng
và phát triển con người, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội dựa trên cơ sở
của khoa học và công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
gắn với phát triển kinh tế tri thức, cùng với đó là sức ép nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế đòi hỏi GDĐH phải cung ứng cho xã hội nguồn
nhân lực chất lượng cao. Chỉ có thể đảm bảo được yêu cầu ấy, nếu chất
lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH được nâng cao với tư cách là
điều kiện căn bản, có ý nghĩa quyết định trực tiếp chức năng sản xuất, tái
sản xuất ra “hàng hoá” với sản phẩm đặc biệt - con người trí tuệ để đáp ứng
nhu cầu phát triển của đất nước.
2.4.2. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học là yêu cầu nội tại của quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo đục
dại học ở Việt Nam hiện nay
Có thể nói, ở bất cứ cơ sở đào tạo đại học nào, chất lượng giáo dục yếu
kém cũng là mối đe dọa thường xuyên đến sự tồn tại, phát triển bền vững của
nhà trường. Cần nhận thức sâu sắc một thực tế, GDĐH Việt Nam đang đứng
trước đòi hỏi vô cùng hệ trọng - đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH với mục
tiêu: tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, trong đó có những trường và
13
ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế; nâng cao chất lượng theo yêu
cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế. Để
triển khai thành công chiến lược đó thì nâng cao chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức GDĐH đã trở thành nhu cầu thiết yếu.
Mặt khác, chủ trương đào tạo theo phương thức tín chỉ, xu hướng tăng
quyền tự chủ và yêu cầu về việc nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của
trường đại học cùng với yêu cầu triển khai qui trình kiểm định chất lượng
trường đại học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo đang trở thành
động lực hối thúc mạnh mẽ việc nâng cao chất lượng lao động của trí thức
GDĐH. Điều này cũng đặt trí thức nhà giáo ở bậc đại học đứng trước nguy
cơ, thách thức bị đào thải nếu chất lượng lao động của họ không đáp đứng
được yêu cầu của người học hay của các chủ thể sử dụng nguồn nhân lực.
2.4.3. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học nhằm khai thác tốt mọi tiềm năng, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu
quả các nguồn lực của giáo dục đại học
Hiệu quả đào tạo của trường đại học bị chi phối bởi việc khai thác tiềm
năng, sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực của GDĐH. Nếu không nâng
cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH thì việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ
thuật, việc hiện đại hóa các phương tiện dạy học, đổi mới cơ chế, chính sách
phát triển GDĐH hay đổi mới nội dung chương trình đào tạo, phương pháp
giảng dạy cũng trở nên vô nghĩa, thậm chí còn là sự lãng phí nghiêm trọng
của GDĐH nói riêng và quản lý kinh tế - xã hội nói chung trong điều kiện
kinh phí và ngân sách đầu tư cho giáo dục còn hạn hẹp như hiện nay.
Chất lượng GDĐH do nhiều yếu tố tạo thành nhưng các yếu tố khác chỉ
đóng vai trò hỗ trợ, tạo điều kiện để trí thức GDĐH thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình. Xét đến cùng, nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ
trí thức GDĐH được xem như tâm điểm không chỉ gắn bó các yếu tố của
giáo dục trong một chỉnh thể mà còn quyết định trực tiếp đến hiệu quả sử
dụng các nguồn lực của GDĐH.
Chương 3
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ
THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1. Mức độ đáp ứng tiêu chuẩn nhà giáo của đội ngũ trí thức giáo
dục đại học Việt Nam hiện nay
Cùng với sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta và sự mở rộng qui mô đào
tạo nguồn nhân lực, đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam đã không ngừng được
14
bổ sung lực lượng, nâng cao về chất lượng, từng bước đáp ứng tiêu chuẩn
theo luật định về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, về năng lực và phẩm chất
đạo đức nhà giáo, qua đó hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy, NCKH, giữ gìn
danh dự, uy tín, bồi dưỡng phẩm chất, chính trị và đạo đức nghề nghiệp.
Tuy nhiên, tỷ lệ trí thức nhà giáo đại học chưa đạt chuẩn về trình độ
chuyên môn theo luật định (do không qua đào tạo bậc sau đại học) vẫn chiếm
38,75%. Hơn nữa, tình trạng thiếu hụt thế hệ cán bộ kế cận có trình độ cao
đang tạo ra sự mất cân đối về cơ cấu lứa tuổi, trình độ và tính kế tục của đội
ngũ trí thức GDĐH. Thêm vào đó, tình trạng phai nhạt lý tưởng, xuống cấp
về đạo đức cộng với những biểu hiện lao động hình thức, tắc trách ở một bộ
phận không nhỏ giảng viên chưa được khắc phục không chỉ gây ảnh hưởng
xấu tới danh dự, uy tín nhà giáo mà còn hạn chế chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay.
3.1.2. Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học Việt Nam hiện nay
Một là, hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy, NCKH theo mục tiêu, chương
trình đào tạo.
Theo số liệu điều tra xã hội học, có 64,1% giảng viên tích cực tham gia
vào hoạt động giảng dạy theo mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo. Tuyệt
đại bộ phận nhà giáo đều nỗ lực hoàn thành giờ chuẩn giảng dạy, NCKH
theo chức danh. Nhưng trên thực tế, nhiệm vụ biên soạn giáo trình, sách tham
khảo và các tư liệu phục vụ hoạt động giáo dục, đào tạo của đội ngũ trí thức
GDĐH chưa được hoàn thành ở mức độ cao. Vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ trí
thức GDĐH chưa đáp ứng được yêu cầu công bố kết quả nghiên cứu trên các
tạp chí khoa học trong và ngoài nước.
Hai là, mức độ hoàn thành nhiệm vụ định kỳ học tập, bồi dưỡng nâng cao
trình độ của đội ngũ trí thức GDĐH.
Những năm qua, đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta đã có nhiều cố gắng nỗ
lực trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận, chuyên
môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên, hạn chế có tính phổ
biến trong đội ngũ trí thức GDĐH hiện nay là chỉ coi trọng đào tạo, bồi
dưỡng trình độ chuyên môn, không ít giảng viên chưa tích cực bồi dưỡng
nâng cao trình độ lý luận chính trị, năng lực nghiên cứu, ứng dụng công
nghệ thông tin và sử dụng ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của hoạt động chuyên
môn, nghiệp vụ.
Ba là, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của trí thức GDĐH tham gia công tác
quản lý giáo dục.
Trí thức GDĐH tham gia công tác quản lý đã hoàn thành nhiệm vụ xây
dựng, triển khai, giám sát việc thực hiện kế hoạch giảng dạy, học tập, NCKH
15
của đội ngũ giảng viên. Nhiều trí thức GDĐH trẻ đã hăng hái, nhiệt tâm và
hoàn thành tốt công tác kiêm nhiệm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chúng ta
còn thiếu những nhà quản lý giáo dục tài năng ở các cơ sở đào tạo.
3.1.3. Kết quả lao động của trí thức giáo dục đại học Việt nam hiện nay
Không thể phủ nhận một thực tế rằng, lao động của đội ngũ trí thức GDĐH
ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực góp phần quan trọng tạo nên sự
tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội
nhập quốc tế. Hàng năm, đội ngũ trí thức GDĐH đã trực tiếp tham gia đào
tạo hàng chục nghìn cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ góp phần quan trọng vào việc
thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Kết quả NCKH, lãnh đạo, quản lý
của đội ngũ trí thức GDĐH đã góp phần nâng cao trình độ khoa học, công
nghệ của đất nước, góp phầnquan trọng vào việc hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, bước đầu giải đáp những vấn đề
mới phát sinh trong sự nghiệp đổi mới.
Hạn chế chủ yếu trong kết quả lao động của trí thức GDĐH ở nước ta là
chất lượng giáo dục còn thấp; đào tạo phi chính quy còn nhiều yếu kém; việc
đổi mới nội dung, chương trình đào tạo ở các trường đại học chưa theo kịp
yêu cầu của thực tiễn sản xuất; hiệu quả ứng dụng của những công trình khoa
học chưa cao, với khoảng 40% kết quả nghiên cứu phải “trùm mền”; sự quản
lý của đội ngũ trí thức GDĐH còn nhiều bất hợp lý, biểu hiện chủ yếu ở tình
trạng còn thụ động trước sự chỉ đạo của cấp vĩ mô dẫn đến hạn chế tính tự
chủ, sáng tạo trong hoạt động giáo dục và đào tạo.
3.1.4. Mức độ hài lòng của giảng viên, sinh viên và các chủ thể sử
dụng sản phẩm GDĐH đối với kết quả lao động của đội ngũ trí thức nhà
giáo đại học ở nước ta hiện nay
Mặc dù mức độ hài lòng của sinh viên và giảng viên về kết quả lao động
của trí thức GDĐH đạt tỷ lệ cao với trên 70% ý kiến biểu lộ sự hài lòng.
Riêng kết quả đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước
còn không ít ý kiến phản hồi thể hiện sự trăn trở và chưa hài lòng. Điều
này lý giải tại sao có tới 60% doanh nghiệp được khảo sát tỏ ra không hài
lòng về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở các trường đại học.
3.1.5. Khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực được đào tạo đối với thị
trường lao động
Có thể khẳng định, đội ngũ trí thức GDĐH thông qua lao động nghề
nghiệp đã góp phần quan trọng vào chiến lược nâng cao dân trí, đào tào
nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Hiện nay, mỗi năm,
GDĐH cung cấp cho xã hội khoảng hơn 10 nghìn người có trình độ sau đại
học” Đội ngũ này đang là lực lượng nòng cốt tham gia lao động ở hầu hết các
lĩnh vực khác nhau của xã hội.
16
Nhìn vào bức tranh GDĐH ở Việt Nam hiện nay rất dễ nhận thấy một
trong những hạn chế, bất cập lớn nhất là chưa tạo ra lớp người lao động có
khả năng thích ứng nhanh, chủ động, sáng tạo, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu
của kinh tế tri thức. Đa số các nhà quản lý doanh nghiệp đều có chung nhận
xét: kỹ sư công nghệ thông tin phần lớn trình độ đều thấp hơn rất nhiều so
với tiêu chuẩn quốc tế; sinh viên mới ra trường ngành quản trị kinh doanh
thì còn non nớt, nặng về kiến thức sách vở. Hiện trạng này cho thấy chẳng
những có sự thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao ở các
lĩnh vực cần thiết phải tạo ra sự đột phá trong bối cảnh hội nhập, cạnh
tranh toàn cầu mà còn là khoảng cách ngày càng xa giữa chất lượng lao
động của đội ngũ trí thức GDĐH so với yêu cầu của thực tiễn và sự kỳ
vọng của xã hội.
3.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về trình độ, năng lực của đội ngũ
trí thức giáo dục đại học trước yêu cầu hội nhập quốc tế
Thực tế cho thấy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực của đội ngũ trí
thức GDĐH Việt Nam còn nhiều hạn chế, biểu hiện sự bất cập trước yêu cầu
nghề nghiệp, trước đòi hỏi phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.
So với các nước phát triển có nền GDĐH tiên tiến thì trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta biểu hiện rõ xu hướng tụt
hậu. Đáng lưu ý là tỷ lệ đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ hoặc có chức
danh khoa học GS, PGS ở nước ta còn rất thấp. Trí thức tinh hoa và hiền tài
còn ít, chuyên gia đầu ngành còn thiếu nghiêm trọng, đội ngũ kế cận hụt
hẫng, chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tín đủ sức cạnh tranh trên
phạm vi toàn cầu. Không chỉ yếu ngoại ngữ, trí thức GDĐH ở nước ta còn
thiếu năng lực sáng tạo ở mức độ cần thiết để tạo ra những sản phẩm, những
công trình khoa học có thể cạnh tranh bình đẳng với đồng nghiệp quốc tế.
3.2.2. Sự mất cân đối về cơ cấu trong chất lượng lao động của trí thức
giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
Yêu cầu tạo lập tính đồng thuận trong đội ngũ trí thức GDĐH đòi hỏi phải
tạo ra sự tiếp nối, kế tục, tác động cùng chiều tới đối tượng người học từ
những giảng viên khác nhau về tuổi đời, thâm niên, trình độ, năng lực, học
hàm, học vị, thậm chí là những nhà giáo ở các chuyên ngành đào tạo khác
nhau, rộng hơn là ở các vùng, miền trong cả nước. Đáng tiếc là thực trạng
chất lượng lao động của trí thức GDĐH đang tỏ rõ sự bất cập trước yêu cầu
tạo lập tính đồng thuận của toàn đội ngũ. Đó là tình trạng mất cân đối trong
cơ cấu về trình độ, năng lực, trong kết quả lao động của đội ngũ trí thức
GDĐH giữa các vùng, miền, giữa các ngành và lĩnh vực đào tạo ; thêm vào
đó là sự hẫng hụt nghiêm trọng đội ngũ kế cận có trình độ cao.
17
3.2.3. Trí thức giáo dục đại học cần kết hợp giảng dạy và nghiên cứu
khoa học trong khi khuynh hướng xem nhẹ nghiên cứu khoa học đang
diễn ra phổ biến
Theo kết quả điều tra xã hội học, có 61,1% ý kiến cho rằng, phần lớn
giảng viên chỉ chuyên tâm vào hoạt động giảng dạy. Số liệu này phù hợp
với đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo: “có đến 50 - 60% giảng viên
không dành hoặc dành rất ít thời gian làm NCKH”. Không ít giảng viên
chọn cách tăng thu nhập bằng cách giảng dạy, thậm chí sẵn sàng dạy nhiều
để bù vào số tiết bị khấu trừ do thiếu giờ NCKH hơn là tự nguyện say mê
nghiên cứu. Đây là biểu hiện đáng báo động về hiện trạng của đội ngũ trí
thức GDĐH nước ta trong quá trình triển khai chương trình đào tạo gắn
giảng dạy với nghiên cứu, gắn lý thuyết với thực tiễn, đào tạo theo nhu cầu
xã hội và định hướng nghề nghiệp.
Sự tách rời giảng dạy và nghiên cứu làm cho việc học tập của sinh viên
và thậm chí việc giảng dạy của trí thức nhà giáo đại học không được đặt
trong môi trường nghiên cứu - môi trường của phương pháp tư duy sáng
tạo, của sự suy luận và phán đoán. Điều này đang làm giảm đi giá trị, tiềm
năng, trí tuệ, sức sáng tạo của đội ngũ trí thức GDĐH mà đáng lẽ nó phải
được coi trọng và phát huy.
3.2.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu giải phóng năng lực sáng tạo, tâm
huyết của trí thức giáo dục đại học với những rào cản trong tư duy, cơ
chế, chính sách và các điều kiện đảm bảo chất lượng
Đặt vấn đề giải phóng triệt để năng lực sáng tạo và sự tâm huyết với nghề
của trí thức GDĐH là xuất phát từ những đòi hỏi của khoa học sư phạm chứ
không phải đề cao hay tuyệt đối hóa vai trò của sáng tạo và tâm huyết như một
cái gì thái quá. Tuy nhiên, tình trạng chậm đổi mới tư duy, thiếu những điều
kiện cần thiết để đảm bảo phát triển năng lực sáng tạo đang là những rào cản
khiến một bộ phận nhà giáo chưa tập trung sức lực cho giảng dạy, NCKH, tổ
chức, quản lý giáo dục và chưa thật sự gắn bó, phụng sự hết mình cho lý
tưởng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Rào cản lớn nhất lúc này là sự hạn chế trong chính sách đầu tư, trong cơ chế
đãi ngộ cùng với tư duy ngại đổi mới và những yếu kém về trình độ, năng lực
chuyên môn của không ít giảng viên đã gây trở ngại cho sự khai thông mối liên
hệ giữa NCKH với thực tiễn giảng dạy và sản xuất, chưa tạo ra tiềm lực mạnh để
phát huy sự sáng tạo lao động của trí thức GDĐH.
Mặt khác, trong khi phương thức quản lý vĩ mô về lao động chuyên môn
của đội ngũ trí thức GDĐH chưa đoạn tuyệt với cơ chế hành chính bao cấp,
chưa đòi hỏi nghiêm ngặt tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi trí thức
nhà giáo thì tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường cộng với tâm
lý trọng bằng cấp một cách hình thức và cơ chế tính lương theo bằng cấp,
18
theo thâm niên đang là những rào cản không nhỏ trước yêu cầu thực học để
có thực lực, thực tài, thực cống hiến của trí thức GDĐH.
3.2.5. Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học được
đảm bảo bởi trách nhiệm của nhà giáo nhưng cơ chế kiểm tra, giám sát,
đánh giá chưa được coi trọng đúng mức
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực nghiên cứu là nhân tố quyết
định chất lượng lao động của trí thức GDĐH, song tinh thần trách nhiệm
cũng là yêu cầu quan trọng mà mỗi trí thức nhà giáo phải quan tâm đáp ứng,
nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi cơ chế thị trường đang chi phối đến đời
sống của con người và tác động mặt trái của nó cũng để lại không ít những
tiêu cực và hệ lụy xã hội. Vấn đề bất cập hiện nay là tiêu chí kiểm định chất
lượng giáo dục chưa được xây dựng phù hợp với những đặc thù nhất định ở
từng trường; hoạt động đánh giá ngoài, nhất là sự tham gia kiểm định chất
lượng đào tạo từ các chủ thể sử dụng sản phẩm của GDĐH chưa được coi
trọng đúng mức. Việc đánh giá, kiểm tra, giám sát hoạt động chuyên môn
của hiệu trưởng và cán bộ quản lý từng trường đại học còn bỏ ngỏ nên chất
lượng tổ chức, lãnh đạo, quản lý giáo dục của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước
ta chưa được xem xét, đánh giá toàn diện và khoa học. Cơ chế sa thải những
giảng viên yếu kém chưa trở thành yếu tố căn bản trong văn hóa và khoa học
lãnh đạo, quản lý giáo dục. Điều này lý giải tại sao trí thức GDĐH chưa nhận
thấy áp lực thực sự từ trách nhiệm và bổn phận của một nhà giáo, nhà khoa học
trước những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cũng như sự mong đợi, kỳ vọng
của xã hội.
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học phải gắn với nhu cầu phát triển đất nước
Để đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao phục vụ quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức, tích cực và chủ động hội nhập quốc
tế, lao động của trí thức GDĐH cần hướng tới việc cung ứng nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu của thị trường. Đó là các nhà lãnh đạo quản lý, đội ngũ
công nhân, viên chức, công nhân kỹ thuật bậc cao, các doanh nhân tâm huyết
với đất nước, lực lượng lao động tinh hoa, đặc biệt là các chuyên gia có khả
năng phát minh, sáng chế, chuyển giao công nghệ. Nhìn chung, đó là đội ngũ
nhân lực có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có kiến thức
19
hiện đại, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có tác phong lao động công nghiệp và
kỷ luật lao động tự giác, có đủ năng lực ứng dụng thành tựu khoa học kỹ
thuật hiện đại để nâng cao năng suất lao động.
Ở một yêu cầu cao hơn, cần phấn đấu có đội ngũ trí thức GDĐH đủ trình độ,
năng lực để còn có khả năng đảm trách nhiệm vụ chuyên môn và quản lý giáo
dục ở một số trường, ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Điều đó đòi
hỏi phải nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH theo hướng chuyên
nghiệp hóa và quốc tế hóa chất lượng giảng dạy, NCKH, ứng dụng, chuyển
giao công nghệ và chất lượng quản lý giáo dục tạo điều kiện để trí thức nhà
giáo tham gia tích cực vào thị trường phân công lao động quốc tế.
4.1.2. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt
Nam cần gắn liền với yêu cầu chuẩn hóa để hội nhập quốc tế
Chuẩn hóa trí thức GDĐH được xem là quá trình thực hiện những qui tắc có
tính chuẩn mực thể hiện giá trị lao động của nhà giáo. Yêu cầu cấp bách được
đặt ra là cần xây dựng một tập thể trí thức nhà giáo đại học đạt chuẩn về trình
độ, về năng lực, đồng thuận về ý thức trách nhiệm phụng sự Tổ quốc, phụng
sự nhân dân và cùng thống nhất trong mục tiêu, lý tưởng đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Chuẩn hóa trí thức GDĐH về mặt số lượng, trình độ, năng lực đòi hỏi phải
kiểm soát và xóa bỏ triệt để tình trạng giảng viên giảng dạy quá nhiều học
phần hoặc không đúng với chuyên môn được đào tạo, dẫn tới hạ thấp chất
lượng và tầm thường hóa khoa học. Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa hiện
nay, ngoài việc chuẩn hóa về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo qui định
của Điều lệ trường đại học, cần đặt vấn đề chuẩn hóa năng lực sử dụng ngoại
ngữ và tin học của trí thức GDĐH vào giảng dạy, NCKH, lãnh đạo, quản lý
giáo dục như một yêu cầu cấp thiết.
Chuẩn hóa trí thức GDĐH về phẩm chất đạo đức đòi hỏi phải chú trọng
đến lòng yêu người, yêu nghề; thái độ tích cực, tự giác, trách nhiệm trong lao
động của mỗi nhà giáo.
Chuẩn hóa chất lượng lao động của trí thức GDĐH cần hướng vào việc
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo giáo dục theo định hướng
nghề nghiệp, theo nhu cầu xã hội.
4.1.3. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
phải trên cơ sở hình thành thái độ lao động tích cực của mỗi nhà giáo
Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH phụ thuộc rất nhiều vào
thái độ tích cực, tự giác, tận tâm của mỗi nhà giáo mà nếu thiếu nó, lao động
sư phạm sẽ trở nên nhàm chán, thụ động, gượng ép và kém hiệu quả. Nâng
cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH phải trên cơ sở hình
thành và củng cố bền vững thái độ lao động tích cực của mỗi giảng viên cũng
như từng cán bộ quản lý giáo dục.
20
Trên cương vị là lực lượng thực hiện sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao cho đất nước, trí thức GDĐH hình thành, phát triển thái độ lao
động xã hội chủ nghĩa với tư cách là lao động tự giác, tích cực, sáng tạo. Đây
là thái độ lao động đúng đắn đảm bảo ở mức độ cao của sự phù hợp với cách
tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG
CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Thống nhất và nâng cao nhận thức của toàn xã hội về chất
lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Thống nhất nhận thức của toàn xã hội từ sự thấu hiểu giá trị lao động của
trí thức GDĐH là tiền đề khoa học, tư tưởng quan trọng hàng đầu, là động
lực làm nảy sinh khát vọng cống hiến ở mỗi nhà giáo trong điều kiện kinh tế
thị trường. Đặc trưng của công tác này là làm sao thể hiện được sự đồng
thuận giữa tư duy lãnh đạo của Đảng với tư duy quản lý của nhà nước và tư
duy của các chủ thể khác trong xã hội về tính đặc thù lao động trí óc, sáng
tạo của trí thức GDĐH gắn với thiên chức của đội ngũ này trong công tác
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước; về mối quan hệ gắn bó
hữu cơ, biện chứng giữa hoạt động giảng dạy và NCKH; về phương thức
đánh giá chất lượng lao động của trí thức GDĐH; về tính tất yếu nâng cao
chất lượng lao động của trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay.
4.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và
trách nhiệm của các cơ sở đào tạo đối với chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức giáo dục đại học
Đây là một trong những yếu tố quyết định trực tiếp đến chất lượng lao
động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết, Đảng phải không ngừng nâng cao tầm trí
tuệ và trách nhiệm lãnh đạo của mình đối với chất lượng lao động của trí
thức GDĐH. Cùng với yêu cầu đó, Nhà nước cần thực hiện đúng chức năng
định hướng phát triển GDĐH; hoàn thiện cơ chế tự chủ đối với các cơ sở
GDĐH; xây dựng các tiêu chuẩn về chất lượng đào tạo, tăng cường giám sát,
thanh tra, kiểm tra chất lượng đào tạo, hoàn thiện luật pháp, chính sách tiền
lương trong các cơ sở đào tạo đại học…
Để đảm bảo chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta
hiện nay, yêu cầu nâng cao trách nhiệm của các cơ sở đào tạo tất yếu được
đặt ra. Nó đòi hỏi nhà trường, đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý phải xác
định rõ sứ mạng, nhiệm vụ, mục tiêu và phải thực hiện các giải pháp để thực
hiện những cam kết về chất lượng đã đề ra.
4.2.3. Hiện đại hóa giáo dục đại học là khâu đột phá để nâng cao chất
luợng lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo Việt Nam hiện nay
Trước hết, cần hiện đại hóa mục tiêu, nội dung chương trình GDĐH theo
hướng xác định những chuẩn giá trị về nguồn nhân lực được đào tạo. Trọng
21
tâm trong khâu này là việc tinh giản, sàng lọc, làm mới những tri thức đảm
bảo tính hiện đại, tránh tình trạng quá tải, trùng lặp đã được đặt ra như một
đòi hỏi khoa học trong qui trình hiện đại hóa nội dung giảng dạy.
Hiện đại hóa phương pháp giáo dục - đào tạo ở bậc đại học cần thiết được
xem là điểm cốt yếu, là khâu then chốt để một mặt, thanh toán tình trạng lạc
hậu của các phương pháp giáo dục cũ, mặt khác để khoa học hóa, trí tuệ hóa
phương pháp mới, lấy học trò làm trung tâm. Vấn đề cấp bách hiện nay là
cần chấm dứt tình trạng các trường đại học sư phạm lạc hậu về nội dung,
phương pháp giảng dạy so với thực tiễn.
Hiện đại hóa GDĐH còn bao hàm đổi mới và nâng cao chất lượng, trình độ
của các thiết chế giáo dục. Không chỉ tập trung hiện đại hóa trường học, thư
viện, phòng thí nghiệm, các phương tiện thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập
mà cần thiết phải hiện đại hóa hoạt động tổ chức, quản lý trí thức nhà giáo và
xây dựng thiết chế “GDĐH mở” theo hướng tăng cường hoạt động hợp tác
quốc tế.
4.2.4. Tạo chuyển biến căn bản trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ trí thức giáo dục đại học đáp ứng chuẩn nghề nghiệp
Mục tiêu chủ yếu của công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức GDĐH là tạo ra
sự biến đổi ở mỗi giảng viên về kiến thức, kỹ năng và thái độ, hướng tới xây
dựng đội ngũ giảng viên thực lực, thực tài. Đặc biệt, cần thiết phải quan tâm
đào tạo, bồi dưỡng các chuyên gia đầu ngành, các trí thức tinh hoa, các tập thể
khoa học sư phạm, tập trung đào tạo tài năng trẻ với sự đầu tư đủ mạnh các
nguồn lực của nhà nước - một vấn đề thuộc về trách nhiệm không thể lơ là để
tạo nên nguồn lực trí tuệ GDĐH ở tầm chiến lược trong tương lai.
Đi đối với đổi mới nội dung cần tạo sự chuyển biến trong phương pháp đào
tạo, bồi dưỡng trí thức GDĐH theo hướng đa dạng hóa các loại hình: tập huấn
cập nhật kiến thức, hội thảo chuyên đề, đào tạo tập trung và không tập trung,
chính qui và không chính qui, bồi dưỡng dài hạn và ngắn hạn, đào tạo trong
nước kết hợp với đào tạo ở các cơ sở đại học danh tiếng trên thế giới.
4.2.5. Đổi mới chính sách trọng dụng, đảm bảo đãi ngộ xứng đáng đối
với lao động của trí thức giáo dục đại học
Bài toán đặt ra đối với chất lượng lao động của trí thức GDĐH là làm sao
cơ chế, chính sách đãi ngộ phải thể hiện sự tôn vinh, trọng dụng giá trị đích
thực của sáng tạo khoa học, là chất xúc tác góp phần nuôi dưỡng niềm đam
mê, tâm huyết cho mỗi trí thức nhà giáo.
Hiện nay, tiền lương đang đóng vai trò nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự
lựa chọn nghề nghiệp, việc làm, sự hài lòng công việc hay quyết định thuyên
chuyển công tác của trí thức GDĐH. Phương thức tính phụ cấp cho trí thức
GDĐH đơn thuần theo thâm niên, chức vụ đảm nhận hay trình độ, chức danh
như hiện nay thực chất vẫn chưa giải phóng khỏi tư tưởng cào bằng trong
22
phân phối. Đây là sự lãng phí lớn mà ngành giáo dục cần sớm kiên quyết
khắc phục bằng cách trả lương và phụ cấp theo năng lực, theo mức độ đóng
góp hay chất lượng lao động của từng nhà giáo.
Về nguyên tắc, cần tập trung trả thù lao cao hơn và có chính sách khen
thưởng, tôn vinh, đãi ngộ cả về vật chất và tinh thần đối với trí thức GDĐH
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, có những phát minh, sáng kiến, sáng chế,
những công trình, sản phẩm khoa học, công nghệ có giá trị. Cùng với công
tác thi đua, khen thưởng cần tạo cơ hội thăng tiến và phát triển nghề nghiệp
cho giảng viên.
4.2.6. Đổi mới căn bản công tác quản lý, coi trọng kiểm định chất
lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Trên thực tế, công tác quản lý GDĐH ở Việt Nam còn bộc lộ không ít yếu
kém, hạn chế. Điều này đòi hỏi phải chú trọng đến khâu quản lý với yêu cầu
đổi mới tư duy cùng với những cải cách sâu rộng theo xu hướng tăng quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm xã hội của các cơ sở GDĐH ở nước ta trong bối cảnh
hội nhập và gia tăng cạnh tranh toàn cầu.
Kiểm định chất lượng lao động của trí thức GDĐH được xem là biện pháp
quản lý hiệu quả nhằm xác định một cách có hệ thống giá trị lao động của
giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục trong tổng thể các hoạt động sư phạm.
Do vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần nghiên cứu, xây dựng và ban hành
chuẩn chất lượng lao động của trí thức GDĐH , bổ sung và thực hiện
nghiêm túc tiêu chí đánh giá ngoài gồm các cơ quan, doanh nghiệp, công ty
sử dụng sản phẩm của GDĐH, các đơn vị đánh giá độc lập, những cơ sở đào
tạo khác ở trong nước và quốc tế theo thang điểm cụ thể, đặc biệt cần thiết phải
ấn định bằng con số hay thứ hạng để phản ánh một cách tường minh chất lượng
lao động của trí thức GDĐH.
KẾT LUẬN
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đại đang phát triển như vũ
bão; toàn cầu hóa diễn ra sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực, tác động sâu xa đến
sự phát triển của các quốc gia dân tộc. Các nước, dù với chế độ chính trị khác
nhau đều phải chủ động xác định chiến lược phát triển cho riêng mình một
cách phù hợp mới mong tránh khỏi nguy cơ tụt hậu trong cuộc chạy đua toàn
cầu. Đối với Việt Nam trên hành trình mở cửa và hội nhập, đẩy nhanh tốc độ
phát triển để vươn tới một nước công nghiệp, đòi hỏi phải phát huy hết thảy
mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ và chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức nhà giáo ở bậc đại học. Đây là về một vấn đề vốn chứa đựng tính
phức tạp, nhạy cảm, khó đo lường. Qua nghiên cứu, tác giả luận án rút ra một
số nhận định khái quát sau:
23
1. Trí thức GDĐH là lực lượng nòng cốt trực tiếp tham gia vào quá trình
đào tạo ở bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần quan
trọng vào việc thực hiện “ba đột phá”, trong đó có đột phá xây dựng nguồn
nhân lực và điển hình là nguồn nhân lực chất lượng cao của quốc gia, dân
tộc; không chỉ trực tiếp tham gia phát triển khoa học - công nghệ mà còn
đem tài năng, sáng tạo, nhiệt huyết xây dựng các luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là các chính
sách GDĐH.
2. Lao động của trí thức GDĐH là lao động nghề nghiệp chuyên môn, đó
là lao động khoa học sư phạm bậc cao, là truyền thụ học vấn và đào tạo
hướng nghiệp đồng thời là giáo dục, trau dồi nhân cách, ở đó giảng dạy,
NCKH gắn bó chặt chẽ với nhau và được đảm bảo chủ yếu bởi lao động trí
tuệ, sáng tạo. Đây là đặc trưng cần tính đến khi hoạch định chính sách nâng
cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay.
3. Chất lượng lao động của trí thức GDĐH là một khái niệm đa chiều,
phản ánh mức độ đáp ứng chức trách, nhiệm vụ của nhà giáo; là thước đo
chủ yếu khả năng cống hiến tâm lực, trí lực của toàn thể đội ngũ nhà giáo vào
chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho quốc gia, dân tộc.
Đánh giá chất lượng lao động của đội ngũ này cần tập trung làm rõ mức độ
đáp ứng tiêu chuẩn giảng viên, mức độ hoàn thành nhiệm vụ, kết quả lao
động thực tế, sự hài lòng của các chủ thể thụ hưởng thành quả của GDĐH,
hiệu quả lao động của trí thức GDĐH trong tương quan so sánh với các điều
kiện đảm bảo. Đặc biệt, khả năng đáp ứng nguồn nhân lực được đào tạo với
thị trường lao động và việc làm được xem là tiêu chí đánh giá quan trọng.
4. Hiện nay, chúng ta đang cùng với nhân loại ở vào những thập kỷ đầu
của thiên niên kỷ mới - thời đại của nền văn minh trí tuệ. Bối cảnh ấy cộng
với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã khách quan hóa vai trò có ý
nghĩa quyết định của đội ngũ trí thức GDĐH trong chiến lược đào tạo
nguồn nhân lực. Bằng tài năng, trí tuệ, sự cống hiến của mình, trí thức
GDĐH Việt Nam đang tích cực, chủ động tham gia vào quá trình sản xuất
ra tri thức, kiến tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước, từ mặt
bằng chung tới mỗi nấc thang phát triển của nó để từng bước đáp ứng
những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội văn minh. Đó vừa là hệ giá trị, vừa là
trách nhiệm công dân, là lý tưởng sống mà phần lớn trí thức GDĐH chân
chính đều nhận thức một cách thấu đáo. Tuy nhiên, chất lượng lao động của
đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam đang bộc lộ không ít những bất cập và
hạn chế khắc sâu thêm khoảng cách ngày càng xa giữa kỳ vọng của xã hội
với kết quả đào tạo đạt được ở các trường đại học. Yêu cầu nâng cao chất
lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta đã trở thành tất yếu
không chỉ để đáp ứng đòi hỏi của khoa học sư phạm mà còn được hối thúc
bởi những thời cơ, thách thức do thời đại và thời cuộc đặt ra.
24
5. Lao động của đội ngũ trí thức GDĐH trước yêu cầu phải thực hiện
những giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng đã bao quát cả một hệ vấn
đề rộng lớn và phức tạp. Đó là giáo dục nhận thức; tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; nâng cao trách nhiệm của các cơ sở đào
tạo để hình thành dư luận tích cực, đồng thuận sao cho toàn xã hội và cả dân
tộc đều quan tâm tới chiến lược nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí
thức GDĐH. Đó còn là yêu cầu rất cao đòi hỏi sự công phu trong quá trình tổ
chức, hoạch định, tìm tòi, thực hiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho lao
động sáng tạo và công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện đảm
bảo chất lượng lao động của trí thức nhà giáo. Không những thế, công tác
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp cùng với việc hình thành thái độ lao động tích cực, tự giác,
trách nhiệm của nhà giáo cũng cần thiết phải được nhấn mạnh trong mối
quan tâm đến chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH.
6. Để làm sáng tỏ chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt
Nam, còn nhiều vấn đề tác giả luận án sẽ tập trung nghiên cứu, luận giải
trong thời gian tới như:
- Thời cơ, thách thức đối với việc nâng cao chất lượng lao động của trí thức
GDĐH Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức;
- Những điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ
trí thức GDĐH Việt Nam hiện nay;
- Hoàn thiện phương thức đánh giá chất lượng lao động của trí thức GDĐH
Việt Nam theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế…
Đó là những vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong tiến
trình thực hiện Nghị quyết quan trọng của Đảng về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục - đào tạo ở nước ta mà tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu tiếp theo
công trình luận án này.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trần Thị Lan (2010), "Một số vấn đề đặt ra từ việc nhìn nhận về đặc
điểm lao động của đội ngũ giảng viên", Tạp chí Khoa học & Công
nghệ, (3)
2. Trần Thị Lan (2010), "Phát huy vai trò của trí thức giáo dục đại học
trong đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta - xét từ bình diện tính tất
yếu khách quan", Tạp chí Báo cáo viên, (9).
3. Trần Thị Lan (2011), "Quan niệm về chất lượng lao động của trí thức
giáo dục đại học ở nước ta trong điều kiện hiện nay", Tạp chí
Giáo dục, (9).
4. Trần Thị Lan (2013), "Trách nhiệm và thái độ lao động của đội ngũ trí thức
Giáo dục đại học Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Giáo dục Lý luận, (7).
5. Trần Thị Lan (2013), Ý nghĩa phương pháp luận từ quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng
đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
6. Trần Thị Lan (2013), "Phương thức đánh giá chất lượng lao động của
trí thức giáo dục đại học theo hướng chuẩn hóa ở nước ta hiện
nay", Tạp chí Tạp chí Khoa học & Công nghệ (12).
7. Trần Thị Lan (2013), "Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí
thức giáo dục đại học ở nước ta - khâu đột phá để thực hiện chiến
lược phát triển nguồn nhân lực theo quan điểm của Đảng tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI", Tạp chí Phát triển nhân lực, (10).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tran_thi_lan_vi_6596.pdf