Tóm tắt luận án Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về hợp tác Giáo dục - Đào tạo với các nước ASEAN từ năm 1995 đến năm 2010

Trước những biến động của tình hình thế giới những năm cuối của thập kỷ 80, đầu thập kỷ 9 0 thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận th ức rõ sự cần thiết phải mở rộng, phát triển hơn nữa mối quan hệ láng giềng, hữu nghị với các nước ASEAN. ASEAN là một tổ chức khu vực có uy tín, có mối quan hệ rộng rãi, có nền kinh tế phát triển năng động để đảm b ảo hòa bình, ổn định trong khu vực. Việc tham gia ASEAN sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng. Đảng lãnh đạo đưa Việt Nam gia nhập ASEAN, trong đó hợp tác giáo dục và đào tạo được coi là lĩnh vực đi trước để Việt Nam hội nhập với khu vực. Từ năm 1995 đến nay, chính sách của Việt Nam đối với ASEAN luôn là một bộ phận không thể tách rời và có vị trí quan trọng trong tổng thể chính sách đối ngoại của Việt Nam và vì sự lớn mạnh của ASEAN. Việt Nam tích cực, chủ động tham gia đầy đủ các lĩnh vự c hợp tác của ASEAN, trong đó, có lĩnh vực hợp tác giáo dục và đào tạo. Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế trên tất cả các lĩnh vực. Sự phát triển sâu, rộng trong các quan hệ hợp tác toàn diện về chính trị, kinh tế, giáo dục và đào tạo, y tế, môi trường mở ra khả năng, cơ hội phát triển cho mỗi nước thành viên và cho toàn bộ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, nhằm tiến tới xây dựng một khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Trước khi Việt Nam gia nhập ASEAN, hợp tác về giáo dục và đào tạo chủ yếu với Lào và Campuchia. Trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam có quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo với hầu hết các quốc gia thành viên. Sự hợp tác về giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN ngày càng được củng cố. Thực tiễn hợp tác về giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN trên phương diện hợp tác song phương có 2 xu hướng rõ ràng: Với các nước như Xingapo, Malaixia thì Vi ệt Nam nhận học bổng và cử người đi học là chính; với Lào và Campuchia, xuất phát từ lịch sử quan hệ truyền thống, Việt Nam lại trở thành nước cung cấp học bổng, giúp bạn là chính. Chủ trương và sự chỉ đạo c ủa Đảng v ề hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN từ năm 1995 đến năm 2010 đã đạt được những thành tựu quan trọng . Bên cạnh đó, việc hoạch định và chỉ đạo thực hiện chính sách của Đảng về vấn đề này vẫn còn một số hạn chế

pdf27 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2372 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về hợp tác Giáo dục - Đào tạo với các nước ASEAN từ năm 1995 đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c về giáo dục và đào tạo là lĩnh vực rộng lớn nên luận án chỉ tập trung làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về hợp tác giáo dục với các nước ASEAN. - Phạm vi nghiên cứu: Hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN trên hai phương diện đa phương và song phương (trừ Brunây) 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luậnvà thực tiễn: Cơ sở lý luận của luận án dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế, về giáo dục và đào tạo; các quan điểm lớn của Đảng và Nhà nước cũng như các chủ trương, chính sách về hợp tác Việt Nam - ASEAN nói chung, hợp tác giáo dục và đào tạo nói riêng. Về mặt thực tiễn, 3 luận án dựa trên thực tiễn quá trình hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam với các nước ASEAN từ năm 1995 đến năm 2010. 4.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận án là phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic. Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn nhằm làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong luận án. 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án 5.1. Về tư liệu Luận án sưu tầm và hệ thống hóa tư liệu về các chủ trương, sự chỉ đạo và kết quả tổ chức thực hiện về hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN từ năm 1995 đến năm 2010. 5.2. Về nội dung - Làm rõ quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN. - Phân tích những thành tựu, hạn chế của chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN, qua đó đúc kết một số kinh nghiệm từ lý luận và thực tiễn , góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam với các nước ASEAN trong thời gian tới. - Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần vào công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới. 6. Ý nghĩa của luận án - Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ hơn quan hệ hợp tác Việt Nam - ASEAN, khẳng định chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về hợp tác với các nước ASEAN trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế là hoàn toàn đúng đắn, góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng trong thời kỳ mới. Luận án cung cấp thêm những luận cứ khoa học và gợi mở một số suy nghĩ có thể vận dụng vào thực tiễn hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam với ASEAN hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án được chia thành 3 chương, 8 tiết. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Luận án đã tổng quan kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan trực tiếp đến đề tài trên các vấn đề như: - Các công trình khoa học nghiên cứu về hợp tác giữa Việt Nam với ASEAN: Cuốn sách Tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN của tác giả Đinh Xuân Lý, do nhà xuất bản Đại học Quốc gia phát hành năm 2000; Đề tài nghiên cứu cấp bộ năm 2001 của Vụ ASEAN (Bộ Ngoại giao): 5 năm Việt Nam tham gia ASEAN: những thành tựu, thách thức và triển vọng ; Đề tài khoa học trọng điểm Hội nhập Việt Nam - ASEAN: Tiến 4 trình, hiện trạng và những vấn đề đặt ra của Đại học Quốc gia Hà Nội, nghiệm thu năm 2002; cuốn sách Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương và song phương của tác giả Vũ Dương Ninh do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành; Tác giả Nguyễn Thu Mỹ có bài Việt Nam với sự phát triển của ASEAN: 10 năm nhìn lại đăng trên tạp chí Cộng sản số 14/7-2005; Bài viết Việt Nam - ASEAN 10 năm nhìn lại của tác giả Lê Công Phụng đăng trên tạp chí Thông tin đối ngoại số 8/2005; Luận án tiến sĩ lịch sử Quan hệ Thái Lan - Việt Nam (1976-2004) của Thananan Boonwanna, hoàn thành năm 2008; Cuốn sách Liên kết ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ XXI của PGS.TS. Phạm Đức Thành (chủ biên), do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội phát hành năm 2006; cuốn sách Vai trò của Việt Nam trong ASEAN của Trung tâm Dữ kiện - Tư liệu Thông tấn xã Việt Nam, do Nhà xuất bản Thông tấn phát hành năm 2007; cuốn sách Hợp tác liên kết ASEAN hiện nay và sự tham gia của Việt Nam của nhóm tác giả Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Hữu Cát, Nguyễn Thị Quế, do Nhà xuất bản Lý luận Chính trị phát h ành năm 2008; cuốn sách Lịch sử quan hệ Việt Nam - Xingapo (1965-2005) của Phạm Thị Ngọc Thu, do Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2009; Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế của Chhouet Sopheak (Campuchia) với đề tài Hợp tác Campuchia - Việt Nam từ năm 1993 đến nay, hoàn thành tháng 7-2009; Đề tài cấp bộ năm 2010, Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995 đến nay: Thành tựu, vấn đề đặt ra và triển vọng do Viện Quan hệ quốc tế (Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh) thực hiện; cuốn sách Việt Nam trong tiến trình hội nhập ASEAN của Nguyễn Văn Thiện và Nguyễn Công Hải do nhà xuất bản Quân đội Nhân dân xuất bản năm 2011; cuốn sách Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007) do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2011. - Các công trình nghiên cứu về hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam với các nước ASEAN: + Sách tham khảo: Cuốn sách Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục và đào tạo của Vụ Quan hệ Quốc tế (Bộ Giáo dục và Đào tạo) do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành năm 1996; năm 2002, Vụ Quan hệ Quốc tế - Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa chữa, bổ sung cuốn Hướng dẫn về quan hệ quốc tế trong giáo dục và đào tạo được Nhà xuất bản Giáo dục phát hành; + Các bài hội thảo: bài viết Quan hệ hợp tác giáo dục giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á trong giai đoạn hiện nay của PSG,PTS. Nghiêm Đình Vỳ và PGS,PTS Trịnh Tùng trong kỷ yếu hội thảo quốc tế ASEAN hôm nay và ngày mai (tháng 9-1997); Hội thảo Xây dựng ASEAN thành cộng đồng các quốc g ia phát triển bền vững, đồng đều và hợp tác có các bài viết: Tăng cường hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực cho ASEAN của PGS,PTS. Nguyễn Thọ Vượng; Hiện trạng và triển vọng phát triển nguồn nhân lực của các nước ASEAN của PTS. Trương Thị Thúy Hằng; Các bài tham luận viết về hợp tác giáo dục 5 và đào tạo giữa Việt Nam với các nước ASEAN tại hội thảo Hội nhập Việt Nam - ASEAN trước thềm thế kỷ XXI : “Nhìn lại 5 năm hợp tác giáo dục Việt Nam - ASEAN” của tác giả Trần Văn Nhung và Nguyễn Văn Khôi; bài tham luận Hợp tác giáo dục và đào tạo trong khối ASEAN (chủ yếu là giáo dục và đào tạo đại học) của PGS,TS. Mai Ngọc Chừ; Hội thảo Liên kết ASEAN (lần 2) do Viện Nghiên cứu Đông Nam Á có bài tham luận Các chính sách đặc trưng phát triển giáo dục và nguồn nhân lực của các nước ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ XXI của nhóm tác giả TS. Phan Văn Kha, Ths. Vương Thanh Hương, Lê Hồng Quang; Hội thảo khoa học Việt Nam trong ASEAN nhìn lại và hướng tới có bài tham luận Một vài suy nghĩ về giáo dục Việt Nam và chiến lược hội nhập khu vực trong thế kỷ XXI từ kinh nghiệm của một số quốc gia Đông Nam Á của Ths. Phan Thị Hồng Xuân. Hội thảo Việt Nam - ASEAN: 10 năm hội nhập và phát triển có bài viết Hợp tác giáo dục với ASEAN - thị trường đầy tiềm năng và triển vọng của tác giả Lê Thị Ngọc Dung. + Luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử của Nguyễn Thị Huyền Nga, hoàn thành năm 2008 tại trường Đại học Vinh về Tình hình giáo dục nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (1986-2007) và vai trò của Việt Nam; Luận án tiến sĩ lịch sử Hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào về đào tạo cán bộ trong hệ thống chính trị từ 1986 đến 2006 của Dương Thị Huệ, hoàn thành năm 2011; Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế Quan hệ hợp tác Lào - Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục từ năm 1975 đến năm 2010 của tác giả Xayasane Bounsavang (Lào), hoàn thành năm 2011. - Các công trình nghiên cứu khoa học có đề cập đến chủ trương về giáo dục và đào tạo của Đảng, Nhà nước: Cuốn sách Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới - chủ trương, thực hiện, đánh giá của Ban Khoa giáo Trung ương được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành năm 2002; cuốn sách Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế k ỷ XXI, của tác giả Phạm Minh Hạc, do nha xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2002; bài Phát triển giáo dục và đào tạo phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đăng Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Minh Hiển trên Tạp chí Cộng sản số 22 (11 - 2005); đề tài cấp bộ năm 2009 Quan hệ với các nước láng giềng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam từ 1991 đến nay do Viện Quan hệ quốc tế (Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) thực hiện; Luận án tiến sĩ lịch sử Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam với khu vực Đông Nam Á từ 1995 đến 2006 của Nguyễn Thị Hoàn, hoàn thành tháng 2-2011; Luận án tiến sĩ lịch sử Hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào về đào tạo cán bộ trong hệ thống chính trị từ 1986 đến 2006 của Dương Thị Huệ, hoàn thành năm 2 011. 6 - Mặc dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về sự hợp tác giữa Việt Nam với các nước ASEAN nói chung và một số lĩnh vực hợp tác cụ thể. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam và ASEAN từ năm 1995 đến năm 2010. 7 Chương 1 QUAN ĐIỂM VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ HỢP TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VỚI CÁC NƯỚC ASEAN (1995 - 2001) 1.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC HỢP TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIỮA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC ASEAN 1.1.1. Những yếu tố của khu vực và thế giới Những năm cuối thế kỷ XX, khoa học kỹ thuật và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tập trung và chăm lo phát triển giáo dục , coi đây là quốc sách hàng đầu, tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế là biện pháp quan trọng chống nguy cơ tụt hậu về văn hóa, khoa học. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một nhân tố quyết định đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội. Toàn cầu hóa trở thành một xu thế khách quan, thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác để phát triển. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ để lại cho một số nước ASEAN những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam với các nước ASEAN . Hoàn thành ý tưởng ASEAN - 10, cùng phấn đấu cho hoà bình, ổn định ở khu vực, giữ vững bản sắc dân tộc và sự đoàn kết nhất t rí, tinh thần tự cường khu vực, mở ra thời kỳ mới cho hợp tác giữa các nước trong Hiệp hội. 1.1.2. ASEAN tăng cường hợp tác giáo dục Ở Đông Nam Á có hai tổ chức hợp tác giáo dục cùng hoạt động là: Tổ chức các Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á (SEAMEO) và Tiểu ban Giáo dục ASE AN (ASCOE). SEAMEO được điều hành bởi Hội đồng Bộ trưởng Giáo dụ c các nước Đông Nam Á (SEAMEC). SEAMEO có một Ban Thư ký viết tắt là SEAMES, là cơ quan giúp việc cho Hội đồng, có trụ sở đặt tại Băng Cốc (Thái Lan). Giám đốc SEAMES là một quan chức được Hội đồng lựa chọn và là công dân của một trong các nước thành viên. Giám đốc SEAMES làm việc theo một nhiệm kỳ 3 năm. Ngoài ra, Mạng lưới các trường đại học ASEAN (AUN) đặt dưới sự giám sát của tổ chức ASEAN, bao gồm các trường đại học hàng đầu ở các nư ớc thành viên ASEAN. AUN có nhiệm vụ tăng cường hợp tác thông qua trao đổi sinh viên, các nhà lãnh đạo khoa học cũng như nguồn nhân lực giữa các nước tham gia. 8 Trong ASEAN, Tiểu ban giáo dục (ASCOE) được cơ cấu trong Ủy ban phát triển xã hội của ASEAN (COSD). ASCOE phụ trách các hoạt động hợp tác và giáo dục và đào tạo, dưới ASCOE là nhóm các chuyên gia giáo dục ASEAN. Một số tuyên bố, văn kiện của ASEAN đã đề cập một cách khá cụ thể hợp tác ASEAN trong giáo dục, đặc biệt là hợp tác để nâng cao nguồn nhân lực như Tuyên bố Hà Nội (1998), Chương trình hành động Hà Nội (1998) . 1.1.3. Nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của đất nước Ở trong nước , công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Bên cạnh thuận lợi đó, Việt Nam còn phải đối phó với nhiều thách thức thì việc đẩy mạnh hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới về giáo dục và đào tạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam với các nước này giảm mạnh. Việc học tập, trao đổi kinh nghiệm về giáo dục giữa các nước trên thế giới và khu vực là xu thế chung của việc toàn cầu hóa trong phát triển giáo dục. Do đó, mở rộng và tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực là yêu cầu khách quan đối với Việt Nam. 1.2. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ HỢP TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VỚI CÁC NƯỚC ASEAN TRONG NHỮNG NĂM 1995 - 2001 1.2.1. Chủ trương của Đảng đưa Việt Nam gia nhập ASEAN (1986-1995) Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn biến hết sức n hanh chóng và phức tạp làm thay đổi căn bản cục diện thế giới. Ở trong nước, từ những năm 70, nhất là giữa những năm 80 của thế kỷ trước, Việt Nam lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt. Trước những khó khăn, thách thức to lớn mà tình hình thế giới và trong nước đặt ra, Đảng đề ra chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước ASEAN, chủ động đưa Việt Nam gia nhập ASEAN. Chủ trương đó được thể hiện qua các văn kiện của Đảng: Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI (12-1986); Nghị quyết 13 Bộ Chính trị (5-1988); Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu và tám (khoá VI); Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng; Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, tháng 6-1992. Thực hiện chủ trương của Đảng, tháng 9/1994, Thủ tướ ng Võ Văn Kiệt ký quyết định thành lập Vụ ASEAN (Bộ Ngoại giao) để phối hợp hoạt động giữa Việt Nam với ASEAN. Ngày 28-7-1995 tại Brunây, lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN được tổ chức. 1.2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN (1996 - 2001) 9 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đề ra phương hướng đối ngoại cụ thể trong quan hệ với ASEAN cũng như xác định cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội VIII, tháng 12-1996, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII ra Nghị quyết số 02, nghị quyết chuyên đề Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2020. Tháng 6 năm 1999, Bộ giáo dục và Đào tạo xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ Đề án mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác quan hệ quốc tế trong giáo dục và đào tạo cho đến năm 2010 . Đề án nêu rõ một số biện pháp chính nhằm tăng cường hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước trong khu vực và trên thế giới. 1.3. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HỢP TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VỚI CÁC NƯỚC ASEAN 1.3.1. Hợp tác đa phương Việt Nam - ASEAN Trước những chuyển biến của tình hình thế giới và nhu cầu hợp tác giáo dục với các nước ASEAN của Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam coi việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á là một ưu tiên. Tháng 2-1992, Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức gia nhập tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á (SEAMEO). Ngày 28-3-1992, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định Về việc thành lập Ban điều hành các hoạt động hợp tác với SEAMEO . Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN (tháng 7-1995), Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam trở thành thành viên của Tiểu ban Giáo dục của ASEAN. Việt Nam thực hiện đầy đủ mọi nghĩa vụ, cam kết và trách nhiệm của một nước thành viên, tích cực, chủ động đưa ra những sáng kiến nhằm thúc đẩy sự hợp tác khu vực trên cơ sở các nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. 1.3.2. Hợp tác song phương giữa Việt Nam với từng nước ASEAN về lĩnh vực giáo dục và đào tạo 1.3.2.1. Hợp tác giáo dục giữa Việt Nam với các nước CLM * Hợp tác với Campuchia Chính phủ Campuchia xác định Việt Nam là một địa chỉ đào tạo tin cậy cho lưu học sinh Campuchia . Theo yêu cầu của phía bạn, số lượng lưu học sinh đi học tại Việt Nam có chiều hướng tăng dần hàng năm. Năm 1994, hai nhà nước Việt Nam và Campuchia đã ký kết Hiệp định v ề đào tạo cán bộ Campuchia tại Việt Nam. Hai chính phủ cũng đã thỏa thuận Hiệp định này sẽ được bổ sung hàng năm cho phù hợp với tình hình mới của mỗi nước; n gày 15-6- 10 1999, Hiệp định về đào tạo cán bộ Campuchia tại Việt Nam được ký kết, đây là cơ sở quan trọng để quyết định chỉ tiêu đào tạo lưu học sinh Campuchia theo hệ chính quy dài hạn tại Việt Nam. Thực hiện các hiệp định, bình quân mỗi năm Việt Nam tiếp nhận khoảng hơn 100 lưu học sinh Campuchia sang học tập tại Việt Nam. Điều kiện ăn, ở của lưu học sinh Campuchia ngày càng tốt hơn. * Hợp tác với Lào Giáo dục và đào tạo là lĩnh vực được hai Đảng, hai Nhà nước xác định là lĩnh vực hợp tác chiến lược và là một biểu hiện của mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước, được ưu tiên hàng đầu. Hợp tác giáo dục và đào tạo cũng là lĩnh vực được đánh giá thành công nhất. Để phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ năm 1992, Bộ Giáo dục và Đào tạo hai nước chủ trương không tiếp nhận đào tạo tại Việt Nam lưu học sinh Lào ở bậc phổ thông và bậc t rung học chuyên nghiệp, chỉ đào tạo lưu học sinh Lào ở bậc đại học, sau đại học, chú ý cho các ngành mũi nhọn về kinh tế, khoa học kỹ thuật. Với chủ trương này, Việt Nam dành cho Lào một nguồn kinh phí không nhỏ và sự hỗ trợ toàn diện trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Từ năm 1997, do tình hình kinh tế, - xã hội của cả hai nước gặp nhiều khó khăn, mặt khác, Lào trở thành thành viên thứ tám của ASEAN. Vì v ậy, số lượng lưu học sinh Lào được gửi đi các nước như: Thái Lan, Xingapo, Philippin và một số nước khác tăng lên đáng kể. Do đó, số lượng lưu học sinh Lào sang Việt Nam học tập và nghiên cứu giảm đi. Tuy nhiên, trên cơ sở kết quả các hoạt động hợp tác toàn diện giữa hai nước và tình hữu nghị đặc biệt, Chính phủ Lào nhận định Việt Nam là địa chỉ đào tạo tin cậy nhất và tiếp tục đề nghị Chính phủ Việt Nam giúp đỡ. Do đó, số lượng học sinh, sinh viên Lào dự thi và có nguyện vọng học tập ở Việt Nam tăng dần và số lượng lưu học sinh sang học tại Việt Nam ngày một tăng nhanh. * Hợp tác với Mianma Quan hệ Việt Nam - Mianma trên mọi phương diện luôn ổn định. Trong hoàn cảnh gặp nhiều khó khăn, Mianma nhận thấy Việt Nam là một người bạn tin cậy. Tháng 5-1995, đoàn đại biểu Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam lần đầu tiên thăm Mianma và ký kết “Bản ghi nhớ” với Bộ Giáo dục Mianma, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển hợp tác giáo dục giữa hai nước. Tuy vậy, hợp tác giáo dục Việt Nam - Mianma còn hạn chế do hai nước có nhiều khó khăn về kinh tế. 11 1.3.2.2. Hợp tác giáo dục giữa Việt Nam với các nước ASEAN khác * Hợp tác với Xingapo Xingapo là quốc gia phát triển trong khu vực. Vì vậy, Việt Nam chủ trương đẩy mạnh hợp tác toàn diện với Xingapo, trong đó có hợp tác giáo dục và đào tạo. Hợp tác giáo dục giữa Việt Nam và Xingapo được bắt đầu từ những năm 1990, nhưng được chính thức hóa từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN (1995). Hai nước đã có sự hợp tác thông qua ba kênh chính: 1. Cá nhân tự túc đi du học; 2. Hợp tác song phương giữa các cơ sở đào tạo với nhau; 3. Hợp tác đào tạo, bồi dưỡng theo con đường Nhà nước. Ngoài các chương trình hợp tác trên, nhiều giảng viên và cán bộ nghiên cứu của Việt Nam được mời tham dự các khóa đào tạo, các cuộc hội thảo tại Xingapo. Nhiều giáo viên Xingapo cũng đã tình nguyện sang giảng dạy tiếng Anh tại Việt Nam. Một số giảng viên Việt Nam sang trường Đại học Quốc gia Xingapo để dạy tiếng Việt. * Hợp tác với Thái Lan Hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam và Thái Lan được phát triển mạnh từ sau năm 1990. Thái Lan hỗ trợ cho Việt Nam nhiều nhất trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Thái Lan là một trong những nước cung cấp viện trợ phát triển cho Việt Nam, mặc dù còn ở mức khiêm tốn. * Hợp tác với Malaixia Với sự tin cậy và hiểu biết về nhau ngày càng gia tăng, quan hệ hai nước ngày càng được củng cố và phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. * Hợp tác với Inđônêxia Là nước có mối quan hệ hữu nghị truyền thống, Việt Nam và Inđônêxia có sự hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo từ năm 1987. Đến năm 1995, quan hệ hai nước phát triển toàn diện. Inđônêxia thường xuyên cấp học bổng cho một số sinh viên và cán bộ Việt Nam theo học tiếng Melayu, làm luận án về quản trị kinh doanh, y dược, nông nghiệp. Ngoài ra, chính phủ Inđônêxia còn giúp đào tạo các khóa học ngắn hạn (từ 4 đến 6 tuần) về du lịch và kế hoạch hóa gia đình. * Hợp tác với Philippin Quan hệ hai nước phát triển tốt đẹp sau khi Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, Philippin giúp Việt Nam nhiều trong lĩnh vực nông nghiệp. * * * Ngay sau khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN (1995), Đảng chủ trương tăng cường hợp tác với các nước ASEAN. Việt Nam nhanh chóng hội nhập với khu vực, đẩy mạnh hợp tác trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có giáo dục và đào tạo. Hợp tác song phương giữa Việt Nam với các nước ASEAN về giáo dục và đào 12 tạo bước đầu thu được kết quả tích cực. Mặc dù còn nhiều khó khăn, song, với mục tiêu không ngừng củng cố, xây dựng mối quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống, Việt Nam vẫn duy trì và tăng cường giúp đỡ về giáo dục và đào tạo cho Lào, Campuchia. Với các nước còn lại trong ASEAN, sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, Việt Nam chủ trương tranh thủ các suất học bổng của ASEAN, bước đầu các suất học bổng được nhận góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam. Tuy nhiên, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN trong giai đoạn này còn mờ nhạt, chậm so với chuyển biến của thực tiễn. Hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam với các nước ASEAN chưa tương xứng với tiềm năng của mỗi nước. Mặc dù vậy, những thành quả bước đầu trong hợp tác giữa Việt Nam với các nước ASEAN là nền tảng, tiền đề để Việt Nam và các nước ASEAN đẩy mạnh hơn nữa hợp tác giáo dục và đào tạo . Chương 2 NÂNG CAO HIỆU QUẢ, CHẤT LƯỢNG HỢP TÁC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VỚI CÁC NƯỚC ASEAN THEO CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG (2001 - 2010) 2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HỢP TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIỮA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC ASEAN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 2.1.1. Xu hướng chung của thế giới và khu vực Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ sẽ tiếp tục phát triển với những bước tiến nhảy vọt trong thế kỷ XXI, đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và phát triển kinh tế tri thức, đồng thời tác động tới tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Sau khủng hoảng tài chính – tiền tệ, kinh tế nhiều nước ASEAN và Đông Á khôi phục đà phát triển với khả năng cạnh tranh mới. Tình hình đó tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam đẩy mạnh hợp tác với các nước tron g khu vực trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, từ cuối năm 2007 trở đi, thế giới lại bị cuốn vào cuộc khủng hoảng tài chính. Bên cạnh đó, nhiều nước Đông Nam Á bị thiệt hại khá lớn do hậu quả của thiên tai. Kinh tế suy thoái ảnh hưởng không nhỏ đến hợp tác giữa c ác nước trên nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục và đào tạo. Đổi mới giáo dục tiếp tục diễn ra trên quy mô toàn cầu. Đầu tư cho giáo dục từ chỗ được xem là phúc lợi xã hội chuyển sang đầu tư cho phát triển. 13 2.1.2. Chủ trương của ASEAN về hợp tác giáo dục và đào tạo Tại Hội nghị cấp cao ASEAN 9 (tháng 10-2003), các nhà lãnh đạo ASEAN ký Tuyên bố hòa hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II), nêu những định hướng chiến lược lớn của ASEAN với mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN liên kết mạnh, tự cường vào năm 2020 với 3 trụ cột: Cộng đồng Chính trị - An ninh, Cộng đồng Kinh tế, Cộng đồng Văn hóa - Xã hội. Giáo dục là hòn đá tảng trong việc xây dựng cộng đồng ASEAN. Hiến chương ASEAN được các nhà lãnh đạo cấp cao ASEAN ký kết tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 13 (11-2007) ở Xingapo, có hiệu lực từ 15-12-2008, tạo ra các điều kiện thuận lợi và tăng cường hợp tác giữa các nước trong khu vực. Về hợp tác giáo dục, điều 1, khoản 10 của Hiến chương quy định mục đích của ASEAN về giáo dục là nhằm: Phát triển nguồn nhân lực thông qua hợp tác chặt chẽ hơn trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo lâu dài, trong khoa học và công nghệ, để tăng cường quyền năng cho người dân ASEAN và thúc đẩy Cộng đồng ASEAN. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 14, tổ chức ngày 1-3-2009, tại Thái Lan, các nhà lãnh đạo ASEAN đã phê duyệt Kế hoạch Tổng thể xây dựng Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN (2009-2015) chủ trương thúc đẩy và ưu tiên hợp tác về giáo dục. Ngày 24-10-2009, tại Hội nghị cấp cao ASEAN 15, các nhà lãnh đạo ASEAN thông qua Tuyên bố Chaam, Hua Hỉn về tăng cường hợp tác giáo dục tiến tới Cộng đồng ASEAN quan tâm và chia sẻ. Tuyên bố đề ra các hành động cụ thể tăng cường vai trò của giáo dục trong việc xây dựng cộng đồng ASEAN đến năm 2015. Hội nghị cấp cao ASEAN 16 (4-2010), thông qua Tuyên bố của các nhà lãnh đạo ASEAN về phục hồi và phát triển bền vững, trong đó dành một m ục về thúc đẩy hợp tác giáo dục. 2.1.3. Yêu cầu của đất nước với việc mở rộng hợp tác giáo dục và đào tạo Những thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho ngành giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó, giáo dục Việt Nam còn một số hạn chế. Từ đó, đặt ra nhu cầu hợp tác, học hỏi kinh nghiệm các nước trong khu vực về giáo dục và đào tạo Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA và Tổ chức Thương mại thế giới WTO, hội nhập với khu vực và quốc tế về giáo dục vừa là nhu cầu, đòi hỏi khách quan, vừa là xu hướng phát triển tất yếu của nền giáo dục Việt Nam. 14 2.2. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG ĐẨY MẠNH HỢP TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VỚI CÁC NƯỚC ASEAN (2001-2010) 2.2.1. Tăng cường hợp tác toàn diện với các nước ASEAN Đại hội IX của Đảng (2001) xác định nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN, cùng xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, không có vũ khí hạt nhân, ổn định, hợp tác cùng phát triển . Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Những kết quả đó là một cơ sở để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) khẳng định chủ trương đối ngoại : Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á-Thái Bình Dương. Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X (tháng 01/2009), đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện Nghị quyết Đại hội X trong nửa nhiệm kỳ tiếp theo. 2.2.2. Chủ trương chung của Đảng về hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo Đại hội lần thứ IX của Đảng xác định mục tiêu tổng quát Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010. Đại hội khẳng định vai trò của giáo dục và phương hướng phát triển giáo dục. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương, khóa IX đề ra phương hướng phát triển giáo dục từ năm 2002 đến năm 2005 và đến năm 2010. Hội nghị k ết luận tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010 . Kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020 (4-2009), nhấn mạnh giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo . 2.3. ĐẢNG CHỈ ĐẠO HỢP TÁC ĐA PHƯƠNG VÀ SONG PHƯƠNG VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VỚI CÁC NƯỚC ASEAN 2.3.1. Đảng chỉ đạo hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX, ngày 28-12-2001, Thủ tướng Chính phủ quyết định Về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010”. Trên cơ sở đánh giá kết quả công tác quan hệ quốc tế sau 15 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định phương hướng mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác hợp tác quốc tế giai đoạn 2000-2005. Thực hiện Kết luận Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương, khóa IX và Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 -2010, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và 15 Đào tạo ban hành Quyết định số 3978/QĐ-BGD&ĐT-VP, ngày 29-8-2002 Về việc ban hành Chương trình hành động của ngành giáo dục Thực hiện Kết luận Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX và Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010. Chương trình hành động chỉ rõ các giải pháp thực hiện nội dung, nhiệm vụ mà chiến lược giáo giáo dục giai đoạn 2001-2010 đề ra, trong đó, có đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Tiếp tục thực hiện Luật Giáo dục năm 1998, đồng thời nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, ngày 16 -9- 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 165/2004/NĐ -CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giáo dục về quản lý hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục. 2.3.2. Kết quả thực hiện hợp tác đa phương và song phương về giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam với ASEAN 2.3.2.1. Hợp tác đa phương Bước vào những năm đầu thế kỷ XXI, Việt Nam đẩy mạnh quan hệ và tham gia tích cực các hoạt động hợp tác với ASEAN. Việt Nam chủ động tham gia các dự án do Ban Thư ký SEAMEO phát động. Bên cạnh đó, hoạt động hợp tác, trao đổi học thuật, giảng viên, sinh viên và khai thác các chương trình học bổng trong ASEAN được đẩy mạnh. Hợp tác khu vực trong công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học được tăng cường. 2.3.2.2. Hợp tác song phương giữa Việt Nam với từng nước ASEAN về giáo dục và đào tạo * Hợp tác giữa Việt Nam với các nước CLM - Hợp tác với Campuchia Cùng với sự phát triển của mối quan hệ láng giềng , hữu nghị truyền thống Việt Nam - Campuchia, mối quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ngày càng được tăng cường, mở rộng theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả với các phương thức và loại hình đào tạo đa dạng, đáp ứng yêu cầu của Nhà nước Campuchia. - Hợp tác với Lào Bước vào thế kỷ XXI, hai Đảng, hai Nhà nước tiếp tục xác định hợp tác giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng, là lĩnh vực hợp tác chiến lược và là một biểu hiện đặc biệt trong mối quan hệ giữa hai nước . Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam và Lào được Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện theo phương hướng: Phát huy truyền thống đoàn kết hữu nghị, không ngừng củng cố, phát triển mối quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện, mang tính chiến lược lâu dài giữa hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước. Tiếp tục coi trọng và dành ưu tiên, ưu đãi hợp 16 lý cho nhau. Đồng thời, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, phát huy cao nhất nội lực của mỗi nước, kết hợp thỏa đáng mối quan hệ đặc biệt với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hai nước đẩy mạnh công cuộc đổi mới, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới. Quy mô và số lượng đầu tư của Việt Nam dành cho Lào về lĩnh vực giáo dục ngày một tăng. Hạng mục giúp đỡ cũng ngày một trọng điểm, từ đầu tư dàn trải đến chỗ đầu tư có trọng điểm và vào các công trình quan trọng có ý nghĩa to lớn. - Hợp tác với Mianma Mặc dù Việt Nam có nhiều cố gắng, song, cho đến năm 2010, việc trao đổi học sinh, sinh viên, các đoàn tham quan nghiên cứu hoặc các chương trình hợp tác song phương khác vẫn chưa được thực hiện. * Hợp tác giữa Việt Nam với các nước ASEAN khác - Hợp tác với Xingapo Hợp tác về giáo dục giữa Việt Nam với Xingapo ngày càng được tăng cường và mở rộng. Lãnh đạo Bộ Giáo dục hai nước chủ trương mở rộng và xúc tiến các chương trình hợp tác thông qua các trường đại học, các viện, các trung tâm đào tạo trong việc trao đổi tài liệu giảng dạy và nghiên cứu. Các chương trình hợp tác tập trung vào một số hoạt động như: hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực, hợp tác trong công tác nghiên cứu khoa học, trao đổi các đoàn tham quan nghiên cứu , chia sẻ kinh nghiệm với Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Theo sáng kiến của Thủ tướng Xingapo Lý Hiển Long, Việt Nam và Xingapo đã triển khai xây dựng Đề án Kết nối ha i nền kinh tế Việt Nam - Xingapo. Tháng 12- 2005, Hiệp định khung về kết nối Việt Nam - Xingapo được ký kết, trước hết tập trung vào 6 lĩnh vực được ưu tiên là: đầu tư, thương mại và dịch vụ, giao thông vận tải, công nghệ thông tin và viễn thông, tài chính, giáo dục và đào tạo. Để cụ thể hóa các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực giáo dục giữa hai nước, ngày 25 -4-2007, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân đã ký với Bộ trưởng Giáo dục Xingapo Bản ghi nhớ về hợp tác giáo dục giữa hai nước Việt Nam - Xingapo. - Hợp tác với Thái Lan Quan hệ hợp tác giáo dục giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và Bộ Giáo dục Thái Lan rất ít. Giữa hai Bộ không có các chương trình hoặc dự án hợp tác song phương ở cấp Bộ. Đến năm 2010, hai Bộ vẫn chưa ký được thỏa thuận hợ p tác, mọi quan hệ hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam và Thái Lan vần lớn thông qua Tổng vụ Hợp tác Kinh tế - Kỹ thuật Thái Lan (DTEC) và Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam. 17 Nhằm tăng cường hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam và Th ái Lan, ngày 20-2-2004, Bản ghi nhớ về hợp tác giáo dục Việt Nam - Thái Lan được ký kết. Mặc dù, hợp tác giáo dục giữa Việt Nam và Thái Lan còn hạn chế, song những kết quả đạt được đã củng cố mối quan hệ giữa 2 nước. - Hợp tác với Malaixia Các chương trình hợp tác Việt Nam - Malaixia trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo được thực hiện thông qua thỏa thuận đạt được của tổ chức khu vực mà hai nước là thành viên như ASEAN và SEAMEO. Trong chuyến thăm chính thức Malaixia của Thủ tướng Chính phủ Phan văn Khải, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và Bộ Giáo dục Malaixia đã ký kết Bản Ghi nhớ giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Malaixia về Hợp tác trong lĩnh vực Giáo dục (21-4-2004) có giá trị 5 năm. Việc ký Bản Ghi nhớ giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Malaixia về Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, là cơ sở quan trọng góp phần tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác giữa hai nước. - Hợp tác với Inđônêxia Trong những năm 2001-2010, mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Inđônêxia trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo tiếp tục được duy trì và phát triển. Nhằm tăng cường hợp tác toàn diện giữa hai nước, ngày 26 -3-2003, Tuyên bố về Khuôn khổ hợp tác hữu nghị và toàn diện bước vào thế kỷ XXI giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Inđônêxia được ký kết. Hai bên nhất trí đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh các chương trình hợp tác về phát triển nguồn nhân lực thông qua việc ủng hộ và tạo điều kiện cho các hoạt động hợp tác song phương giữa các cơ sở đào tạo, và khuyến khích việc cử sinh viên sang nghiên cứu và học tập tại các trường đại học của nhau. - Hợp tác với Philippin Các hoạt động hợp tác Việt Nam - Philippin trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo không nhiều mà chủ yếu là thông qua các hoạt động hợp tác đa phương hoặc thông qua các chương trình dự án với một đối tác thứ ba. Tháng 8-2007, trong chuyến thăm chính thức Philippin, của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hai bên đã ký Chương trình Hành động giai đoạn 2007 - 2010 để triển khai Tuyên bố chung về Khuôn khổ quan hệ hợp tác trong những năm đầu thế kỷ XXI. Nhiều lĩnh vực hợp tác quan trọng giữa hai nước đã được nêu trong chương trình hành động là chính trị, an ninh - quốc phòng, kinh tế - thương mại, lâm ngư nghiệp, du lịch, y tế, văn hóa giáo dục, khoa học kỹ thuật... 18 * * * Tiếp tục thực hiện đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, trong đó, Đảng luôn đặt quan hệ hợp tác toàn diện với các nước ASEAN ở vị trí ưu tiên. Việt Nam tiếp tục nhận được sự hỗ trợ từ tổ chức ASEAN, góp phần nâng cao năng lực tài chính, khả năng ngoại ngữ cho cán bộ quản lý giáo dục, cán bộ giảng dạy và học sinh, sinh viên Việt Nam. Hợp tác giáo dục và đào tạo với Lào và Campuchia ngày càng được củng cố và phát triển. Số lượng học bổng Việt Nam cung cấp cho Lào và Campuchia đã giúp bạn đào tạo nguồn nhân lực đáng kể, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Lào và Campuchia. Bên cạnh đó, Việt Nam tranh thủ các suất học bổng của Xingapo, Malaixia, Inđônêxia, Brunây và Philippin để nâng cao trình độ cũng như chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam. Do hạn chế về nguồn lực, Việt Nam luôn chủ trương tranh thủ khai thác học bổng từ các nước ASEAN phát triển, nên t rong hợp tác giáo dục với các nước như Malaixia, Xingapo, Inđônêxia, Việt Nam chỉ nhận học bổng do phía bạn cấp mà chưa có hình thức trao đổi , trong khi với Lào và Campuchia được triển khai rất tốt. Điều đó làm hạn chế mối quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN. Như vậy, so với trước năm 2001, Đảng không chỉ đề ra chủ trương chung mà còn cụ thể hóa chủ trương, chỉ đạo sát thực tiễn, đem lại hiệu quả cao. 19 Chương 3 KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM 3.1. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ 3.1.1. Thành tựu Quá trình thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN từ năm 1995 đến năm 2010 đã đạt được một số thành tựu sau: Một là, việc hoạch định và chỉ đạo thực hiện chủ trương hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN của Đảng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện, thực hiện đường lối đối ngoại, tạo nền tảng vững chắc cho mối quan hệ hợp tác với các nước ASEAN, tích cực thúc đẩy sự hình thành cộng đồng ASEAN Hai là, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN góp phần đào tạo nguồn nhân lực tạo tiền đề thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ba là, chính sách tăng cường hợp tác với các nước láng giềng có quan hệ truyền thống với Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác với Lào, Campuchia. 3.1.2. Hạn chế Chủ trương của Đảng về hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN từ năm 1995 đến năm 2010 đã đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích. Song thực tế cho thấy, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về vấn đề này vẫn còn một số hạn chế: Thứ nhất, chưa xác định rõ nội dung, mục tiêu hợp tác cụ thể về giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN . Thứ hai, việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước về hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN còn thiếu chủ động, quyết liệt; chưa có các giải pháp đồng bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả. Thứ ba, còn lúng túng, thụ động trong chỉ đạo thực hiện hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN . 3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM 20 Hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam với các nước ASEAN đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng trong việc đưa Việt Nam hội nhập toàn diện với các nước trong khu vực khu vực. Chủ trương của Đảng và thực tiễn hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam với ASEAN đã để lại một số kinh nghiệm quý báu: Một là, nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực . Phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trong khu vực luôn giữ vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của mọi quốc gia, dân tộc. Chính sách đúng và hợp lý với các nước trong khu vực sẽ là một bảo đảm quan trọng cho an ninh quốc gia. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh hợp tác toàn diện với các nước ASEAN, trong đó có giáo dục và đào tạo nhằm tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài, góp phần phát huy tiềm năng nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới biến chuyển nhanh chóng, phức tạp, đặc biệt là sự khủng hoảng và sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Kể từ đây, quan hệ quốc tế chuyển sang một giai đoạn mới với những thách thức gay gắt, đòi hỏi Việt Nam phải kịp thời đề ra đối sách mới cho phù hợp với tình hình thực tế. Trước tình hình đó, Đảng quyết định đưa Việt Nam gia nhập ASEAN - một tổ chức khu vực có uy tín, có mối quan hệ quốc tế rộng rãi. Để đưa Việt Nam gia nhập ASEAN, lĩnh vực giáo dục và đào tạo được Đảng chọn là lĩnh vực ưu tiên để từng bước đưa Việt Nam hội nhập khu vực. Hai là, việc tích cực triển khai các chủ trương, chính sách và những chương trình hợp tác song phương và đa phương với các n ước ASEAN về giáo dục và đào tạo là động lực để tranh thủ mọi nguồn lực nhằm phát triển giáo dục toàn diện. Thực tiễn hợp tác về giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN đã chỉ ra rằng các hình thức hợp tác càng phong phú, đa dạng và đa phương thì hiệu quả h ợp tác càng lớn. Trên cơ sở đó, trong quá trình hoạch định chính sách và chỉ đạo thực hiện hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN, Đảng và Nhà nước luôn xác định đẩy mạnh hợp tác đa phương kết hợp với hợp tác song phương để tranh thủ khai thác, đồng thời tích cực triển khai các chương trình hợp tác về giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, là thành viên của ASEAN, Việt Nam tham gia tích cực các hoạt động Hội nghị Hội đồng Bộ trưởng Giáo dục ASEAN (ASED) và các hoạt động do Ban thư ký SEAMEO phát động, tranh thủ các nguồn lực chung của khu vực và các quan hệ hợp tác quốc tế về giáo dục của ASEAN. 21 Ba là, Đảng, Nhà nước quan tâm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, đặc biệt tập trung xây dựng các trường đại học chất lượng cao để thu hút nguồn lực. Để đảm bảo khả năng đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn là ngày càng có nhiều người mong muốn được tiếp cận với một nền giáo dục hiện đại, có chất lượng, Đảng, Nhà nước quan tâm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, đặc biệt tập trung xây dựng các trường đại học, trung tâm đào tạo đại học chất lượng cao. Việc làm đó không chỉ từng bước hạn chế việc chảy máu chất xám và ngoại tệ của Việt Nam ra bên ngoài, bước đầu đã thu hút được du học sinh của một số nước. Giáo dục đại học chất lượng cao có một vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế và xu hướng toàn cầu hoá. Vì vậy, để nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác giáo dục với các nước ASEAN, Chính phủ ban hành Nghị quyết 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 đến 2020. Bốn là, nắm vững chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng: tích cực, chủ động, đa dạng hoá trong hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN. Trong chủ trương về hợp tác với các nước ASEAN, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực, chủ động và có trách nhiệm. Trên tinh thần đó, trong quá trình hợp tác về giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN, Việt Nam luôn chứng tỏ sự tham gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm nhằm tiến tới xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh. Nhờ đó, khoảng cách phát triển dần được thu hẹp, góp phần quan trọng củng cố hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực. Việt Nam đã và đang cùng các nước thành viên trong Hiệp hội nỗ lực xây dựng một Cộng đồng ASEAN vững mạnh, năng động và gắn bó chặt chẽ với nhau vào năm 2015. Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính của ASEAN, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam trở thành thành viên của Tiểu ban Giáo dục của ASEAN , đã tích cực phối hợp với các nước trong khu vực với nhiều hoạt động thiết thực, có hiệu quả. Trong chỉ đạo thực hiện, Đảng coi trọng đa dạng hoá các hình thức hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN như trao đổi sinh viên, tham quan thực tế, trao đổi học bổng, góp phần quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. 22 Năm là, hợp tác phải trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi ; chú trọng hiệu quả hợp tác, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao và quản lý du học sinh của Việt Nam. Trong hợp tác nói chung, hợp tác giáo dục nói riêng luôn trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, tôn trọng độc lập tự chủ của mỗi nước, hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên, thực tế hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN đang gặp một vấn đề bất cập làm hạn chế hợp tác, đó là, Việt Nam chỉ nhận học bổng từ các nước ASEAN như Xingapo, Malaixia mà chưa có học bổng trao đổi, trong khi các văn bản hợp tác về giáo dục được ký kết đều đề cập đến việc trao đổi học bổng. Về vấn đề này, Việt Nam mới chỉ dùng lại ở mức độ ghi nhận. Trong khi đó, Việt Nam đang cung cấp hàng trăm suất học bổng mỗi năm cho Lào và Campuchia. Vì vậy, để tăng cường hợp tác giáo dục và đào tạo, vấn đề cần rút kinh nghiệm là hợp tác phải trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi Trong quá trình hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN, Việt Nam đặc biệt chú ý hợp tác ở bậc đại học và sau đại học nhằm đào tạo được nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước ở những trường đại học có uy tín trong khu vực với chi phí hợp lý. Mặt khác, thông qua hợp tác ở bậc học này, Việt Nam học hỏi được kinh nghiệm quản lý, chương trình đào tạo để góp phần đổi mới một cách cơ bản và toàn diện nền giáo dục đại học nước nhà. Vấn đề quản lý lưu học sinh theo diện học bổng được làm rất tốt. Tuy nhiên, quản lý đối tượng lưu học sinh tự túc còn hạn chế. Vì thế, phải quản lý cả số lưu học sinh tự túc để có được thông tin về số lượng, ngành học, cấp học, cơ sở đào tạo của các lưu học sinh này để có định hướng, dự báo về cung và cầu đào tạo. Từ đó, giúp các nhà hoạch định chính sách trong vấn đề định hướng đào tạo nhân lực phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, Bộ giáo dục và đào tạo tăng cường phối hợp với Bộ giáo dục các nước ASEAN, đặc biệt là Xingapo và Malaixia để có biện pháp quản lý thích hợp; chủ trì và phối hợp với các bộ, ngành hữu quan sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy về công tác quản lý lưu học sinh, hoạt động dịch vụ du học nước ngoài. 23 KẾT LUẬN Trước những biến động của tình hình thế giới những năm cuối của thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rõ sự cần thiết phải mở rộng, phát triển hơn nữa mối quan hệ láng giềng, hữu nghị với các nước ASEAN. ASEAN là một tổ chức khu vực có uy tín, có mối quan hệ rộng rãi, có nền kinh tế phát triển năng động để đảm bảo hòa bình, ổn định trong khu vực. Việc tham gia ASEAN sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng. Đảng lãnh đạo đưa Việt Nam gia nhập ASEAN, trong đó hợp tác giáo dục và đào tạo được coi là lĩnh vực đi trước để Việt Nam hội nhập với khu vực. Từ năm 1995 đến nay, chính sách của Việt Nam đối với ASEAN luôn là một bộ phận không thể tách rời và có vị trí quan trọng trong tổng thể chính sách đối ngoại của Việt Nam và vì sự lớn mạnh của ASEAN. Việt Nam tích cực, chủ động tham gia đầy đủ các lĩnh vực hợp tác của ASEAN, trong đó, có lĩnh vực hợp tác giáo dục và đào tạo. Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế trên tất cả các lĩnh vực. Sự phát triển sâu, rộng trong các quan hệ hợp tác toàn diện về chính trị, kinh tế, giáo dục và đào tạo, y tế, môi trường… mở ra khả năng, cơ hội phát triển cho mỗi nước thành viên và cho toàn bộ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, nhằm tiến tới xây dựng một khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Trước khi Việt Nam gia nhập ASEAN, hợp tác về giáo dục và đào tạo chủ yếu với Lào và Campuchia. Trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam có quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo với hầu hết các quốc gia thành viên. Sự hợp tác về giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN ngày càng được củng cố. Thực tiễn hợp tác về giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN trên phương diện hợp tác song phương có 2 xu hướng rõ ràng: Với các nước như Xingapo, Malaixia thì Việt Nam nhận học bổng và cử người đi học là chính; với Lào và Campuchia, xuất phát từ lịch sử quan hệ truyền thống, Việt Nam lại trở thành nước cung cấp học bổng, giúp bạn là chính. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN từ năm 1995 đến năm 2010 đã đạt được những thành tựu quan trọng . Bên cạnh đó, việc hoạch định và chỉ đạo thực hiện chính sách của Đảng về vấn đề này vẫn còn một số hạn chế . 24 Để có sự chỉ đạo sát sao, phù hợp với thực tiễn, trên cơ sở những kết quả đạt được, trong quá trình hoạch định chính sách và chỉ đạo thực hiện hợp tác về giáo dục với các nước ASEAN, Đảng xác định rõ mục tiêu, nội dung, yêu cầu đối với từng nhóm nước. Với Lào và Campuchia, Đảng và Nhà nước yêu cầu phía bạn nâng cao chất lượng tuyển đầu vào và có trình độ tiếng Việt nhất định. Với các nước Việt Nam nhận học bổng và cử người đi học cần làm rõ những ngành, nghề Việt Nam cần. Do đó, hợp tác về giáo dục đào tạo giữa Việt Nam với các nước ASEAN cần chú ý một số vấn đề: Tiếp tục khai thác và phát huy lợi thế so sánh ; phải thống nhất cơ cấu đào tạo, chương trình đào tạo và chất lượng đào tạo; tăng cường trao đổi kinh nghiệm trong giảng dạy, học tập, thực hiện giao lưu, trao đổi về dạy và học giữa các nước ASEAN; thúc đẩy các trường đại học khu vực sử dụng tiếng Anh trong giảng dạy và học tập; có sự thống nhất và công nhận lẫn nhau về giá trị chung của các bằng cấp đào tạo để có thể thực hiện di chuyển tự do về l ao động có tay nghề trong ASEAN. Thực tiễn quá trình hoạch định chính sách và chỉ đạo thực hiện hợp tác giáo dục và đào tạo với các nước ASEAN đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu. Những kinh nghiệm này không chỉ áp dụng trong hợp tác giáo dục và đào tạo mà còn có thể vận dụng linh hoạt trong các lĩnh vực khác. Do đó, các kinh nghiệm này cần được kế thừa và phát huy. Tương lai phát triển của Việt Nam luôn gắn bó chặt chẽ với ASEAN và các quốc gia láng giềng trong ASEAN. Hợp tác giáo dục với các nước ASEAN đang là thị trường đầy tiềm năn g và nhiều triển vọng mà Việt Nam cần dành vị trí ưu tiên song song với những lĩnh vực khác. Với sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững của Việt Nam , ngành giáo dục và đào tạo sẽ có nhiều thuận lợi để tham gia một cách tích cực, chủ động, trách nhiệm và có kế hoạch vào các hoạt động hợp tác trong ASEAN.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_tieng_viet_moi_1521.pdf
Luận văn liên quan