Tóm tắt Luận án Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam

Để phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam thời gian tới hiệu quả. Luận án đưa ra năm quan điểm cần phải quán triệt: Một là, phải coi phát triển CNHT là khâu đột phá, tạo tiền đề phát triển các ngành công nghiệp. Hai là, phát triển CNHT phải khai thác lợi thế quốc gia, hướng vào xuất khẩu, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, với sự tham gia của các thành phần kinh tế. Ba là, phát triển CNHT phải tuân theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, xây dựng nền kinh tế xanh và bền vững. Bốn là, phải tăng cường vai trò của Nhà nước cho phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp. Năm là, phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp phải đảm bảo tái cấu trúc ngành công nghiệp cũng như tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam hiệu quả.

doc24 trang | Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 1923 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thì các nhà sản xuất trong nước không dám bỏ vốn đầu tư mua công nghệ sản xuất linh kiện phụ trợ đạt tiêu chuẩn của công ty lắp ráp. * Trình độ nguồn nhân lực: CNHT là khu vực chuyển giao và tiếp nhận công nghệ mới, nên đòi hỏi trình độ của người lao động cũng phải biến đổi theo cho phù hợp, mặt khác đây cũng là khu vực mà lao động thực sự được khuyến khích sáng tạo. Chính vì thế, khi phân tích sự phát triển toàn diện và bền vững của CNHT, cần phân tích tỷ lệ lao động trình độ cao trong doanh nghiệp, chỉ số về trình độ được đào tạo, khả năng sử dụng máy móc, thiết bị kỹ thuật và khả năng sử dụng công nghệ vào sản xuất sản phẩm hỗ trợ và kỹ năng lao động đó là những tiêu chí cơ bản đánh giá tiềm năng và lợi thế trong phát triển CNHT 2.2. VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN NÓI CHUNG VÀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP NÓI RIÊNG 2.2.1. Mối quan hệ giữa công nghiệp hỗ trợ với ngành công nghiệp Trong phân công lao động: CNHT ra đời và phát triển là do mối quan hệ và yêu cầu của phân công lao động xã hội; CNHT là một khâu quan trọng trong hệ thống phân công lao động của doanh nghiệp được tách rời ra. Trong mối quan hệ phụ thuộc: CNHT phụ thuộc vào sự phát triển của các ngành công nghiệp chính; các ngành công nghiệp chính thúc đẩy sự phát triển của CNHT. Trong mối quan hệ phát triển: Thúc đẩy CNHT phát triển, nghĩa là xây dựng năng lực sản xuất và khả năng tham gia phân công lao động quốc tế của nền công nghiệp quốc gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Sự phụ thuộc lúc này không còn ở quan hệ một chiều, mà thực chất trở thành quan hệ hợp tác hai chiều tương đối bình đẳng, bởi lẽ chính các nhà sản xuất lắp ráp cũng sẽ phụ thuộc vào quốc gia đang sản xuất tích hợp cho họ. Việc phát triển CNHT sẽ phụ thuộc rất lớn vào chiến lược phát triển công nghiệp của quốc gia đang ở giai đoạn nào, mức độ nào và nằm ở đâu trong MLSX toàn cầu. 2.2.2. Vai trò có tính hai mặt của phát triển công nghiệp hỗ trợ Phát triển CNHT là cơ sở quan trọng thực hiện có hiệu quả quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường; hình thành cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng hợp lý, hiện đại; hạn chế nhập siêu, đảm bảo tính chủ động cho nền kinh tế; góp phần làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp và của cả nền kinh tế; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thúc đẩy chuyên môn hóa sản xuất và gắn phân công lao động quốc gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế; giúp tiếp thu chuyển giao công nghệ và là con đường nhanh nhất biến ngoại lực thành nội lực; nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài; đảm bảo cung ứng các linh phụ kiện phục vụ cho sự hoàn chỉnh sản phẩm của doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp; đảm bảo cho các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hoạt động hiệu quả, hoàn thành được kế hoạch sản xuất; và tạo giá trị gia tăng của sản phẩm công nghiệp. Bên cạnh những vai trò tích cực của phát triển CNHT, có những hạn chế không mong muốn, như: việc thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển CNHT, sẽ tạo ra nguy cơ phụ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài. Một số ngành công nghiệp mất đi tính độc lập, do bị phụ thuộc vào chiến lược phát triển và điều tiết thị trường của các MNCs, các doanh nghiệp FDI. Phân công lao động, chuyên môn hóa sâu sẽ cắt khúc các công đoạn, phân chia lợi ích đối lập nhau giữa các công đoạn. Thị trường CNHT cũng sẽ có những khuyết tật; có thể gây ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên và gây mất cân đối sản phẩm trong nền kinh tế. 2.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ PHÁT TRIỂN CNHT TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM Qua kinh nghiệm của Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan và Malaysia: về xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách; về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; về phát triển cụm liên kết ngành; về xây dựng mối liên kết giữa các doanh nghiệp; về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; về xây dựng cơ sở dữ liệu và trao đổi thông tin... có thể rút ra cho Việt Nam một số bài học về phát triển CNHT: Từ phía Chính phủ: Chính sách, chương trình hành động về CNHT phải rõ ràng, ổn định; các chương trình hành động toàn diện, cụ thể và bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp; xác định cơ quan đầu mối phụ trách CNHT trong cơ quan hành chính của Chính phủ. Xây dựng chính sách phù hợp với thực tiễn, xoá bỏ khoảng cách giữa chính sách được ban hành với việc thực thi chính sách; có các hành động quyết liệt, chế tài nghiêm khắc việc thực thi sai chính sách. Nghiên cứu thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng tạo trung gian kết nối giữa ngân hàng với các DNNVV; Ưu tiên ngành CNHT, sản phẩm CNHT; ưu đãi các TĐĐQG về đất đai, hạ tầng, thuế. Tăng cường đào tạo, phát triển tài năng cho CNHT, thành lập các cơ sở đào tạo, quỹ phát triển nhân lực, hỗ trợ chi phí đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, lao động kỹ năng cao và nhận thức cho cán bộ công chức. Từ phía doanh nghiệp: Chủ động đầu tư, đổi mới công nghệ, trang thiết bị, nâng cao năng lực, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp; tham gia các chương trình đào tạo của ngành, địa phương, hiệp hội... hoặc thuê các chuyên gia tổ chức đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ngay tại chỗ. Xây dựng mối liên kết, hợp tác chặt chẽ để trở thành doanh nghiệp vệ tinh, sản xuất sản phẩm phụ trợ cho bản thân doanh nghiệp. Xây dựng chiến lược về thương hiệu của doanh nghiệp. Tham gia và cung cấp thông tin, quá trình hoạt động của doanh nghiệp cho các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để tiến tới xây dựng cơ sở dữ liệu về CNHT quốc gia. Ngoài những bài học về thành công Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia cũng có những bài học thất bại hoặc ít thành công trong phát triển CNHT. Như: Thái Lan còn thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành, sự hiểu biết của doanh nghiệp về chính sách của Chính phủ Thái Lan. Malaysia thành lập “Công ty mỏ neo”, các doanh nghiệp đã thiếu sự nhiệt tình, do cơ chế mỏ neo - cung ứng của Malaysia có sự đối xử thiếu công bằng giữa các ngành, các nhóm thương gia,... Việt Nam là nước đi sau, đây là những kinh nghiệm để Việt Nam nghiên cứu, lựa chọn phù hợp với điều kiện, thực tiễn của đất nước nhằm phát triển CNHT hiệu quả. Chương 3 THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2013 3.1. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ NHÂN TỐ MỚI ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 3.1.1. Những thuận lợi và khó khăn Những thuận lợi: Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thuận lợi; nguồn nhân lực dồi dào, nguồn tài nguyên phong phú. Thời gian gần đây, Nhật Bản, Hàn Quốc đã có sự chuyển hướng đầu tư vào Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cũng đã dành sự quan tâm cho sự phát triển ngành CNHT thông qua việc ban hành các Nghị định, Quyết định về CNHT, những cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ lĩnh vực CNHT. Đi cùng với hệ thống chính sách, hệ thống kết cấu hạ tầng cũng được hiện đại hóa và tương đối đồng bộ, có giá trị lâu dài; hệ thống doanh nghiệp sản xuất CNHT ở Việt Nam cũng có nhiều chuyển biến so với thời gian trước; đồng thời, là sự quyết tâm rất cao trong việc phát triển CNHT của lãnh đạo các bộ, ngành, các cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai các dự án và tiếp tục cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư. Những khó khăn: Năm 2007, Việt Nam mới có Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn 2020. Tuy nhiên, Quy hoạch chưa tập trung, phân theo lộ trình và cụ thể hóa bằng các chế độ theo từng lĩnh vực quản lý của các bộ, ngành. Năm 2011, Thủ tướng Chính phủ mới ban hành Quyết định 12/QĐ-TTg về chính sách phát triển một số ngành CNHT. Các hỗ trợ ưu đãi và bảo lãnh tín dụng đầu tư cho doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT gần như không có gì mới so với chính sách hỗ trợ DNNVV. Chính sách phát triển các khu, cụm công nghiệp vẫn chỉ tập trung vào số lượng, thiếu quy hoạch đồng bộ trên phạm vi cả nước... Ngành CNHT ở Việt Nam còn yếu, các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ còn rất ít, công nghệ lạc hậu, nguồn nhân lực phục vụ CNHT hạn chế... nên chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp. Mặc dù có nhiều triển vọng, song do phát triển trên nền sản xuất khép kín, tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước cao, công nghệ lạc hậu, doanh nhân thiếu năng động; với dung lượng thị trường nhỏ, chưa đủ quy mô sản xuất kinh tế, giá thành sản xuất cao, sức cạnh tranh thấp nên thương hiệu và thị phần của CNHT Việt Nam còn nhiều giới hạn. 3.1.2. Một số nhân tố mới ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam Việc thực hiện cam kết Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA): Gia nhập AFTA, hàng hoá của Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi, có điều kiện thuận lợi hơn để thâm nhập thị trường của tất cả các nước thành viên ASEAN. Tuy nhiên, việc xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế đã xoá bỏ sự bảo hộ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tham gia thực sự vào cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường khu vực; cơ hội cho ngành CNHT càng bị thu hẹp hơn. Việt Nam cần có chiến lược dài hạn xây dựng và phát triển ngành CNHT để giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài và mang lại giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế. Việc ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP): Với mục tiêu xóa bỏ phần lớn thuế quan cho hàng hóa giữa các nước, TPP sẽ là con đường tốt nhất cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tăng sức cạnh tranh về giá khi tiếp cận thị trường các nước đối tác TPP, doanh nghiệp Việt Nam thuận lợi trong tiếp cận những mô hình, phương thức quản lý hiện đại và hiệu quả. Công nghệ, thiết bị, nguyên vật liệu sẽ phong phú, giá thấp hơn sản xuất trong nước. Tuy nhiên, các quy định kỹ thuật, quy tắc xuất xứ quy định về nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm có thể là những rào cản đối với hàng hóa Việt Nam. Do vậy, Việt Nam cần xây dựng ngành CNHT vững mạnh tham gia vào bức tranh công nghiệp hóa trong khu vực. Hợp tác công - tư (PPP): Trong Dự thảo của Nghị định về PPP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ có 9 lĩnh vực đầu tư theo hình thức PPP được ưu tiên. Ngoài các lĩnh vực liên quan đến hạ tầng cơ sở, thì lĩnh vực đầu tư hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệpcũng thuộc lĩnh vực ưu tiên đầu tư. Khi các dự án thuộc lĩnh vực này được triển khai, CNHT nói riêng và các ngành kinh tế khác nói chung ở nước ta sẽ có nhiều triển vọng phát triển. Các doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí vận chuyển, bốc dỡ hàng do giao thông thuận tiện, các cảng được bố trí hợp lý; tiết kiệm được chi phí sản xuất do được hưởng lợi từ thành quả của các công trình xử lý nước thải, cơ sở hạ tầng thương mại được triển khai Đây cũng chính là sự kỳ vọng để các ngành CNHT Việt Nam phát triển trong tương lai gần. Hoạt động chuyển giá: Hiện nay, lỗ hổng để doanh nghiệp lợi dụng chuyển giá là do CNHT của Việt Nam chậm phát triển, các doanh nghiệp FDI thường nhập khẩu các nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất với giá cao hơn giá thực tế. Việc góp vốn bằng máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại, tiên tiến của doanh nghiệp nước ngoài, do trong nước chưa có đủ năng lực và trình độ thẩm định nên nhiều dự án bị đối tác nước ngoài định giá thiết bị, công nghệ cao hơn thực tế... 3.2. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG NGÀNH CÔNG NGHIỆP XE MÁY, DỆT MAY VÀ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh công nghiệp Việt Nam năm 2012 do Bộ Công Thương phối hợp với UNIDO, từ năm 2005 đến năm 2009, Việt Nam tăng 15 bậc trong Bảng xếp hạng hiệu suất công nghiệp của UNIDO (từ hạng 73 lên thứ hạng 58). Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), chỉ số cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam năm 2012/2013 xếp vị trí thứ 75/144 quốc gia; 2013/2014 xếp vị trí thứ 70 trên 148 quốc gia. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2012 - 2013, giá trị gia tăng công nghiệp bình quân đạt 6,0%. Số lượng doanh nghiệp ngành công nghiệp năm 2000 là 10.938, trong đó số doanh nghiệp sản xuất các loại kinh kiện, phụ tùng là 1.123 doanh nghiệp; đến năm 2013 tăng lên 1.383 doanh nghiệp. Tổng số lao động ngành chế tạo chế biến năm 2005 là 5.031,2 nghìn, năm 2012 là 7.460,7 nghìn, đến năm 2013 là 7.654,6 nghìn lao động. 3.2.1. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp xe máy Ngành xe máy Việt Nam, xuất hiện từ những năm 1990, khởi đầu là sự xuất hiện của các nhà lắp ráp nước ngoài. Theo Bộ Công thương, năm 2013 khoảng 5 triệu xe được lắp ráp trong nước; dự kiến đến năm 2015, lượng xe máy lưu hành trong cả nước năm 2020 khoảng 33,5 triệu xe. Năm 2011, số lượng doanh nghiệp CNHT xe máy khoảng 173 doanh nghiệp, tổng nguồn vốn là 31.512 tỷ đồng. Năm 2012 và 2013, số lượng doanh nghiệp sản xuất xe máy gần như không tăng, nhưng các doanh nghiệp đã tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Điển hình Liên doanh Honda, tháng 12/2011 khởi công xây dựng nhà máy thứ 3 tại KCN Đồng Văn 2 (Hà Nam), với vốn đầu tư hơn 120 triệu USD, đưa tổng công suất cả 3 nhà máy lên 2,5 triệu chiếc/năm và tăng thêm khoảng 1.800 lao động. Công ty Cơ khí Mạnh Quang sản xuất phụ tùng xe máy của Việt Nam, đầu tư mở rộng thêm 2 nhà máy cùng hàng loạt máy móc chuyên dụng hiện đại của nước ngoài, đưa doanh thu từ nguồn bán phụ tùng xe máy lên khoảng 250 tỷ đồng/năm. Năm 2012, Bộ Công thương đã đề nghị Chính phủ cho 6 dự án sản xuất phụ tùng xe máy được vay vốn đầu tư ưu đãi từ quỹ đầu tư phát triển; với tổng số vốn dự án đầu tư thiết bị công nghệ của các dự án này khoảng 13,5 triệu USD. Như vậy, số doanh nghiệp nội địa tham gia vào hệ thống CNHT ngày càng tăng về số lượng và nâng cao dần chất lượng các linh kiện cung ứng, xuất khẩu ra thị trường thế giới. Các doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI đều đã có những lô hàng xuất khẩu xe máy nguyên chiếc sang các thị trường như Châu Phi, châu Mỹ La Tinh Năm 2011, lao động trong ngành CNHT xe máy khoảng 44.579 lao động, công nghệ lắp ráp và chế tạo luôn được đầu tư, đổi mới; lực lượng lạo động được đào tạo và nâng cao kỹ năng. Năm 2012, tỷ lệ nội địa hóa ngành xe máy đạt từ 80 - 90%; năm 2013, một số dòng xe của Honda như Future, SH vượt mức trên 90%. Thành công lớn nhất đối với ngành CNHT sản xuất và lắp ráp xe máy của Việt Nam từ chỗ phải nhập khẩu 100% linh phụ kiện của nước ngoài, giờ đây đã có thể tự sản xuất được khoảng 70% các loại linh kiện, phụ tùng, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm xe máy sản xuất tại Việt Nam. Tuy nhiên, giá thành các linh kiện, phụ kiện sản xuất trong nước vẫn còn cao, chất lượng chưa ổn định. 3.2.2. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp dệt may Giai đoạn từ 2002 - 2007, ngành dệt may Việt Nam có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt 20% năm. Năm 2012, Việt Nam vươn lên đứng thứ 5 trong số các nước xuất khẩu lớn trên thế giới. Năm 2013, ngành này đạt khoảng 19 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu. Năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp CNHT ngành dệt may đạt 8.934,2 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 25,95% ngành dệt may; năm 2013, đạt 99.671,9 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 32,5% toàn ngành dệt may. Tính đến cuối năm 2012, số lượng doanh nghiệp CNHT cho ngành dệt may khoảng 1.280 doanh nghiệp, chiếm 31,26% tổng số doanh nghiệp toàn ngành. Lao động trong lĩnh vực CNHT ngành dệt may đạt mức tăng trưởng 3,2%/năm giai đoạn 2006 – 2013. Với trên 209 nghìn lao động năm 2013 lĩnh vực CNHT ngành dệt may, chiếm 16,9% trong tổng số lao động toàn ngành. Tuy nhiên, chất lượng lao động của ngành dệt may chưa cao: ngành dệt, lao động qua đào tạo chiếm 35,1%, trình độ cao đẳng trở lên là 7%; ngành may, 18,24% tổng số lao động có trình độ cao đẳng, đại học, 4,16% trên đại học. Sau hai năm triển khai Chương trình phát triển cây bông vải Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, ngành bông Việt Nam từng bước được khôi phục. Diện tích trồng bông tăng dần theo vụ: vụ bông 2012/2013, diện tích trồng 12.000 ha, đạt 5.180 tấn bông xơ, tăng 10,4% so với mùa vụ trước. Hiện số lượng máy móc, thiết bị, trình độ công nghệ ngành dệt may còn hạn chế và lạc hậu. Các doanh nghiệp đầu ngành như Công ty Cổ phần Cơ khí may Gia Lâm, Công ty Cổ phần Cơ khí may Nam Định đã sản xuất một số chi tiết phụ tùng thay thế và một số máy móc phục vụ ngành dệt may, nhưng do năng lực, thiết bị hạn chế, nên chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển nhanh của các doanh nghiệp dệt may; hầu hết thiết bị công nghệ phải nhập khẩu từ nước ngoài. Trong chuỗi giá trị toàn cầu của hàng dệt may, Việt Nam mới chỉ tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng với lượng giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị. Phần lớn các nhà sản xuất sản phẩm dệt may của Việt Nam đang thực hiện các hợp đồng ủy thác xuất khẩu CMT (gia công thuần túy). Việt Nam có tên trong top các nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới nhưng giá trị thu về thấp. 3.2.3. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp điện tử Năm 1990, công nghiệp điện tử Việt Nam có vài chục doanh nghiệp, đến nay đã có gần 500 doanh nghiệp, trong đó khoảng 1/3 là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sử dụng khoảng 250 ngàn lao động, đáp ứng được nhu cầu trong nước với các loại sản phẩm điện tử, điện lạnh, công nghệ thông tin - viễn thông thông dụng với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20 - 30%/năm. Từ năm 2011 - 2013, sản phẩm công nghệ thông tin tăng trưởng từ 20% - 30%. Hiện nay, Việt Nam đang sản xuất các sản phẩm hỗ trợ chủ yếu là mạch in, màn hình, vi mạch bán dẫn, các bộ cảm biến, các linh kiện, phụ tùng cho thiết bị viễn thông, thiết bị truyền dẫn, bán dẫn, quang điện tử, vi điều khiểnTổng doanh thu công nghiệp điện tử Việt Nam tăng đều năm sau cao hơn năm trước. Từ 34.782 tỷ đồng năm 2005, 286.269 tỷ đồng năm 2012 tăng lên 308.311 tỷ đồng năm 2013. Số lượng doanh nghiệp CNHT tăng lên năm 2006 có 120 doanh nghiệp, năm 2010 là 372 doanh nghiệp. Đến năm 2013, lên tới 630 doanh nghiệp. Vốn kinh doanh bình quân của các doanh nghiệp này năm 2005 là 21.735 tỷ đồng, năm 2010 là 78.724 tỷ đồng, năm 2013 là 124.000 tỷ đồng; tổng số lao động khoảng 240 nghìn người, giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn khoảng 60,5 nghìn tỷ đồng, với tổng doanh thu thuần đạt khoảng 286 nghìn tỷ đồng. Năm 2005, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm trong ngành công nghiệp điện tử rất thấp khoảng 20%; chủ yếu là bao bì, linh kiện nhựa. Hiện nay, linh kiện điện tử và các sản phẩm hỗ trợ của ngành công nghiệp điện tử mới được sản xuất ở Việt Nam, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm được tăng dần lên do có thêm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia. Tỷ lệ nội địa hóa của lắp ráp tivi trung bình khoảng 40%; các sản phẩm thuộc nhóm gia dụng (máy giặt, tủ lạnh, điều hòa) khoảng 35%; nhóm nghe nhìn khoảng 30%. Theo điều tra của Tổng Công ty Điện tử Tin học Việt Nam (năm 2010), tỷ lệ nội địa hoá của các công ty liên doanh lớn (SONY, Toshiba, JVC, Deawoo) đạt khoảng 30%. Sau 5 năm gia nhập WTO, giá trị xuất khẩu của nhóm các sản phẩm công nghệ thông tin không ngừng tăng cao, năm 2011, đạt tới 6,8 tỷ USD và tiếp tục tăng trưởng mạnh năm 2012 và năm 2013. Về sản xuất linh kiện điện tử, từ năm 2007 tới 2013, các dự án đầu tư vào lĩnh vực điện tử đều có sản xuất linh kiện. Về hàm lượng giá trị lao động của người Việt Nam trong các sản phẩm điện tử bình quân chỉ chiếm 5% - 10% giá trị sản phẩm. Đến nay, Việt Nam không có một cơ sở sản xuất công nghiệp nào tham gia vào việc sản xuất vật liệu điện tử, chỉ có ở dạng nghiên cứu cơ bản hoặc sản xuất theo mô hình phòng thí nghiệm. 3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 3.3.1. Những thành tựu Ngành CNHT Việt Nam đang từng bước phát triển. Hiện nay, có trên 60.000 doanh nghiệp đang phát triển và hình thành các cơ sở sản xuất nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện, vật tư hỗ trợ để phục vụ cho nhu cầu lắp ráp một số mặt hàng công nghiệp để phục vụ nội địa và xuất khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có sự đổi mới mạnh mẽ về công nghệ, trang thiết bị, đầu tư dây truyền máy móc gia công tiên tiến và hiện đại. Trình độ của đội ngũ nhân lực, cả kỹ sư và công nhân được nâng cao. Chi phí, hiệu quả sản xuất, sự chính xác của thời gian giao hàng được chú trọng. Một số doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn đã bắt đầu bỏ hình thức sản xuất tích hợp theo chiều dọc trước đây và chuyển sang hình thức đầu tư chiều sâu, chuyên môn hóa sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Lĩnh vực sản xuất linh kiện kim loại đã đáp ứng được 85 - 90% nhu cầu sản xuất xe máy; 40 - 60% cho sản xuất các loại máy nông nghiệp, máy động lực và 40% cho máy xây dựng. Đưa tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm một số ngành công nghiệp khá cao như ngành xe máy 70 - 90%, trang thiết bị điện 80 - 90%. Các linh kiện điện tử đã xuất khẩu tới hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Các loại sợi sản xuất trong nước đáp ứng khá tốt nhu cầu của doanh nghiệp... Có thể nói, công nghiệp Việt Nam đã phát triển và có những đóng góp to lớn cho quá trình phát triển kinh tế xã hội và tăng thu hút FDI. Đặc biệt là chúng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng của CNHT và đã quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển của ngành công nghiệp mới này. Vì thế, CNHT bước đầu đã có sự phát triển đáng khích lệ, góp phần tích cực đảm bảo tính bền vững, ổn định và hiệu quả lâu dài. 3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân Những hạn chế: Số lượng doanh nghiệp chuyên về CNHT còn ít, trình độ còn thấp và lạc hậu so với khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới. Sự tăng trưởng nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp chế tạo với sự tăng trưởng giá trị sản xuất của ngành còn hạn chế, chưa tương xứng với giá trị sản xuất hàng năm. Hiện tại, các doanh nghiệp CNHT chủ yếu là DNNVV, quy mô sản xuất vẫn còn nhỏ, phân tán; khả năng cạnh tranh kém, hoạt động chủ yếu dưới dạng gia công, sản phẩm đơn giản, giá trị gia tăng thấp; mức độ bền vững của các liên kết thị trường giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước cũng rất kém. Một số doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư mua máy móc, dây chuyền thiết bị, công nghệ tiên tiến của nước ngoài, nhưng việc làm chủ các phần vận hành, bảo dưỡng trang thiết bị còn hạn chế. Tỷ lệ nội địa hóa một số ngành thấp, chưa sản xuất các sản phẩm kỹ thuật, công nghệ cao. Dung lượng thị trường các ngành công nghiệp hạ nguồn hiện nay ở Việt Nam nhỏ, chưa hấp dẫn sản xuất CNHT. Năng lực kỹ thuật công nghệ, năng lực tổ chức quản lý sản xuất của các doanh nghiệp CNHT còn thấp; việc áp dụng các tiêu chuẩn quản lý hiện đại mang tính hình thức. Doanh nghiệp khó kiểm soát chất lượng, tỷ lệ sản phẩm hỏng cao, dẫn đến giá thành sản phẩm chưa thực sự hấp dẫn được các nhà lắp ráp. Khả năng ứng dụng và tính sáng tạo của nguồn nhân lực rất hạn chế. Những nguyên nhân của hạn chế: Việc hoạch định chính sách ở Việt Nam, ít có sự tham gia của các của các nhà tài trợ, các chuyên gia, các nhà khoa học... Các định chế trung gian để hỗ trợ các doanh nghiệp trong phát triển sản phẩm CNHT còn thiếu, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ tài chính. Các quy định về quản lý hành chính còn rườm rà. Hạ tầng cung ứng cho doanh nghiệp khi tham gia vào CNHT chưa tốt, thiếu thốn và đắt đỏ, điều này sẽ làm chi phí sản xuất tăng lên, nhiều doanh nghiệp không dám đầu tư. Các doanh nghiệp trong nước không đủ niềm tin và ý thức tích lũy kỹ năng. Khả năng ứng dụng và tính sáng tạo của nguồn nhân lực còn hạn chế. Thiếu nguồn nhân lực công nghiệp cao một phần do xã hội chưa quan tâm đúng mức đối với các ngành CNHT, một phần do chất lượng đào tạo hiện nay thiếu tính thực tiễn. Các kênh thông tin giữa các doanh nghiệp FDI/nhà lắp ráp; các công ty nội địa, các tập đoàn lớn bên ngoài còn thiếu. Chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về lĩnh vực này. Tính hợp tác - liên kết giữa các doanh nghiệp hỗ trợ với các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp, giữa nhà lắp ráp với các nhà sản xuất hỗ trợ, giữa các nhà sản xuất hỗ trợ với nhau còn yếu. Đặc biệt, thiếu sự liên kết giữa khối doanh nghiệp trong nước và khối doanh nghiệp FDI, phần nào hạn chế sự lan tỏa tích cực của FDI vào Việt Nam. Các nhà cung cấp Việt Nam ít chịu hợp tác, liên kết với các đối tác khác. Công tác hậu kiểm yếu, chưa được quan tâm, dẫn đến nhiều doanh nghiệp nước ngoài lợi dụng ưu đãi đầu tư, không thực hiện cam kết đầu tư hoặc giả danh vào Việt Nam đầu tư, rồi vay nợ làm ăn thua lỗ, bỏ nhà máy, bỏ dự án về nước. 3.3.3. Những vấn đề đặt ra trong phát triển công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp Việt Nam. Một là, những vấn đề trong quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ Hai là, những vấn đề về vốn, công nghệ trong phát triển CNHT Ba là, những vấn đề về nhân lực trong phát triển công nghiệp hỗ trợ Bốn là, những vấn đề về phát triển công nghiệp hỗ trợ khi tái cấu trúc một số ngành công nghiệp ở Việt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 4.1. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM Mối quan tâm hàng đầu hiện nay là đẩy mạnh công nghệ cao có tính đổi mới và độc lập trong các SMEs. Các nước trên thế giới và khu vực đều có xu hướng mở rộng thị trường, phát triển CNHT đạt ở mức độ cao về chuyên môn hóa và tham gia vào mạng lưới sản xuất trong khu vực và trên thế giới. Một làn sóng mới về đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp chế tạo Nhật Bản, Hàn Quốc gia tăng. Trong tương lai không xa, ngành CNHT sẽ trở thành trung tâm của nền công nghiệp. Các dịch vụ sản xuất, linh kiện, phụ tùng, xây dựng và vận hành các dây chuyền lắp ráp, vận chuyển, phân phối sản phẩm như một chuỗi khép kín, mang tính toàn cầu. Các chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu sẽ hình thành và phát triển.  4.1.1. Xu hướng phát triển các ngành công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn năm 2030 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Theo đó, xu hướng phát triển CNHT ngành xe máy, dệt may và điện tử như sau: CNHT xe máy Việt Nam, dự báo đầy triển vọng, nhiều nhà sản xuất trong lĩnh vực CNHT xe máy của Việt Nam đã có những bước điều chỉnh trong chiến lược sản xuất để nắm bắt cơ hội tốt này. Các liên doanh sản xuất xe máy ở Việt Nam cũng không ngừng mở rộng nhà máy, nâng công suất, tăng công suất sản xuất xe máy hiện có. Việc đầu tư lớn và mở rộng sản xuất của doanh nghiệp xe máy trong nước đã chứng tỏ thị trưởng xe máy ở Việt Nam vẫn tiềm năng trong chiến lược của những nhà đầu tư ngoại quốc. Ngành dệt may, phát triển theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Đáp ứng được 80% nhu cầu nội địa và tiến tới xuất khẩu sau năm 2020; đến năm 2030, ngành dệt may sẽ tập trung khâu thiết kế mẫu mã đáp ứng nhu cầu sản phẩm cao cấp phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. CNHT ngành dệt may, tăng cường thu hút đầu tư, sản xuất xơ, sợi, vải và các nguyên phụ liệu ngành dệt may, hướng tới nội địa hóa các lĩnh vực CNHT để thay thế hàng nhập khẩu, nâng cao tính chủ động trong sản xuất và khả năng cạnh tranh của sản phẩm cuối cùng. Ngành điện tử, xây dựng một số nhà máy sản xuất các thiết bị điện tử y tế kỹ thuật cao, thiết bị cảnh báo điện tử. Đến năm 2020, nhóm ngành sản phẩm ưu tiên là linh kiện điện tử phục vụ sản xuất và lắp ráp thiết bị văn phòng, thiết bị viễn thông, đồ gia dụng, thiết bị nghe nhìn, cơ điện tử, linh kiện điện tử. Đến năm 2030, nhóm ngành sản phẩm ưu tiên hệ thống vi cơ điện tử (MENS), hệ thống NANO cơ điện tử (NEMS); vi mạch điện tử phục vụ ngành công nghệ cao; mạch tích hợp, bộ nhớ dung lượng cao; vật liệu bán dẫn, vật liệu từ tính phục vụ xuất khẩu. 4.1.2. Một số quan điểm cơ bản Nhận thức rõ vai trò phát triển CNHT, phải coi phát triển CNHT là khâu đột phá, tạo tiền đề phát triển các ngành công nghiệp Phát triển CNHT phải khai thác lợi thế quốc gia, hướng vào xuất khẩu, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, với sự tham gia của các thành phần kinh tế Phát triển CNHT phải tuân theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, xây dựng nền kinh tế xanh và bền vững Phải tăng cường vai trò của Nhà nước cho phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp Phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp phải đảm bảo tái cấu trúc ngành công nghiệp cũng như tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam hiệu quả 4.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 4.2.1. Nhóm các giải pháp chung phát triển công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam 4.2.1.1. Xây đựng Quy hoạch phát triển cho ngành công nghiệp hỗ trợ Với vai trò quan trọng của CNHT, việc xây dựng quy hoạch cho ngành CNHT là cần thiết và cấp bách, đảm bảo sự phát triển CNHT đúng định hướng, phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Trên cơ sở Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam đã ban hành, Chính phủ cần xây dựng Quy hoạch phát triển các ngành CNHT, dựa trên tiềm năng, lợi thế so sánh; có lộ trình, phương án quy hoạch dài hạn; cụ thể theo từng yêu cầu trong từng giai đoạn, cũng như ở mỗi địa phương, mỗi ngành; có sự phối hợp chặt chẽ và đồng thuận giữa các bên liên quan. Trước mặt, cần tập trung vào một số giải pháp cụ thể như: (i) tiếp tục nâng cao nhận thức về CNHT; xác định rõ phạm vi CNHT. (ii) Các Bộ, ngành tích cực phối hợp xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích đầu tư phát triển CNHT; phát triển vùng nguyên liệu, nguồn nhân lực cho ngành CNHT. (iii) Các địa phương, rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển CNHT địa phương mình phù hợp với định hướng phát triển ngành CNHT, ngành công nghiệp cả nước. (iv) Các doanh nghiệp căn cứ Quy hoạch phát triển CNHT điều chỉnh Chiến lược và Kế hoạch đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. (v) Bộ Công thương đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm toán quy hoạch phát triển của địa phương, của ngành, kịp thời có giải pháp hiệu quả, khả thi; định kỳ tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm. 4.2.1.2. Hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ Hoàn thiện thể chế về CNHT: Khung pháp lý điều tiết hoạt động của các chủ thể tham gia CNHT; thành lập cơ quan đầu mối thống nhất quản lý ở cấp vĩ mô và hiệp hội doanh nghiệp CNHT để phối hợp, liên kết hoạt động ở cấp vi mô. Tạo thuận lợi về quỹ đất cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ, được thuê lâu dài và ổn định. Xây dựng các doanh nghiệp chủ chốt ở một số lĩnh vực cơ khí chế tạo, sản xuất linh kiện theo hình thức thành lập mới, khi đi vào hoạt động có hiệu quả thì sẽ triển khai cổ phần hóa. Điều chỉnh một số chính sách tài chính hiện hành liên quan đến phát triển CNHT, có sự ưu tiên, trọng tâm từng giai đoạn phát triển. (1) Chính sách ưu đãi về thuế: Đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: lĩnh vực CNHT cần được ưu tiên tương tự như lĩnh vực “đặc biệt khuyến khích đầu tư”, để khi nhập khẩu hàng hóa được miễn thuế nhập khẩu. Đối với thuế giá trị gia tăng (VAT): các sản phẩm, linh kiện được các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hạ nguồn chấp thuận và đặt hàng; các dự án sản xuất sản phẩm CNHT cho phát triển công nghệ cao, Chính phủ hỗ trợ thuế VAT thấp từ 5 -7% (mức thuế quy định là 10%) và có cơ chế miễn, giãn thuế VAT khi gặp điều kiện kinh tế khó khăn, nhằm kích cầu đầu tư và sử dụng sản phẩm CNHT trong nước đối với một số sản phẩm CNHT. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, được miễn thuế TNDN trong 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% cho 9 năm tiếp theo. Đề xuất, ưu đãi tương tư đối với các doanh nghiệp nội địa làm công việc hỗ trợ. Đối với thuế thu nhập cá nhân, người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại Khu công nghiệp, Khu kinh tế được giảm 50% thuế thu nhập đối với người có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập,... (2) Chính sách liên quan đến chi phí sản xuất: Các doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực CNHT không thuộc Danh mục lĩnh vực hoặc đặc biệt khuyến khích đầu tư (khoản A - Phụ lục I - Nghị định 108/2006/NĐ-CP), vì vậy không thuộc nhóm đối tượng được hưởng các ưu đãi về thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và tiền thuê mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về thuế (Điều 26, Nghị định 108/2006/NĐ-CP). Đề xuất bổ sung doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực CNHT vào Danh mục lĩnh vực hoặc đặc biệt khuyến khích đầu tư để được hưởng ưu đãi này. (3) Chính sách tín dụng: Nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản để thành lập hệ thống ngân hàng phục vụ các DNNVV, có cơ chế về bảo lãnh tín dụng, về thế chấp tài sản... 4.2.1.3. Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp hỗ trợ với hoạt động của các doanh nghiệp trong một số ngành công nghiệp Đẩy mạnh việc giới thiệu nhu cầu phát triển và sử dụng sản phẩm hỗ trợ, nâng cao tính chuyên nghiệp của các hội chợ, chợ công nghiệp, triển lãm, hội thảo chuyên đề về phát triển CNHT. Xây dựng các chương trình hợp tác dài hạn với các đối tác chiến lược - các công ty, tập đoàn đa quốc gia về phát triển công nghiệp nói chung và CNHT nói riêng. Đổi mới mô hình tổ chức các Viện nghiên cứu chuyên ngành để làm cầu nối giữa nghiên cứu - thiết kế - ứng dụng, gắn quá trình nghiên cứu với chuyển giao đưa vào sản xuất. Đổi mới cơ chế tổ chức, hoạt động của các Hiệp hội ngành nghề để đóng vai trò đại diện cho ngành tìm kiếm, tiếp nhận tài trợ của Chính phủ và của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thực hiện các giải pháp phát triển ngành, đầu mối xúc tiến đầu tư, phát triển thị trường, đề xuất các cơ chế, chính sách phát triển CNHT. Nhà nước cần có những chính sách tác động đến những yếu tố chi phối năng lực cạnh tranh, tăng trưởng, tạo môi trường thuận lợi, giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp. 4.2.1.4. Đa dạng hóa công nghiệp hỗ trợ hướng vào sản phẩm có giá trị gia tăng cao và bảo vệ môi trường sinh thái, tài nguyên Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước sản xuất các linh, phụ kiện công nghệ cao. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao. Xúc tiến các hoạt động CNHT mới giàu tiềm năng tăng trưởng, tạo việc làm và phát triển công nghệ. Có những chính sách thích hợp, tập hợp các doanh nghiệp này trong các KCN, khu CNHT tập trung, sử dụng chung hệ thống xử lý chất thải. Không bố trí các KCN, khu CNHT gần các khu lịch, khu đông dân cư, văn hóa, Không phê duyệt, cấp phép xây dựng các dự án đầu tư và triển khai xây dựng khi chưa có đánh giá tác động môi trường. Khuyến khích các doanh nghiệp đưa tiêu chí về trình độ công nghệ và bảo vệ môi trường lên vị trí quan trọng khi xem xét lựa chọn; đầu tư đổi mới trang thiết bị, áp dụng công nghệ hiện đại nhằm giảm thiểu chất thải, thực hiện sản xuất sạch, kiểm soát các chất gây ô nhiễm môi trường không khí tại nơi sản xuất. Xây dựng hệ thống xử lý chất thải tập trung cho các KCN, khu CNHT. Hoàn thiện việc xử lý ô nhiễm với các dự án liên quan đến các ngành công nghiệp, các cơ sở CNHT phân tán. 4.2.1.5. Phát triển cụm liên kết ngành gia tăng năng suất, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm công nghiệp hỗ trợ Việt Nam phải có chính sách cho việc phát triển cụm liên kết ngành (CLKN), tăng cường nâng cao nhận thức về CLKN, xây dựng và hoàn thiện quy hoạch phát triển KCN - CCN của ngành, địa phương gắn với định hướng chính sách phát triển CLKN. Lựa chọn lĩnh vực và xây dựng một số mô hình CLKN trong các ngành, lĩnh vực tiềm năng. Về mô hình CLKN, Việt Nam nên chọn mô hình tích hợp của Nhật Bản để phát triển CNHT gắn với CLKN trong sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nội địa sẽ là một hướng đi đúng, có triển vọng. 4.2.1.6. Thiết kế và quản trị cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ Cần có kế hoạch tổng thể, dài hạn và có lộ trình cụ thể xây dựng CSDL về CNHT quốc gia. Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chủ trì xây dựng và đưa lên WEBSITE của Tổng cục Thống kê. Tuyên truyền, vận động, hướng dẫn để các doanh nghiệp lĩnh vực CNHT tích cực tham gia đăng ký cập nhật dữ liệu và quá trình hoạt động của mình phục vụ cho việc xây dựng CSDL về CNHT quốc gia. Xây dựng cơ chế giám sát, kiểm tra tính chính xác của dữ liệu cập nhật. Xây dựng tiêu chí để doanh nghiệp kê khai, cập nhật vào CSDL. Thông tin “Cơ sở dữ liệu CNHT quốc gia” gồm những nội dung chính sau: (i) Tên doanh nghiệp (công ty), địa chỉ, người đại diện, điện thoại, fax, web; chính sách của doanh nghiệp, năm thành lập, chi nhánh trong và nước ngoài (nếu có), loại hình kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, sản phẩm chính; (ii) Lợi nhuận, lãnh đạo doanh nghiệp, chiến lược, người kế nhiệm; (iii) Doanh số bán hàng hàng năm, tổng vốn, trang thiết bị sản xuất, độ chính xác chế tạo, khách hàng chính, số lao động, chứng chỉ chất lượng Số liệu sau khi được xử lý sẽ truyền vào hệ thống. Hệ thống sẽ tự động xử lý, tổng hợp và truyền đưa lên cấp trên các số liệu thống kê định kỳ. Từ các số liệu thống kê, cần có kế hoạch để tổ chức thành CSDL thông tin cấp quốc gia. 4.2.1.7. Giải pháp về nguồn lực cho phát triển công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp (i) Các giải pháp về thu hút FDI chất lượng cao cho hoạt động CNHT: Cải cách thủ tục hành chính và tạo môi trường thân thiện với doanh nghiệp. Quảng bá Việt Nam để thu hút các nhà đầu tư tiềm năng vào CNHT chiến lược. Tăng năng lực của các cơ quan trong phối hợp chính sách, chia sẻ thông tin và giảm thiếu xung đột trong công tác xúc tiến đầu tư. Chú trọng các chính sách hậu đầu tư cho doanh nghiệp đang đầu tư tại Việt Nam. Ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp CNHT, do đó cần xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển đón đầu việc thâm nhập vào sân chơi mới đầy tiềm năng này. (ii) Các giải pháp hỗ trợ vốn: Nhà nước cần sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi xây dựng quỹ tài chính đảm bảo việc phát triển CNHT của những ngành đã được chỉ định, để có nguồn ngân sách cụ thể, minh bạch. Thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng trung gian kết nối giữa ngân hàng với các DN SMEs, giúp DNNVV có thể vay vốn khi gặp khó khăn về tài sản thế chấp; có thể bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay từ ngắn hạn đến dài hạn. Thành lập ngân hàng chính sách riêng cho các doanh nghiệp SMEs, tạo nguồn cung về vốn nhanh, hiệu quả, giúp doanh nghiệp tập trung vào sản xuất kinh doanh và có cơ hội mở rộng quy mô hoạt động của mình. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp SMEs có mặt bằng sản xuất phù hợp, được hưởng các chính sách ưu đãi trong việc thuê đất, chuyển nhượng, thế chấp và các quyền khác về sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật. (iii) Các giải pháp về khoa học công nghệ: xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế làm căn cứ cho định hướng phát triển. Hỗ trợ tài chính để đổi mới công nghệ, như tăng cường ngân sách đầu tư hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp mua bản quyền công nghệ từ nước ngoài và ứng dụng hiệu quả sự chuyển giao công nghệ của thế giới. Hỗ trợ phát triển và nâng cấp các tổ chức kiểm định, đánh giá chất lượng sản phẩm hỗ trợ thuộc nhiều thành phần kinh tế đạt trình độ quốc tế. Thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ các công ty lớn tới các DN SMEs, đặc biệt là nguồn công nghệ cao mà các công ty FDI lớn mang vào Việt Nam trong quá trình đầu tư. Đẩy mạnh công tác chống chuyển giá, nâng cao năng lực, trình độ thẩm định, hạn chế đối đa trường hợp đối tác nước ngoài định giá thiết bị, công nghệ cao hơn thực tế. Khuyến khích các Viện nghiên cứu chuyên ngành triển khai nghiên cứu, thực nghiệm các đề tài, dự án gắn với nhu cầu phát triển sản xuất các chủng loại vật liệu, chi tiết, linh phụ kiện, phụ tùngphục vụ CNHT; thành lập các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật chuyên nghiệp về CNHT, giúp các DN SMEs có thể nhận được tư vấn kỹ thuật cần thiết đáp ứng được yêu cầu chất lượng của các nhà lắp ráp. (iv) Các giải pháp về đào tạo nhân lực: tăng cường đào tạo cán bộ kỹ thuật, nhất là các ngành thiết kế, chế tạo máy, luyện kim, điều khiển tự động, điện tử để làm chủ công nghệ được chuyển giao, nghiên cứu thiết kế tạo ra công nghệ và kiểu dáng sản phẩm riêng của Việt Nam. Xây dựng các trung tâm đào tạo tại các khu công nghiệp, khu công nghệ cao và khu chế xuất. Thu hút hỗ trợ của Chính phủ các nước phát triển, các doanh nghiệp FDI tham gia vào công tác đào tạo. Tạo điều kiện đầu tư, có chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích những nghiên cứu hữu ích, sáng tạo. Nhà nước cần hỗ trợ từ ngân sách trung ương cho các doanh nghiệp địa phương có kế hoạch đầu tư cho đào tạo phát triển nguồn nhân lực thông qua các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc hỗ trợ ngân sách cho địa phương thực hiện đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Việc hỗ trợ tài chính, đối tượng phải được thực hiện hàng năm và được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng đảm bảo tính minh bạch và việc tiếp cận của các doanh nghiệp thuận lợi. Về lâu dài, cần nghiên cứu thành lập Quỹ đào tạo, bồi dưỡng lao động CNHT, giao cho Bộ Công thương quản lý và triển khai. (v) Các giải pháp về hạ tầng cơ sở: triển khai hiệu quả các dự án hợp tác công tư (PPP); đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hạ tầng cơ sở giao thông, vận tải (như các bến cảng, sân bay, đường sắt, đường bộ, giao thông đô thị). Hình thành các kho tàng, điểm tập trung hàng hóa ở các vùng kinh tế trọng điểm để gia tăng điều kiện phát triển CNHT. 4.2.2. Nhóm giải pháp phát triển CNHT trong ngành xe máy, dệt may và điện tử 4.2.2.1. Giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành xe máy Tổ chức điều tra, nghiên cứu từ quy hoạch sản xuất, năng lực, quy mô mở rộng hợp tác liên kết, để định hướng, tư vấn đối với từng doanh nghiệp CNHT xe máy, điều chỉnh chiến lược sản xuất, lựa chọn sản phẩm phù hợp, từng bước loại bỏ những sản phẩm không có sức cạnh tranh hay ít triển vọng cạnh tranh. Xây dựng Quy chế tối thiểu cho lưu hành và niên hạn lưu hành đối với xe máy, loại bỏ số xe máy đã sử dụng quá niên hạn, không đảm bảo chất lượng, kỹ thuật, hạn chế các tiềm ẩn, tại họa do xe máy gây ra khi tham gia giao thông, hiện tượng gây ô nhiễm môi trường. Đầu tư phát triển sản xuất xe máy, kinh kiện, phụ tùng xe máy với chất lượng ngày càng cao, đặc biệt là sản xuất động cơ, sản xuất nguyên, phụ liệu cho ngành. Tiến hành sản xuất hàng loạt theo phương thức “Mô - đun”. Đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm xe máy, linh kiện, phụ tùng ra thị trường khu vực, quốc tế, nhất là các thị trường Châu Phi, Tây Nam Á, Mỹ La tinh. Các doanh nghiệp CNHT xe máy trong nước tăng cường hợp tác, liên kết để cùng làm, cùng bổ sung cho nhau. Cần đặt ngành cơ khí chế tạo trong cùng quy hoạch tổng thể với CNHT ngành xe máy với mục tiêu hướng tới việc tập trung phát triển cơ khí nền tảng phục vụ sản xuất, lắp ráp các sản phẩm cơ khí trọng điểm. Tăng cường thu hút đầu tư, khuyến khích phát triển các chương trình đào tạo liên kết có sự tham gia của cả doanh nghiệp FDI và các nhà cung cấp nội địa. 4.2.2.2. Giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành dệt may Chính phủ có chính sách, cơ chế khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất các nguyên phụ liệu, các sản phẩm CNHT cho ngành dệt may. Nâng cao khả năng cung cấp trọn gói, chất lượng cao, giá thành giảm, thời hạn giao hàng theo nhu cầu mua trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đa dạng hoá các nguồn đầu tư vào phát triển CNHT ngành dệt may, trong đó phải coi đầu tư ngoài Nhà nước và FDI là chủ yếu. Bổ sung các chính sách ưu đãi đầu tư vào phát triển CNHT ngành dệt may, gồm: ưu đãi tín dụng, ưu đãi nhập khẩu nguyên phụ liệu, thuế giá trị gia tăng Nghiên cứu thị hiếu thời trang thế giới, tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tận dụng tối đa thị trường nội địa, xây dựng thương hiệu riêng, tạo nhiều kênh phân phối, linh hoạt trong tiếp thị nhằm tạo niềm tin và cảm xúc ấn tượng đối với người tiêu dùng. Hoàn thiện cơ chế, chính sách nội địa hóa; tăng cường áp dụng các định mức kinh tế kỹ thuật mới, tiên tiến, chuyển giao công nghệ, liên kết trồng bông bảo đảm nguyên liệu phục vụ sản xuất, để vùng chuyên canh bông vải phát triển bền vững, tạo điều kiện tăng giá trị cho ngành dệt may. Tái cấu trúc lại ngành dệt may Việt Nam để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, theo hướng sản xuất những sản phẩm sinh thái, kỹ thuật cao; nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, tiết kiệm năng lượng, cải thiện môi trường làm việc cho người lao động. Các doanh nghiệp CNHT dệt may phải tập trung đẩy mạnh thương mại điện tử, có định hướng phối hợp xây dựng các sàn giao dịch sản phẩm dệt may điện tử. Khi có một hệ thống hàng hóa được mã hóa, số hóa doanh nghiệp sẽ rất thuận lợi trong việc quản lý, phân phối. Ngành dệt may cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại chỗ. Có chính sách thu hút nhân tài, nguồn nhân lực từ địa phương khác, gắn kết chương trình đạo tạo nhân lực của địa phương với nguồn nhân lực quốc gia trong lĩnh vực CNHT, thông qua các chương trình đạo tạo với nước ngoài, liên kết tổ chức đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp.... 4.2.2.3. Giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành điện tử Chính phủ, tạo những ưu đãi cần thiết cho khối doanh nghiệp CNHT ngành điện tử; xây dựng thí điểm một số KCN hỗ trợ ngành điện tử với các ưu đãi đặc thù. Có biện pháp cải thiện sản xuất, tăng tỷ lệ nội địa hóa cung cấp những sản phẩm được thị trường chấp nhận. Xây dựng ngành sản xuất linh phụ kiện điện tử - tin học theo hướng gắn kết, tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng của các công ty, tập đoàn đa quốc gia theo hướng đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp mà trước hết là đáp ứng nhu cầu về linh kiện lắp ráp đơn giản, các chi tiết nhựa, khuôn mẫu, mạch in tăng tỉ lệ nội hóa ngành điện tử. Các doanh nghiệp CNHT ngành điện tử có thể sản xuất sản phẩm theo phương thức “Tích hợp”; có sự liên kết chặt chẽ để từng bước hình thành một mảng chuyên biệt trong ngành công nghiệp điện tử toàn cầu. Ưu tiên phát triển các phương thức liên kết sản xuất - kinh doanh giữa các doanh nghiệp nội địa và những tập đoàn lớn. Lựa chọn một số chuyên ngành, lĩnh vực sản xuất loại sản phẩm mà mình có thế mạnh, nhằm tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao để có thể tham gia vào hệ thống sản xuất khu vực. Thu hút các tập đoàn đa quốc gia phát triển các cơ sở sản xuất, thiết kế các hệ thống bán dẫn tích hợp cao, vi điều khiển, các thiết bị SoC (System on a Chip), IC thông minh, những vi mạch có bộ nhớ nhanh, bộ nhớ STRAM... Muốn thu hút những nhà lắp ráp các sản phẩm công nghệ cao, nhất thiết cần phải có những DNNVV sản xuất chi tiết, linh kiện ở trình độ công nghệ cao. Đổi mới công nghệ với phương án hợp lý, khai thác năng lực nghiên cứu tư vấn, thiết kế hiện có, hoàn thiện môi trường pháp lý công tác nghiên cứu, tạo dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển KH - CN ngành CNHT. KẾT LUẬN Với mục tiêu đến năm 2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, việc phát triển CNHT sẽ đóng góp một vai trò quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế Việt Nam. Việc thực hiện đề tài nghiên cứu trong phạm vi, giới hạn nhất định, tác giả luận án đưa ra một số kết luận sau: 1. Công nghiệp hỗ trợ là một ngành kinh tế kỹ thuật, bao gồm các ngành sản xuất sản phẩm trung gian, cung cấp linh, phụ kiện máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu đã qua chế biến và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất theo các quy trình nhất định để lắp ráp các sản phẩm cuối cùng. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến CNHT như: môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách của Nhà nước; các quan hệ liên kết khu vực và toàn cầu, ảnh hưởng của các tập đoàn đa quốc gia; hội nhập kinh tế quốc tế; các ngành công nghiệp cơ bản và khu vực hạ nguồn; dung lượng thị trường; tiến bộ khoa học công nghệ và năng lực nội địa hóa; nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực; hệ thống thông tin; tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. 2. Phát triển CNHT là yếu cầu mang tính tất yếu khách quan đối với phát triển kinh tế - xã hội nói chung và ngành công nghiệp nói riêng. Luận án đã luận giải những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển CNHT như: quy mô, trình độ công nghệ, nguồn nhân lực, tỷ lệ nội địa hóa của doanh nghiệp CNHT, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và mức độ đáp ứng yêu cầu của ngành công nghiệp hạ nguồn. 3. Vai trò có tính hai mặt của CNHT đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành công nghiệp ở Việt Nam nói riêng được thể hiện ở một số nội dung. Việc phát triển hợp lý và hiệu quả CNHT sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Đặc biệt, khi hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đồng thời, luận án nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia về phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp và từ đó rút ra bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho Việt Nam. 4. Thực trạng CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, CNHT trong một số ngành công nghiệp Việt Nam vẫn còn những hạn chế và đặt ra những vấn đề cần được quan tâm, giải quyết như: về quy hoạch phát triển CNHT; về vốn, công nghệ trong phát triển CNHT, về nguồn nhân lực trong phát triển CNHT và về phát triển CNHT khi tái cấu trúc một số ngành công nghiệp ở Việt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đây là cơ sở quan trọng bảo đảm căn cứ khoa học và thực tiễn để đề xuất những nhóm giải pháp mang tính khả thi thúc đẩy CNHT phát triển trong thời gian tới. 5. Để phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam thời gian tới hiệu quả. Luận án đưa ra năm quan điểm cần phải quán triệt: Một là, phải coi phát triển CNHT là khâu đột phá, tạo tiền đề phát triển các ngành công nghiệp. Hai là, phát triển CNHT phải khai thác lợi thế quốc gia, hướng vào xuất khẩu, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, với sự tham gia của các thành phần kinh tế. Ba là, phát triển CNHT phải tuân theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, xây dựng nền kinh tế xanh và bền vững. Bốn là, phải tăng cường vai trò của Nhà nước cho phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp. Năm là, phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp phải đảm bảo tái cấu trúc ngành công nghiệp cũng như tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam hiệu quả. Trên cơ sở đó Luận án đưa ra hai nhóm giải pháp, đó là nhóm giải pháp chung phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam và nhóm giải pháp phát triển CNHT trong ngành công nghiệp xe máy, dệt may và điện tử ở Việt Nam. Đây là hai nhóm giải pháp cơ bản, là một thể thống nhất không tách rời và không xem nhẹ bất kỳ giải pháp nào nhằm phát triển CNHT ở Việt Nam, góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docla_tom_tat_24_trang_chuan_tieng_viet_2327.doc
Luận văn liên quan