Hải Phòng là thành phố cảng - công nghiệp và là trung tâm kinh
tế - khoa học kỹ thuật tổng hợp của Vùng Duyên hải Bắc Bộ, đứng thứ 3
trong số các thành phố lớn của Việt Nam. Số lượng và mật độ xe lưu
thông trên địa bàn thành phố rất lớn đặc biệt là xe container, xe có tải
trọng lớn, xe mô tô, xe ô tô. các vụ tai nạn do các loại phương tiện này
gây ra có xu hướng gia tăng. Tình hình tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải
Phòng (từ năm 2005 đến năm 2014) được kiểm soát trong biên độ giao
động giảm, nhưng về tính chất, mức độ nghiêm trọng lại có chiều hướng
gia tăng. Phương tiện phạm tội chủ yếu là xe mô tô và đặc biệt trên địa
bàn thành phố Hải Phòng xe container có tỷ lệ gây tai nạn cao và mức
độ thảm khốc nhất. Độ tuổi của người phạm tội vi phạm quy định về
điều khiển giao thông đường bộ ở Hải Phòng từ 18 đến 30 so với các lứa
tuổi khác.
28 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 10/02/2022 | Lượt xem: 389 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Đấu tranh phòng, chống tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THU DUNG
ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG
BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 62 38 01 05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN
HÀ NỘI - 2016
Công trình được hoàn thành tại Học Viện Khoa Học xã Hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn
Phản biện 1: .............................................................................................................................
.....................................................................................................................
Phản biện 2: .............................................................................................................................
.........................................................................................................................
Phản biện 3: .............................................................................................................................
.........................................................................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
họp tại Học Viện Khoa Học Xã Hội, vào hồi. giờ..phút,
ngày..tháng năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Học Viện Khoa Học Xã Hội
1
MỞ ĐẦU
I.Tính cấp thiết của đề tài
Hải Phòng là thành phố cảng và công nghiệp, trung tâm kinh tế -
khoa học kỹ thuật tổng hợp của Vùng Duyên hải Bắc Bộ, nằm giữa "hai
hành lang, một vành đai kinh tế" và cũng là thành phố đứng thứ 3 trong
số các tỉnh, thành lớn của Việt Nam. Các đặc điểm về vị trí địa lý, kinh
tế, chính trị, xã hội như vậy đã góp phần tạo đà cho Hải Phòng phát triển
mọi mặt về kinh tế xã hội, mặt khác với sự tăng trưởng mạnh, nhanh
cũng đã ảnh hưởng tiêu cực đến cơ sở hạ tầng giao thông và tình hình an
toàn giao thông trên địa bàn Thành phố. Nhu cầu vận chuyển hàng hoá
cao nên số lượng và mật độ phương tiện lưu thông rất lớn, tình hình trật
tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố theo đó diễn biến
cũng hết sức phức tạp. Tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ đã và đang tác động tiêu cực đến sự
phát triển mọi mặt của thành phố, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, trật
tự, an toàn xã hội. Trước hết cần khẳng định rằng, cho đến nay, các công
trình nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm hoặc
nghiên cứu ở phạm vi rộng: cả nước hoặc ở phạm vi hẹp hơn: địa bàn
cấp tỉnh hoặc cấp huyện. Chưa có công trình nghiên cứu nào ở tầm luận
án tiến sĩ nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa
bàn thành phố Hải Phòng. Trong khi đó, hiệu quả phòng, chống tình
hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không thể không nói đến yếu tố
“địa lý học” của tình hình tội phạm này. Vì vậy, một công trình nghiên
cứu tội phạm học ở tầm luận án tiến sĩ xuất phát từ nhiều yếu tố, nhất là
yếu tố “địa lý học của tình hình tội phạm” phân tích tình hình tội vi
2
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa
bàn thành phố, nguyên nhân và điều kiện cũng như dự báo tình hình tội
này trong tương lai để đề xuất các giải pháp phòng ngừa có hiệu quả là
nhu cầu của cuộc sống. Từ những phân tích khái quát trên đây, có thể
khẳng định rằng đề tài luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành tội phạm
học và phòng ngừa tội phạm “Đấu tranh phòng, chống tình hình tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa
bàn thành phố Hải Phòng” có tính cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn to lớn.
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu: Luận án đề xuất hệ thống các giải pháp
phòng, chống có hiệu quả tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông này trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo pháp luật hình
sự Việt Nam. Mô tả, phân tích, đánh giá về nguyên nhân, điều kiện của
tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ trong 10 năm (2005 - 2014) trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Dự báo tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ và đề xuất các giải pháp phòng, chống có hiệu quả tình
hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong những năm tới.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là quy luật phạm tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải
Phòng trong khoảng thời gian 10 năm từ năm 2005 đến năm 2014, nhằm
tìm kiếm các giải pháp phòng, chống có hiệu quả.
3
Phạm vi nghiên cứu của luận án: dưới góc độ tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm có kết hợp ở mức độ nhất định kiến thức luật hình
sự về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ. Thời gian nghiên cứu: từ năm 2005 đến năm 2013. Địa bàn nghiên
cứu: Thành phố Hải Phòng.
IV. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận án sử dụng phép duy vật biện chứng và phép
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh;
đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam và của Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tội phạm, về hình phạt, về
phòng, chống tội phạm làm phương pháp luận nghiên cứu. Luận án còn
sử dụng cơ sở lý luận về tội phạm học ở trong nước và nước ngoài.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp
nghiên cứu đặc trưng của tội phạm học như quy nạp, diễn dịch, so sánh,
phân tích, tổng hợp, mô tả, thống kê, lịch sử, hệ thống, điều tra xã hội
học, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội
dung của đề tài.
V. Đóng góp mới của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu về tội phạm học của
tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Luận án làm rõ tình hình cũng như nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng, từ đó đề xuất được các giải pháp
phòng, chống có tính khả thi và có hiệu quả cao.
VI. Ý nghĩa của Luận án
Về mặt khoa học: Luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận
về phòng ngừa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ; có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ giảng dạy,
4
học tập và nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực tội phạm học và khoa
học luật hình sự.
Về mặt thực tiễn: Nội dung của luận án là cơ sở cho các cơ quan
lập pháp xem xét, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hình sự
chưa hoàn thiện về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ; các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân xây dựng và áp
dụng các giải pháp phòng, chống có hiệu quả tình hình tội nói trên trên
địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
VII. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận án gồm 4 chương, các tiết.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Công trình nghiên cứu ở ngoài nước:
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu được công bố mà trong
quá trình thực hiện đề tài luận án này, tác giả đã tham khảo và chia ra
nhóm các quốc gia như sau:
Ở Mỹ: Chương trình “State of New Jesey: Light Safety Camera
program (An Analysis of New Jesey: Light Safety Camera program,
April, 2013) hay bài viết của tác giả John Dunham and Associates, 2012,
American Traffic Solutions “Cost – Benefit Analysis. The Impact of
Red - Light Safety cameras on Crashes Resulting Savings to
Commutions: Methodolygy and Documentation (prepared of ATS
American Traffic Solutions)... Những bài viết này đã tập trung phân tích
các khía cạnh khác nhau của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tai
nạn giao thông và ùn tắc giao thông ở Hoa Kỳ, từ đó đề xuất các giải
pháp, trong đó đáng chú ý là giải pháp áp dụng hệ thống đèn đỏ - máy
quay camera giám sát để khắc phục và hạn chế tai nạn giao thông. Mặc
dù không trực tiếp đề cập đến tội vi phạm quy định về điều khiển
5
phương tiện giao thông đường bộ, song cách tiếp cận và giải quyết vấn
đề của các tác giả nói trên cung cấp cho tác giả cái nhìn tổng thể về ùn
tắc giao thông, tai nạn giao thông và nguyên nhân, điều kiện của chúng
mà nói khái quát hơn là cung cấp cho tác giả kiến thức về phương pháp
giải quyết ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông của nước Mỹ.
Ở Pháp: Bài viết của tác giả Laurent Etienne Blais với tựa đề
“Accident Analysis and prevention” (2003) tạm dịch là “Nghiên cứu,
phân tích tai nạn và cách phòng ngừa”. Từ việc phân tích tai nạn giao
thông, nguyên nhân và điều kiện của nó, kết quả của việc triển khai
chương trình camera giám sát tốc độ ở Pháp tháng 9 năm 2003. Nguyên
nhân và điều kiện của tai nạn giao thông cũng được đề cập nghiên cứu
khá sâu trong tác phẩm “The Causes, Ecology and Prevention of Traffic
Accidents: With Emphasis Upon Traffic Medicine, Epidemiology,
Sociology and Logistics” (1971), tạm dịch là “Các nguyên nhân và
phòng ngừa tai nạn giao thông nhìn từ góc độ y học giao thông, dịch tễ
học, xã hội học” của tác giả H. J. Roberts. Đây là công trình nghiên cứu
công phu mang tính chất đa ngành, liên ngành y học – xã hội học hướng
vào lý giải nguyên nhân của tai nạn giao thông và xây dựng các giải
pháp khắc phục. Cũng như nước Mỹ, nước Pháp là quốc gia phát triển
có hệ thống đường sá tốt do đó để giải quyết những vấn đề về giao thông
trong hệ thống quốc lộ, cao tốcquốc gia này đặc biệt quan tâm tới việc
đảm bảo tốc độ, kiểm soát tốc độ để đưa ra những biện pháp xử lý vi
phạm giao thông một cách hiệu quả từ đó giảm thiểu, khắc phục ùn tắc
vốn là một trong những nguyên nhân có thể gây tai nạn.
Tại Châu Á: Trong số những công trình nghiên cứu đã được công
bố, đáng chú ý là công trình nghiên cứu của tác giả Gururaj. G có tựa đề
“Alcohol and road traffic injuries in South Asia challenges for
prevention”, tạm dịch là “Rượu và tai nạn giao thông đường bộ ở Nam
6
Á: thách thức đối với công tác phòng, chống”, được ông thực hiện dựa
theo nguồn (số liệu) của Viện Sức khỏe tâm thần và khoa học thần kinh
Bangalore, Ấn Độ. Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng tăng cường thực hiện các
giải pháp cụ thể, trong đó có giải pháp tuyên truyền, phổ biến rộng rãi và
dễ hiểu trong nhân dân về tai nạn giao thông đường bộ ở Ấn độ và các
bước ngăn chặn “Steps to be taken for Preventing road accidents in
India”.
Một trong những công trình nghiên cứu được tác giả luận án này
khảo cứu là công trình “Traffic injuries: a new agenda for child health”
tạm dịch là “Tai nạn giao thông: một chương trình nghị sự mới cho sức
khỏe trẻ em” của các tác giả Qureshi AF, Bose A, Anjum QRoad thuộc
Trường Cao đẳng Bác sĩ và bác sĩ phẫu thuật Pakistan, Karachi, Pakistan.
Trong công trình nghiên cứu này, các tác giả đã đưa ra hệ thống các biện
pháp hạn chế các trường hợp trẻ em tử vong do tai nạn giao thông
đường bộ và phương pháp tạo ra một môi trường an toàn cho trẻ em khi
tham gia giao thông. Những biện pháp mà các tác giả của công trình
nghiên cứu trên đây đưa ra được đánh giá là phù hợp với chiến lược 5
năm của WHO về giải quyết tỷ lệ tử vong ở trẻ em do chấn thương bởi
tai nạn giao thông đường bộ trên toàn thế giới (the WHO's five - year
strategy to address RTIS worldwide), bởi vậy chúng có tính khả thi và
hiệu quả cao.
Ở nhiều quốc gia thuộc khu vực Châu Á Thái Bình Dương: Tác
giả S. P. Kumara – thành viên của nhóm nghiên cứu giao thông vận tải
của Khoa kỹ thuật dân dụng và môi trường thuộc Đại học Southampton,
Vương quốc Anh và H. C. Chin thuộc Sở Xây dựng, Đại học Quốc gia
Singapore, đã phối hợp nghiên cứu và công bố bài viết “Study of Fatal
Traffic Accidents in Asia Pacific Countries” tạm dịch là “Nghiên cứu về
tai nạn giao thông chết người tại các nước Châu Á Thái Bình Dương”
7
trên Tạp chí của Ban Nghiên cứu Giao thông vận tải của Viện hàn lâm
khoa học Quốc gia Singapore. Bài viết đi sâu phân tích mối liên hệ
tương quan giữa tỷ lệ tai nạn giao thông đường bộ gây tử vong ở các
nước Châu Á Thái Bình Dương với tình trạng kinh tế xã hội của các
nước đó, từ đó tìm ra các yếu tố xác định có thể cung cấp thông tin cần
thiết cho việc lập kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng và ngân sách cho
phát triển. Điều cần nhấn mạnh là các tác giả đã xây dựng “Mô hình của
phương pháp phân tích tai nạn” để đưa ra các giải pháp phòng, chống có
hiệu quả.
Ở Trung Quốc: Trung Quốc cũng đã thành lập Văn phòng quản lý
giao thông Bắc Kinh (Beijing traffic management bureau), nơi trao đổi
và cung cấp những thông tin cần thiết để đưa ra những biện pháp giảm
thiểu ùn tắc và tai nạn giao thông. Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra
những mục tiêu hành động như: “Năm chấn chỉnh và Ba tăng cường”
trong bài viết “China’s road traffic accidents in the first half of 2009”
(Tai nạn giao thông đường bộ của Trung Quốc trong nửa đầu năm 2009)
đăng ngày 20/7/2009. Những giải pháp này đã giúp Trung Quốc giảm
đáng kể số vụ tai nạn giao thông cũng như xử lý ngay những điểm ùn tắc
đem lại hiệu quả trong công tác phòng ngừa tai nạn.
Nghiên cứu tình hình tai nạn giao thông ở một số quốc gia ở Tây
Thái Bình Dương, Đông Nam Á và Châu Á, Gérard Lautrédou người
đứng đầu Hội Chữ thập đỏ Pháp tại Việt Nam đã cho công bố trên Tạp
chí quốc tế Hội chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế bài viết“Road
safety is no accident” (tạm dịch là An toàn giao thông là không tai nạn),
trong đó ông nhận xét và đánh giá một cách tổng thể tình hình tai nạn
giao thông tại một số quốc gia ở Tây Thái Bình Dương, Đông Nam Á và
Châu Á phân tích nguyên nhân và điều kiện của nó, trên cơ sở đó đề
xuất những biện pháp mà mỗi quốc gia cần triển khai để kiềm chế tai
8
nạn giao thông cho phù hợp với đặc điểm về văn hoá, địa lý tự nhiên của
mỗi quốc gia.
Từ những nội dung khái quát của những công trình nghiên cứu ở
một số nước trên thế giới mà tác giả luận án này có tham khảo, phục vụ
cho việc nghiên cứu đề tài luận án của mình. Kết quả nghiên cứu cho
thấy giao thông cũng như an toàn giao thông là một trong những mối
quan tâm hàng đầu, chiến lược phát triển gắn với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Các khu vực, châu lục đều có những đặc
điểm tự nhiên, văn hóa xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng và sự phát triển kinh
tế ở mức độ khác nhau do đó mỗi quốc gia đều đưa ra nhiều giải pháp
mang tính đặc thù để kiềm chế tai nạn giao thông. Các quốc gia này
cũng đưa ra những phương hướng phòng ngừa tội phạm về giao thông
có kết hợp để vừa phù hợp với đặc điểm của quốc gia mình vừa đảm bảo
được tính ổn định phát triển bền vững trong xu thế hội nhập của thế giới.
Mặc dù không đề cập nghiên cứu trực tiếp tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ dưới góc độ tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm, nhưng các kết quả nghiên cứu, nhất là các cách
tiếp cận được sử dụng để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên
cứu của các công trình nghiên cứu được tham khảo nói trên đã cung cấp
cho tác giả phần nào cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để nghiên cứu
về đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước:
Tác giả chia ra thành những nhóm công trình nghiên cứu sau:
- Nhóm các công trình nghiên cứu tội phạm học dưới dạng sách
chuyên khảo liên quan đến đề tài như cuốn sách “Tội phạm học, luật
hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tập thể tác giả Viện
nghiên cứu Nhà nước và pháp luật do TS. Đào Trí Úc làm chủ biên,
9
được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 1994; “Tội phạm học
Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn” cũng do tập thể tác giả
Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật do Nhà xuất bản Công an nhân
dân xuất bản năm 2000; “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội
phạm” của PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm do Nhà xuất bản Công an nhân
dân xuất bản năm 2011.
- Nhóm luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu dưới góc độ
tội phạm học là luận văn thạc sĩ: “Tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam” của tác
giả Ngọ Duy Thi, bảo vệ thành công năm 2008 tại Trường Đại học Luật
Hà Nội; Luận văn thạc sĩ “Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm an
toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Bình: thực trạng và
giải pháp” của tác giả Quách Ngọc Tuấn, bảo vệ thành công năm 2004
tại Trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sĩ “Đấu tranh phòng,
chống tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ trên địa bàn tỉnh Hưng Yên” của tác giả Nguyễn Văn Tuấn, bảo vệ
thành công năm 2010 tại Viện Nhà nước và pháp luật... Những luận văn
thạc sĩ luật học nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ dưới góc độ tội phạm học trên đây đều gắn
việc nghiên cứu tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm, các giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm (cụ thể) với
địa bàn nhất định, do vậy cung cấp cho tác giả chẳng những những kiến
thức cơ bản về tội phạm học mà còn cả cách tiếp cận thực tiễn của vấn
đề nghiên cứu, cho phép tác giả luận nhìn nhận tính đa dạng, phức tạp,
nhiều tầng nấc, cấp độ của tình hình tội phạm vốn được quyết định bởi
nguyên nhân và điều kiện của nó. Nội dung đó cũng rất phong phú, đa
dạng, nhiều cấp độ cung cấp cái nhìn sát thực tính quyết định về mặt xã
10
hội của các giải pháp phòng ngừa tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông trên địa bàn cụ thể.
- Bài báo khoa học đăng trên các tạp chí chuyên ngành nghiên
cứu tội phạm dưới góc độ tội phạm học mà tác giả luận án tham khảo,
như: “Bàn về nguyên nhân của tình hình tội phạm”của tác giả Trần Hữu
Tráng, đăng trên Tạp chí Luật học, số 11 năm 2010; “Tác động của kinh
tế thị trường đến tình hình tội phạm và phòng ngừa tội phạm ở nước ta”
cũng của tác giả Trần Hữu Tráng, đăng trên Tạp chí Luật học, số 1 năm
2010; “Cơ chế hành vi phạm tội cơ sở để xác định nguyên nhân và biện
pháp phòng ngừa tội phạm” của tác giả Phạm Văn Tỉnh đăng trên Tạp
chí Kiểm sát, số 1 năm 1996; “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm ở nước ta hiện nay – Mô hình lý luận”của tác giả Phạm Văn
Tỉnh, công bố trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6 năm 2008;
“Khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm dưới góc độ tội phạm học”
của tác giả Phạm Văn Tỉnh, được công bố trên Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 6 năm 2007 Ở mức độ chuyên môn sâu, các bài viết làm
rõ nguyên nhân và điều kiện của tình tội phạm nói chung ở hai cấp độ:
nguyên nhân và điều kiện chung của tình hình tội phạm nói chung và
nguyên nhân và điều kiện của tình hình một tội cụ thể nói riêng. Đó
chính là những kiến thức chuyên sâu giúp tác giả luận án về mặt phương
pháp luận nghiên cứu một hiện tượng xã hội phức tạp, đa dạng, đó là
tình hình tội phạm và cố nhiên trong đó có tình hình tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay
nói chung và trên địa bàn thành phố Hải Phòng nói riêng.
- Các đề tài nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học, chẳng hạn như
Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.04.14 “Tệ nạn xã hội ở Việt Nam:
Thực trang, nguyên nhân và giải pháp” Tổng cục cảnh sát nhân dân, Bộ
nội vụ (nay là Bộ Công an) thực hiện và bảo vệ thành công năm 1993;
11
Đề tài khoa học cấp Bộ “Tội phạm có sử dụng bạo lực ở Việt Nam –
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” do Bùi Văn Thịnh, Đinh Tuấn
Anh và đồng nghiệp thực hiện và bảo vệ thành công năm 1999 Những
đề tài khoa học trên đây góp phần giúp tác giả luận án nhận thức sâu sắc
hơn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, phương pháp tiếp
cận để lý giải đâu là nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn
thành phố Hải Phòng.
- Bên cạnh đó còn có một số bài viết đi sâu vào tranh luận tội
danh cụ thể, xác định lỗi của tội phạm này như: “Xác định lỗi trong các
vụ án tai nạn giao thông” của Lê Văn Luật đăng trên Tạp chí tòa án
nhân dân, số 6 năm 2005; “Một số vấn đề về định tội và định khung tăng
nặng trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ” của tác giả Huỳnh Quốc Hùng công bố trên Tạp chí
Tòa án nhân dân số 9 năm 2007; Đề tài cấp bộ “Các giải pháp phòng
ngừa tai nạn giao thông ở Việt Nam hiện nay” do Trương Quốc Giao
làm chủ nhiệm năm 2004... Bằng các cách tiếp cận khác nhau, các công
trình nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự đều hướng
vào làm rõ các dấu hiệu cấu thành tội phạm nói chung và của tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nói
riêng, qua lăng kính định tội danh và quyết định hình phạt trong thực
tiễn xét xử để tìm ra những thiếu sót, hạn chế của pháp luật quy định xử
lý đối những dạng vi phạm trong tội danh này từ đó đề xuất những
phương hướng giải pháp hoàn thiện về mặt khoa học pháp lý và hệ
thống các văn bản hướng dẫn thi hành sao cho đồng bộ, thống nhất dễ
dàng áp dụng trong thực tiễn.
Những công trình nghiên cứu được khảo cứu trên đây, như đã
nhấn mạnh, đã đánh giá thực trạng tai nạn giao thông và những giải
12
pháp để kiềm chế tai nạn ở phạm vi địa phương, quốc gia và châu lục.
Việc khảo cứu những công trình nghiên cứu đó, như đã nhấn mạnh,
chẳng những cho thấy bức tranh toàn cảnh về những vấn đề liên quan
đến đề tài luận án này đã được nghiên cứu một cách thấu đáo, được
nghiên cứu nhưng chưa đầy đủ cần được bổ sung mà còn đặt ra những
vấn đề cần được nghiên cứu. Đối với địa bàn cụ thể, nói ở đây là thành
phố Hải Phòng, việc đánh giá tình hình vi phạm giao thông nói chung và
tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ nói riêng; việc xác định nguyên nhân và điều kiện của chúng
cũng như việc xây dựng biện pháp phòng ngừa chúng phải phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội, tự nhiên của Hải Phòng.
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ
ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TỪ NĂM 2005 ĐẾN
NĂM 2014
2.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo pháp luật
hình sự Việt Nam
Theo khoản 1, Điều 8 BLHS năm 1999 thì “Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh,
trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. Phân tích nội hàm của khái niệm tội
phạm trên đây, có thể thấy nhà làm luật nước ta mô tả khái quát các dấu
hiệu của tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật hình
sự, tính có lỗi và tính phải chịu hình phạt. Phân tích khái niệm tội phạm
được ghi nhận tại Điều 8 BLHS năm 2015, theo đó “Tội phạm là hành vi
13
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Có
thể thấy nội hàm của khái niệm tội phạm đã được mở rộng về chủ thể
của tội phạm, về khách thể bảo vệ của Bộ luật hình sự. Tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được quy định tại
Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999, nay trong Điều 260 BLHS năm
2015 có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 được mang tên là Tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ. Theo Điều 260 BLHS năm
2015 “Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về
an toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây,
thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Như
vậy, theo Điều 260 trên đây phạm vi chủ thể của tội này đã được mở
rộng, điều này phù hợp với bản chất của tội phạm, khắc phục được
những bất cập hạn chế của pháp luật hình sự về tội đang nghiên cứu. Dĩ
nhiên, điều đó cho phép xử lý có hiệu quả hơn những hành vi vi phạm
về an toàn giao thông đường bộ mà Bộ luật hình sự coi là tội phạm.
Theo lôgic của mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng thì khái niệm tội
cụ thể nào đó cũng phải hàm chứa các dấu hiệu nói trên. Tuy nhiên, do
đặc điểm của tội cụ thể mà cách quy định có khác nhau. Từ nội hàm của
quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999 và tại khoản 1 Điều 8
BLHS năm 2015; Điều 202 BLHS năm 1999 và Điều 260 BLHS năm
2015, có thể xây dựng khái niệm tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ, theo đó: “Tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định tại trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách vô ý vi phạm quy định về an
toàn giao thông đường bộ, thuộc một trong các trường hợp mà Bộ luật
hình sự quy định là tội phạm”.
Khái niệm trên đây về tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện Các dấu hiệu pháp lý trong các yếu tố cấu thành của tội này:
14
* Khách thể: xâm phạm sự an toàn của hoạt động vận tải giao
thông đường bộ, an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân, tài
sản của Nhà nước và của các chủ thể khác trong xã hội.
* Mặt khách quan: tội có cấu thành vật chất nên ngoài hành vi
khách quan, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan
và hậu quả cũng là dấu hiệu bắt buộc phải có trong cấu thành tội phạm
này.
* Chủ thể: người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm
hình sự và là người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
* Mặt chủ quan: lỗi vô ý ở một trong hai hình thức: lỗi vô ý vì
quá tự tin hoặc lỗi vô ý vì quá cẩu thả.
2.2. Tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ năm
2005 đến năm 2014 và các thông số của nó.
2.2.1. Phần hiện của tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Phần hiện của tình hình tội này thể hiện ở những thông số về
lượng và những thông số về chất của nó. Những thông số về lượng là
mức độ (thực trạng) và diễn biến (động thái), còn những thông số về
chất là cơ cấu và tính chất của tình hình tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải
Phòng.
2.2.1.1. Mức độ (thực trạng) của tình hình tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải
Phòng.
i. Mức độ tổng quan tuyệt đối: Trong thời gian từ năm 2005 đến
năm 2014 là 787 vụ với 817 bị cáo bị đưa ra xét xử về tội danh này, tính
tròn số trung bình mỗi năm toàn thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm
15
78,7 vụ với 82 bị cáo phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ. Qua số liệu thấy tình hình tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ở Hải Phòng biến
động không đều.
ii. Mức độ tổng quan tương đối: Theo kết quả tính toán từ số liệu
thống kê ta có 4,0% về số vụ và 2,96% về số bị cáo phạm tội vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đã bị xét xử.
Như vậy, xét về tỷ lệ số vụ và số bị cáo phạm tội đã bị xét xử, mức độ
của tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng là không cao.
iii. Mức độ tổng quan so sánh
* So sánh trên bình diện quốc gia:
Thành phố Hải Phòng có 787 số vụ với 817 bị cáo so với 47.167
vụ án với 48.786 bị cáo/63 tỉnh thành được thống kê về tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (chiếm tỷ lệ 1,66%
số vụ và chiếm tỷ lệ 1,67% số bị cáo so với tổng số cả nước).
* So sánh với một số tỉnh, thành phố: trong số 3 tỉnh, thành phố
tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ ở một số địa danh có vị trí địa lý gần Hải Phòng như: Hải
Dương, Quảng Ninh. Qua nghiên cứu và phân tích thấy rằng tình hình
tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
trên địa bàn thành phố Hải Phòng so với các tỉnh, thành phố nói trên ở
mức độ cao hơn nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và có xu hướng giảm
dần.
2.2.1.2. Diễn biến (động thái) của tình hình tội vi phạm quy định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố
Hải Phòng.
16
Qua bảng số liệu thống kê lấy năm 2005 làm năm định gốc
(100%) cho thấy, các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ có xu hướng giảm dần: từ năm 2005 đến năm 2009
số vụ án giảm nhẹ và có xu hướng giảm sâu trong các năm từ năm 2010
đến năm 2013. Số vụ án được kiểm soát theo tỷ lệ giảm, số người phạm
tội cũng theo đó cũng giảm dần.
2.2.1.3. Cơ cấu của tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
i. Cơ cấu xét theo phương tiện tham gia giao thông
Tổng số 787 vụ án được đưa ra xét xử có 40% số vụ án do xe ô
tô, xe container, xe rơ mooc gây tai nạn, 60% do xe mô tô, xe gắn máy
gây tai nạn.
ii. Cơ cấu xét theo đơn vị hành chính cấp quận, huyện trên địa bàn
thành phố Hải Phòng
Tính riêng 6/14 quận, huyện thì các quận, huyện: Thuỷ Nguyên,
Hải An, An Dương, Kiến Thuỵ, Vĩnh Bảo, Ngô Quyền, An Lão là
những huyện đứng đầu với 543 bị cáo/817 tổng số bị cáo chiếm tỷ lệ
66,4%; các quận, huyện còn lại ở mức độ trung bình và thấp.
iii. Cơ cấu xét theo thời điểm phạm tội
Thời gian xảy ra tội phạm nhiều nhất là vào khoảng từ 18 giờ đến
24 giờ, từ 6 giờ đến 8 giờ, từ 11 giờ đến 12 giờ.
iv. Cơ cấu xét theo tháng xảy ra tai nạn giao thông
Các tháng 1, tháng 2, tháng 3, tháng 4, tháng 7, tháng 9 là những
tháng xảy ra tai nạn cao nhất trong năm và cũng là những tháng tình
hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ diễn ra phức tạp. Sở dĩ, các tháng (1, 2, 3, 4) nằm trong dịp tết âm
lịch; các (7, 9) là tháng học sinh tập trung khai giảng, tháng chuẩn bị kết
thúc năm học và thi đại học.
17
v. Cơ cấu xét theo mức độ hậu quả xảy ra: Trong 787 vụ án đã xét
xử về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ với số người chết là 826 người, đây là số đã được cơ quan Công an,
Viện kiểm sát, Tòa án giải quyết theo con đường tố tụng. Như vậy, còn
số người chết do tai nạn giao thông đường bộ không khởi tố hình sự
hoặc đã khởi tố nhưng không bắt được đối tượng gây án nằm trong con
số người chết là 933 người, tỷ lệ người chết trong trường hợp này chiếm
tỷ lệ cao nhất, tỷ lệ tội phạm ẩn cũng nằm trong số này.
vi. Cơ cấu xét theo độ tuổi của người phạm tội
Độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi, chiếm 65%, ở vào độ tuổi từ 30 đến 45
tuổi chiếm 23%, từ 45 tuổi trở lên chiếm 7% và dưới 18 tuổi chiếm 5%.
Như vậy, nhóm người từ 18 đến 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất và duy trì
đều trong 10 năm từ năm 2005 đến năm 2014.
vii. Cơ cấu xét theo giới tính của người phạm tội
Nam giới chiếm tuyệt đại đa số chiếm tỷ lệ 97%, trong khi người
phạm tội này là nữ giới chỉ chiếm tỷ lệ 3%.
viii. Cơ cấu xét theo nghề nghiệp, thành phần xã hội
Tổng số 817 bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ chỉ có 7 trường hợp tái phạm, 10
người phạm tội là lưu manh chuyên nghiệp; 15 người phạm tội là sinh
viên; 3 người phạm tội là cán bộ, công chức, viên chức, 1 người phạm
tội là Đảng viên, 3 người là cán bộ lãnh đạo cấp huyện trở lên, 2 người
là cán bộ cấp xã phường. Đối với những người có thành phần xã hội
khác còn lại chiếm 770 bị cáo chủ yếu là những người lao động tự do,
làm nghề lái xe...
ix. Cơ cấu theo nhóm đối tượng sử dụng rượu bia, các chất kích
thích
18
Lực lượng Cảnh sát giao thông tăng cường kiểm tra, xử lý người
điều khiển phương tiện cơ giới đường bộ vi phạm nồng độ cồn hoặc sử
dụng ma túy. Trong tổng số 817 bị cáo có 102 bị cáo sử dụng rượu bia,
gây tai nạn chiếm tỷ lệ 11%.
2.2.1.4. Tính chất của tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ
năm 2005 đến năm 2014.
Thứ nhất, tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng được kiểm
soát trong biên độ giao động giảm, nhưng về tính chất, mức độ nghiêm
trọng lại có chiều hướng gia tăng. Thứ hai, phương tiện phạm tội chủ
yếu là xe mô tô và đặc biệt trên địa bàn thành phố thì “hung thần xa lộ”
là xe container có tỷ lệ gây tai nạn cao và mức độ thảm khốc nhất. Thứ
ba, độ tuổi của người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển giao
thông đường bộ ở Hải Phòng từ 18 đến 30 chiếm 65% so với các lứa
tuổi khác. Thứ tư, thời gian xảy ra nhiều vụ tai nạn nhất vào khoảng từ
18 giờ đến 24 giờ, từ 6 giờ đến 8 giờ, từ 11 giờ đến 12 giờ. Thứ năm,
hậu quả mà tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ gây ra là rất nghiêm trọng. Tỷ lệ người chết do tai
nạn giao thông và do hành vi phạm tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ luôn ở mức cao, là nguyên nhân gây
tử vong lớn.
2.2.2. Phần ẩn của tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ
năm 2005 đến năm 2014.
2.2.2.1. Phần ẩn của tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng do
nguyên nhân chủ quan (tội phạm ẩn nhân tạo).
19
Một trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến ẩn của tình hình
tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
trên địa bàn thành phố Hải Phòng là sự phối kết hợp giữa Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc giải quyết các vụ án vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đôi khi còn chưa
tốt, chưa tạo ra sự đồng thuận trong quá trình giải quyết vụ án. Điều đó
làm tỷ lệ ẩn của tình hình tội phạm này còn rất cao.
2.2.2.2. Phần ẩn của tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng do
nguyên nhân khách quan (tội phạm ẩn tự nhiên).
*Tội phạm ẩn khách quan có lý do ẩn từ phía chủ thể của hành vi
phạm tội
Tỷ lệ tái phạm đối với tội phạm này thấp. Điều đó có nguyên
nhân từ yếu tố cấu thành của tội phạm. Là tội phạm được thực hiện do
lỗi vô ý (có thể là vô ý do cẩu thả hoặc vô ý do qúa tự tin) gây tai nạn
dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Tỷ lệ ẩn trong 0,84% người phạm tội lần
đầu rất khó xác định bởi lẽ khi hành vi phạm tội của họ xảy ra đã bị phát
hiện và xử lý, thì dù thời điểm trước họ có gây tai nạn dẫn đến hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng mà không bị phát hiện thì lần phạm tội này nếu
bản thân cá nhân không khai nhận thì cũng không thể xác định được.
*Tội phạm ẩn khách quan có lý do xuất phát từ phía bị hại
Khi vụ tai nạn xảy ra, do nhận thức là lỗi vô ý nên bị hại và
người gây tai nạn thường có thể thông cảm cho nhau và bị hại nhiều
trường hợp khi nhận bồi thường thoả đáng thì không tố giác tội phạm và
chấp nhận giải quyết theo con đường dân sự, không nhờ sự can thiệp của
cơ quan chức năng và mong muốn giữ kín sự kiện phạm tội. Nhận thức
chưa đầy đủ về mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và bị chi phối
bởi yếu tố kinh tế đã dẫn đến việc bị hại, gia đình bị hại từ chối phối hợp
20
với cơ quan hữu quan làm rõ tội phạm và lại chính là nguyên nhân gây
ẩn rất lớn đối với loại tội phạm này.
*Tội phạm ẩn thống kê
Đôi khi những vụ tai nạn giao thông lại chính là phần hiện của
một loại tội phạm khác vẫn còn ẩn ở phía sau, do đó khi các cơ quan tiến
hành tố tục điều tra, xét xử cần phải xem xét sâu sắc trên cơ sở đánh giá
kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi để có thể tìm ra
sự thực đang được ẩn giấu của vụ án tai nạn giao thông, tìm ra hung thủ
và mục đích thực sự của chúng. Rõ ràng có một số lượng đáng kể các tội
phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
rơi vào trạng thái ẩn thống kê. Tuy nhiên, trạng thái ẩn thống kê này có
khả năng gây ra những sai lệch không nhỏ
CHƯƠNG 3. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH
HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG
TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2014.
3.1. Các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống
Các yếu tố tiêu cực chủ quan làm phát sinh tình hình tội vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ:
- Những hạn chế, bất cập, thiếu sót, sai lầm trong xử lý vi phạm
giao thông đường bộ và tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
- Những hạn chế, bất cập, thiếu sót trong quản lý phương tiện,
đào tạo, cấp giấy phép lái xe trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
- Những hạn chế, bất cập, thiếu sót trong phân làn, phân luồng
giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
- Những hạn chế, bất cập, thiếu sót trong quản lý kinh doanh vận
tải trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
21
- Những bất cập, hạn chế, thiếu sót trong đăng kiểm xe ô tô trên
địa bàn thành phố Hải Phòng.
- Những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật về an toàn
giao thông đường bộ.
- Những hạn chế, bất cập trong việc quyết định hình phạt của Tòa
án.
- Các yếu tố thuộc môi trường tự nhiên - địa lý, xã hội của thành
phố Hải Phòng ảnh hưởng đến tình hình tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ.
3.2. Các yếu tố tiêu cực thuộc về chủ thể của tội phạm
i. Đặc điểm, dấu hiệu nhân chủng học – xã hội của người phạm
tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
* Đặc điểm “địa lý học”
So sánh các số liệu trong 02 tỉnh Hải Dương, Quảng Ninh với
thành phố với Hải Phòng. Tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng so
với các tỉnh, thành phố nói trên ở mức độ trung bình và trong tầm kiểm
soát và có xu hướng giảm dần. Qua số liệu trên ta thấy tính chất vùng,
miền đã ít nhiều ảnh hưởng tới hành vi tham gia giao thông tiêu cực của
người dân nơi đây. Cần nhấn mạnh rằng đặc điểm địa lý, văn hóa, kinh
tế - xã hội mang nét chung của người Hải Phòng chính là chỗ mà tinh
thần cố kết của người Hải Phòng dựa vào đó để vượt lên trên các tranh
chấp cá nhân và theo Gilles Raffi thì đó là "tinh thần Hải
Phòng". Những hệ lụy do hành vi vi phạm quy định về an toàn giao
thông gây ra ngoài nguyên nhân là yếu tố kinh tế thì yếu tố văn hóa, lối
sống cũng đã tác động mạnh mẽ tới thói quen tham gia giao thông cũng
như việc xử lý các tình huống giao thông của người dân ở đây.
* Đặc điểm về độ tuổi
22
Độ tuổi từ 18 đến 30 chiếm tỷ lệ cao nhất, mức độ này duy trì
đều trong 10 năm.
* Đặc điểm về giới tính
Trong tổng số 817 bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, có 729 người là nam giới
và 7 người là nữ giới.
* Đặc điểm về nghề nghiệp, thành phần xã hội
Trong tổng số 817 bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ chỉ có 7 trường hợp tái
phạm, 10 người phạm tội là lưu manh chuyên nghiệp; 15 người phạm tội
là sinh viên; 3 người phạm tội là cán bộ, công chức, viên chức, 1 người
phạm tội là Đảng viên, 3 người là cán bộ lãnh đạo cấp huyện trở lên, 2
người là cán bộ cấp xã phường.... Đối với những người có thành phần xã
hội khác còn lại chiếm 770 bị cáo chủ yếu là những người lao động tự
do, làm nghề lái xe...
ii. Đặc điểm tâm lý – đạo đức của những người phạm tội vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn
thành phố Hải Phòng
Để tạo ra tác phong tham gia giao thông tích cực mỗi con người
đều phải trải qua quá trình xã hội hóa, tức là quá trình cá nhân nhập nội
các khuôn mẫu, chuẩn mực của pháp luật về giao thông đường bộ và
biến chúng thành những động lực thức đẩy và chi phối sự suy nghĩ, hành
động của bản thân mình trong quá trình thực hiện tương tác giao thông.
Đứng trước những hành vi lệch chuẩn khi điều khiển phương tiện tham
gia giao thông của cá nhân, thì cộng đồng xã hội phải ra sức ngăn ngừa
và kiểm soát chúng nhằm tạo ra môi trường tham gia giao thông lành
mạnh, ổn định và phát triển.
23
CHƯƠNG 4. HỆ THỐNG CÁC BIỆN PHÁP TĂNG
CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH
VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG THỜI
GIAN TỚI
4.1. Dự báo tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng
trong thời gian tới.
- Dự báo trong những năm tới, các loại phương tiện phổ biến như
xe tô tô, xe mô tô, xe đạp điện sẽ gia tăng còn số lượng xe đạp sẽ giảm.
Tình trạng xe mô tô hết đăng kiểm nhưng chủ xe chưa tiến hành đăng
kiểm lại hoặc xe hết niên hạn sử dụng vẫn tiếp tục lưu hành. Từ những
nhận định trên đây, có thể dự báo trong những năm tới tình hình tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa
bàn thành phố Hải Phòng sẽ còn diễn biến phức tạp, số người chết và số
vụ giao thông có khả năng gia tăng. Số người bị khởi tố hình sự có độ
tuổi từ 18 đến 30 vẫn chiếm tỷ lệ cao, về giới tính số bị cáo nam vẫn
chiếm đa số.
4.2. Hệ thống các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình
tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian tới
4.2.1. Các biện pháp tăng cường công tác quản lý Nhà nước
nhằm hạn chế các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống
- Hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.
- Tăng cường chất lượng quản lý các phương tiện tham gia giao
thông và công tác đào tạo, cấp giấy phép lái xe.
- Nâng cao chất lượng hoạt động xử lý vi phạm giao thông và tội
vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
24
- Chuẩn bị tổ chức thực hiện các quy định pháp luật mới về an
toàn giao thông đường bộ.
4.2.2. Các biện pháp tăng cường công tác quản lý, giáo dục
nhằm hạn chế những tiêu cực thuộc về chủ thể của tội phạm
- Nâng cao ý thức tham gia giao thông đường bộ an toàn của
người dân.
- Công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn
giao thông đường bộ.
- Đưa văn hoá giao thông vào nếp sống của người dân.
C. KẾT LUẬN
Hải Phòng là thành phố cảng - công nghiệp và là trung tâm kinh
tế - khoa học kỹ thuật tổng hợp của Vùng Duyên hải Bắc Bộ, đứng thứ 3
trong số các thành phố lớn của Việt Nam. Số lượng và mật độ xe lưu
thông trên địa bàn thành phố rất lớn đặc biệt là xe container, xe có tải
trọng lớn, xe mô tô, xe ô tô... các vụ tai nạn do các loại phương tiện này
gây ra có xu hướng gia tăng. Tình hình tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải
Phòng (từ năm 2005 đến năm 2014) được kiểm soát trong biên độ giao
động giảm, nhưng về tính chất, mức độ nghiêm trọng lại có chiều hướng
gia tăng. Phương tiện phạm tội chủ yếu là xe mô tô và đặc biệt trên địa
bàn thành phố Hải Phòng xe container có tỷ lệ gây tai nạn cao và mức
độ thảm khốc nhất. Độ tuổi của người phạm tội vi phạm quy định về
điều khiển giao thông đường bộ ở Hải Phòng từ 18 đến 30 so với các lứa
tuổi khác. Tỷ lệ người chết do tai nạn giao thông nói chung và tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nói riêng
vẫn ở mức cao, là một trong mười nguyên nhân gây tử vong lớn.
Nguyên nhân và điều kiện của tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng,
25
trước hết nằm trong những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường xã hội mà
Nhà nước là chủ thể quản lý. Để có thể xây dựng được các giải pháp
phòng ngừa tình hình tội phạm, bên cạnh các điều kiện khác phải tiến
hành dự báo về tình hình tội phạm. Dựa vào quy luật vận động và biến
đổi của tình hình tội phạm có thể dự báo trong thời gian tới tình hình tội
vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ còn
diễn biến phức tạp. Từ nay đến năm 2018 trên địa bàn thành phố Hải
Phòng các vụ tai nạn giao thông gây thiệt hại nghiêm trọng về người và
tài sản có dấu hiệu tội phạm có xu hướng diễn biến phức tạp. Số người
bị khởi tố hình sự có độ tuổi 18 đến 30 chiếm tỷ lệ cao, về giới tính số bị
cáo nam vẫn chiếm đa số. Dự báo trong những năm tới, các loại phương
tiện phổ biến như xe ô tô, xe mô tô, xe đạp điện sẽ gia tăng còn số lượng
xe đạp sẽ giảm.
26
NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Lê Thị Thu Dung (2015), Tăng cường công tác quản lý, kiểm
định xe – Giải pháp giảm thiểu tai nạn giao thông, Tạp chí kiểm sát số
16/2015;
2. Lê Thị Thu Dung (2014), Tính phòng ngừa trong việc xử lý
hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ, Đặc san khoa học an ninh số 02, tr.71–77;
3. Lê Thị Thu Dung (/2015), Hoạt động tinh thần trong phân
tâm học vận dụng giải thích tâm thức của con người khi tham gia giao
thông, Đặc san khoa học an ninh số 03, tr.71 – 78.
4. Lê Thị Thu Dung – Trần Văn Thành (2013), Tính Không
trong Trung Quán Luận với việc tham gia giao thông ở Việt Nam hiện
nay, Tạp chí Nghiên cứu Ấn độ và châu Á số 9, tr.68 – 77;
5. Trần Văn Thành – Lê Thị Thu Dung (2013), Tính Không
trong Trung Quán Luận vận dụng vào việc tham gia giao thông ngày
nay, Tạp Chí Phật học số 6, tr. 20 – 24;
6. Nguyễn Đức Dũng – Lê Thị Thu Dung (2014), Giải thích cơ
chế của việc thực hiện hành vi vi phạm Luật giao thông đường bộ, Tạp
chí Nghiên cứu Ấn độ và châu Á số 5, tr.58 – 68.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_dau_tranh_phong_chong_tinh_hinh_toi_vi_pham.pdf