Việc áp dụng loại hình dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp/ bảo hiểm cây trồng, vật
nuôi tại Việt Nam đang ở mức độ thí điểm đòi hỏi hoàn thiện từ khung pháp lý
đến mô hình cụ thể với sự tham gia sâu rộng của tất cả các thành phần trong xã
hội từ người sản xuất, doanh nghiệp bảo hiểm đến chính quyển các cấp. Bảo hiểm
nông nghiệp là một chủ trương đúng đắn và thiết thực trong phát triển kinh tế xã
hội như xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội ở các địa phương, nhất là vùng nông
thôn. Trước những thực tế vừa nêu trên, việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở
Việt Nam là cần thiết, và nên hướng vào các tác nhân trong chuỗi cung ứng sản
phẩm, từ người nông dân sản xuất, đến thương lái/ thu gom, đến các cơ sở/ doanh
nghiệp chế biến, và người tiêu dùng.
28 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 1879 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi - Kinh nghiệm của một số nước và bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG
VÀ NGOÀI NƯỚC
1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Cho đến nay, trên thế giới nói chung và các nước trong khu vực nói riêng,
các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các nhà nghiên cứu và những người quan
tâm đến lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi đã có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này. Trong hàng chục năm nay, các tổ chức quốc tế, đặc
biệt là Ngân hàng Thế giới và Tổ chức lương nông của Liên Hợp Quốc đã có
rất nhiều đánh giá nghiên cứu, tổ chức các dự án tài trợ cho bảo hiểm cây
trồng, vật nuôi ở nhiều nước kém/đang phát triển.
1.1.1. Nhóm các nghiên cứu về vai trò và sự cần thiết của bảo hiểm cây
trồng, vật nuôi, một số vấn đề cụ thể của loại bảo hiểm này
- Công trình nghiên cứu của Olivier Mahul (2012), Agricultural Insurance
for Developing Countries: The Role of Governments, WB, là một nghiên cứu
sâu, khẳng định vai trò của bảo hiểm nông nghiệp đối với tăng trưởng và giảm
đói nghèo.
R.A.J. Roberts, 2005, trong tác phẩm Insurance of crops in developing
countries do FAO xuất bản, đã cho rằng, quản lý rủi ro có tầm quan trọng đặc
biệt trong các quyết định đầu tư và tài chính của nông dân ở các nước đang
phát triển và các nền kinh tế quá độ.
Trong công trình Crop and Agricultural Insurance do FAO công bố năm
2007, các tác giả cho rằng những hiện tượng thời tiết như: Hạn hán, mưa to,
bão và gió lốc sẽ gây ra những thiệt hại nặng nề cho người nông dân.
Myong Goo KANG, 2007, trong “Innovative agricultural insurance
products and schemes’’ cho rằng, người nông dân luôn phải đối mặt với các
nguy cơ khác nhau như biến động giá cả, thời tiết bất lợi, sâu bệnh, tác động
đến thu nhập và phúc lợi của họ và về lâu dài sẽ làm suy giảm đầu tư của họ
vào nông nghiệp.
1.1.2. Nhóm các nghiên cứu về cơ chế, chính sách của nhà nước đối với
bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
World Bank Insurance for the Poor Program, June 2008: “Public
Intervention in Agricultural Insurance” (Sự can thiệp của Nhà nước vào bảo
hiểm nông nghiệp).
“Farm Income Insurance Scheme withdrawn”, trong The Hindu Business
Line, ngày 11/6/2004 và bài viết National Agricultural Insurance Scheme
5
(NAIS) của Rashtriya Krishi Bima Yojana (RKBY) chuyên bàn về
Agricultural insurance in India (Bảo hiểm nông nghiệp ở Ấn Độ) cho rằng
nông nghiệp Ấn Độ rất dễ tổn thương trước các rủi ro như hạn hán và lụt lội.
Nataliya Gerasyme (2008), “Crop insurance in Ukraine: Challenges and
perspectives” đã nghiên cứu hệ thống bảo hiểm nông nghiệp ở Ukraine, so
sánh nó với hệ thống bảo hiểm nông nghiệp của một số nước EU.
The World Bank, June 2007: “China: Innovation in Agricultural
Insurance” (Trung Quốc: Sự cải tiến trong bảo hiểm nông nghiệp). Trong
công trình này, các tác giả có bàn đến những đổi mới của chính phủ Trung
Quốc trong việc tạo điều kiện để phát triển và duy trì sự tồn tại của thị trường
bảo hiểm nông nghiệp [50].
Bên cạnh đó còn một số nghiên cứu khác như: nghiên cứu của Asia
Development Bank (2005) về phát triển bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam,
nghiên cứu của Skees (2005) về phản ứng sáng tạo của Chính phủ trong việc
chia sẻ rủi ro trong bảo hiểm nông nghiệp tại các nước đang phát triển, hay
nghiên cứu của Antón và Kimura đã tập trung nghiên cứu, phân tích rủi ro,
chính sách quản lý và đánh giá rủi ro trong nông nghiệp, thực tiễn triển khai
quản lý rủi ro.
1.1.3. Nhóm các nghiên cứu về hình thức, mô hình triển khai dịch vụ bảo
hiểm cây trồng, vật nuôi
Nghiên cứu của tác giả Münchener Rückversicherungs-Gesellschaft
(2011), “Crop insurance for the wealthy? Why revenue insurance comes at a
price”..
Báo cáo Dự án “Quản lý rủi ro và kế hoạch bảo hiểm trong nông nghiệp
tại EU - Risk management and agricultural insurance scheme in Europe” của
The Institute for the Protection and Security of Citizen (2009) được giới học
giả, các nhà hoạch định chính sách EU đánh giá rất cao khi đã phân tích một
cách toàn diện hệ thống bảo hiểm nông nghiệp EU, mặt ưu và nhược điểm của
hệ thống quản lý rủi ro của EU.
Nghiên cứu của tác giả E. Vávrová (2005), “The Czech agricultural
insurance market and a prediction of its development in the context of the
European Union”. Bài viết phân tích những phương thức có thể giúp giảm
những nguy cơ rủi ro mà ngành nông nghiệp có khả năng gặp phải, mô tả
những phương thức tiếp cận cơ bản nhằm giảm thiểu những rủi ro gắn với
hoạt động nông nghiệp.
Khi nghiên cứu về cơ chế hỗ trợ rủi ro trong nông nghiệp của Pháp,
Philippe Boyer (2002), The French System of Protection against the Risks of
6
Farm Production and its recent evolution, đã phân tích cơ chế bồi thường của
nhà nước cho người nông dân, đánh giá những hạn chế bảo hiểm nông nghiệp
đối với các trang trại và xu hướng phát triển quản lý rủi ro trong nông nghiệp
ở Pháp.
Nhiều tác giả nước ngoài cũng đã có nghiên cứu kinh nghiệm triển khai
bảo hiểm nông nghiệp ở các nước đang phát triển, trong đó đáng lưu ý nghiên
cứu của Wenner (2005). Bài viết phân tích trên cơ sở lý luận và thực tiễn
để giải thích vì sao bảo hiểm nông nghiệp khó thực hiện một cách hiệu
quả; đồng thời phân tích tổng quan về thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở
một số nước Mỹ Latinh và Caribbean, so sánh với một số nước phát triển
và từ đó đưa ra những kinh nghiệm thúc đẩy và phát triển thị trường sản
phẩm bảo hiểm nông nghiệp.
1.2. Các nghiên cứu trong nước
1.2.1.Nhóm các nghiên cứu về vai trò và sự cần thiết của bảo hiểm cây
trồng, vật nuôi, một số vấn đề cụ thể của loại bảo hiểm này
- Tạp chí Cộng sản điện tử, số 15 năm 2010 có bài “Về bảo hiểm cây trồng,
vật nuôi cho nông dân”, cho rằng, bảo hiểm nông nghiệp là hết sức cần thiết ở
Việt Nam, bởi là một nước nông nghiệp, trên 70% số hộ gia đình sống bằng
nghề nông, sản xuất luôn bị tiềm ẩn nhiều nguy cơ do thiên tai, dịch bệnh.
- Thực trạng Bảo hiểm nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam, Đề tài
NCKH, Đại học KTTQD, 2013, cho rằng, về cơ bản bảo hiểm nông nghiệp
thực hiện những chức năng sau: Đem lại lợi ích cho xã hội. Nhờ bảo hiểm
nông nghiệp hỗ trợ làm giảm những rủi ro liên quan đến sản xuất mà thu nhập
của người nông dân được đảm bảo ổn định..
- Trần Vĩnh Đức “Phát triển thị trường bảo hiểm nước ta trong hội nhập
kinh tế quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 02-2007. Trong bài viết này,
tác giả chỉ ra những thời cơ và thách thức cùng một số giải pháp đặt ra cho
ngành bảo hiểm nước ta khi nền kinh tế Việt Nam mở cửa và hội nhập sâu vào
nền kinh tế thế giới và khu vực, sau khi chỉ ra những thành tựu và nhất là
những yếu kém của ngành bảo hiểm Việt Nam.
- Tài liệu tham khảo chính sách số 7 (30/10/2009) “Tầm nhìn chính sách
nông nghiệp”, do Viện Chính sách và Chiến lược Nông Nghiệp &PTNT thực
hiện. Công trình này cho rằng, trong điều kiện thị trường dịch vụ bảo hiểm
nông nghiệp Việt Nam đang rất khó phát triển, Chính phủ cần có những vai
trò chủ yếu sau để thúc đẩy bảo hiểm Nông nghiệp ở Việt Nam.
7
Các công trình nghiên cứu liên quan đến bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam
còn khá ít, nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của nông nghiệp và bảo hiểm
nông nghiệp.
1.2.2. Nhóm các nghiên cứu về bảo hiểm cây trồng, vật nuôi ở một số nước
- Lưu Nguyên Khánh “Chính sách trợ cấp tài chính đối với bảo hiểm nông
nghiệp ở Trung Quốc”, Tạp chí Tài chính - Bảo hiểm, số 1/2009.
Bài viết “Những vấn đề thách thức trong triển khai bảo hiểm nông nghiệp
ở Châu Âu”, tác giả Đặng Minh Đức, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 7/2013
Theo tác giả Nguyễn Mậu Dũng trong bài “Phát triển thị trường bảo hiểm
nông nghiệp của Trung Quốc” trên Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số
7/2011.
Cuốn sách “Chính sách cạnh tranh của Liên minh Châu Âu trong bối cảnh
phát triển mới” của tác giả Đặng Minh Đức đã phân tích lý thuyết và thực tiễn
về chính sách cạnh tranh của Liên minh Châu Âu.
1.2.3. Nhóm các nghiên cứu về vấn đề bảo hiểm cây trồng, vật nuôi ở Việt Nam
- Hoàng Xuân, trong Chuyên đề Bảo hiểm Gập ghềnh bảo hiểm nông
nghiệp Việt Nam, cần nhiều giải pháp để nông dân tiếp cận với bảo hiểm trên
Thời báo Kinh tế Việt Nam,.
Đào Văn Hùng, trong bài “Phát triển bảo hiểm nông nghiệp dựa trên
phương pháp chỉ số ở Việt Nam thông qua kết nối với các tổ chức tài chính”,
Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 102 năm 2005; Văn Tạo, “Cần có mô hình tổ
chức riêng cho bảo hiểm nông nghiệp”, Tạp chí Thương mại số 45 năm 2005;
“Cần có biện pháp riêng cho bảo hiểm nông nghiệp”, Tạp chí Thương mại, số
9 năm 2006
Đề tài “Thị trường Bảo hiểm nông nghiệp và một số giải pháp phát triển
thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam”, 2005, do PGS. TS. Nguyễn
Như Tiến chủ trì
Ngoài những công trình, bài báo khoa học được đề cập ở trên, hiện nay trên
một số báo và mạng internet cũng có khá nhiều bài viết về bảo hiểm nông
nghiệp ở Việt Nam và một số kinh nghiệm của các nước, tuy nhiên chưa có
công trình nào nghiên cứu sâu về cách thức triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở
một số nước châu Âu và tác động của bảo hiểm nông nghiệp đến phát triển
kinh tế - xã hội của những nước này, mà chủ yếu nói về mô hình bảo hiểm của
các nước trên thế giới..
Qua nghiên cứu tổng quan chính sách và tình hình nghiên cứu trong và
ngoài nước về vấn đề liên quan đến dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp/ bảo hiểm
cây trồng, vật nuôi có thể rút ra một số các kết luận như sau:
8
Những nghiên cứu về vai trò và sự cần thiết phải có bảo hiểm cây trồng,
vật nuôi, tất cả các công trình nghiên cứu nước ngoài và trong nước đều khẳng
định nông nghiệp là lĩnh vực rủi ro khi phân tích và đề cập đến các khía cạnh
khác nhau về dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp/ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi ở
mỗi nước, phân tích khung pháp lý và các hoạt động thực thi, giám sát dịch vụ
này. Các nghiên cứu đã chỉ ra vai trò quan trọng của bảo hiểm nông nghiệp/
bảo hiểm cây trồng, vật nuôi trong phát triển kinh tế nông nghiệp và đưa ra
được các bức tranh toàn cảnh về các mô hình bảo hiểm nông nghiệp các nước.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, đến nay chưa có công trình nào có sự gắn
kết hoặc đề ra những gợi ý về mặt chính sách cho chính phủ Việt Nam trên
con đường xây dựng và phát triển bảo hiểm nông nghiệp của Việt Nam nói
chung và dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi nói riêng.
Nghiên cứu ở nước ngoài về bảo hiểm vật nuôi, cây trồng ở một số nước
cho thấy rất cụ thể từng chính sách của chính phủ dành cho công tác này.
Nhưng ở Việt Nam, những nghiên cứu điển hình về lĩnh vực này đang thiếu
vắng hoặc được chỉ được điểm qua.
Về các công trình nghiên cứu trong nước: cho đến nay ở Việt Nam đã có
nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về bảo hiểm nông nghiệp/bảo hiểm cây
trồng, vật nuôi nhưng nghiên cứu về lý luận bảo hiểm cây trồng, vật nuôi còn
khá tản mạn, chủ yếu là các nghiên cứu thí điểm và được đề cập dưới dạng tài
liệu tập huấn hoặc nghiên cứu thông qua các bài báo, chưa được hệ thống hóa
thành lý thuyết về bảo hiểm cây trồng, vật nuôi. Phân loại hình thức bảo hiểm
nông nghiệp, phân loại rủi ro, cơ chế quản lý, vai trò của Nhà nước và của
doanh nghiệp trong nghiệp vụ bảo hiểm, cũng chưa đưa ra được các đề xuất về
phương hướng và giải pháp nhằm tổ chức và phát triển dịch vụ bảo hiểm cây
trồng, vật nuôi ở Việt Nam.
Có thể thấy rõ, các nghiên cứu bảo hiểm nông nghiệp ở các nước đã đề cập
đến các khía cạnh khác nhau, mỗi quốc gia có những đặc thù riêng, khẳng
định nhà nước không chỉ thực hiện chức năng quản lý mà còn trực tiếp thiết
lập ra các tổ chức hoạt động bảo hiểm nhằm định hướng cũng như giám sát một
cách chặt chẽ các hoạt động bảo hiểm nông nghiệp. Những kinh nghiệm trong
thực tiễn triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở một số nước trên thế giới sẽ là những
chắt lọc quý giá trong triển khai bảo hiểm nông nghiệp lâu dài và bền vững ở Việt
Nam, góp phần thực hiện mục tiêu hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
9
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ BẢO HIỂM CÂY TRỒNG, VẬT NUÔI
2.1. Khái niệm và sự cần thiết của bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
2.1.1. Một số khái niệm liên quan đến bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
2.1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm
Khái niệm bảo hiểm được hiểu như sau: “Bảo hiểm là một sự cam kết bồi
thường của người bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo
hiểm do một rủi ro đã thoả thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm
đã thuê bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí
bảo hiểm”.
2.1.1.2. Bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
- Dịch vụ bảo hiểm cây trồng: là loại dịch vụ bảo hiểm đối với các loại cây
trồng như: cây trồng hàng năm (bảo hiểm theo sản lượng thu hoạch hàng năm,
với thời gian bảo hiểm tính từ lúc gieo trồng đến khi thu hoạch xong sản
phẩm); cây trồng lâu năm (bảo hiểm giá trị các loại cây đó hoặc sản lượng
từng năm của mỗi loại cây, với thời gian bảo hiểm có thể kéo dài một năm
nhưng sau đó được tái bảo hiểm qua các năm); và bảo hiểm vườn ươm (bảo
hiểm giá trị cây trồng trong suốt thời gian ươm giống đến khi chuyển đi trồng
nơi khác).
- Dịch vụ bảo hiểm vật nuôi: là loại bảo hiểm đối với các loài vật nuôi như
ngựa, bò, lợn, cừu, dê, chó và một số động vật hoang dã khác. Loại bảo hiểm
này chiếm một phần tương đối nhỏ của thị trường bảo hiểm thế giới..
2.1.2. Sự cần thiết của việc phát triển dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
2.1.2.1. Triển khai dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuối để đối phó với
những rủi ro trong sản xuất
Trước nguy cơ về rủi ro thiên tai và rủi ro dịch bệnh trong trồng trọt và
chăn nuôi, dịch vụ bảo hiểm cần phải được triển khai:
a) Rủi ro thiên tai: Các loại thiên tai gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông
nghiệp cần được triển khai bảo hiểm như: rủi ro do bão, lụt, nắng nóng, khô
hạn kéo dài, sương muối, rét đậm rét hại.
b) Rủi ro dịch bệnh: Các loại dịch bệnh gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông
nghiệp cần được triển khai bảo hiểm là các dịch bệnh trong chăn nuôi gia súc,
gia cầm và thủy sản và cây trồng..
2.1.2.2. Triển khai dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi trước thực trạng
của biến đổi khí hậu
10
Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại.
Biến đổi khí hậu đã và đang tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và
môi trường trên phạm vi toàn thế giới, trong đó có sản xuất nông nghiệp mà
chủ yếu là cây trồng, vật nuôi.
Tác động của biến đổi khí hậu đối với cây trồng: Những thay đổi về nhiệt
độ, lượng carbon dioxide (CO2), và tần số, cường độ của thời tiết khắc cực
đoan có thể có tác động đáng kể đến năng suất cây trồng. Thời tiết cực đoan,
đặc biệt là lũ lụt và hạn hán có thể gây hại cho cây trồng, giảm sản lượng.
Tác động của biến đổi khí hậu đến Chăn nuôi: Biến đổi khí hậu có thể ảnh
hưởng trực tiếp và gián tiếp đến động vật. Sóng nhiệt, được dự kiến sẽ tăng
dưới sự biến đổi khí hậu, có thể đe dọa trực tiếp chăn nuôi. Theo thời gian,
ứng suất nhiệt có thể tăng nguy cơ bị bệnh, làm giảm khả năng sinh sản và
giảm sản xuất sữa..
Tác động biến đổi khí hậu đến Thuỷ sản: Biến đổi khí hậu có thể làm trầm
trọng thêm hoạt động thuỷ sản gây áp lực, bao gồm cả đánh bắt quá mức và ô
nhiễm nguồn nước, vv. Một số bệnh ảnh hưởng đến đời sống thủy sinh có thể
trở nên phổ biến hơn trong nước ấm..
2.2. Vai trò, đặc điểm và các loại dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
2.2.1. Vai trò của dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và biến đổi khí hậu hiện nay, việc
hình thành và phát triển dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp nói chung, dịch vụ bảo
hiểm cây trồng, vật nuôi nói riêng là hết sức quan trọng và cần thiết.
Thứ nhất, trong bối cảnh của biến đổi khí hậu toàn cầu nên thiên tai diễn
biến rất phức tạp, khó lường, hậu quả thiên tai ngày càng có xu hướng nặng nề
hơn..
Thứ hai, dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi giúp khôi phục và duy trì
năng lực tài chính ổn định, giảm bớt các nỗi lo âu về tinh thần của các tổ chức,
cá nhân tham gia bảo hiểm, thông qua hoạt động chi trả bồi thường.
Thứ ba, dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi có vai trò bổ sung cho các
chương trình bảo đảm xã hội do Nhà nước thực hiện, nhờ đó làm giảm gánh
nặng ngân sách nhà nước và nâng cao hiệu quả phân bổ các nguồn lực xã hội.
Thứ tư, dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi có tác dụng thúc đẩy các hoạt
động thương mại, sản xuất kinh doanh vì người sản xuất nông nghiệp có thể
yên tâm rằng đứng sau họ đã có sự bảo vệ về tài chính của các Công ty bảo
hiểm thông qua việc họ tham gia vào dịch vụ này.
Thứ năm, dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi tạo ra kênh huy động vốn
tiết kiệm quan trọng cho đầu tư phát triển, thúc đẩy thị trường vốn phát triển.
11
Thư sáu, dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi là công cụ hữu hiệu để quản
lý rủi ro có hiệu quả thông qua việc định giá, chuyển giao rủi ro, đóng góp quỹ
chi trả cho các tổn thất và giảm bớt thiệt hại;
2.2.2. Đặc điểm của dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
Dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi có những đặc điểm khác biệt với các
dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ khác:
- Đối tượng sản xuất nông nghiệp là các loại sinh vật (cây trồng, vật nuôi)
được bố trí sản xuất trên địa bàn rộng lớn và đa dạng sản phẩm nên rất khó
quản lý rủi ro, đặc biệt là rủi ro thiên tai.
- Nông nghiệp là ngành đa rủi ro, đôi khi có những rủi ro như thiên tai
nghiêm trọng, dịch bệnh xẩy ra trên diện rộng.
- Chủ thể sản xuất nông nghiệp tuy khá đa dạng nhưng phổ biến vẫn là các
hộ nông dân với qui mô sản xuất nhỏ, sản xuất đa canh, tiềm lực đầu tư có hạn
nên khó có thể tham gia tất cả các loại cây trồng, vật nuôi mà họ sản xuất.
- Khó kiểm soát được tình trạng trục lợi bảo hiểm do hoạt động sản xuất
trồng trọt và chăn nuôi được bố trí trên địa bàn rộng lớn.
2.2.3. Phân loại dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
2.2.3.1. Căn cứ vào tính chất của bảo hiểm
Trên thế giới hiện nay đang tồn tại 2 loại hình dịch vụ bảo hiểm cây trồng,
vật nuôi bao gồm: Bảo hiểm truyền thống và bảo hiểm phi truyền thống (bảo
hiểm chỉ số).
a) Bảo hiểm truyền thống
b) Bảo hiểm chỉ số (bảo hiểm phi truyền thống)
2.2.3.2. Căn cứ vào tính thương mại của bảo hiểm
a) Bảo hiểm tương hỗ.
b) Bảo hiểm thương.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển dịch vụ bảo hiểm cây trồng,
vật nuôi
2.3.1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Trong thực tiễn sản xuất nông nghiệp người sản xuất (trồng trọt và chăn
nuôi) thường phải đối mặt với nhiều rủi ro xuất phát từ những yếu tố khách
quan cũng như chủ quan. Đặc điểm này của sản xuất nông nghiệp ảnh hưởng
không nhỏ đến việc phát triển dịch vụ bảo hiểm cây trồng và vật nuôi.
2.3.1.1.Thiên tai
2.3.1.2. Dịch bệnh
12
2.3.2. Quan điểm và chính sách của nhà nước đối với việc triển khai dịch vụ
bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
Đối với bất kỳ một hoạt động kinh tế nào, khi được Nhà nước quan tâm và
có chính sách hỗ trợ, nó sẽ có điều kiện phát triển.
* Khung pháp lý của dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
Một khung pháp lý chặt chẽ, hoàn thiện nhưng thông thoáng sẽ tạo điều
kiện thuận lợi về mặt pháp lý cho các doanh nghiệp bảo hiểm và các chủ thể
sản xuất cây trồng, vật nuôi tham gia vào dịch vụ bảo hiểm này.
* Các chính sách của Nhà nước: Chính sách của Nhà nước có thể kìm hãm
hoặc thúc đẩy phát triển dịch vụ bảo hiểm cây trồng và vật nuôi.
2.3.3. Nhận thức, khả năng tài chính và quy mô sản xuất của người sản
xuất nông nghiệp
Chỉ khi nào người nông dân nhận thức được sự cần thiết của việc bảo hiểm
cây trồng, vật nuôi chính là sự giảm thiểu những thiệt hại cho họ khi gặp phải
những rủi ro lớn, giúp họ sớm vực dậy, tái sản xuất thì họ mới mặn mà với
việc tham gia bảo hiểm..
2.3.4. Mục tiêu, chiến lược của các doanh nghiệp bảo hiểm
Các doanh nghiệp bảo hiểm là những nhà kinh doanh hoạt động vì lợi
nhuận. để có lợi nhuận, họ phải quản lý được rủi ro, nhưng đối với lĩnh vực
nông nghiệp điều này rất khó vì cây trồng, vật nuôi ngoài việc bị tác động bởi
thời tiết, kết quả đạt được còn phụ thuộc nhiều vào cách thức, quy trình nuôi
trồng của người nông dân.
2.4. Cơ chế chính sách và mô hình dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
2.4.1. Cơ chế chính sách
Ở Việt Nam, chính sách về bảo hiểm nông nghiệp nói chung, bảo hiểm cây
trồng, vật nuôi nói riêng được hiểu là một hệ thống các chủ trương của một
quốc gia bao gồm Luật và các văn bản dưới Luật cũng như hệ thống nghị
định, quyết định, thông tư, được ban hành từ các cơ quan lập pháp và hành
pháp nhằm phát triển dịch vụ này. Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm nông
nghiệp nông nghiệp nói chung, bảo hiểm cây trồng, vật nuôi nói riêng là vấn
đề còn mới mẻ và non yếu nên rất cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ
từ phía Nhà nước để địch vụ này được phát triển ổn định.
2.4.2. Các mô hình dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
(1) Mô hình Nhà nước can thiệp hoàn toàn
Theo mô hình này, Nhà nước thiết lập một công ty bảo hiểm nông nghiệp
độc quyền trực tiếp kinh doanh bảo hiểm, cung cấp trợ cấp lớn đối với bảo
hiểm cây trồng và chăn nuôi, hoặc đóng vai trò nhà tái bảo hiểm.
13
(2 ) Mô hình tư nhân hoàn toàn
Thị trường bảo hiểm nông nghiệp hoàn toàn dựa vào thị trường và không
có bất cứ sự hỗ trợ nào của Chính phủ hoặc hỗ trợ thấp là đặc trưng của mô
hình này. Bên cạnh đó, một số công ty bảo hiểm khác nhau có thể thương mại
hóa các loại sản phẩm nông nghiệp khác nhau .
(3) Mô hình hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân
Đối với các nhà sản xuất quy mô nhỏ, chi phí quản lý và chi phí giao dịch
khá cao nên mức phí bảo hiểm thường vượt quá khả năng chi trả bảo hiểm của
họ, sự hỗ trợ của khu vực công chính là biện pháp để phát triển và mở rộng
quy mô bảo hiểm nông nghiệp quốc gia.
14
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI DỊCH VỤ BẢO HIỂM
CÂY TRỒNG, VẬT NUÔI Ở MỘT SỐ NƯỚC
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
3.1. Thực trạng dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi của một số nước
trên thế giới
3.1.1. Dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi của Mỹ
3.1.1.1. Về cơ chế, chính sách
Năm 1996, Chính phủ Mỹ đã thành lập Cục quản lý rủi ro (Risk
Management Agency- RMA) chịu sự giám sát của Bộ Nông nghiệp Mỹ và
Tổng Công ty bảo hiểm mùa màng liên bang (Federal Crop Insurance
Corporation-FCIC) là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước và chịu sự quản lý
của RMA.
Với hoạt động tái bảo hiểm, các công ty bảo hiểm tư nhân sẽ được FCIC hỗ
trợ các chi phí quản lý, chi phí hoạt động và đánh giá tổn thất. Đồng thời, các
công ty có thể tái bảo hiểm một phần trách nhiệm của mình cho FCIC hoặc
nhượng tái cho các công ty bảo hiểm tư nhân khác trên thị trường.
3.1.1.2. Về mô hình triển khai
Ở Mỹ hiện vẫn chủ yếu duy trì hệ thống bảo hiểm tư nhân kết hợp với các
khoản trợ cấp và các chương trình tái bảo hiểm công (đây là dạng mô hình bảo
hiểm kết hợp giữa nhà nước và tư nhân.
3.1.1.3. Về các hình thức bảo hiểm
a) Chương trình Bảo hiểm mùa màng đa rủi ro
Chương trình Bảo hiểm mùa màng đa rủi ro (Multi-Peril Crop Insurance –
MPCI ) là chương trình kết hợp giữa bảo hiểm mùa màng với chương trình trợ
cấp thiên tai:
• Dịch vụ bảo hiểm rủi ro thảm họa
• Dịch vụ bảo hiểm toàn phần
• Dịch vụ bảo hiểm rủi ro nhóm
b) Dịch vụ bảo hiểm doanh thu
Dịch vụ bảo hiểm doanh thu dựa trên hai yếu tố cơ bản là sản lượng thu
hoạch và giá bán sản phẩm. Nếu doanh thu thực tế thấp hơn doanh thu được
bảo hiểm, nông dân sẽ được bồi thường.
3.1.2. Dịch vụ bảo hiểm cây trồng và vật nuôi của Nhật Bản
3.1.2.1. Về cơ chế, chính sách
Hiện nay, chính sách Bảo hiểm nông nghiệp Nhật Bản được xem như là
trọng tâm của các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ cho các thiệt hại của hàng
nông sản do thiên tai gây ra.
15
3.1.1.2. Về mô hình triển khai
Dịch vụ BHNN ở Nhật Bản được xây dựng trên cơ sở hoạt động mang tính
tập thể của nông dân ở địa phương để thiết lập các quỹ dự phòng chung bằng
việc tích luỹ tiền đóng bảo hiểm. Hệ thống dịch vụ bảo hiểm này được cấu
trúc 3 cấp: cấp nhà nước, cấp quận và cấp làng xã. Cơ sở cho cấu trúc này là:
các rủi ro có thể xảy ra trên phạm vi cả nước do thiên tai thường gây ra thiệt
hại trải dài trên một vùng rộng lớn.
3.1.2.3. Về các hình thức bảo hiểm
Nhật Bản hiện đã và đang triển khai dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
quy mô toàn quốc với sự hỗ trợ mạnh từ Chính phủ về cả chi phí bảo hiểm và
chi phí quản lý. Dịch vụ bảo hiểm này thực hiện bảo hiểm toàn bộ trang trại
cho hầu hết các loại cây trồng và vật nuôi, trừ rau, hoa và gia cầm.
3.1.3. Dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi của Tây Ban Nha
3.1.3.1. Về cơ chế, chính sách
Các chính sách cơ bản điều tiết hoạt động hệ thống dịch vụ bảo hiểm nông
nghiệp nói chung, dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi Tây Ban Nha nói riêng
hầu như được thiết kế dưới dạng đa hiểm họa, bao gồm:
- Luật 87/1978, ngày 28 tháng 12 năm 1987 về bảo hiểm nông nghiệp liên
kết công tư.
- Nghị định Hoàng gia 2329/1979 phê duyệt Quy chế áp dụng luật BHNN.
- Kế hoạch cho BHNN liên kết hàng năm được Chính phủ thông qua sau
khi được phê duyệt bởi Bộ Nông nghiệp.
3.1.1.2. Về mô hình triển khai
Dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp của Tây Ban Nha được thực hiện bởi
Agroseguro - đó là tập hợp các công ty bảo hiểm tư nhân hoạt động trong lĩnh
vực bảo hiểm nông nghiệp theo cơ chế chia sẻ rủi ro của bảo hiểm tương hỗ -
dưới sự bảo trợ của cơ quan bảo hiểm nông nghiệp và cơ quan bồi thường bảo
hiểm quốc gia. Năm 2012 Agroseguro có 27 công ty BHNN tư nhân và cơ quan
tái bảo hiểm quốc gia, Consorcio de Compensación de Seguros, CCS
3.1.1.3. Về các hình thức bảo hiểm
Dịch vụ bảo hiểm của Agroseguro chủ yếu là cung cấp các hợp đồng bảo
hiểm mọi hiểm họa cho cây trồng, vật nuôi, nuôi trồng thủy sản, theo đó mọi
rủi ro đều được tập trung về Agroseguro.
Dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi ở Tây Ban Nha là tự nguyện. Tỷ lệ
thâm nhập thị trường bảo hiểm cây trồng là khác nhau theo khu vực và theo
từng loại cây trồng.
16
3.1.4. Dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi ở Philippines
3.1.4.1. Về cơ chế, chính sách
Chính sách bảo hiểm chính của PCIC là bảo hiểm cây trồng đa nguy hiểm
lúa và ngô; hai loại sản phẩm này tương ứng chiếm khoảng 75% và 16% tổng
thu phí bảo hiểm của PCIC. Dịch vụ bao gồm cả những thiệt hại do thiên tai
và sâu bệnh.
3.1.4.2. Về mô hình triển khai
Dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi ở Philippines là một cơ chế quản lý
rủi ro được thiết kế để xoa dịu các rủi ro trong nông nghiệp và làm giảm các
hậu quả của các thảm họa thiên nhiên gây ra tổn thất, đặc biệt cho những hộ
nông dân dễ bị tổn thương nhất có khả năng chống chịu tốt hơn Dịch vụ bảo
hiểm này được thực hiện bởi Tập đoàn Bảo hiểm Nông nghiệp (PCIC, hoạt
động như một công ty kinh doanh và không nhận ngân sách từ chính phủ cho
các hoạt động hành chính của nó. Trước năm 2009, tập đoàn PCIC là các công
ty nhà nước về bảo hiểm cây trồng.
3.1.4.3. Về các hình thức bảo hiểm
Dịch vụ bảo hiểm cây trồng ở Philippines chủ yếu được triển khai trên cây
lúa, cây ngô và các cây trồng thương mại có giá trị cao như cà chua, khoai tây,
tỏi. Các cây lấy củ khác cũng là đối tượng được tham gia dịch vụ bảo hiểm
hạn chế.
3.1.5. Dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi ở Trung Quốc
3.1.5.1. Về cơ chế, chính sách
Cùng với các chính sách tạo điều kiện cho thị trường bảo hiểm nông
nghiệp phát triển thì Nhà nước và chính quyền cấp tỉnh ở Trung Quốc đã trợ
cấp tiền mua bảo hiểm nông nghiệp cho các hộ nông dân ở Trung Quốc và coi
đó như một biện pháp khuyến khích để nông dân yên tâm đầu tư mua sắm các
yếu tố đầu vào có chất lượng cao và áp dụng công nghệ cao trong sản xuất
nông nghiệp..Bên cạnh đó, Nhà nước còn hỗ trợ tài chính cho sản xuất nông
nghiệp, coi bảo hiểm nông nghiệp là một phần của chương trình xây dựng
nông thôn mới XHCN.
3.1.5.2. Về mô hình triển khai
Ngoài hai công ty bảo hiểm hàng đầu của Trung Quốc tham gia cung cấp
dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp là Công ty Bảo hiểm Nhân dân Trung Hoa và
Công ty Bảo hiểm Tài sản Liên hợp Trung Hoa, từ năm 2004 đến nay Trung
Quốc đã cho phép thành lập 4 công ty chuyên về bảo hiểm nông nghiệp.Thị
trường bảo hiểm nông nghiệp được hình thành dựa trên quan hệ trao đổi mua
17
bán bảo hiểm giữa một bên là người nông dân (người mua) và một bên là các
công ty bảo hiểm (người bán).
3.1.5.3. Về các hình thức bảo hiểm
Việc tham gia dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp ở Trung Quốc là tự nguyện.
3.2. Nhận xét, đánh giá và bài học kinh nghiệm từ quá trình triển khai
dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi của một số nước
3.2.1. Nhận xét, đánh giá quá trình triển khai dịch vụ bảo hiểm cây trồng,
vật nuôi của một số nước
3.2.1.1. Về cơ chế, chính sách
Quy định của luật pháp về bảo hiểm nông nghiệp rất đa dạng.
- Dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp là đối tượng được khuyến khích
- Bảo hiểm nông nghiệp tự nguyện: áp dụng ở hầu hết các nước.
- Bảo hiểm là quyền lợi đương nhiên, miễn phí của nông dân.
Các Chính phủ đều có sự hỗ trợ mạnh về tài chính cho bảo hiểm nông
nghiệp.
- Các nước đều xây dựng những quy định riêng về pháp luật và khung pháp
lý cho bảo hiểm nông nghiệp của nước mình..
3.2.1.2. Về mô hình triển khai
Các nước đang áp dụng nhiều mô hình dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp khác
nhau, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường của mỗi
nước.
3.2.1.3. Các hình thức bảo hiểm
Dịch vụ bảo hiểm được triển khai theo hai hình thức: Dịch vụ bảo hiểm
truyền thống, phi truyền thống.
3.2.2. Một số bài học kinh nghiệm từ nghiên cứu mô hình dịch vụ bảo hiểm
cây trồng, vật nuôi ở một số nước
Từ việc nghiên cứu hệ thống bảo hiểm nông nghiệp ở các nước trên thế
giới, một số bài học có thể được rút ra và vận dụng vào phát triển dịch vụ bảo
hiểm cây trồng, vật nuôi cho Việt nam như sau:
Thứ nhất, các nước đã thành công trong việc triển khai dịch vụ bảo hiểm
cây trồng, vật nuôi.
Thứ hai, việc tiếp cận và thiết kế hệ thống dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật
nuôi nên được triển khai từng bước một và hết sức thận trọng.
Thứ ba, sự thành công hay thất bại của hệ thống bảo hiểm ở các nước còn
chủ yếu bởi sự thiết kế cẩn thận và sự sửa đổi năng động hệ thống này phù
hợp với các điều kiện đang thay đổi của mỗi nước.
18
CHƯƠNG 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BẢO
HIỂM CÂY TRỒNG, VẬT NUÔI Ở VIỆT NAM
4.1. Thực trạng triển khai dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi ở Việt
Nam trong thời gian qua
4.1.1. Sự cần thiết của bảo hiểm cây trồng, vật nuôi tại Việt Nam
Việt Nam là quốc gia sản xuất nông nghiệp, 60-70% dân số sống ở nông
thôn, sản lượng nông sản chiếm khoảng 30% GDP. Tuy nhiên, đây lại là ngành
chịu nhiều thiên tai, mất mùa, rất cần tới bảo hiểm để giảm thiểu thiệt hại cho
nhà nông. Những rủi ro trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là rủi ro thiên tai
và dịch bệnh, là nguyên nhân gây cản trở trực tiếp tới phát triển kinh tế-xã hội,
phát triển bền vững và làm gia tăng đói nghèo. Phát triển bảo hiểm sản xuất
nông nghiệp, với những vai trò tích cực của bảo hiểm, sẽ giảm bớt được các
rủi ro cho người sản xuất nông nghiệp, góp phần phát riển bền vững ngành
nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia.Do đó, bảo hiểm nông
nghiệp nói chung và bảo hiểm cây trồng, vật nuôi nói riêng là một biện pháp
có hiệu quả để ổn định thu nhập cho nông dân, đặc biệt đối với người nghèo.
Bảo hiểm cây trồng, vật nuôi cũng là một kênh hỗ trợ của Chính phủ có hiệu
quả và công bằng cho nông dân. Điều quan trọng là nâng cao hiệu quả của
ngành nông nghiệp để tăng thu nhập cho hộ gia đình nông thôn.
4.1.2. Quá trình triển khai thực hiện dịch vụ bảo hiểm cây trồng và vật nuôi
ở Việt Nam
4.1.2.1. Về cơ chế, chính sách
Về cơ chế, chính sách, ngoài Luật kinh doanh bảo hiểm đã có nội dung về
bảo hiểm nông nghiệp, các văn bản dưới luật cũng đã nhấn mạnh đến phát
triển dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp như sau:
1) Thông tư số 52/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính về hướng dẫn việc thành
lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức bảo hiểm tương hỗ trong lĩnh vực nông
nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp..
2) Thông tư số 155/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành
Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm.
3) Thông tư số 156/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính về hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chế độ
tài chính đối với DNBH và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
19
4) Thông tư số 86/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính về Sửa đổi, bổ sung một
số điểm của Thông tư số 155/2007/TT-BTC ngày 20/12/2007 của Bộ Tài
chính và Thông tư 156/2007/TT-BTC ngày 20/12/2007 của Bộ Tài chính..
5) Thông tư số 03/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính về hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 41/2009/NĐ-CP ngày 05/05/2009 của Chính phủ quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm..
6) Thông tư 121/2011/TT-BTC ngày 17/8/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn
một số điều của quyết định số 315/QĐ-TTg ngày 01/3/2011 của Thủ tướng
Chính phủ về thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp giai đoạn 2011-2013.
Thông tư gồm 4 chương, 29 điều và 40 phụ lục, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/10/2011.
Ngày 16-12-2011. Bộ Tài chính ban hành quy tắc, biểu phí và mức trách
nhiệm bảo hiểm nông nghiệp kèm theo Quyết định 3035/ỌĐ-BTC.
Ngày 23-8-2012, Bộ NN&PTNT đã ban hành Thông tư 43/TT-BNNPTNT
sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 47/2011/TT-BNNPTNT và ngày
24-8-2012, Bộ Tài chính ban hành quyết định 2114/ỌĐ-BTC sửa đổi, bổ sung
một số điều của Quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm nông nghiệp
ban hành kèm theo Quyết định 3035/2011/QĐ-BTC theo hướng mở rộng
phạm vi được bảo hiểm, giảm phí đóng.
Ngày 27-02-2013, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 358/ỌĐ-TTg về
việc sửa đổi, bổ sung 1 số điều của Quyết định 315/2011/ỌĐ-TTg.
4.1.2.2. Về mô hình và phương thức triển khai bảo hiểm cây trồng, vật
nuôi của Việt Nam
Trong số các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam, có 2 doanh
nghiệp (Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt và Groupama) đã triển khai bảo hiểm
nông nghiệp và 2 doanh nghiệp ở dạng tiềm năng (Bảo Minh và Công ty bảo
hiểm ngân hàng nông nghiệp). Như vậy, thị trường bảo hiểm nông nghiệp tại
Việt Nam có cả doanh nghiệp nhà nước lẫn công ty TNHH.
4.1.3. Nhận xét, đánh giá
4.1.3.1. Những mặt đã đạt được
Khung pháp lý và một loạt các văn bản chính sách ban hành nêu trên và
thực tiễn triển khai hoạt động thí điểm bảo hiểm nông nghiệp cho thấy chủ
trương của Đảng, Nhà nước trong việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp là
đúng đắn.
Các cơ chế chính sách (văn bản hướng dẫn cơ chế chính sách; quy tắc, điều
khoản bảo hiểm cho từng loại đối tượng bảo hiểm; văn bản hướng dẫn quy
20
trình, tiêu chuẩn trồng lúa, vật nuôi, thủy sản) đã ban hành khá đầy đủ, đồng
bộ, sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Công tác chỉ đạo, kiểm tra thực hiện đã thực hiện quyết liệt và có hiệu quả
từ Trung ương đến địa phương, tập hợp được các lực lượng chính quyền địa
phương..
Công tác thí điểm bảo hiểm nông nghiệp đã có được kết quả quan trọng,
được người dân hưởng ứng và tham gia..
4.1.3.2. Những khó khăn, hạn chế
Qua thực tế triển khai thời gian qua, bên cạnh những kết quả đạt được nêu
trên, việc triển khai thí điểm bảo hiểm trong nông nghiệp cũng bộc lộ những
khó khăn, hạn chế nhất định.
Cơ chế, chính sách mặc dù đã được Bộ Tài chính, Bộ NN&PTNT thường
xuyên rà soát, đánh giá và sửa đổi bổ sung kịp thời để đáp ứng được thực tế
nhưng không phải là đã phù hợp được hết nhu cầu, đặc trưng riêng có của
từng địa phương.
Theo tổng hợp số liệu sơ bộ, bảo hiểm trong nông nghiệp chưa có hiệu
quả kinh tế đối với các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia chương trình. Mức
bồi thường cao hơn nhiều so với mức phí đóng góp của các đối tượng tham
gia.
Rủi ro thiên tai, dịch bệnh trong bảo hiểm nông nghiệp diễn ra bất
thường, một số nơi xảy ra tổn thất lớn, trên diện rộng (đặc biệt tổn thất đối với
thủy sản trong cuối tháng 12 năm 2012.
Nhiều hộ dân, tổ chức sản xuất nông nghiệp vẫn tham gia mang tính chất
thăm dò (tham gia ít hoặc không tham gia) hoặc lựa chọn các đối tượng được
bảo hiểm có rủi ro cao để tham gia..
Đội ngũ cán bộ làm bảo hiểm nông nghiệp còn quá thiếu về khối lượng
vừa thiếu về kinh nghiệm chuyên ngành, nhất là việc đánh giá rủi ro trong
nông nghiệp.
Nông dân chưa nhận thức được ý nghĩa của việc tham gia bảo hiểm trong
việc phát triển bền vững kinh tế hộ thông qua việc tuân thủ các qui trình sản
xuất mà mới chỉ quan tâm đến những lợi ích trước mắt..
4.1.3.3. Những tồn tại và nguyên nhân
Không chỉ ở Việt Nam bảo hiểm cây trồng, vật nuôi khó phát triển mà trên
thế giới, lĩnh vực này cũng thường chiếm tỷ trọng nhỏ trên thị trường bảo
hiểm. Sở dĩ như vậy, trước hết là do tính chất phức tạp của nó.
Trước hết, về phía doanh nghiệp bảo hiểm: Sản phẩm bảo hiểm chưa phù
hợp.
21
Thứ hai, về phía người nông dân. Nguyên nhân chính của người nông dân,
đó là: Người dân chưa có thói quen tham gia bảo hiểm, thu nhập của nông dân
còn thấp..
Thứ ba, về phía Nhà nước. Khó khăn trong việc phát triển bảo hiểm cây
trồng, vật nuôi còn do phía Nhà nước chưa có một khung pháp lý rõ ràng về
vấn đề này.
4.2. Một số giải pháp đẩy mạnh dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi tại
Việt Nam
4.2.1. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách vĩ mô
4.2.1.1. Hoàn thiện thể chế
Cần xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với bảo
hiểm nông nghiệp:
a) Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông nghiệp nông thôn
b) Đối với Bộ Tài chính
c) Đối với các Bộ, ngành liên quan
4.2.1.2. Xây dựng khung pháp lý
Để dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi phát triển một cách vững chắc, cần
xây dựng khung pháp lý phù hợp các quy định luật pháp Việt Nam, luật lệ
quốc tế, thực sự thông thoáng, tạo sự bình đẳng giữa bên cung và bên cầu, sự
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong hoạt động bảo hiểm nông nghiệp
nói chung và cây trồng, vật nuôi nói riêng. Theo đó, bảo hiểm cây trồng, vật
nuôi cần trở thành chính sách của Nhà nước, có sự kết hợp bảo hiểm này với
các chính sách nông thôn, miễn thuế doanh thu cho sản phẩm bảo hiểm nông
nghiệp,; sự kết hợp giữa doanh nghiệp, Nhà nước, ngân hàng và tập trung
vào các khâu trong sản xuất nông nghiệp (khuyến nông, áp dụng khoa học –
kỹ thuật) để giảm rủi ro trong sản xuất.
4.2.1.3. Đẩy mạnh hỗ trợ cho phát triển dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi
Cần tăng cường sự hỗ trợ từ phía Nhà nước thông qua việc hoàn thiện
chính sách, hỗ trợ phí bảo hiểm, nâng cao chất lượng dịch vụ công (khuyến
nông, khoa học kỹ thuật,) giúp kết nối giữa cung và cầu, nhất là dịch vụ tái
bảo hiểm. Đối với một nước có nhiều thiên tai như Việt Nam, trong điều kiện
kinh tế còn nhiều khó khăn, tiềm lực kinh tế và đóng góp của các ngành dịch
vụ khác chưa đủ mạnh để hỗ trợ lại cho nền nông nghiệp trong những điều
kiện thiên tai, dịch bệnh xẩy ra.
4.2.1.4. Xây dựng lộ trình phù hợp với tình hình thực tế phát triển của dịch
vụ bảo hiểm nông nghiệp/ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi.
22
Về lâu dài Nhà nước cần có quy định bảo hiểm bắt buộc đối với một số sản
phẩm chiến lược, sản phẩm có tính nhạy cảm và trước hết cần tổ chức triển
khai thí điểm dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp/ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi một
cách bài bản, kỹ lưỡng để tổng kết và nhân rộng.
4.2.2. Nhóm giải pháp về phía doanh nghiệp
Rõ ràng không thể ép các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước tham gia thị
trường để cứu nông dân. Nhưng đây không hoàn toàn chỉ Nhà nước phải chịu
trách nhiệm, các doanh nghiệp phải tự nhận thức được mình cần có trách
nhiệm gánh vác một phần vai trò đặc biệt này. Việc Groupama (một doanh
nghiệp cung cấp BHNN 100% vốn của Pháp) làm ăn không thành công nên
được coi là bài học kinh nghiệm để đầu tư và mở rộng thị phần chứ không nên
xem đó là một thất bại để các doanh nghiệp tránh con đường đó.
4.2.3. Nhóm giải pháp đối với người tham gia bảo hiểm
Trước hết cần nâng cao nhận thức của người nông dân để họ thấy được sự
cần thiết của việc bảo hiểm cây trồng, vật nuôi chính là sự giảm thiểu những
thiệt hại cho họ khi gặp phải những rủi ro lớn, giúp họ sớm vực dậy, tái sản
xuất. Tuy nhiên, không chỉ nâng cao nhận thức mà khi tham gia bảo hiểm
chính người nông dân cũng phải chịu một phần chi phí đóng góp mới tạo động
lực và ý thức tham gia bảo hiểm một cách hiệu quả.
4.2.4. Nhóm các giải pháp liên quan đến sự phối hợp của Nhà nước, doanh
nghiệp bảo hiểm và người nông dân
Để phát triển một cách bền vững dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp nói chung
và dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi nói riêng, cả 3 nhà cần nhìn lại mình.
Có 3 vấn đề phải bàn tới: Thứ nhất, cách thức quản lý của chúng ta theo lối
ngắn hạn, thiếu cơ chế về lâu dài. Thứ hai, các doanh nghiệp còn thiếu, yếu về
lực xuất phát. Thứ ba, nông dân còn bị động. Do vậy, Nhà nước cần thay đổi
chính sách quản lý, có thêm thời gian tích lũy; doanh nghiệp phải chủ động
tìm kiếm thị trường; bản thân người dân phải tự làm chủ tài sản và cuộc sống
của mình, bỏ thói quen nhận sự ban phát, tránh tình trạng kéo đầu này hở đầu
kia như hiện nay [19].
4.3. Đề xuất mô hình triển khai dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi tại
Việt Nam
Theo quan điểm của nghiên cứu sinh, dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp/ bảo
hiểm cây trồng, vật nuôi ở Việt Nam hiện nay nên phát triển theo hướng chuỗi
sản phẩm (từ đồng ruộng cho đến bàn ăn), nhất là trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay thì điều này đang là đòi hỏi mang tính cấp thiết.
23
Trong ngành chăn nuôi: hiện nay gồm có 2 loại chuỗi cung ứng sản phẩm
chính đó là:
Chuỗi tiêu thụ nội địa
Chuỗi tiêu thụ xuất khẩu
Trong ngành sản xuất trồng trọt: Chuỗi cung ứng sản phẩm ngành trồng
trọt (từ đồng ruộng đến bàn ăn) gồm có 4 tác nhân chính đó là người nông
dân/trang trại sản xuất thương lái/hộ thu gom cơ sở/ doanh nghiệp chế
biến Tiêu thụ/xuất khẩu.
Chuỗi tiêu thụ
Người nông
dân/trang
trại sản xuất
Xuất khẩu
Cơ sở/doanh
nghiệp chế
biến
Thương
lái/Hộ thu
gom
Doanh nghiệp
tiêu thụ
Trang trại
chăn nuôi
Xuất khẩu Cơ sở/doanh
nghiệp chế
biến
Thương
lái/Thu gom Doanh nghiệp
xuất khẩu
Hộ/ trang trại
chăn nuôi
Người tiêu
dùng trong
nước
Cơ sở giết
mổ
Thương
lái/hộ thu
gom
Người bán
buôn/ bán lẻ
24
KẾT LUẬN
Dưới tác động của hội nhập kinh tế quốc tế và biến đổi khí hậu toàn cầu nông
nghiệp sẽ là ngành chịu rủi ro cao nhất do những đặc thù về sự khó kiểm soát đối
với các đối tượng và không gian sản xuất. Việc chia sẻ và phân tán những rủi ro
này ngày càng được các nước sử dụng như là hình thức phát triển bền vững của
ngành nông nghiệp khu vực và quốc tế. Dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp/bảo hiểm
cây trồng, vật nuôi không phải là mới với các nước phát triển vì nó được áp dụng
khá lâu ở các nền kinh tế tiên tiến như Mỹ, EU, Nhật Bản,... Tại Việt Nam bảo
hiểm nông nghiệp mới được áp dụng thử nghiệm trong những năm gần đây. Tuy nhiên,
đây sẽ là một hình thức quản trị rủi ro hiệu quả nhất đối với người nông dân trong quá
trình trồng trọt và chăn nuôi.
Việc áp dụng loại hình dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp/ bảo hiểm cây trồng, vật
nuôi tại Việt Nam đang ở mức độ thí điểm đòi hỏi hoàn thiện từ khung pháp lý
đến mô hình cụ thể với sự tham gia sâu rộng của tất cả các thành phần trong xã
hội từ người sản xuất, doanh nghiệp bảo hiểm đến chính quyển các cấp. Bảo hiểm
nông nghiệp là một chủ trương đúng đắn và thiết thực trong phát triển kinh tế xã
hội như xóa đói, giảm nghèo, an sinh xã hội ở các địa phương, nhất là vùng nông
thôn. Trước những thực tế vừa nêu trên, việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở
Việt Nam là cần thiết, và nên hướng vào các tác nhân trong chuỗi cung ứng sản
phẩm, từ người nông dân sản xuất, đến thương lái/ thu gom, đến các cơ sở/ doanh
nghiệp chế biến, và người tiêu dùng.
+ Luận án đã hệ thống hóa và khái quát hóa được những đặc điểm, phương
thức hoạt động của dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi ở một số nước trên thế
giới và ở Việt Nam.
+ Luận án đã trình bày và phân tích các kinh nghiệm phát triển dịch vụ bảo
hiểm cây trồng, vật nuôi ở một số nước, chỉ ra những thành công, cùng những hạn
chế của hoạt động này của một số quốc gia và nguyên nhân chủ yếu của chúng.
+ Luận án đã nhận định tác động của vấn đề hội nhập quốc tế và biến đổi khí
hậu đã làm tăng lên vai trò của dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi cũng nêu lên
vai trò của dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi .
+ Luận án đã đề xuất được phương hướng và giải pháp nhằm tổ chức và phát
triển dịch vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi ở Việt Nam.
Nông nghiệp, nông thôn có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt đến an ninh chính trị,
kinh tế - xã hội Việt Nam. Đảng và Nhà nước đã xác định dịch vụ sản phẩm bảo
hiểm nông nghiệp mang tính chất là dịch vụ (hàng hoá) công.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1/ Phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam - thực trạng và một số vấn đề đặt ra, Tạp
chí Lý luận Chính trị, số 2-2011.
2/ Mấy suy nghĩ về sự vận dụng kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của
Nhật Bản vào Việt Nam,Tạp chí Tuyên giáo, số 2-2011.
3/ Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật bản và một số gợi ý cho
Việt Nam, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, số 2/2011.
4/ Tập trung xây dựng vùng dân tộc và miền núi phát triển nhanh về kinh tế - xã hội,
Tạp chí Dân tộc, số 5/2011.
5/ Bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam và vấn đề đặt ra, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, số
12-2011.
6/ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả “4 nhà” , Tạp chí Dân tộc số tháng 4/2012.
7/ Phát triển ngành du lịch và kinh nghiệm của một số nước, Tạp chí Kinh tế - Môi
trường, số 8-2011.
8/ Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn và vấn đề đặt ra, Tạp chí Dân tộc, số 07/2012.
9/ Những bài học kinh nghiệm về bảo hiểm nông nghiệp của nước ngoài cho Việt
Nam, Tạp chí Khoa học phát triển nông thôn Việt Nam, Số 26 / 2016
10/ Bảo đảm an sinh cơ bản cho nông dân, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, kỳ 02 tháng
3/2016.
11/ Đề tài “Phân tích và đề xuất giải pháp nâng cao kết quả hoạt động bảo hiểm xã
hội thành phố Hà Nội ”, Trường Đại học Bách khoa, năm 2006.
12/ Tham gia Đề tài khoa học cấp Nhà nước “Đời sống tinh thần của nông dân Việt
Nam - Thực trạng và xu hướng biến đổi” mã số KX.03.18/06-10 thuộc Chương
trình Khoa học trọng điểm cấp Nhà nước mã số KX.03/06-10 do PGS.TS Vũ
Duy Thông làm chủ nhiệm, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam thuộc Ban
Tuyên giáo Trung ương chủ trì.
13/ Đề tài “Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật về quản lý Nhà nước đối với báo chí
trong giai đoạn 2011-2015”. Năm 2011. Học viện Chính trị Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh.
14/ Kinh nghiệm bảo hiểm nông nghiệp của Mỹ, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 27/02/2015. Bút danh: Hiền Anh
15/ Thành công bước đầu của bảo hiểm nông nghiệp, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 12/03/2012, Bút danh: Đ.H
16/ Bảo hiểm nông nghiệp và vấn đề đặt ra, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
ngày 13/03/2015. Bút danh: Hiền Anh.
17/Ra sức nâng cao thu nhập cho người nông dân, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày 26/11/2014. Bút danh: Đ.H
18/ Thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững, Báo điện tử Đảng Cộng sản
Việt Nam ngày 31/10/2014. Bút danh: Đ.H.
19/ Xuất gạo và vấn đề đặt ra, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày
10/11/2014. Bút danh: Đ.H.
20/ Kinh nghiệm phát triển hợp tác xã của một số nước, Báo điện tử Đảng Cộng sản
Việt Nam, ngày 21/01/2015. Bút danh: Đ.H.
21/ Hợp tác xã vì lợi ích của nông dân, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày
23/01/2015. Bút danh: Đ.H.
22/ Kinh nghiệm giảm thiểu bất lợi từ đô thị hóa đối với nông dân ở Bắc Ninh, Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 28/01/2015. Bút danh: Đ.H:
23/ Cần nâng cao chất lượng đời sống nông dân, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 28/01/2015. Bút danh: Đ.H.
24/ Phát triển nông thôn và một số kinh nghiệm, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 29/01/2015. Bút danh: Đ.H.
25/ Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 13/02/2015. Bút danh: Đ.H.
26/ Hiện đại hóa nông thôn và vấn đề đặt ra, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
ngày 22/02/2015. Bút danh: Đ.H.
27/ Cần nỗ lực nâng cao thu nhập và đời sống của người dân, Báo điện tử Đảng Cộng
sản Việt Nam, ngày 12/03/2015. Bút danh
28/ Cần nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa vượt qua bất ổn kinh tế vĩ mô, Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 02/07/2011
29/ Sản xuất nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Báo điện tử Đảng Cộng
sản Việt Nam, ngày 30/05/2014. Bút danh: Đ.H
30/ Đẩy manh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 23/07/2014. Bút danh: Đ.H
31/ Cần đẩy mạnh hỗ trợ nông dân trong điều kiện hội nhập, Báo điện tử Đảng Cộng
sản Việt Nam, ngày 31/10/2014. Bút danh: Đ.H
32/ Ra sức nâng cao thu nhập cho người nông dân, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 26/11/2014. Bút danh: Đ.H
33/ Nỗ lực bảo vệ người nghèo trước sự bất ổn kinh tế vĩ mô, Báo điện tử Đảng Cộng
sản Việt Nam, ngày 09/07/2011. Bút danh: Hiền Anh
34/ Một số kết quả thực hiện giải pháp điều hành chính sách tiền tệ theo Nghị quyết
11 của chính phủ, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 30/06/2011. Bút
danh: Hiền Anh
35/ Tác động của TPP đối với sản xuất nông nghiệp, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 05/08/2013. Bút danh: Đ.H
36/ Xuất khẩu nông sản và vấn đề đặt ra, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày
22/03/2015. Bút danh: Đ.H.
37/ Tập trung xây dựng vùng dân tộc và miền núi phát triển nhanh về kinh tế xã hội,
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 26/04/201. Bút danh: Hiền Anh.
38/ Vấn đề đặt ra đối với giao thông nông thôn. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 31/03/2014. Bút danh: Đ.H.
39/ Xuất khẩu thủy sản đối mặt nhiều thách thức, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 27/09/2014. Bút danh: Đ.H.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_cap_hv_da_sua_in_778.pdf