Do bối cảnh hội nhập quốc tế, sự phối hợp nghiên cứu liên
quốc gia, những nghiên cứu so sánh trên lĩnh vực nghệ thuật là một
hướng phát triển tất yếu. Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt
Nam là một trong những cơ sở đào tạo NCS chuyên ngành văn hóa
nghệ thuật hàng đầu của đất nước, nơi hội đủ những nền tảng kiến
thức về những lĩnh vực như Văn hóa học, Nhân loại học, Xã hội học,
Nghệ thuật học. Những đối chiếu, so sánh các hiện tượng mỹ thuật
vượt lên trên ranh giới các loại hình, đường biên quốc gia, khung lịch
đại đang được ủng hộ và khuyến khích. Trong tương lai, những
nghiên cứu trong lĩnh vực Nghệ thuật học so sánh (bao gồm Mỹ
thuật học so sánh) sẽ một càng nhiều thêm, góp phần thiết thực cho
quá trình hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng.
27 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu [Tóm tắt] Luận án Nghệ thuật trang trí đền vua Đinh, vua Lê từ góc nhìn so sánh với Ấn Độ và Trung Hoa - Nghiên cứu một số Đồ án tiêu biểu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Trần Yên Thế
NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ
TỪ GÓC NHÌN SO SÁNH VỚI ẤN ĐỘ VÀ TRUNG HOA
- NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐỒ ÁN TIÊU BIỂU
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Mỹ thuật
Mã số: 62 21 01 01
Hà Nội – 2016
Công trình được hoàn thành tại:
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Kiều Thu Hoạch
Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Quốc Hùng
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Phản biện 2: PGS.TS Bùi Văn Tiến
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Phản biện 3 : TS Phạm Quốc Quân
Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện họp tại:
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Số 32, Hào Nam, Ô Chợ Dừa. Đống Đa, Hà Nội
Vào hồi..giờ.ngày.tháng .năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới đang diễn ra một quá trình toàn cầu hóa về kinh tế vô
cùng mạnh mẽ. Bên cạnh những mặt tích cực của cuộc vận động
quốc tế này, toàn cầu hóa đã đem lại những tác động tiêu cực trên
nhiều phương diện, đặc biệt là với văn hóa. Toàn cầu hóa làm thế
giới gần như phẳng hơn, đe dọa làm biến mất những giá trị văn hóa
bản địa của những cộng đồng sắc tộc địa phương.
Việc tự đánh mất mình hay trở thành một bản sao mờ nhạt cũng
đồng nghĩa với việc làm mất đi sự đa dạng văn hóa. Chính vì nhận
thức sâu sắc nguy cơ này mà ngày 3-21 tháng 10 năm 2005, tại kỳ
họp thứ 33 tại Paris, Công ước về Bảo vệ và Thúc đẩy sự đa dạng
văn hóa của các biểu đạt văn hóa đã được Đại hội đồng Tổ chức
UNESCO thông qua. Việt Nam là một trong những quốc gia sớm
tham gia công ước này. Giá trị đặc sắc của văn hóa dân tộc chỉ có thể
bảo tồn và phát triển bền vững trên cơ sở nhận thức đúng đắn của
chúng ta trong mối tương quan trong khu vực. Các tác phẩm mỹ
thuật cổ truyền hàm chứa những kiến thức truyền thống, tri thức bản
địa cần được tích cực nghiên cứu.
Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành ở Trường Yên,
Hoa Lư tưởng niệm hai vị tiên đế mở đầu kỷ nguyên độc lập của dân
tộc, nằm trong khu danh thắng Tràng An vừa được tổ chức UNESCO
vinh danh di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Hiện trạng di tích
cơ bản có niên đại thế kỷ XVII – XVIII – XIX, mang những dấu ấn
đặc sắc của văn hóa Đại Việt. Tuy vậy, cho đến nay, những nghiên
cứu chuyên sâu, đặc biệt từ những nghiên cứu so sánh về giá trị mỹ
thuật của hai ngôi đền này còn khá ít.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Luận án tập trung khảo cứu những biểu hiện mỹ thuật của
quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa với Trung Hoa và Ấn Độ
trong suốt khoảng thời gian từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đã tạo
nên những hiện tượng mỹ thuật đặc sắc, có giá trị thẩm mỹ cao ở đền
vua Đinh, vua Lê (Hoa Lư, Ninh Bình).
2.2. Tìm ra những minh chứng khẳng định môi trường văn hóa,
tự nhiên của không gian văn hóa làng người Việt đã góp phần quan
trọng tạo nên những sáng tạo truyền thống ở đền vua Đinh, vua Lê.
2.3. Vận dụng hệ thống lý thuyết phương pháp luận của lĩnh
vực nghiên cứu so sánh vào nghiên cứu một trường hợp cụ thể (nghệ
thuật Trang trí đền vua Đinh, vua Lê).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Như tên gọi của luận án, đối tượng nghiên cứu của đề tài luận
án là các hiện tượng tiếp biến văn hóa ở đền vua Đinh, vua Lê được
thể hiện trên nghệ thuật Trang trí đền vua Đinh, vua Lê. Chính vì
thế, đối tượng nghiên cứu của luận án được xem xét một cách biện
chứng trong các mối quan hệ có một chiều kích không gian và thời
gian tương đối rộng. Công việc này thực sự có kết quả và có sức
thuyết phục khi thông qua những so sánh, đối chiếu, chúng ta có
được những căn cứ minh chứng xác đáng.
Khách thể nghiên cứu của luận án chủ yếu là các hiện vật điêu
khắc đá như nghê đá, sập đá, bia đá, chân tảng đá và một số mảng đồ
án chạm khắc trên các hạng mục kiến trúc gỗ.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Về không gian phạm vi nghiên cứu của luận án: được giới hạn
trong phạm vi đền vua Đinh, vua Lê (xã Trường Yên, huyện Hoa Lư,
tỉnh Ninh Bình). Do đặc trưng của phương pháp luận Nghiên cứu so
sánh, luận án có mở rộng phạm vi bàn luận, đối chiếu với một số
hiện tượng mỹ thuật tương đồng và khác biệt ở một số nền mỹ thuật
khác. Tuy nhiên, thao tác so sánh này sẽ không ảnh hưởng đến mức
độ tập trung vào phạm vi nghiên cứu của luận án.
Về thời gian: tập trung xem xét từ khi dân làng Trường Yên và
cha con Bùi Văn Khuê xây dựng lại hai ngôi đền vào những năm
cuối cùng của thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII cho đến lần trùng tu cuối
thế kỷ XIX của cụ Bá hộ Dương Đức Vĩnh.
4. Giả thuyết khoa học
Nghệ thuật Trang trí đền vua Đinh, vua Lê chứng tỏ khả năng
dung hợp, tiếp biến văn hóa trong quá trình giao lưu và tiếp xúc văn
hóa với bên ngoài – chủ yếu với Ấn Độ và Trung Hoa đã làm nên
những sáng tạo bất ngờ và đặc sắc, tạo nên những giá trị riêng có của
người Việt. Những sáng tạo mang kiểu thức Ấn-Hoa đó dù nhỏ bé
nhưng chứa đựng tâm hồn, trí tuệ và bản lĩnh văn hóa người Việt.
5. Phương pháp luận
Phương pháp luận của nghiên cứu so sánh nhấn mạnh đến sự
đối chiếu, đối sánh, liên hệ, liên tưởng các hiện tượng mỹ thuật của
nhiều tộc người, nhiều quốc gia với nhau. Ngoài phương pháp so
sánh, còn có những phương pháp được sử dụng trong luận án như
Phương pháp thực chứng lịch sử, Phương pháp cấu trúc, Phương
pháp thống kê, Phương pháp loại hình, Phương pháp hệ thống,
Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
6. Những đóng góp mới của luận án
Về phương diện lý luận và lịch sử mỹ thuật: Vận dụng phương
pháp luận của Mỹ thuật học so sánh để kiểm chứng, thức nhận các
giá trị tinh hoa trong tạo hình Việt. Luận án cho thấy qua một số đồ
án trang trí tiêu biểu kiểu thức Ấn – Hoa là kiểu thức trang trí đã rất
phổ biến trong mỹ thuật Lý, mỹ thuật Trần tiếp tục có những bước
phát triển mới, mang tinh thần thế tục ở đền vua Đinh, vua Lê.
Với di sản văn hóa: những nghiên cứu của luận án tập trung ở
đền vua Đinh, vua Lê – di sản văn hóa cấp quốc gia sẽ giúp cho công
tác quản lý, trùng tu, tôn tạo có được những thông tin, tri thức chân
xác.
Với giáo dục thẩm mỹ: qua các phân tích những hiện tượng mỹ
thuật đặc sắc ở hai ngôi đền vua Đinh – vua Lê, những giá trị tạo
hình liên quan đến những đường nét hoa văn, kỹ thuật chạm đá, đục
gỗ cho đến cách xử lý hệ thống các biểu tưởng trong không gian di
tích sẽ được sáng tỏ dưới ánh sáng khoa học.
Những tư liệu điền dã đạc họa trong phần phụ lục sẽ là tư liệu
quan trọng với việc khảo cứu hai ngồi đền, bổ sung những khoảng
trống tư liệu trong công tác giáo dục thẩm mỹ; và thông qua đó bồi
dưỡng lòng tự tôn dân tộc.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu (9 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham
khảo (17 trang) và Phụ lục (57 trang), nội dung của luận án gồm 3
chương.
Chương 1: Lý luận chung về Nghệ thuật Trang trí và
Nghiên cứu so sánh (31 trang)
Chương 2: Bối cảnh lịch sử, văn hóa và nghệ thuật Trang
trí đền vua Đinh, vua Lê (27 trang)
Chương 3: Sự dung hợp mỹ thuật Ấn Độ và Trung Hoa
trong một số đồ án trang trí ở đền vua Đinh,
vua Lê (58 trang)
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ
VÀ NGHIÊN CỨU SO SÁNH
1.1. Nghệ thuật trang trí
1.1.1. Khái niệm
Nghệ thuật Trang trí (Decorative Arts – Anh, Arts Décoratifs –
Pháp, 装饰艺术 – Hoa), là một thuật ngữ du nhập từ nước ngoài. Do
nhấn mạnh đến tính chất trang sức của bề mặt nên trong hệ thống học
thuật hàn lâm cổ điển của phương Tây. Thực tế lịch sử nghệ thuật
thế giới đã chứng minh, việc loại nghệ thuật Trang trí ra khỏi ngôi
đền thiêng Mỹ thuật là một sai lầm nghiêm trọng của nền mỹ học
phương Tây. Paul K. Nietupski, Joan O'Mara trong cuốn sách
Reading Asian Art and Artifacts: Windows to Asia on American
College Campuses (Nghệ thuật châu Á và tạo tác: Cửa sổ tới châu Á
trong các trường Cao đẳng Mỹ) đã phê phán cách nhìn nhận phương
Tây về nghệ thuật Trang trí của châu Á. Việc đối lập nghệ thuật
Trang trí với Mỹ thuật, coi Mỹ thuật là nghệ thuật cao cấp thể hiện
sự thiếu hiểu biết với nghệ thuật và những nền tảng văn hóa phương
Đông.
Trái ngược với cách kiến giải về nghệ thuật Trang trí của
phương Tây, các tác giả Trần Lâm Biển, Nguyễn Phi Hoanh, Ngô
Văn Doanh đều cho rằng nghệ thuật Trang trí của người Việt Nam,
dù rằng là nghệ thuật thị giác xử lý trên phương diện bề mặt, nhưng
không chỉ đơn thuần là để làm Đẹp. Nghệ thuật Trang trí ở đền vua
Đinh, vua Lê hiển nhiên mang tính chất tín ngưỡng, tôn giáo. Việc
xem xét nghệ thuật (gồm nghệ thuật Trang trí) như một phần của lễ
nghi sẽ không thể đơn giản coi việc trang trí là mỹ hóa đối tượng.
1.2. Nghệ thuật Trang trí từ các lý thuyết liên ngành
Nghiên cứu nghệ thuật Trang trí cổ truyền dựa trên thành tựu lý
thuyết của nhiều ngành khoa học khác để bổ sung thêm nhiều điểm
tham chiếu đang được nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật vận dụng khá
thành công.
1.2.1. Thuyết truyền bá văn hóa
Lý thuyết Truyền bá văn hóa (cultural diffusion) nghiên cứu
một hiện tượng văn hóa nghệ thuật sinh ra ở một dân tộc, quốc gia
này có ảnh hưởng đến một hay nhiều dân tộc hay quốc gia khác.
Trong luận án, việc truy nguyên dạng thức các linh thú đóng vai trò
tưởng niệm bắt nguồn từ văn hóa Phật giáo, hay dạng thức hoành phi
kiểu thư họa có nguồn gốc Trung Hoa.
1.2.2.Thuyết Tiếp biến văn hóa
Cultural Acculturation là thuật ngữ của ngành Nghiên cứu Văn
hóa không phải của Mỹ thuật học. Có nhiều cách chuyển ngữ thuật
ngữ này nhưng dịch là Tiếp biến Văn hóa được sử dụng thông dụng,
phổ biến hơn cả. Thuyết Tiếp biến văn hóa là lý thuyết quan tâm đến
kết quả của quá trình giao lưu tiếp xúc, dung hợp và biến đổi của văn
hóa.
1.2.2. Thuyết Ngữ cảnh nghệ thuật
Cốt lõi của thuyết Ngữ cảnh nghệ thuật (Art as context) chính là
việc xác lập mối quan hệ của nghệ thuật với ngữ cảnh. Cụ thể ở đây
là thao tác đặt các đồ án trang trí ở hai ngôi đền trong ngữ cảnh văn
hóa làng xã của người Việt.
1.2.3. Thuyết Nhân hình luận
Anthropomorphism theo định nghĩa của từ điển Oxford online,
Anthropomorphism là hiện tượng nhân dạng hay nhân cách hoá là
bất kỳ đóng góp của các đặc tính của con người (hoặc các đặc tính
giả định chỉ thuộc về con người) cho thần thánh, động vật và các vật
thể.
Căn cứ vào mức độ và kiểu thức nhân dạng trên các đồ án trang
trí đền vua Đinh, vua Lê, chúng ta có thể tìm hiểu được mức độ ảnh
hưởng văn hóa Ấn Độ, và Trung Hoa ở hai ngôi đền. Cụ thể là sự
xuất hiện những cánh tay phụ nữ mọc ra từ thân thể của một con
rồng trên chiếc sập trước Nghi môn ngoại trước đền vua Đinh.
1.2.4. Lý thuyết về Giới
Lý thuyết về Giới (Gender Theory) xác nhận vai trò của giới
tính trong sáng tạo và cảm thụ nghệ thuật. Hình ảnh những cô tiên
yếm thắm chân đất đầu trần vắt vẻo lưng rồng ở đền vua Đinh, vua
Lê phản ánh sự thay đổi cấu trúc giới trong xã hội. Thật bất ngờ,
hình ảnh những cánh tay mềm mại, xinh đẹp đầy nữ tính lại mọc ra
từ thân thể một con rồng mà râu, tóc, mắt mũi rất đặc trưng cho giới
tính đực. Hiện tượng nghịch dị này từ lý thuyết về Giới sẽ chỉ ra
những phát hiện thú vị.
1.3. Khái lược về nghiên cứu so sánh
Nghiên cứu so sánh - Comparative research là một lĩnh vực
khoa học. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn. Như đã nói ở
phần trên, nếu ví nó như một cái cây thì các nhánh nhỏ hơn sẽ là
Ngôn ngữ học so sánh (Comparative linguistics), Văn học so sánh
(Comparative literature), Nghệ thuật học so sánh (Comparative Art),
Mỹ thuật học so sánh (Comparative Fine Art), Tâm lý học so sánh
(Comparative Psychology), Kinh tế chính trị học so sánh
(Comparative Political Economy),Xã hội học so sánh
(Comparative Sociology)Trong trường hợp cụ thể của luận án này,
một đóng góp lý thuyết đáng kể là những nghiên cứu so sánh vượt
qua giới hạn của nghiên cứu lý luận và lịch sử dân tộc chuyên biệt.
1.3.1. Nghệ thuật học so sánh
Những chủ đề của Nghiên cứu so sánh (Comparative Arts)
trong nghệ thuật
Nghiên cứu tính độc đáo dân tộc
Điểm độc đáo liên quan đến phạm trù tính đặc thù dân tộc :
Đây cũng là luận điểm được tác giả tiếp thu trong quá trình
nghiên cứu các hiện tượng độc đáo khác như sự xuất hiện cánh rồng
mềm mại như cánh tay thiếu nữ, hay hiện tượng xuất hiện tượng hình
ảnh nghê hết sức đa dạng.
Nghiên cứu tính quốc tế
Nghiên cứu so sánh tỏ ra hiệu quả khi nghiên cứu hiện tượng
liên văn hóa, những yếu tố quốc tế. Chủ đề nghiên cứu này dựa trên
thuyết truyền bá văn hóa.
Việc lan truyền văn hóa đã tạo ra những mẫu số chung, những
mô hình chung. Nhìn đại thể, mô hình nhà nước phong kiến Việt
Nam, Triều Tiên, Nhật Bản là giống nhau, đều tiếp thu từ văn minh
Trung Hoa. Tính dân tộc độc đáo phải được nhìn nhận biện chứng
với tính quốc tế. Thực sự với vị trí địa lý như Việt Nam, Việt Nam
chưa bao giờ cô lập, quay lưng lại với thế giới.
1.3.2. Mỹ thuật học so sánh
Mỹ thuật học so sánh (Comparative Fine Arts) là thuật ngữ
được dịch từ thuật ngữ 比较美术 (tỷ giảo mỹ thuật) trong tiếng
Trung và Comparative Fine Arts trong tiếng Anh. Trong nhiều văn
cảnh, khi chuyển ngữ từ tiếng Hán cũng còn viết là Comparative
Arts. Mỹ thuật Đại Việt nằm trong vùng ảnh hưởng văn hóa Trung
Hoa, nhưng từ lý thuyết cấu trúc đa hệ thống, Đại Việt còn thuộc về
Đông Nam Á và Nam Á.
Đền vua Đinh, vua Lê là nơi thờ tự thiêng liêng có nhiều giá trị
nghệ thuật đặc sắc, khẳng định một bản lĩnh văn hóa của dân tộc Việt
Nam trong quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa Đông Tây trong suốt
trường kỳ lịch sử.
Tiểu kết chương 1
Khái niệm nghệ thuật Trang trí được bàn luận, xem xét từ
nhiều góc độ để thấy các vật dụng được trang trí nhằm thỏa mãn
những nhu cầu đa dạng mà giá trị đẹp mắt chỉ là một phần trong đó.
Những ý niệm của tôn giáo, tín ngưỡng thực sự quyết định kiểu thức
trang trí. Nói khác đi nghệ thuật Trang trí đồ thờ có nguồn gốc từ
hoạt động vu thuật từ cổ sơ, là vật môi giới của con người với thần
linh, trời đất.
Nghiên cứu nghệ thuật Trang trí đền vua Đinh, vua Lê trong
quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa là cách thức tìm hiểu mỹ thuật
không chỉ dựa vào các thuật ngữ, thao tác, phương pháp của bản thân
chuyên ngành. Từ góc độ nghiên cứu liên ngành sẽ cho thấy những
kiểu thức đồ án trang trí, có liên quan đến những thay đổi văn hóa.
Chính giai đoạn đau thương, đầy biến động thời Lê – Trịnh đã đem
đến cho nghệ thuật Trang trí đền miếu vua Đinh vua Lê tính chất thế
tục và diễu nhại vô cùng đặc sắc.
Nghệ thuật Trang trí ở đền vua Đinh, vua Lê được tiếp cận từ
nhiều góc độ, soi chiếu bởi nhiều khung lý thuyết. Nghiên cứu so
sánh trở thành phương pháp luận cốt yếu của luận án. Những xét
đoán, nhận định trong luận án đều được dựa trên những đối chiếu
liên văn hóa, vượt qua những khuôn khổ hạn định của những loại
hình nghệ thuật. Việc mở rộng các đối tượng so sánh vượt ra ngoài
phạm vi mỹ thuật của một tộc người (ở đây là người Việt) với các tộc
người khác trên dải đất hình chữ S và mở rộng những so sánh với
Trung Hoa và Ấn Độ.
Chương 2
BỐI CẢNH LỊCH SỬ, VĂN HÓA VÀ NGHỆ THUẬT
TRANG TRÍ ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ
2.1. Bối cảnh chính trị - văn hóa và lịch sử tôn tạo của hai
ngôi đền
2.1.1. Bối cảnh chính trị - văn hóa
Mặc dù đền vua Đinh, vua Lê được xây dựng trên nền cũ của
một cung điện đã tàn lụi trước đó chừng 6 thế kỷ, nhưng những ký
ức lịch sử của một thời huy hoàng tráng lệ và bi thương vẫn còn in
dấu trên nghệ thuật trang trí của hai ngôi đền.
Những hiện vật trang trí ở đền vua Đinh vua Lê (được phân tích
trong luận án) chủ yếu có niên đại thế kỷ XVII- XVIII, trước hết nó
liên quan đến bối cảnh chính trị, xã hội đương thời, và xa hơn nữa là
bốn thập kỷ huy hoàng của kinh đô Đại Việt thời nhà Đinh và Tiền
Lê. Chính những diễn biến vô cùng phức tạp của những xung đột
tranh giành quyền lực chốn cung đình đã tạo nên cho nghệ thuật
trang trí ở đền vua Đinh, vua Lê một ngữ cảnh chính trị-văn hóa hết
sức phức tạp.
Với người dân quê, sơn hà chính là con sông, ngọn núi, là cây
đa, bến nước, sân đình được hiển hiện trên những bức chạm khắc nơi
chân tảng đền thờ vị vua mở đầu kỷ nguyên Độc lập. Ta không thấy
những bức chạm ca ngợi những võ công hiển hách của các bậc tiên
đế mà chỉ bắt gặp ở đây cảnh người dân đi hái củi, đánh cá, vốn rất
thân quen và bình dị.
2.1.2. Lịch sử tôn tạo hai ngôi đền
Đền vua Đinh và vua Lê là thuộc về hai xã Trường Yên thượng
và Trường Yên hạ. Đây là một trong vài ngôi đền to nhất Việt Nam
còn sót lại tới hôm nay.Năm 1010, khi Lý Công Uẩn dời đô về
Thăng Long, thì 42 năm vàng son, huy hoàng của kinh đô Hoa Lư đã
dần lui vào dĩ vãng. Tương truyền, đền thờ vua Đinh, vua Lê được
xây dựng trên nền cung điện cũ. Tới những năm cuối thời Quang
Hưng, cha con Bùi Văn Khuê và Bùi Thời Trung đã hưng công trùng
tu tôn tạo lại hai ngôi đình.
Những tấm bia như Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế miếu công
đức bi ký tịnh minh, Tiền triều Lê Đại Hành hoàng đế miếu công đức
bi ký tịnh minh, Thánh tượng tiền triều Lê Đại Hành hoàng đế trùng
tu tạo tác bi ký tịnh minh, xác định khá chi tiết về quá trình tôn tạo,
danh tính người chỉ đạo và thi công, từ các bậc công hầu khánh
tướng, các vị khoa bảng, giới tăng lữ, các bậc chức sắc cho đến nghệ
nhân.
Sang đến thời Chính Hòa, tấm bia làm năm Chính Hòa thứ 17
(1696) nhắc cho ta biết đã có việc trùng tu ở đền vua Đinh. Căn cứ
vào phong cách thì chiếc sập đá trước bài đường, đôi nghê đá chầu
hai bên bái đường, một số mảng chạm gỗ tiên cưỡi rồng được làm
trong lần trùng tu này.
Sang tới thời Nguyễn, qua tấm bia bia Tiền triều Đinh Tiên
Hoàng đế miếu công đức bi ký lập năm Thiệu Trị thứ 3 cho thấy ngôi
đền đã xuống cấp nghiêm trọng. Triều đình đã cử viên quan Trần
Chương tới đây tiến hành trùng tu lại ngôi đền. Riêng với đền vua
Đinh, lần trùng tu năm Thành Thái thứ 10 (1898) tuy không có bia
đá lưu lại với sử xanh nhưng vẫn được dân làng truyền tụng về công
lao của cụ Bá Dương Đức Vĩnh. Hạng mục chính yếu của lần trùng
tu này là nâng cao kích thước đền vua Đinh bằng hệ thống chân tảng.
Những bức chạm trang trí chân tảng rất đặc sắc ở đền vua Đinh được
thực hiện trong giai đoạn này.
2.2. Những giá trị nổi bật của nghệ thuật Trang trí ở hai
ngôi đền
2.2.1. Loại hình miếu thờ tiên đế
Trong những quốc gia phong kiến như Trung Hoa và Việt Nam
mặc dù có rất nhiều loại miếu thì Thế tổ miếu hay gọi ngắn lại là Thế
miếu, Cửu miếu bao giờ cũng là loại hình kiến trúc lớn nhất.
Truyền thống Nho giáo đề cao tôn ti, khuyến dương sự trung
thành của các công thần. Cũng do ảnh hưởng của Nho giáo, mặc dù
trong miếu có phối thờ các hoàng hậu nhưng trước đây nữ giới
không được tham dự các cuộc lễ này. Nghệ thuật Trang trí ở đền
miếu Việt Nam không ít thì nhiều chắc chắn phải thể hiện quan niệm
mỹ học, các quy chế, điển lễ Nho giáo. Nhưng ở mỗi triều đại, vai trò
của Nho giáo cũng không hoàn toàn giống nhau.
2.2.2. Đặc điểm hệ thống trang trí đền thờ vua Đinh, vua Lê
Đền thờ vua Đinh, vua Lê ở Hoa Lư, cũng có thể coi là Thái
Miếu nhà Đinh và Tiền Lê. Căn cứ vào hệ thống văn bia tại hai ngôi
đền chúng ta biết rằng ngay từ đầu, đây là nơi thờ tự được các triều
đại phong kiến đặc biệt quan tâm. Cho đến nay, ngoại trừ khu Thái
Miếu nhà Nguyễn, đền thờ vua Đinh, vua Lê là một chỉnh thể quy
mô và hoàn chỉnh nhất. Công thức chung cho hai ngôi đền này Nghi
môn ngoại, Nghi môn nội, tòa Tả vu, Hữu vu, nhà bia, sân chầu, tòa
Bái đường, tòa ống muống, tòa Hậu cung.
Nghệ thuật Trang trí ở đây hết sức phong phú các dạng thức đồ
án và chất liệu. Nghệ thuật Trang trí trên các đồ lễ khí, trên kiến trúc
cũng như một số tượng trang trí độc lập của hai ngôi đền đều hết sức
tinh diệu.
2.2.2.1. Tính Thiêng
Đền thờ vua Đinh cũng giống như các đền miếu Ấn Độ, hậu
cung bao giờ cũng là phần thâm sâu, bí hiểm và lung linh của đèn
nến, vàng bạc và hương khói. Tượng thờ và tuyệt đại đa số các đồ tế
khí ở đây đều được sơn son thếp vàng. Trong số các hương án và bát
bửu của người Việt, thì những tự khí này ở đền vua Đinh, vua Lê ở
hàng tuyệt phẩm. Chẳng hạn như chiếc phủ việt được trang trí hết
sức tinh xảo với chín con rồng lớn bé đang quần tụ, biểu dương uy
lực.
2.2.2.2. Tính chất trào lộng, thế tục
Đối lập với cái Thế tục là cái Thiêng. Một trong những lý do để
nghệ thuật Trang trí có khuynh hướng bài trừ tính thế tục và thế sự vì
nghệ thuật Trang trí ban đầu gắn liền với tín ngưỡng và tôn giáo.
Trong nghệ thuật Thiên chúa giáo ở châu Âu Niềm tin tôn giáo, sự
sùng kính ngợi ca mang tính đại tự sự đã loại bỏ những yếu tố thế tục
và thế sự nhằm đạt đến tính trang sức thuần khiết.
+ Tính thế tục và thế sự trong nghệ thuật Trang trí
Nghệ thuật Trang trí đền vua Đinh, vua Lê in đậm dấu ấn phong
cách thời Chính Hòa, tính thế tục xen lẫn cùng tính hoa mỹ; và đặc
biệt nữa, tính chất thế sự cũng được ẩn dụ qua những hình tượng
tưởng chừng như rất dân gian và ngây thơ.
Tiêu biểu nhất cho tính chất trào lộng, nghịch dị này là chiếc bia
lập năm Chính Hòa thứ 17 ở đền vua Đinh. Những hình ảnh trên bia
đá ở đền vua Đinh là chuyện hi hữu trong lịch sử nghệ thuật tạc bia
người Việt nhưng thái độ trào lộng, bông lơn thì luôn thấy trong thế
kỷ XVI-XVII - XVIII của nghệ thuật Trang trí điêu khắc đình làng.
Tiểu kết chương 2
Trong những lý do tạo nên sự đặc sắc của văn hóa Việt Nam là
không gian văn hóa làng. Cấu trúc làng xã Đại Việt đặc biệt phát
triển từ thế kỷ XIV – XVIII. Đây cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ
của các đền miếu. Không gian văn hóa làng được bao bọc bởi lũy tre,
như một màng lọc những nhân tố văn hóa ngoại lai đến từ các nền
văn minh lớn như Trung Hoa, Ấn Độ, phương Tây. Trong bối cảnh
cụ thể ấy, đền thờ vua Đinh vua Lê trước hết thể hiện sự tri ân, kính
ngưỡng các bậc tiên đế có công với dân tộc và niềm tự hào của người
dân cố đô. Hình ảnh của hai vị vua giờ đây đã trở thành hai vị thượng
đẳng thần hòa cùng hương khói, cỏ cây hoa lá, rồng tiên, tứ linh và
những người dân bình dị trong những hoạt cảnh đời thường. Những
đồ án trang trí tiên cưỡi rồng, hay cảnh gánh củi, câu cá, những bức
phong cảnh cầu Giền, đình Ngang, cầu Đông cũng như hình ảnh tôm
cá, cua chuột trên sập đá đã chen vào không gian vốn dĩ rất tôn
nghiêm của Nho giáo. Đây chính là điểm giải cấu trúc đại tự sự anh
hùng (heroic narratives) vốn có của các đền miếu vĩ nhân như
thường thấy trong văn hóa Trung Hoa.
Chương 3
SỰ DUNG HỢP MỸ THUẬT ẤN ĐỘ VÀ TRUNG HOA
TRONG MỘT SỐ ĐỒ ÁN TRANG TRÍ
Ở ĐỀN VUA ĐINH, VUA LÊ
Khi khảo cứu về giao lưu văn hóa Việt Nam với Ấn Độ, các nhà
khoa học thường nhắc đến truyền thuyết Chử Đồng Tử thời vua
Hùng. Truyền thuyến cho chúng ta biết Chử Đồng Tử học được đạo
Phật sau những chuyến đi buôn ngoài biển Đông. Tiếp theo chuyện
về Chử Đồng Tử, câu chuyện về một cô gái ở chùa Dâu có tên là
Man Nương trong sách Lĩnh Nam chích quái cho ta mường tượng về
quá trình Ấn Độ hóa thời kỳ đầu công nguyên theo kiểu thức lan tỏa
trong dân gian. Các tăng lữ Ấn Độ, cùng các thương nhân đến Giao
Châu bằng đường thủy và đường bộ. Có thể các nhà sư đã dừng chân
ở Bali (Java, Indonesia) hay Quảng Châu (Trung Quốc) rồi mới tới
Luy Lâu (tức Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay).
Cùng với tiếp xúc văn hóa với Ấn Độ, những ảnh hưởng văn
hóa Trung Hoa cũng vô cùng sâu đậm. Do vị trí địa lý và hoàn cảnh
lịch sử đã cho Việt Nam những cơ hội và thách thức trong việc giao
lưu, ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa.
Như đã nói ở trên, nghệ thuật Trang trí ở hai ngôi đền vua Đinh
và vua Lê chủ yếu là nghệ thuật của thế kỷ XVVII-XVIII-XIX. Đặc
điểm của giai đoạn này là Đại Việt đã cuốn vào lực hút Trung Hoa cả
trên phương diện chính trị và nghệ thuật. Những ảnh hưởng của văn
hóa Ấn Độ đã suy yếu rất nhiều, ngay cả trong lĩnh vực Phật giáo.
Tuy vậy, sự dung hợp các kiểu thức trang trí Ấn Độ và Trung Hoa
vẫn in dấu trong hệ thống trang trí ở hai ngôi đền này.
3.1. Đồ án thực vật – Hoa sen trên bức hoành phi
Đây là một bức tranh kể về một giấc mơ lạ liên quan đến sự
sinh hạ của một vị vua xuất sắc trên cương vị một vị tướng đánh
đông dẹp bắc nhưng lại có phần trữ tình, phảng phất hương quê.
Bức tranh sơn mài có bố cục rất lạ, hai bên là ‘họa’ vẽ khóm sen,
khóm trúc, ở giữa ‘thư’ viết hàng câu đối: Nhất mộng liên hoa sinh /Vạn
cổ lưu hương Trường Xuân điện - Bán dạ hoàng long ứng /Ức niên di
ảnh Đại Vân lâu (tạm dịch: Nhân mơ thấy hoa sen mà sinh ra Lê Hoàn/
Từ vạn cổ tiếng thơm còn lưu mãi trên điện Trường Xuân/ Nửa đêm
rồng vàng xuất hiện/ Ngàn năm hình ảnh cũ còn lưu lại ở trên lầu Đại
Vân).
Việc mẹ đức vua nhân mơ thấy hoa sen mà sinh ra vua Lê Đại
Hành khiến chúng ta liên tưởng tới một bức tượng hình ảnh một vị
bồ tát trong hình hai đứa trẻ từ đóa hoa sen chui ra hiện đang lưu giữ
tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam. Và nó cũng phảng phất xa
xôi câu chuyện thần Brahma sinh ra từ bông hoa mọc lên từ cuống
rốn của thần Visnu. Tại Bảo tàng Chăm Đà Nẵng hiện trưng bày một
bức phù điêu cực đẹp thể hiện thần sự ra đời của thần Brahma.
3.2. Đồ án linh thú
3.2.1. Đồ án rồng chầu
Dạng thức rồng chầu ở đền vua Đinh, vua Lê khá đa dạng, có
rồng chầu tay ngai, rồng chầu bảo tướng liên hoa, rồng chầu mặt
nhật, rồng chầu chữ Thọ, Phúc, Ngọc.
3.2.1.1. Đồ án rồng chầu tay ngai
Trong những hạng mục điêu khắc độc đáo ở đền vua Đinh, rồng
chầu tay ngai trong hậu cung và trước bái đường liên quan trực tiếp
đến huyền thoại rồng vàng liên quan đến Đinh Tiên Hoàng đế. Đây
là truyền thuyết sớm được ghi vào sử sách. Đại Việt sử lược (thời
Trần), Lĩnh Nam chích quái. Sách xưa nhắc đến tích truyện chú của
Đinh Bộ Lĩnh khi chuẩn bị rút gươm đâm cháu thì bỗng thấy hai con
rồng vàng che trên mình Vương. Ông chú sợ hãi rút lui rồi đầu hàng.
Từ truyền thuyết này, nghệ nhân xưa đã cho đục đôi rồng đá tay
ngai một trong hậu cung cạnh tượng thờ, một ở trước bái đường chầu
hai bên sập thờ. Dạng thức rồng chầu, đặc biệt ở dạng tượng tròn
không phổ biến, thậm chí là cực hiếm trong mỹ thuật Trung Hoa,
như rồng chầu thành bậc.
3.2.1.2. Đồ án rồng chầu bảo tướng liên hoa
Rồng chầu bảo tướng hoa. Bảo tướng hoa hay Bảo tướng liên
hoa là đồ án trang trí Phật giáo. Hình thức thường gặp nhất của bảo
tướng hoa là dạng tổ hợp của hoa sen, hoa cúc và hoa mẫu đơn. Trên
tấm bia Tiền triều Lê Đại Hành hoàng đế miếu công đức bi ký tịnh
minh khắc đôi rồng đang chầu bảo tướng liên hoa minh chứng những
dấu ấn Phật giáo trong không gian đền miếu theo mô hình Nho giáo.
3.2.1.3. Đồ án rồng chầu mặt nhật
Đây là đồ án rất phổ biến trong mỹ thuật người Việt, thường
xuất hiện trên trán bia, hương án, cửa khám, cửa võng, trên các mảng
chạm lá gió đình – đền – chùa.
Đồ án rồng chầu mặt nhật ở đền vua Đinh, vua Lê xuất hiện khá
đa dạng. Trên các tấm bia như Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế miếu
công đức bi ký tịnh minh, Tiền triều Lê Đại Hành hoàng đế miếu
công đức bi ký tịnh minh, đã khắc chạm công phu đồ án này. Nhìn
chung, với ý nghĩa biểu lộ sự kính ngưỡng, rồng có thần thái trang
nghiêm, không có ý hăm dọa dơ nanh múa vuốt như thường thấy ở
dạng đồ án lưỡng long tranh châu.
3.2.2. Đồ án rồng nhân dạng
Các sập đá xuất hiện nhiều trong các không gian tín ngưỡng của
người Việt, tuy nhiên chỉ có ít trong số đó có chạm khắc hoa văn trên
mặt sập. Và cho đến nay, ta mới chỉ thấy 02 chiếc sập đá ở đền vua
Đinh có chạm khắc hình rồng cuộn trên bề mặt.
Sự xuất hiện những bàn tay đầy nữ tính mọc ra từ thân thể một
con rồng oai vệ cuộn mình trên sập đá trước Nghi Môn ngoại đền
vua Đinh là một hiện tượng hi hữu trong lịch sử mỹ thuật của người
Việt. Phải chăng đây là dụng ý phá cách của người xưa chứa đựng
những giá trị nhân văn sâu sắc và những thông điệp đầy bí ẩn cần
tiếp tục nghiên cứu dưới nhiều góc độ.
3.2.3. Đồ án nghê đá
Nghê xuất hiện ở đền thờ vua Đinh, vua Lê với nhiều kiểu thức,
vị trí, chất liệu. Trong đó những đôi nghê đá ở đền vua Đinh là xuất
sắc nhất.
Trong nghệ thuật Trang trí phong kiến Trung Quốc và Việt
Nam có nhiều đồ án nghê như lưỡng nghê chầu nhật, lưỡng nghê
tranh châu, nghê hí cầu Nghê xuất hiện trong nghệ thuật Trung
Hoa liên quan đến văn hóa Phật giáo. Nghê là sự thiêng hóa của con
sư tử ở Việt Nam, nghê có thể còn là sự thiêng hóa của loài chó.
Khi nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam từ những so sánh với Trung
Hoa, chúng ta luôn bắt gặp những hình tượng có nguồn gốc phương
Bắc khi du nhập vào xứ ta có những thay đổi rất kỳ lạ. Hình ảnh
những con nghê là như vậy.
3.2.3.1. Sư tử nơi đền miếu, lăng tẩm Trung Hoa
Sư tử là một động vật có thật, tuy không phải là sinh vật bản
địa của người Trung Quốc nhưng đã từ rất lâu trở thành một phần
máu thịt của văn hóa Trung Hoa . Nó biểu tượng cho uy quyền và
sức mạnh.
3.2.3.2. So sánh nghê đá (VN) với sư tử đá (TQ) trong không
gian tưởng niệm, những nhận định ban đầu
Nếu coi các không gian tưởng niệm là một cấu trúc, thì con
nghê và sư tử nằm trong những cấu trúc vật chất và tinh thần rất khác
nhau. Đại đa số các lăng tẩm, đền miếu thời trước của người Việt đều
rất khiêm cung nhỏ nhắn, không có tường bao, những con thú đứng
lẫn trong cỏ cây hoa lá. Nghê trong rất nhiều trường hợp đã thay thế
kỳ lân đứng vào những vị trí tôn nghiêm ở đình miếu, lăng tẩm, đền
đài.
+ Nghề và ý niệm của hệ thống con thú nơi đền miếu, lăng tẩm
Một trong những cống hiến quan trọng của nghệ thuật Phật giáo
là khai thác sâu đời sống nội tâm của nhân vật và cung cấp cho các
loài muông thú nhân cách luận. Mặc dù việc đặt các tượng thú thờ
trong các không gian tưởng niệm có từ rất sớm trong văn hóa Trung
Hoa nhưng việc gắn cho nó những thần thái biểu cảm của con người
chỉ phát triển sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Hoa. Tượng nghê
đá, sư tử đá tuy rất khác nhau về trạng thái biểu cảm nhưng có chung
một đời sống tâm linh nơi đền miếu, phản ánh tâm thế của từng dân
tộc.
3.3. Đồ án quỷ thần
3.3.1. Đồ án Kala
Ở sập đá đền vua Lê, các mặt Kala cũng đậm dấu phong cách
Chăm - Ấn hơn. Trên bệ ngồi, mặt chính bức tượng La Hán thế kỷ
IX ở Đồng Dương, Quảng Nam, mặt trước thể hiện mặt Kala đang
ngậm hoa. Đây là điểm tương đồng với những mặt quỷ trên sập đá
đền vua Đinh, vua Lê. Sự hòa trộn kiểu thức Kala-Thao thiết là một
đặc điểm ít gặp trên các thành sập thờ. Đồ án này tạo nên vẻ thần bí,
ma thuật cho những chiếc sập ở đền vua Đinh, vua Lê.
3.3.2. Đồ án Yaksha
Nhìn vào bốn chân của những chiếc sập đá đền vua Đinh - vua
Lê, chúng ta thấy những khuôn mặt dữ tợn, mang những đặc điểm
nhân chủng Ấn Độ. Những khuôn mặt đầy hăm dọa này có thể là bộ
mặt của các quỷ Dạ xoa (Yaksha)- đây là những phỏng đoán dựa trên
những đặc điểm tạo hình của đồ án này. Trong mỹ thuật Ấn Độ cổ,
Yaksha thường thấy ở dạng dáng béo lùn, xấu xí là thuộc hạ của thần
tài Kubera / tức Vaisravana (Tỳ sa môn thiên vương trong hệ thống
Phật giáo).
Quỷ Dạ xoa, cùng với các Kala- Thao thiết tạo nên vẻ uy nghi,
tạo ra sự kinh sợ ở những chiếc sập. Có một hiện tượng khá phổ biển
trong nhiều nền văn hóa, sự hiện diện của các ác quỷ trên các ngai bệ
luôn ám chỉ sự thiêng liêng, địa vị tôn quý của chiếc bệ. Nó nhắc
người ta về địa vị và quyền lực của chủ nhân những chiếc bệ ngồi.
3.3.3. Đồ án quỷ La Hầu
Rahu khi phiên âm ra tiếng Hán gọi là La Hầu, Ketu gọi là Kế
Đô, đều là những ngôi sao cực xấu trong chiêm tinh học.
Hiện tại, cách gọi phổ biến là Long hàm thọ, Hổ phù, mặt nả.
Đồ án Long hàm thọ là cách gọi bắt nguồn từ hình ảnh đầu một con
rồng đang há miệng ngậm lấy chữ Thọ. Đồ án Rahu với tên gọi long
hàm thọ đã được chính thức cung đình hóa, sử dụng phổ biến trên
trán bia, trên đầu hồi điện Thái Hòa, điện Ngưng Hy.
Đồ án Rahu xuất hiện ở đền vua Đinh, vua Lê đều là các hạng
mục thời Nguyễn ví dụ trên các mảng chạm chân tảng ở đền vua
Đinh hay ở các đầu hồi, cột biểu, sập đá. Đồ án La Hầu làm tăng vẻ
uy nghi và uy lực cho các không gian thiêng của hai ngôi đền.
3.4. Đồ án thần tiên - tiên nữ cưỡi rồng
Đồ án tiên nữ cưỡi rồng rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
điêu khắc của người Việt thế kỷ XVI-XVII-XVIII. Các mảng chạm
tiên nữ cưỡi rồng xuất hiện ở cả hai ngôi đền vua Đinh và vua Lê.
So sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa đồ án Tiên
nữ cưỡi rồng với đồ án Thủy mẫu thừa long (Trung Quốc) và đồ án
nữ thần sông Hằng cưỡi cá sấu (Ấn Độ) để là rõ hơn những giá trị
Việt trong đồ án rất bay bổng này.
Những giá trị nghệ thuật đặc sắc của hình tượng tiên nữ cưỡi
rồng là kết quả giao lưu tiếp biến văn hóa với Trung Hoa, Ấn Độ của
văn hóa Đại Việt. Phần nhiều mang dáng vẻ phúc hậu, mộc mạc
phảng phất dáng hình của các cô thôn nữ, những nàng tiên như
những ước vọng hạnh phúc giản dị của con người Việt Nam tự ngàn
đời nay.
3.5. Đồ án phong cảnh
Trên những bức chạm này chúng ta chợt hay rằng ở Hoa Lư
cũng có những địa danh như cầu Đông, cầu Giền, Đình Ngang. Rất
có thể 1000 năm trước, khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng
Long, những người dân cố đô xưa đã theo vua Lý về đất rồng bay
mang theo những tên đất tên làng cũ.
Phong cảnh ở đây cũng có sơn có thủy, nhưng không phải là
chốn u tịch các hiền nhân ẩn. Tranh không có vẻ gì cao viễn, xa vời,
nó ấm áp và nhỏ bé như mong ước bao đời nay của người Việt.
Trong những bức phong cảnh ấy, ta thấy thấp thoáng những cảnh
chèo thuyền, gánh củi mà con người ở đây hiện lên thật thân thương.
Với người dân quê, sơn hà chính là con sông, ngọn núi, là cây
đa, bến nước, sân đình được hiển hiện trên những bức chạm khắc nơi
chân tảng đền thờ vị vua mở đầu kỷ nguyên Độc lập.
Tiểu kết chương 3
Đã từ rất lâu, những đồ án Kala, Yaksha, Rahu đã ẩn mình dưới
những danh xưng như thao thiết, hổ phù, quỳ long theo kiểu thức
Trung Hoa. Việc gọi đúng danh xưng không chỉ có mang tính chính
danh trong học thuật mà còn có ý nghĩa xác lập lại một hệ thống các
biểu tượng có nguồn gốc Ấn Độ trong mỹ thuật người Việt.
Việc khảo cứu đồ án hoa sen trang trí trên bức hoành phi cho
thấy mức độ ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ vẫn còn khá đậm đặc trong
mỹ thuật làng của người Việt.
Nhưng việc tách lớp văn hóa phương Bắc láng trên bề mặt này
của các bức chạm dạng tứ dân ta sẽ thấy những dấu vết của đời sống
tâm hồn Việt vẫn in dấu trên những bức phong cảnh thôn quê trên
mảnh đất Hoa Lư như đình Ngang, cầu Giền, cầu Đông, chùa Tháp.
KẾT LUẬN
1. Trong cách phân loại truyền thống hàn lâm của phương Tây,
nghệ thuật Trang trí chỉ là nghệ thuật trang điểm tạo nên cho bề mặt
những vẻ đẹp thị giác, tạo nên vẻ ưa nhìn. Việc coi nhẹ ý nghĩa biểu
tượng của nghệ thuật Trang trí sẽ hạn chế khả năng đọc các ý nghĩa
bên trong các hiện vật. Những dạng thức trang trí như thế đã sẵn
sàng hy sinh những vẻ đẹp sẵn có và khuôn mẫu pháp quy để hướng
đến những triết lý nhân sinh và ý niệm tôn giáo. Sự hấp dẫn mà nghệ
thuật Trang trí (trong mỹ thuật tôn giáo) đem đến cho người xem là
sự lôi cuốn của vẻ đẹp ý niệm. Nghệ thuật Trang trí đền vua Đinh,
vua Lê cho ta thêm tự hào về di sản nghệ thuật Trang trí của dân tộc,
thực tế ấy đòi hỏi những thay đổi trong cách phân loại, cách nhận
định quan phương, hàn lâm theo mô hình phương Tây.
2. Từ góc nhìn so sánh, luận án đã bước đầu phát lộ ra sự phức
tạp của quá trình đan xen của hai hệ thống thẩm mỹ Trung Hoa và
Ấn Độ trong một số hiện vật trang trí tiêu biểu ở hai ngôi đền vua
Đinh, vua Lê. Rất nhiều hiện vật như con nghê, cái sập đá, cho đến
bức hoành phi, khi mới thoạt nhìn, ta đinh ninh nó thuần túy là một
sản phẩm của văn hóa Trung Hoa, ấy vậy mà, chỉ thực sự thông qua
các thao tác đối sánh, những yếu tố tạo hình, những dạng thức trang
trí Ấn Độ mới hé lộ. Những nghiên cứu này cho thấy sự đa dạng văn
hóa trong bản thân nền mỹ thuật của người Việt. Những nhận thức
này thêm một lần nữa khẳng định dứt khoát rằng mỹ thuật Việt Nam
không phải là mô hình thu nhỏ, mang kiểu thức địa phương của mỹ
thuật Trung Hoa. Di sản nghệ thuật Trang trí cổ truyền Việt Nam nói
chung và nghệ thuật đền vua Đinh, vua Lê nói riêng là vô cùng đáng
tự hào. Càng đi sâu vào tìm hiểu, chúng ta càng thấy những giá trị vô
song ấy chẳng những đã thể hiện cốt cách, tâm hồn dân tộc. Không
những thế, nó còn thể hiện quá trình kết tinh và hội tụ những giá trị
tinh hoa của hai nền văn minh lớn là Trung Hoa và Ấn Độ. Qua
những mẫu khảo sát là các hiện vật trang trí đền vua Đinh, vua Lê,
luận án đã liên tục tiến hành các đối chiếu, liên hệ, so sánh với các
dạng thức, loại hình trang trí của Ấn Độ (thêm Chăm Pa, Indonesia,
Thái Lan, Lào) hay Trung Quốc để làm nổi bật quá trình tiếp biến
văn hóa trong nghệ thuật Trang trí của người Việt. Những nghiên
cứu so sánh này hướng đến những nhận thức khoa học, biện chứng
về mối quan hệ của những giá trị độc đáo của văn hóa truyền thống
trong quá trình giao lưu văn hóa với các nền văn hóa trong khu vực.
3. Nghệ thuật Trang trí đền vua Đinh, vua Lê thông qua một số
hiện vật tiêu biểu, được sáng tạo trong ba thế kỷ XVII-XVIII-XIX đã
đạt đến một trình độ sáng tạo rất cao, độc đáo, đặc sắc có một giá trị
nhân văn cao. Sở dĩ đạt được những thành tựu nghệ thuật ấy, trước
hết nhờ bàn tay khối óc của các nghệ nhân; và một phần quan trọng
nữa là sự kết hợp những giá trị tinh hoa của hai dòng chảy lớn Trung
Hoa và Ấn Độ. Kiểu thức Trung Hoa-Ấn Độ trong nghệ thuật Trang
trí Đại Việt đã đạt đến độ kinh điển trong mỹ thuật Lý – Trần. Do
hoàn cảnh lịch sử quốc tế, ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa từ thời
nhà Lê đến nhà Nguyễn ngày càng mạnh lên, chiếm thế chủ đạo. Tuy
nhiên, ngay trong thời Nguyễn khi mà mô hình văn hóa Trung Hoa
được đề cao hơn bao giờ hết thì những yếu tố văn hóa Ấn Độ vẫn
tiếp tục được duy trì. Việc nghiên cứu đồ án La Hầu- Ra Hu (Hổ
phù) trong các đồ án trang trí thời Nguyễn ở đền vua Đinh, vua Lê
cho thấy dạng thức long hàm thọ (thường được xem có nguồn gốc từ
mỹ thuật Trung Hoa) vốn có xuất xứ từ Ấn Độ.
4. Ngôi đền thờ vua Đinh, vua Lê ở Hoa Lư thật khiêm tốn khi
so sánh với đền miếu vô cùng kỳ vỹ ở Trung Hoa và Ấn Độ. Dẫu
vậy, những tiếng nói nghệ thuật rất đời thường, rất tình người của
chiều kích văn hóa làng là thông điệp của cha ông gửi lại cho con
cháu. Cùng với việc hội nhập với thế giới, một thách thức với Việt
Nam là làm sao gìn giữ được diện mạo văn hóa bản địa đặc trưng.
Các giá trị di sản đang đứng trước những thách thức nghiêm trọng.
Những tinh hoa văn hóa cổ truyền phát triển đến ngày hôm nay là kết
quả lâu đời của phẩm cách dân tộc, là kết quả của những lối ứng xử
ưa trọng sự giản dị, thuần hậu. Cho dù những chiều kích vật chất
không to lớn nhưng nó vồn hài hòa với tầm vóc và bản tính con
người Việt Nam rất cần được trân trọng và bảo vệ.
5. Do bối cảnh hội nhập quốc tế, sự phối hợp nghiên cứu liên
quốc gia, những nghiên cứu so sánh trên lĩnh vực nghệ thuật là một
hướng phát triển tất yếu. Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt
Nam là một trong những cơ sở đào tạo NCS chuyên ngành văn hóa
nghệ thuật hàng đầu của đất nước, nơi hội đủ những nền tảng kiến
thức về những lĩnh vực như Văn hóa học, Nhân loại học, Xã hội học,
Nghệ thuật học. Những đối chiếu, so sánh các hiện tượng mỹ thuật
vượt lên trên ranh giới các loại hình, đường biên quốc gia, khung lịch
đại đang được ủng hộ và khuyến khích. Trong tương lai, những
nghiên cứu trong lĩnh vực Nghệ thuật học so sánh (bao gồm Mỹ
thuật học so sánh) sẽ một càng nhiều thêm, góp phần thiết thực cho
quá trình hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Sách
1. Lê Văn Thao, Nguyễn Đức Hòa, Trần Hậu Yên Thế (2012),
Đồ án trang trí mỹ thuật ở hai đền Vua Đinh – Vua Lê
(Hoa Lư-Ninh Bình), Nxb Thế Giới, Hà Nội.
Tạp chí
2. Trần Hậu Yên Thế (2011), “Nhận thức tính phổ quát liên
văn hóa trong mỹ thuật cổ truyền qua ví dụ hình tượng
con nghê ở đền, miếu”, Nghiên cứu Mỹ thuật, (40), tr. 7-
14.
3. Trần Hậu Yên Thế (2011), “Hoa sen trên bức họa cổ, truyền
thuyết và lịch sử”, Tạp chí Mỹ thuật, (222), tr. 15-16.
4. Trần Hậu Yên Thế (2013), “Hiện tượng sập rồng đền vua
Đinh, tham chiếu từ thuyết Anthropomorphism, Nghiên
cứu Mỹ thuật, (43-44), tr.44-53.
4. Trần Hậu Yên Thế (2016), “Đi tìm nguồn gốc của Hổ phù
trong Mỹ thuật của người Việt”. Tạp chí Kiến trúc,
(249+250), tr.91-94.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghe_thuat_trang_tri_den_vua_dinh_vua_l_e_t_u_goc_nhin_so_sanh_v_oi_an_do_va_trung_hoa_nghien_c_uu_m.pdf