Trong cùng 1 loài thì tinh dầu thu được từ các bộ phận là khác nhau, nhưng sự
khác nhau này là không đáng kể. Tinh dầu ở các bộ phận của các loài nghiên cứu thì
hàm lượng tinh dầu của thân giả là thấp nhất và cao nhất là tinh dầu thân rễ.
Trong số 7 loài được nghiên cứu về tinh dầu thì tinh dầu lá của cả 7 loài đều có
tỉ lệ các monotecpen cao hơn so với các sequitecpen. Trong thành phần tinh dầu thân
giả, thân rễ của loài A. maclurei, A. malaccensis, A. menghaiensis, A. mutica tỉ lệ các
monotecpen cũng cao hơn so với sesquitecpen. Nhưng tinh dầu thân giả, thân rễ của
loài Alpinia latilabris, A. pinnanensis, A. polyantha lại có tỉ lệ các sesquitecpen cao
hơn so với các monotecpen
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 28 trang
28 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 774 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, thành phần hóa học tinh dầu của một số loài trong chi riềng (alpinia roxb.) và sa nhân (amomum roxb.) thuộc họ gừng (zingiberaceae lindl.) ở bắc trung bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 TIẾN SĨ SINH HỌC 
Chuyên ngành: Thực vật học 
Mã số: 62.42.01.11 
HÀ NỘI, 2016 
Luận án được hoàn thành tại Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Hàn lâm 
Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Trần Thế Bách 
 2. PGS. TS. Trần Đình Thắng 
 Người phản biện 1: PGS. TS. Trần Huy Thái 
 Người phản biện 2: GS. TSKH. Trần Văn Sung 
 Người phản biện 3: PGS. TS. Nguyễn Trung Thành 
Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp Viện, họp tại tầng 6 Viện 
Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Vào hồi 9 giờ, ngày 30 tháng 03 năm 2016 
Có thể tìm luận án tại, Thư viện Quốc gia Việt Nam, 
Thư viện Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật 
1 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Trong ngành thực vật hạt kín thì họ Gừng (Zingiberaceae Lindl.) không phải là họ 
lớn, chỉ có khoảng 52 chi, 1.500 loài. Các loài trong họ Gừng phân bố chủ yếu ở 
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt là vùng Đông Nam Á. Việt Nam là nước 
nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, lại có địa hình phức tạp với nhiều vùng địa lí, 
khí hậu khác nhau, do đó rất thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của thực vật 
nói chung và các cây họ Gừng nói riêng. 
Trong các nhóm cây tài nguyên thực vật thì nhóm cây cho tinh dầu có vị trí quan 
trọng. Đây là nguồn cung cấp nguyên liệu tự nhiên cho nhiều ngành công nghiệp như 
hương liệu, mỹ phẩm, dược phẩm. Vì vậy, việc điều tra nghiên cứu, khai thác, phát 
triển, sử dụng bền vững và đạt hiệu quả tối ưu nguồn tài nguyên có tinh dầu là nhiệm 
vụ đã và đang đặt ra yêu cầu cấp thiết. 
Theo điều tra chưa đầy đủ của các nhà khoa học thì ở nước ta hiện có khoảng 635 
loài cây có tinh dầu thuộc 116 họ thực vật. Các họ có nhiều loài cây chứa tinh dầu 
gồm: Cúc (Asteraceae), Cam (Rutaceae), Na (Annonaceae), Long não (Lauraceae), 
Bạc hà (Lamiaceae), Hoa tán (Apiaceae), Hoa hồng (Rosaceae), Cà phê (Rubiaceae), 
Dầu (Dipterocarpaceae), Nhài (Oleaceae), Lúa (Poaceae), Thông (Pinaceae), Hoàng 
đàn (Cupressaceae), Sim (Myrtaceae), Gừng (Zingiberaceae),.... Trong họ Gừng thì 
chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân (Amomum Roxb.) là 2 chi có hầu hết các loài cho 
tinh dầu với những giá trị sử dụng như làm thuốc, làm gia vị, làm hương liệu. Nhiều 
loài trong hai chi này đã trở thành hàng hóa có giá trị và được buôn bán với số lượng 
tương đối lớn ở trong nước cũng như trên thế giới. 
Khu vực Bắc Trung Bộ được đánh giá là một trong những trung tâm đa dạng 
sinh học của Việt Nam, với 5 VQG là Bến En, Pù Mát, Vũ Quang, Phong Nha - Kẻ 
Bàng, Bạch Mã và nhiều khu BTTN như Xuân Liên, Pù Luông, Pù Hu, Pù Huống, 
Pù Hoạt, Kẻ Gỗ, Bắc Hướng Hoá, Phong Điền, Tuy nhiên, hiện nay, công tác 
nghiên cứu đa dạng tài nguyên thực vật nói chung và 2 chi trong họ Gừng nói riêng 
ở đây chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Vì vậy, việc thu thập 
các dữ liệu về các đặc điểm sinh học, sinh thái và tinh dầu của các loài trong chi 
2 
Riềng (Alpinia Roxb.) và chi Sa nhân (Amomum Roxb.) của họ Gừng 
(Zingiberaceae Lindl.) nhằm tìm hiểu khả năng ứng dụng chúng là công việc có ý 
nghĩa cả về khoa học lẫn thực tiễn. Xuất phát từ những vấn đề trên tôi chọn đề tài: 
“Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, thành phần hóa học tinh dầu của một 
số loài trong chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân (Amomum Roxb.) thuộc họ 
Gừng (Zingiberaceae Lindl.) ở Bắc Trung Bộ”. 
2. Mục tiêu 
Mô tả được đặc điểm sinh học, sinh thái và xác định được hàm lượng tinh dầu, 
thành phần và hàm lượng các cấu tử tinh dầu một số loài trong 2 chi Riềng (Alpinia 
Roxb.) và Sa nhân (Amomum Roxb.) thuộc họ Gừng (Zingiberaceae Lindl.) ở Bắc 
Trung Bộ góp phần công tác điều tra nghiên cứu cơ bản, đánh giá tiềm năng nguồn tài 
nguyên thực vật ở các tỉnh phía Bắc Trung Bộ. 
3. Ý nghĩa của đề tài luận án 
Các kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp vào số liệu điều tra tính đa dạng 
thành phần loài và cung cấp những dẫn liệu mới về thành phần loài, thành phần hoá 
học tinh dầu của một số loài trong 2 chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân (Amomum 
Roxb.) thuộc họ Gừng (Zingiberaceae Lindl.) ở khu vực Bắc Trung Bộ nói riêng và 
Việt Nam nói chung. 
4. Những điểm mới của luận án 
- Bổ sung 2 loài trong chi Riềng (Alpinia Roxb.) cho hệ thực vật Việt Nam là Riềng 
nhiều hoa (Alpinia polyantha D. Fang) và Riềng lá nhăn (Alpinia rugosa S. J. Chen & Z. 
Y. Chen). 
- Ghi nhận thêm vùng phân bố của 6 loài trong khu vực Bắc Trung Bộ là Alpinia 
blepharocalyx K. Schum., Alpinia macroura K. Schum., Alpinia malaccensis 
(Burm.f.) Rosc., Alpinia menghaiensis S.Q. Tong & Y.M. Xia, Amomum aromaticum 
Roxb. và Amomum muricarpum Elmer. 
- Cung cấp những dẫn liệu về hàm lượng, thành phần hóa học trong tinh dầu ở 
các bộ phận lá, thân giả, thân rễ, hoa và quả của 12 loài với các hợp chất chủ yếu là 
monotecpen và sesquitecpen. 
3 
- Lần đầu tiên cung cấp những dẫn liệu về tinh dầu của các loài: Alpinia 
menghaiensis, Alpinia polyantha, Amomum maximum, Amomum muricarpum, 
Amomum gagnepainii. 
5. Bố cục của luận án 
Luận án bao gồm 112 trang; Mở đầu - 3 trang (1-3); Chương 1 - Tổng quan tài 
liệu - 24 trang (4-27); Chương 2 - Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu - 
5 trang (28-32); Chương 3 - Kết quả nghiên cứu và thảo luận - 78 trang (33-110); Kết 
luận và kiến nghị - 2 trang (111-112); Danh mục các công trình công bố của tác giả 
liên quan đến luận án; Tài liệu tham khảo; Phụ lục 1; Còn có 17 bảng, 26 hình và 38 
trang ảnh màu. 
CHƢƠNG 1 
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
1.1. Nghiên cứu về họ Gừng (Zingiberaceae) 
1.1.1. Trên thế giới 
C. Linnaeus (1753) là người đầu tiên nghiên cứu về họ Gừng dựa trên các mẫu 
vật của Engelbert Kaempfer, ông đã mô tả và đặt tên 2 loài thuộc họ Gừng 
(Zingiberaceae) là Kaempferia galanga và Kaempferia rotunda. Sau này có các công 
trình của J. G. Koenig (1783), W. Roxburgh (1815), C. L. Blume (1823), Lindley 
(1835), G. Bentham & J. D. Hooker (1883), J. G. Baker (1892), R. E. Holttum (1950), 
T. L. Wu & S. J. Chen (1981, 2000). 
1.1.2. Ở Việt Nam 
Ở Việt Nam, công trình đầu tiên đề cập đến các taxon họ Gừng là của Loureio J. 
(1793), tác giả đã mô tả 3 chi với 13 loài có ở Miền Nam Việt Nam. Những nghiên 
cứu về họ Gừng ở Việt Nam đáng kể nhất phải kế đến công trình nghiên cứu của 
Gagnepain (1908), Lê Khả Kế và cs (1975), Phạm Hoàng Hộ (1972), Phạm Hoàng 
Hộ (1993, 2000), Theilade & Mood J. (1999), Larsen K. & Newman M.F. (2001), 
Rehse T. & Kress J. (2003). Nghiên cứu đầy đủ và có tính hệ thống nhất về họ Gừng 
4 
ở Việt Nam có công trình nghiên cứu của Nguyễn Quốc Bình (2011), tác giả đã công 
bố ở Việt Nam có 19 chi với 144 loài và thứ. 
1.2. Nghiên cứu về chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân (Amomum Roxb.) 
1.2.1. Nghiên cứu chi Riềng (Alpinia Roxb.) 
Chi riềng (Alpinia) là chi lớn nhất của họ gừng (Zingiberaceae) với khoảng 250 
loài, được mô tả đầu tiên bởi W. Roxburgh vào năm 1810, các loài trong chi này chủ 
yếu phân bố ở rừng mưa nhiệt đới và cận nhiệt đới Châu Á, Australia và một số đảo 
Thái Bình Dương. Các công trình nghiên cứu điển hình là Ridley (1924), Wu và 
Larsen (2000), Saensouk et al., (2003), Phạm Hoàng Hộ (1993, 2000). Công trình đầy 
đủ và tương đối hoàn thiên về họ Gừng (Zingiberaceae) nói chung và chi Riềng 
(Alpinia) rói riêng của tác giả Nguyễn Quốc Bình. Tác giả đưa ra hệ thống phân loại 
các loài trong chi này, theo tác giả thì chi Riềng (Alpinia) hiện biết 31 loài phân bố 
khắp các vùng trong cả nước, trong đó có nhiều loài là loài đặc hữu của Việt Nam. 
Trong số 31 loài nghiên cứu tác giả đã công bố 1 loài mới cho khoa học (Alpinia 
calcicola Q. B. Nguyen & M. F. Newman) và bổ sung 7 loài cho hệ thực vật Việt Nam. 
1.2.2. Chi Sa nhân (Amomum Roxb.) 
Linnaeus (1753) là người đầu tiên nghiên cứu về các loài thuộc chi sa nhân, trong 
nghiên cứu của mình ông đã ghi nhận 4 loài thuộc chi Amomum. Kế tiếp các công 
trình nghiên cứu của Linnae, là Konig (1823), Bentham G. & Hooker J.D. (1883), 
Holtum (), Backer C.A. (1968), Smith R.S. (1985), Gagnepain (1908), Wu & Larsen 
(2000), Phạm Hoàng Hộ (1993, 2000), Wittaya K. (2006). Năm 2011, tác giả Nguyễn 
Quốc Bình với công trình nghiên cứu đầy đủ, chi tiết và có hệ thống về họ Gừng đã công 
bố ở Việt Nam chi Amomum có 21 loài phân bố khắp các vùng trong cả nước. 
1.3. Giá trị sử dụng trong 2 chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân (Amomum Roxb.) 
Phần này nêu lên giá trị sử dụng của các loài trong 2 chi được nghiên cứu ở trên thế 
giới và Việt Nam. 
1.4. Tìm hiểu về tinh dầu 
Phần này nêu lên khái niệm về tinh dầu, đặc tính của tinh dầu và sắp xếp tinh dầu 
vào các nhóm khác nhau. 
5 
1.5. Nghiên cứu về tinh dầu của 2 chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân 
(Amomum Roxb.) trên thế giới và ở Việt Nam 
Hiện nay, trên thế giới và ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu thành phần hóa 
học tinh dầu từ các bộ phận lá, thân, thân rễ, hoa, quả của một số loài trong 2 chi 
Riềng và Sa nhân. Tuy nhiên, các công trình chỉ được nghiên cứu riêng lẻ chưa có 
tính hệ thống. Như vậy, nghiên cứu về 2 chi này đang còn ít chưa xứng với tiềm năng 
và sự đa dạng của chúng. 
1.6. Điều kiện tự nhiên xã hội ở Bắc Trung Bộ 
Phần này nêu lên vị trí địa lý, địa hình, địa mạo, đặc điểm khí hậu, đặc điểm 
kinh tế xã hội, đặc điểm hệ thực vật của khu vực nghiên cứu. 
CHƢƠNG 2 
ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu: Các loài trong 2 chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân 
(Amomum Roxb.) thuộc họ Gừng (Zingiberaceae Lindl.) phân bố ở Bắc Trung Bộ. 
Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu là các Vườn Quốc Gia (Bến En, Pù Mát, Vũ Quang, 
Phong Nha - Kẻ Bàng, Bạch Mã) và các Khu bảo tồn thiên nhiên (Xuân Liên, Pù 
Luông, Pù Hoạt, Pù Huống, Kẻ Gỗ) ở Bắc Trung Bộ. Ngoài ra còn thu mẫu ở một số 
địa điểm của các huyện: Nghi Lộc, Thanh Chương, Kỳ Sơn, Tân Kỳ, Quế Phong 
(Nghệ An), Hương Sơn, Thạch Hà (Hà Tĩnh), Nam Đông, Phú Lộc (Thừa Thiên Huế). 
2.2. Nội dung nghiên cứu 
- Nghiên cứu tính đa dạng thực vật của 2 chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân 
(Amomum Roxb.) thuộc họ Gừng (Zingiberaceae Lindl.) phân bố ở Bắc Trung Bộ. 
- Nghiên cứu các đặc điểm sinh học, sinh thái của các loài trong 2 chi Riềng 
(Alpinia Roxb.) và Sa nhân (Amomum Roxb.) thuộc họ Gừng (Zingiberaceae Lindl.) 
ở Bắc Trung Bộ. 
- Tìm hiểu về giá trị sử dụng của các loài nói trên. 
6 
- Xác định hàm lượng, thành phần hóa học tinh dầu của một số loài trong 2 chi 
Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân (Amomum Roxb.) của họ Gừng (Zingiberaceae 
Lindl.) ở Bắc Trung Bộ. 
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu 
2.3.1. Phƣơng pháp nghiên cứu sinh học 
2.3.1.1. Phƣơng pháp kế thừa số liệu 
Các số liệu về điều kiện tự nhiên, xã hội ở khu vực nghiên cứu, các mẫu vật lưu ở 
bảo tàng trong nước và nước ngoài, các công trình công bố liên quan. 
2.3.1.2. Phƣơng pháp điều tra thực địa 
Ở mỗi địa điểm nghiên cứu chúng tôi chọn các tuyến điều tra chính để nghiên cứu: 
+ VQG Bến En: tuyến Sông Tràng - Bãi Trành; tuyến Đồng Mười – Hồ Sông 
Mực - Điện Ngọc; tuyến Đồng Mười - Xuân Thái; tuyến Xuân Khang – Bình Lương. 
+ VQG Pù Mát: tuyến Lục Dạ - Môn Sơn; tuyến Khe Bu; tuyến Khe Kèm; tuyến 
Tam Đình - Tam Hợp. 
+ VQG Vũ Quang: tuyến Hương Quang - Dốc Dẻ; tuyến Hương Đại 
+ VQG Phong Nha – Kẻ Bàng: tuyến Đèo Đá Đẻo; tuyến ngã ba Đông và Tây 
đường Trường Sơn - U Bò. 
+ VQG Bạch Mã: tuyến Trung tâm Vườn - Thác Thủy Điện - thác Đá Dựng; 
tuyến Trĩ Sao - Đỉnh Bạch Mã - Đỗ Quyên; tuyến Nam Đông (Hương Phú, Thượng 
Nhật, Hưng Lộc). 
+ Khu BTTN Xuân Liên: tuyến Yên Nhân – Bát Mọt. 
+ Khu BTTN Pù Luông: tuyến Phú Lệ; tuyến Cổ Lũng – Lũng Cao. 
+ Khu BTTN Pù Huống: tuyến Châu Thái- Nam Sơn – Bắc Sơn – Bình Chuẩn; 
tuyến Châu Hoàn – Diên Lãm – Quang Phong. 
+ Khu BTTN Pù Hoạt: Tri Lễ - Nậm Giải; Hạnh Dịch – Thông Thụ. 
+ Khu BTTN Kẻ Gỗ: Trung tâm du lịch đến các khu vực chạy theo phía Nam - 
Bắc. 
2.3.1.3. Phƣơng pháp thu mẫu và định loại 
Mỗi cây ít nhất thu 2-3 mẫu tiêu bản ở cùng 1 địa điểm. Sau khi thu mẫu đánh số 
hiệu vào mẫu. Khi thu mẫu thì ghi chép tỉ mỉ ngay những đặc điểm dễ bị mất khi mẫu 
khô hoặc ngâm trong dung dịch như: màu sắc, hình dạng tự nhiên của hoa, quả, lá ... 
Đặc biệt, hoa của loài này thường mọng nước, do đó nếu ép khô thường dính lại với 
7 
nhau, và dễ thối nên khó phân tích, Vì vậy, đối với mẫu của hoa chúng tôi thu riêng 
và cho vào dung dịch cồn 45-55%, bởi vì khi cho vào dung dịch cồn thì mẫu nghiên 
cứu có thể giữ được thời gian lâu mà không bị thối nát, cấu trúc, hình dạng và màu 
sắc của hoa không bị thay đổi nên dễ dàng phân tích hơn. Ngoải ra còn chụp ảnh tổng 
thể và chi tiết từng bộ phận của cây bằng máy ảnh kĩ thuật số Canon. 
Sau khi mẫu được xử lý sơ bộ ở ngoài thực địa, tiếp tục xử lý khô tại phòng mẫu 
thực vật của trường Đại học Vinh. 
Phương pháp dùng để nghiên cứu phân loại là phương pháp hình thái so sánh. Đây 
là phương pháp nghiên cứu truyền thống nhưng vẫn là phương pháp thông dụng được 
sử dụng hiện nay. Trong phương pháp này chúng tôi dựa trên các đặc điểm của cơ 
quan sinh dưỡng và cơ quan sinh sản để nghiên cứu trong đó chủ yếu dựa vào cơ quan 
sinh sản như vị trí cụm hoa, cấu tạo của hoa, đặc điểm của lá bắc, đài hoa, đặc biệt là 
đặc điểm của cánh môi, cấu tạo của nhị và nhị lép bên. Bởi vì đây là những đặc điểm ít 
thay đổi dưới tác động của điều kiện sống. 
Tổng số mẫu thu được là hơn 1.000 mẫu, số mẫu đã phân tích và xác định tên khoa 
học là 600 mẫu. Mẫu hiện được lưu trữ ở phòng mẫu Thực vật, khoa Sinh học. 
 Các tài liệu chính được sử dụng trong quá trình nghiên cứu mẫu là: Nguyễn Quốc 
Bình (2011), Phân loại Họ Gừng ở Việt Nam; Phạm Hoàng Hộ (2000), Cây cỏ Việt 
Nam, Quyển III; H. W. Li (1982), Flora of China; T. Wu và L. K. Larsen (2000), Flora 
of China, Vol. 24, Zingiberaceae. 
2.3.1.4. Tìm hiểu về giá trị sử dụng của các loài trong chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa 
nhân (Amomum Roxb.) ở Bắc Trung Bộ 
Tìm hiểu về giá trị sử dụng của các loài trong 2 chi qua các tài liệu đã công bố trong 
và ngoài nước về các loài nghiên cứu để bổ sung vào giá trị sử dụng tài nguyên của 2 chi 
này trong họ Gừng: Võ Văn Chi (2012), Đỗ Tất Lợi (1995), Lê Trần Đức (1997), Triệu 
Văn Hùng và cs (2007), Đỗ Huy Bích và cs (2004), Tushar B.S. et al., (2010). Hanh N.P 
et al., (2015), Wongsatit C. (2003) và thông qua phỏng vấn người dân. 
2.3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thành phần hóa học tinh dầu 
2.3.2.1. Thu mẫu và chƣng cất tinh dầu 
Mẫu để chưng cất tinh dầu là các bộ phận riêng biệt của cây (lá, thân giả, thân rễ, 
hoa, quả). Mỗi mẫu thu từ 0,5-3 kg tươi. Mẫu được ghi số hiệu (số hiệu này trùng với 
số hiệu mẫu để định loại) và ngày tháng thu. Sau khi thu hái, mẫu được cắt nhỏ và 
8 
chưng cất bằng phương pháp lôi cuốn hơi nước có hồi lưu trong thiết bị Clevenger 
trong thời gian 2-4 giờ ở áp suất thường theo tiêu chuẩn Dược điển Việt Nam (2002). 
2.3.2.2. Phƣơng pháp định lƣợng tinh dầu 
Tinh dầu của các bộ phận khác nhau được định lượng theo phương pháp I của 
Dược điển Việt Nam II (2002). Hàm lượng tinh dầu được tính theo công thức. 
X(%) = (khi d<1) 
Hoặc theo công thức 
X(%) = (khi d>1) 
Trong đó: a là thể tích của tinh dầu tính bằng ml 
 b là khối lượng của mẫu tính bằng gam. 
Tinh dầu được làm khô bằng Na2SO4 khan, đựng trong các lọ tiêu chuẩn đậy kín, 
bảo quản ở 0-5oC trước khi đem phân tích. 
2.3.2.3. Phƣơng pháp phân tích thành phần hoá học tinh dầu 
Chuẩn bị mẫu phân tích cho sắc ký khí : Hoà tan 1,5 mg tinh dầu đã được làm 
khô bằng Na2SO4 khan trong 1ml hexan tinh khiết loại dùng cho phân tích sắc ký. 
Sắc ký khí (GC) với đầu dò FID: Được thực hiện trên máy Agilent Technologies 
HP 6890N Plus với detectơ FID, cột mao quản HP-5MS chiều dài 30 m, đường kính 
trong (ID) = 0,25 mm, lớp phim mỏng 0,25m với khí mang là hydro. Nhiệt độ buồng 
bơm mẫu là 250oC. Nhiệt độ Detectơ là 260oC. Chương trình nhiệt độ 60oC (2 min), tăng 
4
oC/phút cho đến 220oC, dừng ở nhiệt độ này trong 10 phút. 
Sắc ký khí-khối phổ (GC/MS): Được thực hiện trên hệ thống thiết bị sắc ký khí khối 
phổ liên hợp Agilent Technologies HP 6890N/ HP 5973 MSD với cột tách và các điều 
kiện vận hành sắc ký như nêu ở trên và với Heli làm khí mang. 
Việc xác định định tính các thành phần của tinh dầu được thực hiện bằng các 
phương pháp sau: 
- Dựa trên giá trị của chỉ số lưu giữ (Retention Index), xác định với một dãy các 
đồng đẳng n-alkan trong cùng một điều kiện sắc ký. 
a x 0,9 
b 
x 100% 
a 
 b 
x 100% 
9 
- Dựa trên sắc ký nội chuẩn (co-injection) với các chất chuẩn thương mại (của hãng 
Sigma-Aldrich, St. Louis, MO, USA) hoặc với các thành phần tinh dầu đã biết. 
- Dựa trên phổ khối lượng, so sánh với phổ khối lượng tìm thấy trong các ngân 
hàng dữ liệu (NIST 08 và Wiley 9th Version) hoặc so sánh với các dữ liệu của các tài 
liệu tham khảo. 
Tỉ lệ % các thành phần trong tinh dầu được tính toán dựa trên diện tích hoặc chiều 
cao của pic sắc ký (detector FID) mà không sử dụng các yếu tố điều chỉnh. 
2.4. Phƣơng pháp xử lí số liệu 
Số liệu được xử lí trên phần mềm Microsoft Office Excel 2007. 
CHƢƠNG 3 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Đặc điểm sinh học của các loài trong 2 chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân 
(Amomum Roxb.) phân bố ở Bắc Trung Bộ 
3.1.1. Đặc điểm chung của chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân (Amomum Roxb.) 
* Chi Riềng (Alpinia Roxb.) 
+ Thân: Thân là thân giả (thân được tạo thành do các bẹ lá ôm lấy nhau), thân cao từ 
0,5-3 m thậm chí cao đến 4 m (A. polyantha), thân rễ to, nằm ngay dưới mặt đất, thân 
cây có mùi thơm. 
+ Lá: Lá đơn mọc cách, lá có cấu tạo gồm phiến lá, cuống lá, lưỡi lá và bẹ lá. 
- Phiến lá: Dạng mác (A. blepharocalyx, A. conchigera, A. gagnepainii, A. galanga, 
A. globosa,) hoặc dạng thuôn (A. breviligulata, A. intermedia, A. kwangsiensis, A. 
maclurei, A. macroura, A. malaccensis,); có kích thước rất thay đổi; có lông cả 2 
mặt hay chỉ có lông một mặt, thường có lông ở mặt dưới (A. conchigera, A. 
kwangsiensis, A. menghaiensis, A. pinnanensis, A. strobiliformis,), hoặc có lông ở 
hai mép phiến lá và gân giữa (A. mutica) hay nhẵn không lông (A. breviligulata, A. 
globosa,...); có mũi nhọn. 
- Cuống lá: Lá có thể không cuống (A. breviligulata, A. galanga, A. officinarum,) 
hay có cuống ngắn hơn 1 cm (A. conchigera, A. strobiliformis, ...) hoặc dài từ 1-9 cm 
10 
(A. intermedia, A. kwangsiensis, A. maclurei, A. pinnanensis, A. polyantha, A. 
tonkinensis,...). 
- Lƣỡi lá: Đa số các loài trong chi này có lưỡi lá xẻ làm 2 như: A. intermedia, A. 
kwangsiensis, A. maclurei, A. pinnanensis, A. polyantha, A. tonkinensis, ), một số 
loài có lưỡi lá nguyên (A. breviligulata, A.conchigera), lưỡi lá có thể dài hơn cuống lá 
(A. gagnepainii, A. galanga, A. officinarum) nhưng thường ngắn hơn cuống lá. 
- Bẹ lá: Bẹ lá ôm lấy nhau tạo thân giả ở tất cả các loài. 
+ Hoa: Cụm hoa mọc ở ngọn thân có lá, hình bông (A. pinnanensis, A. strobiliformis), 
chùm đơn (cụm hoa không phân nhánh: A. kwangsiensis, A. malaccensis, A. 
menghaiensis) hoặc chùm kép (hình chùy) (cụm hoa phân nhánh: A. breviligulata, A. 
macroura, A. oblongifolia, A. polyantha,). Hoa thường có cuống ngắn. Lá bắc chính 
sớm rụng, hình trứng hoặc hình trứng rộng. Lá bắc con dạng ống, mở đến gốc (A. 
menghaiensis, A. macroura, A. malaccensis) hay không (A. conchigera). Đài hoa dạng 
ống (A. breviligulata, A. galanga) hay dạng phễu (A. mutica); các cánh hoa thường có 
màu trắng; cánh môi có kích thước to hơn các cánh bên, hình trứng ngược (A. 
conchigera), hình trái xoan (A. menghaiensis, A. macroura), hình chữ nhật (A. 
galanga); có màu sắc sặc sỡ như màu vàng, hồng; chia thùy ở phía trên đầu (A. 
menghaiensis, A. polyantha,). Nhị có bao phấn kéo dài thành mào (A. oblongifolia, 
A. intermedia, A. tonkinensis, A. latilabris, A. maclurei) hay không (A. globosa, A. 
officinarum, A. mutica). 
+ Quả: kích thước từ 0,5 - 3 cm, hình cầu hay bầu dục, đặc biệt quả loài Riềng nếp (A. 
galanga) có hình bầu dục nhưng thắt eo ở giữa, đây là đặc điểm để nhận biết loài này; 
quả khô không mở; có nhiều hạt, hạt thường có góc cạnh và được bao bởi lớp áo hạt 
màu trắng. 
* Chi Sa nhân (Amomum Roxb.) 
+Thân: Là thân giả, do các bẹ lá ôm nhau tạo thành. Cao từ 0,5-4 m. Thân cây có 
mùi thơm. 
+ Lá: có cấu tạo gồm phiến lá, cuống lá, lưỡi lá và bẹ lá. 
 - Phiến lá: Dạng thuôn dài (A. aromaticum), dạng bầu dục (A. maximum, A. repoense), 
dạng mũi mác (A. gagnepainii, A. muricarpum, A. villosum), kích thước rất thay đổi, 
phiến lá nhẵn (A. gagnepaininii, Amomum sp., A. muricarpum,) hoặc có lông mặt 
dưới (A. maximum, A. repoense). 
11 
- Cuống lá: Lá có thể không cuống (A. aromaticum, A. xanthioides), có cuống ngắn 
dưới 1 cm (A. aculeatum, A. longiligulare, A. muricarpum, A. ovoideum), cuống dài 
đến 5 cm (A. gagnepainii, Amomum sp., A. truncatum) thậm chí dài đến 20 cm (A. 
maximum, A. repoense, A. mengtzense,). 
- Lƣỡi lá: Lưỡi lá nguyên (A. aromaticum, A. gagnepainii, A. longiligulare, A. 
ovoideum,) hay xẻ làm 2 (A. maximum, A. muricarpum, A. repoense), một số ít loài có 
lưỡi lá dài hơn cuống lá (A. aculeatum, A. aromaticum, A. longiligulare), còn đa số các 
loài có lưỡi lá ngắn hơn cuống lá (A. gagnepainii, A. maximum, A. repoense, Amomum 
sp., A. truncatum,). 
- Bẹ lá: Bẹ lá ôm lấy nhau tạo thành thân giả (A. aculeatum, A. gagnepainii, A. 
longiligulare, A. muricarpum, A. truncatum,). 
+ Hoa: Cụm hoa mọc từ thân rễ, sát mặt đất, riêng với thân có lá; hay mọc từ sát gốc 
của thân, các hoa xếp dọc theo trục cụm hoa. Các lá bắc xếp lợp lên nhau, đôi khi sớm 
rụng; lá bắc con hình ống. Hoa có phần dưới đài hình ống, phần trên xẻ thành 3 răng 
ngắn. Cánh môi có hình gần tròn (A. villosum, A. xanthioides), hình trứng (A. 
maximum, A. repoense, A. muricarpum); nguyên (A. maximum) hay chia thùy (A. 
muricarpum, A. repoense). Nhị có chỉ nhị dạng bản, ở tất cả các loài bao phấn có phần 
phụ trung đới kéo dài thành mào. Chỉ nhị có thể dài hơn bao phấn (A. longiligulare, A. 
ovoideum), dài bằng bao phấn (A. gagnepainii, A. aculeatum) hoặc ngắn hơn bao phấn 
(A. muricarpum, A. aromaticum). Nhị lép 2, dạng dùi nhỏ (A. aculeatum, A. 
longiligulare, A. maximum) hay tiêu giảm ( A. ovoideum, A. truncatum), số ít có dạng 
răng ngắn (A. vespertilio), dạng chóp (A. repoense, A. xanthioides). 
+ Quả: Quả hình cầu (A. muricarpum, A. truncatum, A. repoense), hình trứng (A. 
ovoideum, A. gagnepainii, A. longiligulare), có gai mềm (A. muricarpum, A. 
gagnepainii,), có cánh (A. maximum, A. repoense, A. mengtzense) hoặc trơn nhẵn (A. 
aromaticum). Hạt có góc cạnh, áo hạt mỏng. 
3.1.2. Đặc điểm sinh thái, phân bố của 2 chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân 
(Amomum Roxb.) 
* Chi Riềng (Alpinia Roxb.) 
- Nơi sống: Chủ yếu mọc ở rừng thường xanh trên núi đất, núi đá vôi, rừng thứ sinh, nơi 
ẩm, ven suối, trảng cây bụi. Mọc ở đai thấp (dưới 900m) có các loài như: Riềng lưỡi 
ngắn (Alpinia breviligulata), Sẹ (Alpinia globosa), Riềng hải nam (Alpinia 
12 
hainanensis), Riềng quảng tây (Alpinia kwangsiensis), Ré (Alpinia latilabris), Riềng 
maclure (Alpinia maclurei), Riềng đuôi nhọn (Alpinia macroura), Riềng malacca 
(Alpinia malaccensis), Riềng meng hai (Alpinia menghaiensis), Riềng không mũi 
(Alpinia mutica), Riềng (Alpinia napoensis), Riềng thuốc (Alpinia officinarum), 
Riềng nhiều hoa (Alpinia polyantha), Riềng lá nhăn (Alpinia rugosa), Ré bắc bộ 
(Alpinia tonkinensis). Một số loài phân bố ở cả đai thấp và đai cao như: Riềng dài lông 
mép (Alpinia blepharocalyx), Riềng rừng (Alpinia conchigera), Riềng nếp (Alpinia 
galanga), Riềng (Alpinia intermedia), Lương khương (Alpinia oblongifolia), Riềng 
pinna (Alpinia pinnanensis). Riềng bông tròn (Alpinia strobiliformis) mới chỉ gặp phân 
bố ở đai cao (trên 900 m). 
- Mùa ra hoa, mùa quả: Tùy vào từng loài mà có mùa ra hoa, mùa quả khác nhau 
nhưng chủ yếu ra hoa từ tháng 2 đến tháng 5 hoặc tháng 6 như: Riềng ấm (Alpinia 
gagnepainii), Riềng quảng tây (Alpinia kwangsiensis), Riềng bông tròn (Alpinia 
strobiliformis). 
Hầu như các loài đều ra hoa từ tháng 3 đến tháng 6, có quả từ tháng 5 đến tháng 
9, điển hình như: Riềng dài lông mép (Alpinia blepharocalyx), Sẹ (Alpinia globosa), 
Riềng hải nam (Alpinia hainanensis), Riềng maclure (Alpinia maclurei), Riềng meng 
hai (Alpinia menghaiensis), Lương khương (Alpinia oblongifolia), Ích trí (Alpinia 
oxyphylla), Riềng lá nhăn (Alpinia rugosa). Một số loài ra hoa từ tháng 4 đến tháng 6, 
có quả tháng 6 đến tháng 8(9) như Riềng (Alpinia intermedia), Ré (Alpinia latilabris), 
Riềng malacca (Alpinia malaccensis), Riềng thuốc (Alpinia officinarum), Riềng nhiều 
hoa (Alpinia polyantha). 
Một số loài ra hoa từ tháng 4(5-6) đến tháng 7(8), có quả từ tháng 7 đến tháng 
11(12) như Riềng lưỡi ngắn (Alpinia breviligulata), Riềng rừng (Alpinia conchigera), 
Riềng (Alpinia napoensis), Riềng nếp (Alpinia galanga), Ré bắc bộ (Alpinia 
tonkinensis), Riềng pinna (Alpinia pinnanensis). 
Các loài ra hoa tháng từ tháng 8 đến tháng 12 hoặc từ tháng 12 đến tháng 1 
năm sau, có quả từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau có Riềng đuôi nhọn (Alpinia 
macroura) và Riềng không mũi (Alpinia mutica). 
* Chi Sa nhân (Amomum Roxb.) 
- Nơi sống: Chủ yếu mọc ở rừng thường xanh trên núi đất, núi đá vôi, rừng thứ sinh, 
trảng cây bụi, ven suối, dưới tán rừng, nơi đất ẩm. Mọc ở đai thấp (dưới 900m) có các 
13 
loài như: Sa nhân hoa thưa (Amomum gagnepainii), Sa nhân tím (Amomum 
longiligulare), Sa nhân khế (Amomum mengtzense), Sa nhân miên (Amomum 
repoense), Riềng cụt (Amomum truncatum), Sa nhân ké (Amomum xanthioides),, Một 
số loài phân bố ở cả đai thấp và đai cao như: Thảo quả (Amomum aromaticum), Đậu 
khấu chín cánh (Amomum maximum), Sa nhân quả có mỏ (Amomum muricarpum), Sa 
nhân (Amomum sp.), Sa nhân (Amomum villosum). 
- Mùa ra hoa, mùa quả: Tùy vào từng loài mà có mùa ra hoa, mùa quả khác nhau 
nhưng chủ yếu ra hoa từ tháng 4 đến tháng 6(7), có quả từ tháng 5 đến tháng 10, điển 
hình như: Sa nhân cựa (Amomum aculeatum), Thảo quả (Amomum aromaticum), Sa 
nhân hoa thưa (Amomum gagnepainii), Sa nhân tím (Amomum longiligulare), Đậu 
khấu chín cánh (Amomum maximum), Sa nhân miên (Amomum repoense), Sa nhân 
(Amomum villosum), Sa nhân ké (Amomum xanthioides). Một số loài ra hoa từ tháng 
2(3) đến tháng 6, có quả từ tháng 5 đến tháng 8 như Sa nhân khế (Amomum 
mengtzense) và Sa nhân trứng (Amomum ovoideum). 
Đặc biệt một số loài ra hoa tháng 5 đến tháng 10 và có quả từ tháng 9 đến 
tháng 1 năm sau như: Sa nhân quả có mỏ (Amomum muricarpum) và Sa nhân thầu 
dầu (Amomum vesperilio). 
3.1.3. Đánh giá đa dạng các loài trong 2 chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân 
(Amomum Roxb.) ở Bắc Trung Bộ 
Kết quả nghiên cứu 2 chi Riềng (Alpinia) và Sa nhân (Amomum) thuộc họ Gừng 
(Zingiberaceae) ở Bắc Trung Bộ đã xác định được 40 loài (31 loài thu được mẫu và 9 
loài được kế thừa từ các công bố của các tác giả trước). Trong đó chi Riềng (Alpinia) với 
26 loài và chi Sa nhân (Amomum) với 14 loài (bảng 3.1). 
Bảng 3.1. Danh lục các loài thuộc 2 chi Riềng (Alpinia) và Sa nhân (Amomum) 
TT Tên khoa học Tên Việt Nam GTSD 
1 Alpinia blepharocalyx K. Schum.
* 
Riềng dài lông mép THU,CTD 
2 Alpinia breviligulata (Gagnep.) Gagnep. Riềng lưỡi ngắn THU,CTD 
3 Alpinia conchigera Griff. Riềng rừng THU,CTD, 
CGV 
4 Alpinia gagnepainii K. Schum.
KT 
Riềng gagnepain CTD 
5 Alpinia galanga (L.) Willd. Riềng nếp THU,CTD, 
14 
TT Tên khoa học Tên Việt Nam GTSD 
CGV 
6 Alpinia globosa (Lour.) Horan Sẹ THU,CTD 
7 Alpinia hainanensis K. Schum. Riềng hải nam THU,CTD 
8 Alpinia intermedia Gagnep. Riềng CTD 
9 Alpinia kwangsiensis T. L. Wu Riềng quảng tây THU,CTD, 
ANĐ 
10 Alpinia latilabris Ridl. Ré THU,CTD, 
CGV 
11 Alpinia maclurei Merr. Riềng maclure CTD 
12 Alpinia macroura K. Schum.
* 
Riềng đuôi nhọn CTD 
13 Alpinia malaccensis (Burm.f.) Rosc.
* Riềng Malacca THU,CTD 
14 Alpinia menghaiensis S.Q. Tong & Y.M. 
Xia
* 
Riềng meng hai THU,CTD, 
ANĐ 
15 Alpinia mutica Roxb. Riềng không mũi THU,CTD 
16 Alpinia napoensis H.Dong & G.J.Xu Riềng THU,CTD 
17 Alpinia oblongifolia Hayata Riềng tàu THU,CTD, 
CGV 
18 Alpinia officinarum Hance Riềng thuốc THU,CTD, 
CGV 
19 Alpinia oxyphylla Miq.
KT 
Ích trí THU,CTD 
20 Alpinia pinnanensis T. L. Wu & S.J. 
Chen 
Riềng pinna THU,CTD, 
ANĐ 
21 Alpinia polyantha D. Fang
** 
Riềng nhiều hoa THU,CTD 
22 Alpinia rugosa S. J. Chen & Z. Y. 
Chen** 
Riềng lá nhăn THU,CTD 
23 Alpinia siamensis K. Schum.
KT 
Riềng xiêm THU 
24 Alpinia strobiliformis T. L. Wu & S.J. 
Chen 
Riềng bông tròn CTD 
25 Alpinia tonkinensis Gagnep. Ré bắc bộ THU,CTD 
26 Alpinia velutina Ridl.
KT 
Riềng lông 
15 
TT Tên khoa học Tên Việt Nam GTSD 
27 Amomum aculeatum Roxb.
KT 
Sa nhân cựa CTD,ANĐ 
28 Amomum aromaticum Roxb.
* Sa nhân thơm THU,CTD, 
CGV 
29 Amomum gagnepainii T. L. Wu, K. K. 
Larsen &Turland 
Riềng ấm THU,CTD, 
CGV 
30 Amomum longiligulare T. L. Wu
KT 
Sa nhân tím THU,CTD, 
CGV 
31 Amomum maximum Roxb. Đậu khấu chín cánh THU,CTD 
32 Amomum mengtzense H. T. Tsai ex P. 
S. Chen
KT 
Sa nhân khế ANĐ 
33 Amomum muricarpum Elmer
* 
Sa nhân quả có mỏ THU,CTD 
34 Amomum ovoideum Pierre ex 
Gagnep.
KT 
Sa nhân trứng THU,CTD, 
CGV 
35 Amomum repoense Pierre ex Gagnep. Sa nhân mien THU,CTD 
36 Amomum sp. Sa nhân CTD 
37 Amomum truncatum Gagnep. Riềng cụt CTD 
38 Amomum vespertilio Gagnep.
KT 
Sa nhân thầu dầu THU,ANĐ 
39 Amomum villosum Lour. Sa nhân THU,CTD, 
CGV 
40 Amomum xanthioides Wall. ex Baker Sa nhân ké THU,CTD, 
CGV 
Ghi chú: * Loài ghi nhận phân bố cho khu vực Bắc Trung Bộ; **Loài ghi nhận mới cho hệ 
thực vật Việt Nam; KT: Kế thừa từ các tài liệu; Giá trị sử dung (GTSD): THU: Cây làm 
thuốc, ANĐ: Cây ăn được; CTD: cây tinh dầu, CGV: cây làm gia vị 
Để thấy được tính đa dạng 2 chi của họ Gừng (Zingiberaceae) ở Bắc Trung Bộ, 
kết quả được so sánh với Việt Nam (bảng 3.2). 
Bảng 3.2. So sánh số loài trong các chi được nghiên cứu với Việt Nam 
TT Chi 
Số loài 
nghiên cứu (1) 
Việt 
Nam (2) 
Tỷ lệ % giữa 
(1) và (2) 
1 Alpinia 26 31 83,87 
16 
2 Amomum 14 21 66,67 
(2)theo Nguyễn Quốc Bình (2011). 
Như vậy, qua bảng 3.2 cho thấy, thành phần loài trong 2 chi được nghiên cứu 
của họ Gừng (Zingiberaceae) ở Bắc Trung Bộ khá đa dạng (với 40 loài so với 52 loài 
chiếm 76,92% tổng số loài hiện biết ở Việt Nam). Trong đó, chi Alpinia có 26 loài 
chiếm 83,87% và chi Amomum với 14 loài chiếm 66,67%. Như vậy, tuy chỉ được 
điều tra trên một diện tích nhỏ so với cả nước nhưng số loài là khá cao, điều này thể 
hiện được tính đa dạng của hệ thực vật khu vực Bắc Trường Sơn, nơi đang còn tiềm 
ẩn nhiều loài mới không chỉ trong 2 chi này mà còn các loài trong chi khác của họ 
Gừng nói riêng và hệ thực vật Việt Nam nói chung. 
3.1.4. Các loài trong 2 chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân (Amomum Roxb.) 
đƣợc ghi nhận thêm vùng phân bố cho khu Hệ Thực vật Bắc Trung Bộ và bổ sung 
cho hệ thực vật Việt Nam 
So với danh lục các loài trong 2 chi Riềng (Alpinia) và Sa nhân (Amomum) 
thuộc họ Gừng (Zingiberaceae) ở Bắc Trung Bộ của Nguyễn Quốc Bình (2011), kết 
quả nghiên cứu đã ghi nhận thêm vùng phân bố của 6 loài trong 2 chi Riềng (Alpinia) 
và Sa nhân (Amomum) thuộc họ Gừng (Zingiberaceae) cho khu Hệ Thực vật Bắc 
Trung Bộ và bổ sung 2 loài cho khu hệ thực vật Việt Nam. 
Loài Riềng đuôi nhọn (Alpinia macroura K. Schum.), Riềng meng hai (Alpinia 
menghaiensis S.Q. Tong & Y.M. Xia), Thảo quả (Amomum aromaticum Roxb.) và Sa 
nhân quả có mỏ (Amomum muricarpum Elmer) trước đây chủ yếu phân bố ở miền 
Bắc (Nguyễn Quốc Bình, 2011); các loài Riềng dài lông mép (Alpinia blepharocalyx 
K. Schum.), Riềng malacca (Alpinia malaccensis (Burm.f.) Rosc.) có phân bố cả 
Miền Bắc và Miền Nam. Đặc biệt, có 2 loài mới ghi nhận phân bố ở miền Trung 
trước đây chỉ có ở Trung Quốc là Riềng lá nhăn (Alpinia rugosa S. J. Chen & Z. Y. 
Chen) và Riềng nhiều hoa (Alpinia polyantha D. Fang). Điều này chứng tỏ Bắc Trung 
Bộ một khu vực có độ đa dạng sinh học cao với sự có mặt của các loài có khu phân 
bố tương đối hẹp và chỉ phân bố trong một số môi trường sống nhất định như rừng 
nguyên sinh, rừng thứ sinh, ven suối. 
3.1.5. Đa dạng về giá trị sử dụng 
Giá trị sử dụng của các loài thực vật trong chi Riềng (Alpinia) và Sa nhân 
(Amomum) thuộc họ Gừng (Zingiberaceae) được xác định dựa theo các tài liệu trong 
17 
và ngoài nước. Trong số 40 loài được ghi nhận có mặt ở Bắc Trung Bộ thì có 38 loài 
cho giá trị sử dụng chiếm 95,0% tổng số loài, thuộc 4 nhóm giá trị sử dụng khác 
nhau. Nhóm cây cho tinh dầu chiếm tỷ lệ lớn nhất với 36 loài chiếm 90,0%; tiếp theo 
là nhóm làm thuốc với 30 loài (75,0%) so với tổng số loài nghiên cứu; nhóm cây làm 
gia vị với 11 loài (27,5%); nhóm cây ăn được với 6 loài (15,0%). 
- Nhóm cây cho tinh dầu 
Hầu như tất cả các loài trong họ Gừng (Zingiberaceae) nói chung và chi Riềng 
(Alpinia), Sa nhân (Amomum) nói riêng đều có chứa tinh dầu. Tuy nhiên, tùy vào 
từng loài, từng chi mà sự tích lũy hàm lượng tinh dầu khác nhau. Tinh dầu của các 
loài trong 2 chi này có giá trị cao nên được ứng dụng làm mỹ phẩm, dược phẩm, y 
học,... [25]. Với 36 loài thuộc 2 chi được nghiên cứu cho tinh dầu chiếm 90,0% tổng 
số loài được nghiên cứu. Hiện nay, đã chưng cất được 98 mẫu tinh dầu và phân tích 
được 50 mẫu của 2 chi này với một số loài điển hình như: Ré (Alpinia latilabris), 
Riềng malacca (Alpinia malaccensis), Riềng meng hai (Alpinia menghaiensis), Riềng 
tàu (Alpinia oblongifolia), Riềng pinna (Alpinia pinnanensis), Riềng nhiều hoa 
(Alpinia polyantha), Riềng bông tròn (Alpinia strobiliformis), Riềng bắc bộ (Alpinia 
tonkinensis), Đậu khấu chín cánh (Amomum maximum), Sa nhân quả có mỏ 
(Amomum muricarpum), Sa nhân (Amomum villosum), Sa nhân ké (Amomum 
xanthioides),... 
- Nhóm cây làm thuốc 
Với 30 loài, chủ yếu là dùng để bồi bổ sức khỏe hoặc kết hợp với các vị thuốc 
khác để chữa các bệnh tiêu hóa, bệnh thời tiết, đau dạ dày, hô hấp, xương khớp,... 
điển hình như: Riềng nếp (Alpinia galanga), Riềng meng hai (Alpinia menghaiensis), 
Riềng thuốc (Alpinia officinarum), Riềng bắc bộ (Alpinia tonkinensis), Đậu khấu chín 
cánh (Amomum maximum), Sa nhân quả có mỏ (Amomum muricarpum), Sa nhân 
(Amomum villosum), Sa nhân ké (Amomum xanthioides), Sa nhân tím (Amomum 
longiligulare),.... 
- Nhóm cây ăn được 
Với 6 loài, đây là những loài được người dân khai thác ngọn hay lá non để nấu 
canh hoặc làm rau ăn trong bữa ăn hàng ngày như: Riềng quảng tây (Alpinia 
kwangsiensis), Riềng meng hai (Alpinia menghaiensis), Riềng Pinna (Alpinia 
18 
pinnanensis), Sa nhân cựa (Amomum acuelatum) Sa nhân khế (Amomum 
mengtzense), Sa nhân thầu dầu (Amomum vespertilio). 
- Nhóm cây làm gia vị 
Với 11 loài được sử dụng làm gia vị, chủ yếu dùng hạt hoặc thân rễ. Bởi vì, hạt 
hoặc thân rễ của chúng có mùi thơm, vị cay điển hình như: Riềng nếp (Alpinia galanga), 
Riềng thuốc (Alpinia officinarum), Riềng tàu (Alpinia oblongifolia), Sa nhân (Amomum 
villosum), Sa nhân ké (Amomum xanthioides). 
3.1.6. Đặc điểm của các loài trong 2 chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân 
(Amomum Roxb.) phân bố ở Bắc Trung Bộ 
Trong số 40 loài của 2 chi có chứa tinh dầu, có 12 loài đã được nghiên cứu thành phần 
hóa học của tinh dầu. Phần này giới thiệu một số đặc điểm nhận biết, sinh thái, phân bố, 
giá trị và chỉ rõ mẫu nghiên cứu, định loại và phân tích thành phần hóa học của tinh dầu. 
3.2. Thành phần hóa học tinh dầu của một số loài thuộc 2 chi Riềng (Alpinia 
Roxb.) và Sa nhân (Amomum Roxb.) ở Bắc Trung Bộ 
3.2.1. Chi Riềng (Alpinia Roxb.) 
Kết quả phân tích 29 mẫu tinh dầu ở các bộ phận lá, thân giả, thân rễ, quả thuộc 7 
loài trong chi Riềng (Alpinia) được tổng hợp qua bảng 3.11. Hàm lượng tinh dầu biến 
động từ 0,1%-0,4% trọng lượng tươi. Tinh dầu đều có màu vàng nhạt, nhẹ hơn nước và 
có mùi thơm dễ chịu. Các thành phần hóa học được xác định chiếm từ 89,1%-99,0% 
tổng lượng tinh dầu. Trong tinh dầu chủ yếu là các monotecpen và các sesquitecpen. 
Bảng 3.11. Các thành phần chính trong tinh dầu ở các bộ phận khác nhau của một số 
loài thuộc chi Riềng (Alpinia Roxb.) ở Bắc Trung Bộ 
TT Loài 
Bộ 
phận 
Hàm 
lƣợng 
(%) 
Số hợp 
chất xác 
định đƣợc 
Tỷ lệ % một số thành phần 
chính của tinh dầu 
1 
Alpinia 
latilabris 
Lá 0,23 46 
α-cadinol (26,4%), 1,8-cineol 
(8,9%), γ-terpinen (8,8%), terpinen 
-4-ol (6,2%) và o-cymen (6,0%) 
Thân 
giả 
0,20 32 
α-cadinol (31,4%), γ-terpinen (10,7%), 
guaiol (8,5%) và β-pinen (6,9%) 
Thân 
rễ 
0,30 28 
α-cadinol (38,9%), γ-terpinen 
(10,7%), β-pinen (7,9%) và α-
terpinen (6,5%) 
19 
TT Loài 
Bộ 
phận 
Hàm 
lƣợng 
(%) 
Số hợp 
chất xác 
định đƣợc 
Tỷ lệ % một số thành phần 
chính của tinh dầu 
2 
Alpinia 
maclurei 
Lá 0,25 35 
β-pinen (53,0%), α-pinen (13,9%), 
và limonen (4%) 
Thân 
giả 
0,2 47 
β-pinen (47,1%), α-pinen (5,7%), β-
caryophyllen (5,5%), caryophyllen 
oxid (5,7%) 
Thân 
rễ 
0,25 48 
β-pinen (22,1%), fenchyl axeat 
(6,7%), α-pinen (4,1%) và benzyl 
benzoat (3,7%) 
3 
Alpinia 
malaccensis 
Lá 0,25 41 β-pinen (56,0%) và α-pinen (10,3%) 
Thân 
giả 
0,19 40 
β-pinen (46,0%), β-phellandren 
(12,1%), α-pinen (9,8%) và α-
phellandren (5,7%), 
Thân 
rễ 
0,32 38 
β-pinen (31,7%), β-phellandren 
(12,9%), α-pinen (6,3%) và α-
selina-6-en-4-ol (5,5%) 
Quả 0,25 54 
methyl cinnamat (27,8%), β-
pinen (18,5%) và β-phellandren 
(12,9%) 
4 
Alpinia 
menghaiensis 
Lá 0,2 36 
β-pinen (62,4%), α-pinen 
(15,8%), benzyl benzoat (4,0%) 
và limonen (3,8%) 
Thân 
gỉa 
0,18 47 
β-pinen (46,40%), α-pinen 
(12,7%), o-cymen (5,4%), 
limonene (5,1%) và α-
phellandren (4,8%) 
Thân 
rễ 
0,21 47 
β-pinen (41,8%), α-pinen (11,1%), 
α-phellandren (5,4%), o-cymen 
(4,6%) và limonen (4,8%) 
Quả 0,30 47 
β-pinen (40,4%), α-pinen (11,3%), α-
terpinen (4,7) và 1,8-cineol (8,2%) 
5 
Alpinia 
mutica 
Lá 0,15 44 
β-pinen (21,3%), 1,8-cineol 
(20,9%), α-pinen (12,5%) và 
camphen (7,1%) 
Thân 0,14 48 1,8-cineol (19,9%), β-pinen 
20 
TT Loài 
Bộ 
phận 
Hàm 
lƣợng 
(%) 
Số hợp 
chất xác 
định đƣợc 
Tỷ lệ % một số thành phần 
chính của tinh dầu 
giả (17,4%), α-pinen (11,3%) và 
camphen (5,7%) 
Thân 
rễ 
0,15 48 
β-pinen (23,2%), 1,8-cineol 
(18,6%), α-pinen (12,8%) và 
fenchyl acetat (7,0%) 
Quả 0,17 50 
β-caryophyllen (22,6%), α-cadinol 
(8,9%) và camphor (7,8%) 
6 
Alpinia 
pinnanensis 
Lá 0,4 55 
1,8-cineol (20,5%), α-phellandren 
(10,8%), 4-phenyl-2-butanol (19,5%) 
Thân 
giả 
0,1 56 
1,8 cineol (10%), β-elemen (8,7%), 
α-gurjunen (7,6%) và farnesol (5%) 
Thân 
rễ 
0,15 54 
farnesol (8,4%), α-gurjunen 
(6,2%), camphen (5,6%) 
Quả 0,2 29 
β-caryophyllen (11,4%), farnesol 
(9,3%) và β-elemen (5,6%) 
Lá 0,3 41 
1,8-cineol (21,5%), α-phellandren 
(19,3%), 4-phenyl-2-butanol (7,6%) 
và 1-phenyl-1-buten (7,4%) 
Thân 
giả 
0,2 52 
α-gurjunen (10,4%), β-elemen 
(9,1%), α-phellandren (8,7%) và α-
santalen (7,5%) 
Quả 0,3 55 
β-caryophyllen (11,4%), farnesol 
(9,3%), β-phellandren (8,7%) và 
α-gurjunen (6,2%) 
7 
Alpinia 
polyantha 
Lá 0,21 39 
camphor (16,1%), α-pinen 
(15,2%), -agarofuran (12,9%), 
camphen (6,5%), β-eudesmol 
(4,4%) và o-cymen (4,1%) 
Thân 
giả 
0,15 50 
α-pinen (12,4%), β-cubeben 
(10,6%), -agarofuran (10,3%) 
và globulol (8,8%) 
Thân 
rễ 
0,25 41 
β-cubeben (12,6%), fenchyl 
acetat (10,8%), -maalien 
(9,0%), aristolen (8,8%) và α-
21 
TT Loài 
Bộ 
phận 
Hàm 
lƣợng 
(%) 
Số hợp 
chất xác 
định đƣợc 
Tỷ lệ % một số thành phần 
chính của tinh dầu 
pinen (8,2%) 
Quả 0,23 61 
δ-cadinen (10,9%), β-
caryophyllen (9,1%), β-pinen 
(8,7%), α-muurolen (7,7%) và 
oxit caryophyllen (5,4%) 
Qua bảng kết quả các thành phần chính trong tinh dầu ở các bộ phận của một số 
loài đã phân tích cho thấy: 
Trong cùng 1 loài thì tinh dầu thu được từ các bộ phận là khác nhau, nhưng sự 
khác nhau này là không đáng kể. Tinh dầu ở các bộ phận của các loài nghiên cứu thì 
hàm lượng tinh dầu của thân giả là thấp nhất và cao nhất là tinh dầu thân rễ. 
Trong số 7 loài được nghiên cứu về tinh dầu thì tinh dầu lá của cả 7 loài đều có 
tỉ lệ các monotecpen cao hơn so với các sequitecpen. Trong thành phần tinh dầu thân 
giả, thân rễ của loài A. maclurei, A. malaccensis, A. menghaiensis, A. mutica tỉ lệ các 
monotecpen cũng cao hơn so với sesquitecpen. Nhưng tinh dầu thân giả, thân rễ của 
loài Alpinia latilabris, A. pinnanensis, A. polyantha lại có tỉ lệ các sesquitecpen cao 
hơn so với các monotecpen. 
Ngoài 7 loài nêu trên đã chưng cất và phân tích tinh dầu thì có 10 loài của 34 
mẫu tinh dầu ở các bộ phận lá, thân giả, thân rễ và quả đã được chưng cất trong chi 
Riềng ở Bắc Trung Bộ gồm: Alpinia blepharocalyx, Alpinia breviligulata, Alpinia 
globosa, Alpinia kwangsiensis, Alpinia oblongifolia, Alpinia strobiliformis, Alpinia 
rugosa, Alpinia tonkiensis, Alpinia napoensis, Alpinia hainanensis. 
3.2.2. Chi Sa nhân (Amomum Roxb.) 
Kết quả phân tích 21 mẫu tinh dầu ở các bộ phận lá, thân giả, thân rễ, quả và hoa 
thuộc 5 loài trong chi Sa nhân (Amomum) được tổng hợp qua bảng 3.17. Hàm lượng 
tinh dầu biến động từ 0,1%-0,4% trọng lượng tươi. Tinh dầu đều có màu vàng nhạt 
và nhẹ hơn nước. Các thành phần hóa học được xác định chiếm từ 88,1%-99,2% tổng 
lượng tinh dầu. Trong tinh dầu chủ yếu là các monotecpen và các sesquitecpen. 
22 
Bảng 3.17. Các thành phần chủ yếu trong tinh dầu ở các bộ phận khác nhau của một 
số loài thuộc chi Sa nhân (Amomum) ở Bắc Trung Bộ 
TT Loài 
Bộ 
phận 
Hàm 
lƣợng 
(%) 
Số hợp 
chất xác 
định đƣợc 
Tỷ lệ % một số thành phần 
chính của tinh dầu 
1 
Amomum 
gagnepainii 
Lá 0,30 47 
farnesyl axetat (18,5%), zerumbon 
(16,4%), β-caryophyllen (10,5%) 
2 
Amomum 
maximum 
Lá 0,30 45 
β-pinen (40,8%), α-pinen (9,7%), 
β-elemen (10,9%), β-caryophyllen 
(8,3%) 
Thân 
giả 
0,25 53 
β-pinen (20,4%), β-elemen (12,8%) 
và β-caryophyllen (10,3%) 
Thân 
rễ 
0,34 44 
β-pinen (28,0%), α-pinen (15,0%); 
β-phellandren (11,6%), camphen 
(5,4%) 
3 
Amomum 
muricarpum 
Lá 0,25 47 α-pinen (31,9%) và β-pinen (16,2%) 
Thân 
giả 
0,23 55 α-pinen (28,5%) và β-pinen (7,4%) 
Thân 
rễ 
0,32 39 
α-pinen (45,7), β-pinen (7,4%) 
Quả 0,30 49 α-pinen (33,5%), β-pinen (20,8%) 
Lá 0,30 31 α-pinen (48,4%), β-pinen (25,9%) 
Thân 
giả 
0,26 42 
α-pinen (47,2%), β-pinen (9,2%) 
Thân 
rễ 
0,40 38 
α-pinen (54,7%), β-pinen (14,3%) 
Hoa 0,35 43 α-pinen (24,1%) và β-pinen (14,1%) 
Quả 0,32 51 α-pinen (29,3), β-pinen (17,9) 
4 
Amomum 
villosum 
Lá 0,12 31 β-pinen (6,6%) và α-pinen (22,0%) 
Thân 
giả 
0,10 36 
β-pinen (48,1%) và α-pinen (16,%) 
Thân 
rễ 
0,18 42 
β-pinen (34,7%) và α-pinen (11,6%) 
Lá 0,13 31 β-pinen (53,6%) và α-pinen (22,1%) 
Thân 
rễ 
0,17 43 
β-pinen (41,6%) và α-pinen (14,% 
5 
Amomum 
xanthioides 
Lá 0,15 34 
β-elemen (20,3%), germacren D 
(12,6%), bicyclogermacren 
23 
TT Loài 
Bộ 
phận 
Hàm 
lƣợng 
(%) 
Số hợp 
chất xác 
định đƣợc 
Tỷ lệ % một số thành phần 
chính của tinh dầu 
(9,4%) và δ-cadinen (9,0%) 
Thân 
giả 
0,1 25 
spathoulenol (21,8%), β-elemen 
(20,4%), β-bisabolen (7,2%) 
Thân 
rễ 
0,17 41 
β-pinen (26,5%), terpinen-4-ol 
(14,5%), γ-terpinen (7,3%) 
Từ kết quả nghiên cứu về hàm lượng, thành phần hóa học của các cây trong chi 
Sa nhân (Amomum Roxb.) có thể rút ra một số nhận xét sau: 
Tất cả các bộ phận thân rễ, thân giả, lá, hoa, quả của các loài được nghiên cứu 
thuộc chi Amomum đều có tinh dầu. Hàm lượng tinh dầu của các bộ phận trong cùng 
1 loài có sự sai khác không đáng kể như loài A. maximum ở các bộ phận, hàm lượng 
tinh dầu chỉ dao động từ 0,25%-0,36%, hay A. villosum hàm lượng tinh dầu dao động 
chỉ từ 0,1%-0,18%. 
Trong số tinh dầu 5 loài được nghiên cứu thì tinh dầu của 3 loài A. gagnepain, 
A. maximum và A. muricarpum lần đầu tiên được phân tích. Kết quả nghiên cứu về 
thành phần hóa học của tinh dầu các loài đã giúp cho việc phân loại bằng hóa học 
(chemotaxonomy). 
Ngoài ra, có 5 loài (01 loài đã được phân tích tinh dầu ở rễ là A. gagnepainii) 
của 14 mẫu tinh dầu ở các bộ phận lá, thân giả và thân rễ đã được chưng cất trong chi 
Sa nhân ở Bắc Trung Bộ: Amomum aromaticum, Amomum gagnepainii, Amomum 
sp., Amomum repoense, Amomum truncatum. 
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
1. Kết luận 
Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, thành phần hoá học trong tinh dầu của một 
số loài trong chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân (Amomum Roxb.) thuộc họ Gừng 
(Zingiberaceae Lindl.) ở Bắc Trung Bộ đã rút ra một số kết luận sau: 
1. Xác định được 40 loài (31 loài thu được mẫu và 9 loài được ghi nhận từ các 
mẫu nghiên cứu, các tài liệu khác thuộc 2 chi này). 
2. Bổ sung 2 loài cho hệ thực vật Việt Nam là Riềng nhiều hoa (A. polyantha D. 
Fang) và Riềng lá nhăn (A. rugosa S. J. Chen & Z. Y. Chen) và ghi nhận vùng phân bố 
mới của 6 loài cho khu hệ Thực vật Bắc Trung Bộ. 
24 
3. Mùa ra hoa của các loài trong hai chi chủ yếu từ tháng 3 đến tháng 6; mùa quả 
từ tháng 6 đến tháng 9; các loài sống chủ yếu ở rừng thường xanh, trên núi đất, núi đá 
vôi, rừng thứ sinh, trảng cây bụi, ven suối, dưới tán rừng, nơi đất ẩm. 
4. Trong số 40 loài được ghi nhận thì có 38 loài có giá trị sử dụng, cây cho tinh 
dầu với 36 loài, cây được sử dụng làm thuốc 30 loài, cây làm gia vị với 11 loài và cây 
ăn được với 6 loài. 
5. Chưng cất và xác định hàm lượng của 98 mẫu tinh dầu, trong đó phân tích 
thành phần hóa học tinh dầu của 50 mẫu thuộc 12 loài, chi Riềng (Alpinia Roxb.) với 7 
loài (29 mẫu) và chi Sa nhân (Amomum Roxb.) với 5 loài (21 mẫu). Lần đầu tiên xác 
định hàm lượng và thành phần hóa học tinh dầu của 2 loài thuộc chi Riềng (Alpinia 
Roxb.) là Riềng meng hai (A. menghaiensis), Riềng nhiều hoa (A. polyantha), 3 loài 
thuộc chi Sa nhân (Amomum Roxb.) là A. gagnepain, A. muricarpum, A. maximum. 
6. Thành phần hóa học tinh dầu chính của chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân 
(Amomum Roxb.) đều được đặc trưng bởi α-pinen và β-pinen. 
7. Một số loài trong chi Riềng (Alpinia Roxb.) và Sa nhân (Amomum Roxb.) cho 
tinh dầu có chứa các thành phần hóa học có giá trị như các hợp chất monotecpen chứa 
oxy và các hợp chất sesquitecpen chứa oxy trong các loài A. malaccensis, A. 
menghaiensis, A. mutica, A. pinnanensis, A. polyantha, A. villosum, A. muricarpum,... 
2. Kiến nghị 
- Cần có những nghiên cứu đầy đủ hơn về hàm lượng, thành phần tinh dầu ở các 
giai đoạn phát triển khác nhau của cùng 1 cây trong cùng một địa điểm và của cùng 1 bộ 
phận ở các địa điểm khác nhau để biết được động thái tích lũy tinh dầu của các loài. Từ 
đó để có cơ sở đánh giá nguồn tài nguyên thực vật. Ngoài ra, thử hoạt tính sinh học từ 
tinh dầu của các loài có hàm lượng tinh dầu cao để đánh giá được giá trị của chúng. 
- Cần có những nghiên cứu, đánh giá kỹ hơn về trữ lượng tinh dầu, chất lượng 
tinh dầu cũng như lợi ích kinh tế mang lại của một số loài cho tinh dầu có chứa các 
thành phần hóa học có giá trị, có tiềm năng ứng dụng thực tế như α-, -agarofuran (A. 
polyantha), farnesyl axetat, zerumbon... để từ đó có thể giúp các nhà quản lý hoạch 
định chiến lược, chính sách phát triển vùng nguyên liệu thực vật có tinh dầu trên địa 
bàn nhằm tạo nguồn thu ngân sách và tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống cho 
người dân. 
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ 
 LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 
1. Lê Thị Hƣơng, Trần Thế Bách, Trần Đình Thắng (2014), Thành phần hóa học tinh 
dầu loài Ré (Alpinia latilabris Ridl.) ở Vườn Quốc gia Pù Mát, Nghệ An, Tạp chí 
Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 30(6SA): 189-194. 
2. Le T. Huong, Tran D. Thang, Isiaka A. Ogunwande (2015), Chemical constituents 
of essential oils from the leaves, stems, roots and fruits of Alpinia polyantha, Natural 
Product Communication, 10(2): 367-368 (SCIE). 
3. Le T. Huong, Tran D. Thang, Isiaka A. Ogunwande (2015), Volatile constituents of 
essential oils from the leaves, stems, roots and fruits of Vietnamese species of 
Alpinia malaccencis, European Journal of Medicinal Plants, 7(3): 118-124. 
4. Le T. Huong, Do N. Dai, Tran D. Thang, Tran T. Bach, Isiaka A. Ogunwande 
(2015), Volatile constituents of Amomum maximum Roxb. and Amomum 
muricarpum C. F. Liang & D. Fang: two Zingiberaceae grown in Vietnam, Natural 
Product Research, 29(15): 1469-1472 (SCIE). 
5. Đỗ Ngọc Đài, Lê Thị Hƣơng, Lê Thị Mỹ Châu, Đoàn Mạnh Dũng, Mai Văn Chung 
(2015), Thành phần hóa học tinh dầu loài Sa nhân ké (Amomum xanhthioides) ở 
VQG Pù Mát, Nghệ An, Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Hội 
nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ 6, Nxb Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 
20-21/10/2015, 1078-1082. 
6. Lê Thị Hƣơng, Trần Thế Bách, Nguyễn Quốc Bình (2015), Giá trị sử dụng của chi 
Riềng (Alpinia) và Sa nhân (Amomum) thuộc họ Gừng (ZIngiberaceae) ở Bắc Trung 
Bộ, Báo cáo Khoa học về Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Hội nghị Khoa học 
Toàn quốc lần thứ 6, Nxb Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 20-
21/10/2015, 1150-1154. 
7. Lê Thị Hƣơng, Trần Thế Bách, Nguyễn Quốc Bình, Lý Ngọc Sâm (2015), Bổ sung 
loài Riềng nhiều hoa (Alpinia polyantha D. Fang) (Zingiberaceae) cho hệ thực vật 
Việt Nam, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 31(4S): 35-38. 
8. Lê Thị Hƣơng, Đỗ Ngọc Đài, Trần Thế Bách, Trần Đình Thắng (2015), Thành 
phần hóa học tinh dầu loài Riềng pinna (Alpinia pinnanensis) (Zingiberaceae) ở 
Nghệ An, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 31(4S): 148-153. 
9. Lê Thị Hƣơng, Trần Thế Bách (2015), Đa dạng chi Riềng (Alpinia) và Sa nhân 
(Amomum) thuộc họ Gừng (Zingiberaceae) ở Bắc Trung Bộ, Tạp chí Khoa học 
Lâm nghiệp, 4: 4021-4026. 
10. Do N. Dai, Le T. Huong, Tran D. Thang, Tajudeen O. Olayiwola, AbdulRazaq 
A. Ogunmoye and
Isiaka A. Ogunwande (2016), Essential oil constituents from 
the fruit of Alpinia menghaiensis, British Biotechnology Journal, 11(4): 1-7. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tom_tat_luan_an_nghien_cuu_mot_so_dac_diem_sinh_hoc_thanh_ph.pdf tom_tat_luan_an_nghien_cuu_mot_so_dac_diem_sinh_hoc_thanh_ph.pdf