Khảo sát sự biến động hàm lượng lipit các axit béo trong quá trình
sinh trưởng và phát triển của rong câu G. vermiculophylla
Kết quả khảo sát (bảng 4.8) cho thấy, hàm lượng lipit tổng sau 5
tháng nuôi giảm dần từ 1,39% (mẫu M0, M1) xuống còn 0,55% (mẫu M5).
Các axit béo no hàm lượng tăng từ 33,68 lên đến 55,76% tổng axit
béo (tăng 60,4%). Hàm lượng các axit béo không no PUFA và omega-6
giảm tương ứng từ 49,41% và 46,34% xuống còn 15,91% tổng axit béo ở
tháng thứ 5. Trong đó đặc biệt là AA giảm từ 33,3% xuống còn 11,44%
28 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 564 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu sàng lọc, phân lập và nhận dạng các hoạt chất axit béo, axit arachidonic và prostaglandin từ rong đỏ biển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
...***
LÊ TẤT THÀNH
NGHIÊN CỨU SÀNG LỌC, PHÂN LẬP VÀ NHẬN DẠNG CÁC
HOẠT CHẤT AXIT BÉO, AXIT ARACHIDONIC VÀ
PROSTAGLANDIN TỪ RONG ĐỎ BIỂN
Chuyên ngành: Hóa học các hợp chất thiên nhiên
Mã số: 62 44 01 17
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
Hà Nội - 2016
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học và Công nghệ -
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học 1: GS.TS. Phạm Quốc Long
Người hướng dẫn khoa học 2: TSKH. Andrey B. Imbs.
Phản biện 1: PGS.TS. Hoàng Thanh Hương
Phản biện 2: GS.TS. Lã Đình Mỡi
Phản biện 3: PGS.TS. Trần Thu Hương
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ tại
Phòng họp tầng 2, Viện Hóa học các Hợp chất thiên nhiên, Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Vào hồi .. giờ , ngày tháng .. năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Học viện Khoa học và Công nghệ
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
I. GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
1. Tính cấp thiết
Nhóm các axit béo C20 đa nối đôi, điển hình là axit arachidonic
(AA) và axit eicosapentaenoic (EPA), có vai trò quan trọng nhất trong
nhóm chất lipit của cơ thể động vật bậc cao vì chúng là tiền chất để sinh
tổng hợp ra các eicosanoid là nhóm các phân tử dẫn truyền tín hiệu sinh
học (còn gọi là các hoocmon tổ chức) như các prostaglandin, prostacyclin,
leukotrien, và thromboxan.
Axit arachidonic là thành phần chính của các phospholipit cấu tạo
nên màng của tế bào não, cơ bắp và gan và thường được phân lập từ lipit
của gan, trứng của các loài cá biển. AA cũng là thành phần chính trong lipit
của một số loài rong biển. Axit arachidonic có tác dụng kích hoạt hệ
enzyme NADPH oxygenase giúp hoạt hoá quá trình trao đổi oxi, kích hoạt
các kênh ion K+, Ca2+
Các prostaglandin (PG) được hình thành từ các các axit béo C20 đa
nối đôi qua quá trình chuyển hoá bằng enzym trong cơ thể và có chức năng
sinh học quan trọng đối với động vật. Chúng là một mắt xích quan trọng
trong chuỗi phản ứng miễn dịch của cơ thể, liên quan đến các hiện tượng
quan trọng như viêm tấy và ung thư. Chúng cũng tác động lên khả năng
chịu đựng của hệ cơ phẳng, hệ bài tiết, hệ tiêu hóa và hệ tuần hoàn trong cơ
thể sống. Chính vì vậy, chúng cũng được sử dụng làm thuốc để điều tiết các
quá trình thụ thai, mang thai và sinh đẻ và vì thế được coi như một chất
hormon. Các prostaglandin được các nhà khoa học nghiên cứu tổng hợp
hay tìm kiếm từ các nguồn nguyên liệu tự nhiên, đặc biệt là nguồn sinh vật
biển và đã được phát hiện trong một số loài rong Đỏ biển cùng với hàm
lượng cao các axit béo không no đa nối đôi. Vì thế rong đỏ biển được đánh
giá là nguồn nguyên liệu tự nhiên tiềm năng để khai thác các hoạt chất này.
Trên cơ sở các phân tích nêu trên, chúng tôi đã lựa chọn rong Đỏ là
đối tượng nghiên cứu với đề tài: “Nghiên cứu sàng lọc, phân lập và nhận
dạng các hoạt chất axit béo, axit arachidonic và prostaglandin từ rong
Đỏ biển”.
2. Mục tiêu của luận án
Mục tiêu rộng của luận án là điều tra, khai thác tài nguyên lipit trong các
loài rong đỏ biển đỏ của Việt Nam. Các mục tiêu cụ thể bao gồm:
1
2
Sàng lọc hóa học, xây dựng ngân hàng dữ liệu về hàm lượng lipit,
thành phần axit béo và prostaglandin trong các mẫu rong đỏ biển đại diện
cho các loài, các địa phương, các điều kiện sinh trưởng, nuôi trồng và thời
kỳ thu hoạch khác nhau. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự tích lũy
lipit và các thành phần nêu trên.
- Tìm kiếm các loài rong Đỏ biển của Việt Nam có tiềm năng thu nhận
các thành phần lipit có giá trị, đặc biệt là các axit béo C20 đa nối đôi và các
prostaglandin.
- Thử nghiệm nuôi trồng một số loài rong đỏ chọn lọc, trong đó có:
một loài rong Đỏ có giá trị di thực từ LB Nga; một loài rong Đỏ của Việt
Nam. Xác định động thái hình thành, tích luỹ axit béo và PG của nó trong
quá trình nuôi trồng.
- Xây dựng phương pháp phân lập các hoạt chất AA, PG từ các loài
rong Đỏ biển.
3. Nội dung nghiên cứu của luận án
- Phân tích hàm lượng lipit và thành phần axit béo của 68 mẫu rong đỏ
Việt Nam và 01 mẫu rong đỏ LB Nga.
- Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và tích luỹ lipit
và các axit béo của rong Đỏ.
- Sử dụng phương pháp phân tích thành phần chính PCA và phương
pháp phân tích chùm để xử lý tập dữ liệu về thành phần axit béo của các
mẫu rong đỏ, tìm các mối quan hệ giữa các mẫu với nhau và với các thành
phần axit béo.
- Sàng lọc các hoạt chất prostaglandin và axit arachidonic trong các
mẫu rong Đỏ biển thu thập được.
- Khảo sát một số điều kiện sinh trưởng và phát triển của loài rong câu
Gracilaria vermiculophylla thu từ vùng biển Viễn Đông - Liên bang Nga
trong điều kiện PTN để theo dõi sự biến động hàm lượng các axit béo và
prostaglandin trong quá trình nuôi trồng.
- Phân lập, nhận dạng và chứng minh cấu trúc PGE2, PGE3 và axit
arachidonic từ loài rong Đỏ có tiềm năng thu ở biển Việt Nam và biển Viễn
Đông – Liên Bang Nga.
3
4. Những đóng góp mới của luận án
1. Tập dữ liệu về hàm lượng lipit, thành phần axit béo và prostaglandin
của 69 mẫu đại diện cho 25 loài thuộc 9 họ rong đỏ biển của Việt
Nam thu ở các địa phương, các điều kiện sinh trưởng, nuôi trồng và
thời kỳ thu hoạch khác nhau cùng với 01 mẫu rong đỏ Liên bang
Nga; Kết quả xác định và đánh giá các nhóm axit béo có giá trị cao
thuộc các dãy omega-3, omega-6, các axit béo không no thiết yếu
PUFA và HUFA, trong đó lần đầu tiên xác định được axit C22:6n-3
(DHA) có trong 5 mẫu rong đỏ.
2. Kết quả sử dụng phương pháp phân tích PCA và phân tích chùm xử
lý tập số liệu 12 thành phần axit béo chính yếu của 69 mẫu rong đỏ
thu được cho phép phân biệt khá rõ ràng các mẫu thuộc 3 họ
Gracilariaceae, Hypneaeceae và Ceraminaceae và mối liên hệ của
chúng với nhau.
3. Phương pháp xác định định tính và định lượng PGE2 từ các loài rong
Đỏ biển. Từ đó đã sàng lọc tìm PGE2 trong 69 mẫu nghiên cứu và
xác định được 3 loài rong Câu có hàm lượng PGE2 cao và có khả
năng khai thác hoạt chất này.
4. Kết quả khảo sát sự biến động và tích luỹ hàm lượng các axit béo và
prostaglandin của loài rong Gracilaria vermiculophylla LB Nga
trong quá trình nuôi trong phòng thí nghiệm ở Việt Nam.
5. Phân lập, nhận dạng và chứng minh được cấu trúc của hoạt chất
PGE2, PGE3 và AA từ nguyên liệu rong Đỏ biển.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Luận án đã bổ sung cho kho dữ liệu điều tra cơ bản tài nguyên
HCTN biển của Việt Nam các số liệu về hàm lượng lipit, thành phần các
axit béo và hàm lượng prostaglandin của 70 mẫu đại diện cho 25 loài thuộc
9 họ rong Đỏ biển của Việt Nam, có so sánh với 1 mẫu rong biển có giá trị
kinh tế của LB Nga.
- phương pháp phân lập, nhận dạng PGE2, PGE3 và axit arachidonic
trong rong đỏ biển cùng với kết quả nghiên cứu động thái tích luỹ các hoạt
chất này là cơ sở khoa học cho việc sàng lọc và định hướng khai thác
nguồn hoạt chất này từ các nguồn rong biển Việt Nam.
4
6. Bố cục của luận án
Luận án gồm 133 trang, trong đó có 37 hình, 15 bảng, 4 biểu đồ. Bố
cục của luận án: Mở đầu (3 trang); Chương 1: Tổng quan (36 trang);
Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu (13 trang), Chương 3:
Thực nghiệm (8 trang); Chương 4: Kết quả và thảo luận (60 trang); Kết
luận và kiến nghị (3 trang); Tài liệu tham khảo (9 trang); Ngoài ra còn có
51 trang phụ lục với các hình phổ, kết quả phân tích TLC, GC và GC-MS,
HPLC, NMR.
II. NỘI DUNG CỦA LUẬN ÁN
MỞ ĐẦU
Phần mở đầu đề cập đến ý nghĩa khoa học, tính thực tiễn, đối tượng
và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
Trong phần tổng quan, luận án đã giới thiệu chung lớp chất lipit, các
axit béo (đặc biệt là các axit béo có hoạt tính sinh học như axit arachidonic)
và prostaglandin cũng như phương pháp nhận dạng, phân lập lớp chất lipit,
axit béo và các hợp chất AA, PG.
Luận án đã tổng hợp và đánh giá tiềm năng nguyên liệu rong biển
Việt Nam từ một số công trình nghiên cứu về rong biển, trong đó tập trung
vào đối tượng rong Đỏ biển.
Việc đánh giá tổng quan tài liệu cho thấy, nguồn hoạt chất axit béo,
đặc biệt là các eicosanoit như prostaglandin có hoạt tính mạnh ở nồng độ
thấp và đã có nhiều ứng dụng làm thuốc. Việc tìm kiếm nguồn hoạt chất
này từ nguồn nguyên liệu có khả năng tái tạo cao như rong biển có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn. Đây cũng là vấn đề mới trên thế giới và Việt Nam.
Ở Việt Nam, nghiên cứu sẽ đóng góp thêm các số liệu điều tra cơ
bản về lớp chất lipit và các hoạt chất sinh học từ lớp chất này của đối tượng
rong Đỏ biển. Nghiên cứu cũng có giá trị thực tiễn cao mở ra triển vọng
nuôi trồng, khai thác phát triển nguồn nguồn lợi rong biển phục vụ phát
triển kinh tế vùng ven biển.
5
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là 69 mẫu của 9 họ thuộc ngành rong đỏ
Rhodophyta trong đó họ: Gracilariaceae (47 mẫu của 8 loài), Hypneaceae
(10 mẫu của 7 loài), Ceramiaceae (4 mẫu của 3 loài), Bangiaceae (2 mẫu
của 2 loài), Hylamaniaceae (2 mẫu của 1 loài), Bonnemaisioniaceae (1
mẫu), Phyllophoraceae (1 mẫu), Rhodymeniaceae (1 mẫu),
Halymeniaceae (1 mẫu).
Vị trí thu mẫu: 68 mẫu thu ở biển Việt Nam từ Quảng Ninh đến Ninh
Thuận; 01 mẫu thu tại vùng biễn Viễn Đông – Liên bang Nga.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thu và bảo quản mẫu
Việc thu mẫu ở vùng triều dựa vào quy phạm tạm thời điều tra tổng
hợp biển (phần rong biển) của Uỷ ban KHKT Nhà nước ban hành năm
1981. Khảo sát vùng dưới triều dựa vào tài liệu hướng dẫn của Wilkinson
& Baker 1997 bằng thiết bị lặn SCUBA.
Mẫu rong biển sau khi thu (khoảng 2 kg tươi) được rửa sạch bằng
nước mặn sau đó rửa bằng nước ngọt và bảo quản ngay trong nhiệt độ≤
4OC, sau đó chia đôi và bảo quản bằng tủ lạnh sâu ở -20OC và -47OC.
2.2.2. Phương pháp phân lập, tách chiết lipit, axit béo, AA, PG
2.2.2.1. Phương pháp chiết lipit tổng
Chiết lipit tổng bằng phương pháp đặc hiệu Bligh&Dyer, 1959, sử
dụng hệ dung môi CHCl3 : CH3OH với tỉ lệ 1/2 (v/v).
2.2.2.2. Phương pháp phân lập các axit béo, AA, PG
Để phân lập các axit béo, axit arachidonic, prostaglandin từ rong đỏ
sử dụng các phương pháp sắc kí lớp mỏng (TLC), sắc kí lớp mỏng điều
chế, sắc kí cột áp xuất thường (CC), sắc kí lỏng hiệu năng cao (HPLC).
6
2.2.3. Phương pháp xác định thành phần, hàm lượng và cấu trúc các
axit béo, AA, PG
2.2.3.1. Các phương pháp xác định thành phần, hàm lượng các hợp chất
Thành phần và hàm lượng axit béo xác định theo phương pháp
ISO/FDIS 659:1998, sử dụng GC-FID và GC-MS.
Xác định hàm lượng prostaglandin (dạng đã được methyl và silyl hoá)
bằng GC-MS.
2.2.3.2. Các phương pháp nghiên cứu cấu trúc các hợp chất
Sử dụng phương pháp phổ khối lượng ion hoá phun mù điện tử ESI-
MS, phổ khối bắn phá điện tử EI-MS, phổ khối phân giải cao LCMS-IT-
TOF, các phương pháp phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1 chiều 1H-NMR, 13C-
NMR, DEPT và các phương pháp phổ cộng hưởng từ hạt nhân hai chiều
1H-1H COSY, HSQC, HMBC, NOESY.
2.2.4. Phương pháp phân tích cấu tử chính
Phương pháp phân tích cấu tử chính (PCA, Principle Component
Analysis) và phân tích chùm (cluster analysis) được sử dụng để xử lý các
số liệu đa biến về thành phần các axit béo của các mẫu rong đỏ nhằm tìm ra
các mối tương quan của chúng với nhau. Phần mềm Statistica-PCA 69
được sử dụng để thực hiện phép phân tích cấu tử chính và phần mềm Surfer
32 được sử dụng để thực hiện phép phân tích chùm. Các số liệu được xử lý
trước khi phân tích bằng phần mềm Microsof Excel.
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM
Các mẫu được tiến hành nghiên cứu theo sơ đồ chung như sau:
7
3.1. Chiết tách và xác định hàm lượng lipit tổng
Cân 100 gam mẫu rong biển tươi, nghiền nhỏ bằng máy xay, chiết
bằng hệ dung môi CHCl3:CH3OH tỉ lệ 1:2 (100ml CHCl3: 200ml CH3OH),
siêu âm trong 6 giờ. Bổ sung 100ml CHCl3, thêm 100ml nước cất, lắc đều,
đợi phân lớp lấy phần dung dịch ở phía dưới, rửa lại bằng nước cất thêm 2
lần sau đó làm khan bằng Na2SO4. Cô cất loại dung môi thu lipit tổng
(phương pháp chiết được lặp lại 3 lần lấy giá trị trung bình).
3.2. Xác định thành phần và hàm lượng các axít béo
Lấy 10mg lipit tổng được hòa tan với 1ml n-hexan trong lọ nhỏ nút kín, bổ
sung 25ml dung dịch CH3ONa 30% và lắc kĩ trong 1 phút. Thêm vào 20mg
Na2SO4 loại sạch, lắc kĩ và đem ly tâm ở chế độ 5000 vòng/phút trong 1 phút. Dịch
trong, sạch ở pha trên được tách riêng, kiểm tra trên sắc kí bản mỏng (TLC).
Tiến hành phân tích trên máy sắc kí khí GC, nhận dạng axit béo bằng phần
mềm chuyên dụng, tính toán chuyển đổi qua giá trị thời gian lưu tương đương ECL
(Equivalent Chain Length) có sử dụng hệ chất chuẩn là các axit béo C16:0 và C18:0.
Kết quả được tính theo công thức:
ECL = ±16
2(lg RTx – log T16:0)
lg RT18:0 – lg RT16:0
3.3. Sàng lọc định tính, định lượng prostaglandin
3.3.1. Phân tích định tính prostaglandin
Lấy 25g rong tươi, nghiền trong nitơ lỏng, bổ sung 50ml nước cất,
khuấy bằng máy khuấy từ trong thời gian 60 phút ở nhiệt độ 5-60C. Nhỏ từ
từ axit HCl đặc và kiểm tra cho đến khi pH = 2-3, khuấy tiếp 60 phút.
Chiết bằng etyl axetat 50ml (2 lần), để phân lớp thu phần dịch phía
trên. Cô cất chân không ở nhiệt độ < 300C thu cặn chiết etyl axetat. Kiểm
tra bằng bản mỏng silicagel 60 GF254 với hệ dung môi dioxan:benzen:axit
axetic (30:50:2), thuốc thử là dung dịch H2SO4/MeOH 5%, phát hiện định
tính PGE2 có màu vàng nhạt, sử dụng chất chuẩn PGE2 có độ tinh khiết
93% cung cấp bởi hãng sigma.
3.3.2. Phân tích định lượng PGE2 trong các mẫu rong Đỏ
Dịch chiết etyl axetat được metyl và silyl hoá và xác định hàm lượng
PGE2 bằng GC-MS. Nhận dạng prostaglandin bằng phần mềm chuyên dụng,
tính toán chuyển đổi qua giá trị thời gian lưu tương đương ECL, sử dụng hệ chất
8
chuẩn là PGB2 và PGE2. Tính toán hàm lượng PGE2 có trong 1 g rong tươi
(µg/g rong tươi).
3.3.3. Khảo sát sự biến động và tích luỹ prostaglandin và axit béo trong
quá trình sinh trưởng và phát triển của loài rong câu Gracilaria
vermiculophylla của Nga nuôi trong PTN ở Việt Nam
Mô tả chi tiết cách bố trí thí nghiệm theo dõi sự sinh trưởng và phát
triển của loài rong G. vermiculophylla nuôi trong phòng thí nghiệm. Thu
mẫu và phân tích đánh giá biến động hàm lượng PG, các axit béo.
3.4. Phân lập prsotaglandin từ rong Đỏ
3.4.1. Phân lập PGE2 từ loài rong câu Gracilaria vermiculophylla
Sơ đồ phân lập PGE2 gồm các bước: Xử lí mẫu; Chiết dịch tổng bằng
etyl axetat; Phân lập và tinh chế PGE2 bằng HPLC điều chế.
• Các dữ liệu phổ của PGE2 phân lập được:
Hợp chất phân lập được dạng bột, màu vàng. Điểm nóng chảy 65,5 – 660C.
Rf = 0,5 (TLC, silica-gel, C6H6 : EtOAc 1:1, màu vàng, H2SO4 10%/ MeOH).
Phổ khối ESI-MS: m/z = 375 [M+Na]+.
Phổ 1H-NMR (500 MHz, CDCl3 & CD3OD), δ ppm: 5,62 (1H, m, H-
14); 5.58 (1H, m, H-13); 5,43 (1H, m, H-5); 5,34 (1H, m, H-6); 4,06 (2H,
m, H-11, H-15); 2,70 (1H, ddd, J = 1.5, 7.5, 18.0 Hz, H-10a); 2,42 (1H, m,
H-12); 2,35 (2H, m, H-7); 2,29 (2H, t, J = 7,5 Hz, H-2); 2,18 (1H, m, H-8);
2,17 (1H, m, H-10b); 2,09 (2H, m, H-4); 1,67 (2H, qd, J = 2,0; 7,5 Hz, H-
3); 1,58 (1H, m, H-16a); 1,48 (1H, m, H-16b); 1,30-1,40 (6H, m, H-17, H-
18, H-19) và 0,91 (3H, t, J = 7.0 Hz, H-20).
Phổ 13C-NMR (125 MHz, CDCl3 & CD3OD), δ ppm: 216,7 (C-9);
177,0 (C-1); 137,4 (C-14); 131,8 (C-13); 131,6 (C-5); 127,3 (C-6); 73,4 (C-
15); 72,5 (C-11); 55,3 (C-8); 53,9 (C-12); 47,1 (C-10); 37,9 (C-16); 34,1
(C-2); 32,5 (C-18); 27,4 (C-4); 26,0 (C-17); 25,6 (C-3); 25,5 (C-7); 23,3
(C-19) và 14,3 (C-20).
3.4.2. Nhận biết PGE3 từ loài rong câu Gracilaria vermiculophylla
Dịch chiết etyl axetat của loài rong câu Liên bang Nga Gracilaria
tenuistipitata được tách thành các phân đoạn trên cột thường. Phân đoạn 5
giàu PGE3 (phát hiện bằng TLC) được phân tích bằng phương pháp HPLC
9
liên kết với MS/MS phân giải cao trên máy LCMS-IT-TOF của hãng
Shimadzu. Chế độ HPLC: cột C18 (100mm x 2,1mm, ID 3 µm, Supelco,
USA), hệ dung môi MeOH:AcOH:H2O biến đổi gradient, tốc độ dòng
2ml/phút. Chế độ MS: Mẫu đo được ion hóa bằng phương pháp APCI
(positive-ion mode), quá trình phân mảnh của các ion giả phân tử được xác
định bằng MS/MS dùng khí Argon để bắn phá.
3.5. Phân lập, tinh chế thu nhận axit arachidonic từ loài rong Câu
Gracilaria tenuistipitata
Sơ đồ phân lập AA gồm 4 bước: Chiết lipit tổng; Thuỷ phân lipit
tổng; Làm giàu các axit béo không no bằng phương pháp tạo muối với
LiOH; Phân lập và tinh chế AA.
• Các dữ liệu phổ của hợp chất phân lập được (etyl arachidonat)
Phổ khối EI-MS: m/z = 332 [M]+
Phổ 1H NMR (500 MHz, CDCl3), δ ppm: 5,37 (8H, m, H-5, H-6, H-
8, H-9, H-11, H-12, H-14, và H-15); 4,12 (2H, q, J = 7,0; 14.0 Hz, H-21);
2,81 (6H, m, H-7, H-10, H-13); 2,30 (2H, t, J = 7,5 Hz, H-2); 2,10 (2H, m,
H-4); 2.06 (2H, m, H-16); 1,70 (2H, q, J = 7.5 Hz, H-3); 1.36 (2H, m, H-
19); 1,30 (4H, m, H-17, H-18); 1.27 (3H, t, J = 7.0 Hz, H-22); 0,90 (3H, t, J
= 7,0 Hz, H-20).
Phổ 13C NMR (125 MHz, CDCl3,), δ ppm: 173,6 (C-1); 130,4 (C-
15); 129.0 (C-8); 128,8 (C-9); 128,5 (C-11); 128,2 (C-12 và C-14); 127,9
(C-5); 127,5 (C-6); 60,2 (C-21); 33,7 (C-2); 31,5 (C-18); 29,3 (C-17); 27,2
(C-16); 26,5 (C-4); 25,6 (C-3, C-7, và C-10); 24,8 (C-3); 22,5 (C-19); 14,2
(C-22); 14,0 (C-20).
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Nghiên cứu sàng lọc lipit và axit béo của rong Đỏ
4.1.1. Khảo sát hàm lượng lipit tổng
Kết quả xác định hàm lượng lipit tổng của 69 mẫu rong Đỏ, chúng
tôi chia thành 4 nhóm: Nhóm I có hàm lượng lipit ≤0,2% (nhóm có hàm
lượng lipit thấp); Nhóm II từ >0,2 đến ≤0,4% (nhóm có hàm lượng lipit
trung bình); Nhóm III từ >0,4 đến ≤0,6% (nhóm có hàm lượng lipit cao);
10
Nhóm IV >0,6% (nhóm có hàm lượng lipit rất cao). Hàm lượng lipit tổng
của 68 mẫu rong Đỏ ở Việt Nam dao động từ 0,118 đến 0,734% khối lượng
tươi trong đó có 14 mẫu thuộc nhóm I, 45 mẫu thuộc nhóm II, 5 mẫu thuộc
nhóm III và 4 mẫu ở họ rong Đông thuộc nhóm IV có 4 mẫu có hàm lượng
lipit tổng đạt 0,604-0,734%. Riêng mẫu rong câu của LB Nga có hàm
lượng lipit cao nhất, đạt 1,39% khối lượng tươi.
4.1.2. Khảo sát thành phần và hàm lượng các axit béo
4.1.2.1. Thành phần và hàm lượng axit béo của rong câu
Đã xác định được 55 loại axit béo có mạch cacbon từ C12 đến C25.
Axit béo no SFA: hàm lượng SFA trung bình là 69,886%, dao động
từ 34,68% (mẫu TAX) đến 84,8% (mẫu N15). 50% số mẫu có hàm lượng
SFA trong khoảng từ 66,025% đến 75,455%.
PUFA: hàm lượng trung bình là 9,807% dao động từ 1,06 đến
49,41%. 50% số mẫu có hàm lượng PUFA trong khoảng từ 4,9 đến
12,43%. Trong số mẫu có hàm lượng PUFA cao phải kể đến mẫu TAX
hàm lượng cao nhất đạt 49,41%, mẫu A3 là 22,52%, mẫu A5 là 21,33%,
mẫu A16 là 17,86%.
HUFA: hàm lượng trung bình là 7,191%, dao động từ 0 đến 35,53%.
Chỉ trừ mẫu N15, tất cả các mẫu đều chứa HUFA, một số mẫu có hàm
lượng HUFA rất cao như TAX là 35,53%, T28 là 19,47%, A5 là 18,76%,
A16 là 15,51%, A3 là 14,93%.
Omega-3: hàm lượng chỉ đạt 1,501%, dao động từ 0 đến 18,44%.
Thành phần omega-3 chủ yếu là 2 axit béo C20:5n-3 (eicosapentaenoic axit
- EPA) và axit C22:5n-3 (Docosapentaenoic acid, DPA). Tuy nhiên, EPA
xuất hiện ở nhiều mẫu hơn và có hàm lượng cao hơn, cá biệt có mẫu T29
hàm lượng EPA là 8,17% tổng axit béo.
Omega-6: hàm lượng trung bình là 8,174%, dao động từ 0,61% đến
46,34%. Omega-6 cao nhất là mẫu rong Câu Nga đạt 46,34%, gấp > 2 lần
mẫu có hàm lượng cao nhất của Việt Nam (mẫu A5), đạt 21,08%.
Thành phần omega-6 chủ yếu là 3 axit: C18:2n-6, C20:3n-6, C20:4n-
6, trong đó axit chiếm hàm lượng cao nhất trong tất cả các mẫu là C20:4n-6
(axit arachidonic).
11
Omega-9: Hàm lượng nhóm omega-9 trung bình đạt 10,389%, dao
động trong khoảng 3,17 đến 19,79%. Trong đó chủ yếu là axit C18:1n-9
(axit oleic), trung bình đạt 9,39%.
Về chỉ số PUFA/SFA: Giá trị trung bình đạt 2,454, dao động từ 0
đến 16,12. Theo khuyến cáo của WHO, yêu cầu cho thực phẩm lành là chỉ
số PUFA/SFA >0,4 thì có đến 45/47 mẫu (chiếm 95,7%) đạt yêu cầu.
Về chỉ số n3/n6: Giá trị trung bình đạt 0,176, dao động từ 0 đến
4,64. Theo khuyến cáo của WHO, thực phẩm có chỉ số n3/n6 >0,1 là tốt
cho sức khoẻ con người. Kết quả phân tích cho thấy có 24 mẫu đạt yêu cầu,
trong đó có một số mẫu có chỉ số n3/n6 cao như: T29 (2,17), A3 (2,11),
A16 (1,3), T28 (0,93).
4.1.2.2. Thành phần và hàm lượng các axit béo của các loài thuộc chi
Hypnea họ rong Đông
Axit béo no: chiếm hàm lượng cao, trung bình là 67,53%, dao động
từ 53,52% đến 78,44%.
PUFA: Hàm lượng PUFA của họ rong Đông tương đương với họ
rong Câu. Hàm lượng PUFA trung bình đạt 9,07%, dao động từ 3,88% đến
29,13%.
HUFA: Hàm lượng HUFA của họ rong Đông thấp hơn họ rong Câu.
Hàm lượng trung bình là 6,02%, doa động từ 1,57% đến 22,35%.
Omega-3: Hàm lượng omega-3 của họ rong Đông cao hơn họ rong
Câu xong hàm lượng vẫn thấp, đạt trung bình là 3,1%, dao động từ 0 đến
6,78%.
Tiếp tục phát hiện 02 mẫu có DHA là N2 và N11 với hàm lượng
tương ứng là 1,07% và 2,61%.
Omega-6: Hàm lượng omega-6 của họ rong Đông thấp hơn họ rong
Câu, đạt giá trị trung bình là 5,87%, dao động từ 1,38% đến 22,35%.
Hai axit béo omega-6 xuất hiện phổ biến ở các mẫu là C18:2n-6
(9/10 mẫu), C20:4n-6 ( 8/10 mẫu).
Khác với chi Gracilaria, họ rong Câu (Gracilariaceae), thành phần
axit béo của các mẫu thuộc chi Hypnea, họ rong Đông (Hypneaceae) có sự
khác biệt rõ rệt giữa các loài thậm chí cả trong quần chủng loài như các
mẫu N6, N10 và N11 của loài H. flegilliformis hoặc ở các mẫu N12 và T11
12
của loài H. japonica. Ví dụ như đối với AA ở các mẫu N10 và N11 của loài
H. flegelliformis hàm lượng chỉ đạt 0,33 và 0,1% thì ở cùng loài là N6 lại
lên tới 22,35%.
4.1.2.3. Thành phần và hàm lượng các axit béo của 12 mẫu thuộc 7 họ rong
Đỏ Ceramiaceae, Bangiaceae, Hylamaniaceae, Bonnemaisoniaceae,
Phyllophoraceae, Rhodymeniaceae, Halymeniaceae
Biểu đồ 4.2. Hàm lượng các họ axit béo của 12 mẫu thuộc 7 họ rong Đỏ
Đã xác định được 47 axit béo C12 đến C24.
Axit béo no: Hàm lượng SFA trung bình là 65,05%, dao động từ
40,18% đến 76,92%.
PUFA: hàm lượng trung bình là 13,47%, dao động từ 3,35% đến
36,12%. 50% số mẫu trong khoảng 7,51% đến 12,78%.
HUFA: hàm lượng trung bình là 9,48%, dao động từ 0 đến 30,8%.
50% số mẫu nằm trong khoảng từ 2,88% đến 11,67%.
Omega-3: Đã phát hiện 9 axit omega-3 mạch cac bon từ C18 đến C22
có hàm lượng trung bình là 3,84%, dao động từ 0 đến 17,67%.
Tiếp tục phát hiện 2 mẫu rong Đỏ có chứa DHA là mẫu N4, loài
Liagora sp1, hàm lượng đạt 1,82% và mẫu T2, loài Grateloupia lithophila,
hàm lượng đạt 0,6% tổng axit béo.
Omega-6: Đã phát hiện 10 axit omega-3 mạch cac bon từ C18 đến C23
có hàm lượng trung bình là 9,6%%, dao động từ 2,1% đến 18,89%. Thành
phần omega-6 quan trọng nhất là AA (11/12) mẫu, điển hình là mẫu T2, và
N9 (loài Grateloupia lithophila) hàm lượng AA đạt lần lượt là 16,1% là
14,45%.
13
Về chỉ số PUFA/SFA: Giá trị của chỉ số này thấp hơn nhiều so với
hai họ rong Câu và rong Đông, trung bình là 0,24, dao động từ 0,04 đến
0,9.
Về chỉ số n3/n6: Giá trị trung bình là 0,54, dao động từ 0 đến 2,44.
Trong 12 mẫu có 50% số mẫu đạt mức >0,1 là: N4 (2,44), CC1 (1,67), N9
(0,97), N7 (0,6), T12 (0,35) và N1 (0,24).
4.1.2.4. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự tích luỹ lipit và hình
thành các axit béo của rong Đỏ
Chúng tôi tìm hiểu sâu về biến động của sự tích luỹ lipit và axit béo
cũng như sự hình thành chúng ở các mẫu đặc trưng cho các họ, các chi và
các loài rong Đỏ thu ở một số vùng sinh thái trên biển.
• Đúc kết các yếu tố ảnh hưởng trên cơ sở số liệu của các mẫu rong
Đỏ thu tại đảo Cồn Cỏ - Quảng Trị.
Cồn Cỏ - Quảng Trị đặc trưng của vùng biển miền Trung có khí hậu
chủ yếu là nắng, nóng trong năm. Chúng tôi đã nghiên cứu 11 mẫu của 11
loài thuộc 8 họ rong Đỏ (bảng 4.3) là đặc trưng cho các họ rong Đỏ khác
nhau trong một vùng sinh thái.
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc sinh tổng hợp axit béo không chỉ
rất khác biệt giữa các mẫu khác họ mà còn ở những cặp mẫu của các loài
có quan hệ phát sinh sinh vật gần gũi (cùng chi) như N2/N6, N4/N7 và
N5/CC2. Minh chứng qua hàm lượng AA (C20:4n-6) và EPA (C20:5n-3).
Chẳng hạn như trong khi ở mẫu N6 hàm lượng AA rất cao (22,35%) thì ở
mẫu N2 lại vằng mặt hoạt chất này. Tương tự như vậy ở mẫu N7 không
phát hiện được AA và EPA trong khi hàm lượng các hoạt chất này ở N4 lần
lượt là 1,7 và 6,24% tổng axit béo.
• Đúc kết các yếu tố ảnh hưởng trên cơ sở số liệu của các mẫu rong
Đỏ thu tại khu vực Phù Long - Hải Phòng
Khu vực Phù Long – Hải Phòng là khu vực điển hình cho vùng biển
Đông Bắc, nơi có một mùa đông lạnh trong năm, tập trung nhiều loài thuộc
chi rong Câu. Chúng tôi thu thập được 4 loài thuộc chi rong Câu tại khu
vực này. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng lipit của các mẫu ở mức
trung bình và thấp. Về thành phần axit béo, chúng có 3 đặc trưng tương tự
như 8 họ rong Đỏ khác thu tại Cồn Cỏ - Quảng Trị là (1) hàm lượng axit
14
béo no rất cao, (2) tỷ lệ về hàm lượng axit béo no thấp thì hàm lượng axit
béo không no PUFA và HUFA cao và ngược lại, (3) hàm lượng axit béo họ
omega-6 cao hơn omega-3. Các tính chất này phù hợp với các đặc trưng
chung của các họ thuộc ngành rong Đỏ công bố trước đây.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, trong một chi rong câu
Gracilaria cũng có sự biến dị về thành phần các axit béo. Ví dụ thấy rõ
nhất ở mẫu A22 (loài Gracilaria gigas) xuất hiện 4 axit mạch dài là C21:0,
C22:2n-6, C22:5n-3, C22:6n-3 (DHA) trong khi đó không phát hiện ở 3
loài cùng thuộc chi rong Câu.
• Đúc kết các yếu tố ảnh hưởng trên cơ sở số liệu của các mẫu rong
Đỏ thu tại các tỉnh khác nhau khác nhau
Nghiên cứu được tiến hành trên 8 mẫu của cùng loài rong Câu chỉ
vàng thu ở 8 tỉnh, thành khác nhau (từ Quảng Ninh đến Bình Thuận) và 1
mẫu xuất xứ từ mẫu T28 được nuôi trong PTN của Viện (nhiệt độ phòng
nuôi là 20-220C) để xem xét sự hình thành và tích luỹ axit béo của cùng 1
loài trong các điều kiện sinh thái khác nhau.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù các mẫu rong Câu chỉ vàng thu
trải dài trên 8 tỉnh khác nhau nhưng sự tích luỹ lipit và axit béo no không
có nhiều biến động. Điều đáng chú ý nhất là axit C20:4n-6 có mặt ở 8/8
mẫu, song hàm lượng rất khác biệt nhau. Điều này cho thấy mặc dù sự hình
thành và tích luỹ axit béo nhóm axit béo không no tuy được quyết định vào
bản chất sinh học của loài song vẫn chịu tác động không nhỏ của điều kiện
tự nhiên.
Khi so sánh 2 mẫu rong Câu chỉ vàng (Gracilaria tenuistipitata) thu
tự nhiên (mẫu T28) và mẫu nuôi trong PTN, hàm lượng lipit tổng thì không
thay đổi đáng kể tuy nhiên thành phần các axit béo thì biến động rất đáng
chú ý. Mẫu rong nuôi phát sinh thêm 5 axit là C15:1n-7, C15:1n-5, C16:1n-
9, C17:0 và C20:3n-6. Hàm lượng axit C16:0 đặc trưng cho họ axit béo no
của mẫu rong thu tự nhiên giảm 23,2% so với tổng axit béo trong khi đó
axit C20:4n-6 tăng 10,03%. Như vậy có thể nhận định điều kiện nhiệt độ
trong quá trình sinh trưởng của rong ảnh hưởng lớn đến thành phần và hàm
lượng axit béo theo hướng giảm axit béo no và tăng các axit béo không no.
15
4.1.3. Sử dụng phương pháp PCA và phương pháp phân tích chùm để xử
lý tập dữ liệu về thành phần axit béo của các mẫu rong đỏ
Từ 69 mẫu rong Đỏ chúng tôi đã xác định được 12 axit béo chính
yếu là C14:0, C15:0, C16:0, C16:1n-7, C18:0, C18:1n-9, C18:1n-7,
C18:2n-6, C20:3n-6, C20:4n-6, C20:5n-3 và C22:0. Các mẫu rong Đỏ phân
bố trên giản đồ 2 chiều như hình 4.1 trong đó thể hiện rõ rệt nhất là các họ
Gracilariaceae, Hypneaceae, Ceramiaceae.
Hình 4.1. Kết quả phân tích PCA của các loài rong Đỏ
Sử dụng phần mềm SURFER 32, chúng tôi biểu diễn biểu đồ phân
loại hình đối với 69 mẫu rong đỏ theo các dữ liệu về thành phần và hàm
lượng các axit béo chính yếu như hình 4.2 dưới đây.
Hình 4.2. Sơ đồ cây phân loại 69 loài rong đỏ dựa vào thành phần
và hàm lượng các axit béo chính yếu.
Gra1
Gra2
Gra3
Gra4Gra5
Gra6
Gra7
Gra8
Gra9
Gra10
Gra11
Gra12
Gra13
Gra14
Gra15
Gra16
Gra17
Gra18Gra19
Gra20Gra21
Gra22
Gra23Gra24
Gra25
Gra26
Gra27Gra28
Gra29
Gra30
Gra31
Gra32 Gra33
Gra34
Gra35
Gra36 r 37 Gra38
Gra39
Gra40 Gra41
Gra42
Gra43
Gra44
r 5Gra46
GraNga
Hyp1
Hyp2
Hyp3
Hyp4
Hyp5
Hyp6
Hyp7
Hyp8
Hyp9
Hyp10
Cer1
Cer2
Cer3
Cer4
Ban1
Ban2
Hyl1
Hyl2
Bon
Phy
Rho
Hal
-1.50 -1.00 -0.50 0.00 0.50 1.00 1.50 2.00 2.50 3.00 3.50 4.00
-2.50
-2.00
-1.50
-1.00
-0.50
0.00
0.50
1.00
1.50
2.00
2.50
F2
F1
Tree Diagram for Variables
Single Linkage
Euclidean distances
Gr
aN
ga Hy
l2
Gr
a15 Ban
2
Ban
1
Gr
a11 Phy Hy
l1 Ha
l
Rh
o
Hy
p2 Gr
a8
Hy
p9
Hy
p8
Hy
p10 Gr
a34 Hy
p3
Gr
a44 Hy
p6
Hy
p4
Hy
p1
Hy
p7
Hy
p5 Bon Gr
a23
Gr
a25 Gr
a9
Gr
a7
Gr
a4
Gr
a3
Gr
a38
Gr
a41
Gr
a33
Gr
a40
Gr
a29 Gr
a1
Gr
a10 Gr
a6
Gr
a5
Gr
a2
Gr
a45
Gr
a46
Gr
a42
Gr
a39
Gr
a37
Gr
a21
Gr
a26
Gr
a31
Gr
a32
Gr
a36
Gr
a30
Gr
a28
Gr
a24
Gr
a27
Gr
a19
Gr
a35
Gr
a18
Gr
a43
Gr
a20
Gr
a17
Gr
a12
Gr
a13
Gr
a16
Gr
a14
Gr
a22 Cer
2
Cer
1
Cer
3
Cer
40
5
10
15
20
25
Lin
kag
e D
ista
nce
16
4.2. Kết quả sàng lọc prostaglandin và axit arachidonic từ các loài rong
đỏ thu thập được
4.2.1. Kết quả khảo sát định tính PGE2
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát định tính PGE2 của các mẫu rong Đỏ
bằng phương pháp sắc ký bản mỏng (TLC).
Hình 4.3. Sắc kí lớp mỏng định tính PGE2
(a). Các mẫu có vết PGE2, (b). Các mẫu không có vết PGE2.
Kết quả phân tích cho thấy có tín hiệu về sự xuất hiện PGE2 ở 39
mẫu, trong đó tín hiệu rõ ràng nhất ở mẫu rong Nga (kí hiệu TAX hay M0)
và 38 mẫu rong Đỏ Việt Nam. Tuy nhiên, sự xuất hiện các tín hiệu này rất
khác nhau, đa phần các mẫu chỉ xuất hiện tín hiệu dạng vết, chỉ có 4 mẫu
xuất hiện tín hiệu PGE2 rõ ràng là các mẫu T5, A3, A7, A16.
4.2.2. Kết quả khảo sát định lượng PGE2
Kết quả phân tích định lượng PGE2 đã xác định được 15 mẫu (T5,
T22, T28, A3, A4, A5, A6, A7, A16, N3, N6, N9, CC2, T2 và TAX) có
hàm lượng PGE2 từ 0,3 – 21,52µg/g rong tươi. Trong đó hàm lượng cao
nhất là mẫu rong Câu Nga TAX (loài Gracilaria vermiculophylla), tiếp
theo là 2 mẫu rong Câu Việt Nam là mẫu A16 (loài Gracilaria gigas), mẫu
T5 (loài Gracilaria tenuistipitata) với hàm lượng lần lượt là 3,6 và 3,4 µg/g
rong tươi.
So sánh tương quan giữa hàm lượng PGE2 và AA trong 39 mẫu rong
Đỏ (bảng 4.6) cho thấy, các mẫu có hàm lượng AA cao thì có khả năng
phát hiện PGE2 hàm lượng cao và ngược lại. Tuy nhiên, tỉ lệ tương quan
giữa hàm lượng AA và PGE2 ở các họ rong Đỏ là không giống nhau.
17
4.2.3. Khảo sát sự biến động và tích luỹ hàm lượng các axit béo,
prostaglandin trong quá trình sinh trưởng và phát triển của loài rong
câu Gracilaria vermiculophylla của Nga nuôi trong PTN ở Việt Nam.
4.2.2.1. Khảo sát sự sinh trưởng và phát triển của loài rong câu Gracilaria
vermiculophylla trong điều kiện phòng thí nghiệm
Kết quả nghiên cứu (bảng 4.7 và biểu đồ 4.3).
Biểu đồ 4.3. Tốc độ tăng sinh khối của rong Câu G. vermiculophylla
Kết quả khảo sát cho thấy rong có khả năng sống khi nuôi trong điều
kiện thí nghiệm với thời gian 5 tháng. Đặc biệt là trong 3 tháng đầu, tốc độ
tăng trọng đạt 1-3%/ngày, sau đó rong bị chết và ngừng sinh trưởng.
4.2.2.2. Khảo sát sự biến động hàm lượng lipit các axit béo trong quá trình
sinh trưởng và phát triển của rong câu G. vermiculophylla
Kết quả khảo sát (bảng 4.8) cho thấy, hàm lượng lipit tổng sau 5
tháng nuôi giảm dần từ 1,39% (mẫu M0, M1) xuống còn 0,55% (mẫu M5).
Các axit béo no hàm lượng tăng từ 33,68 lên đến 55,76% tổng axit
béo (tăng 60,4%). Hàm lượng các axit béo không no PUFA và omega-6
giảm tương ứng từ 49,41% và 46,34% xuống còn 15,91% tổng axit béo ở
tháng thứ 5. Trong đó đặc biệt là AA giảm từ 33,3% xuống còn 11,44%.
4.2.2.3. Khảo sát sự biến động PGE2 của rong câu Gracilaria
vermiculophylla nuôi trong phòng thí nghiệm
Kết quả phân tích hàm lượng PGE2 của các mẫu rong nuôi từ tháng
1-5 lấy mẫu thêm 01 mẫu M6 ở tháng thứ 6 khi rong đã lụi ở bảng 4.9.
Bảng 4.9. Hàm lượng PGE2 của các mẫu rong nuôi (µg/g rong tươi)
Mẫu M0 M1 M2 M3 M4 M5 M6
Hàm lượng PGE2 21,52 18,33 - 8,26 5,21 3,16 -
18
Hàm lượng PGE2 giảm dần theo các tháng trong quá trình nuôi từ
21,52 (M0) xuống còn 3,16 (M5). Có 2 mẫu không phát hiện PGE2 là mẫu
M2 (khi có sinh vật giáp xác phát triển mạnh) và M6 (sau khi rong đã lụi).
4.3. Phân lập hoạt chất prostaglandin từ rong Đỏ
Phân lập các prostaglandin (PGE2, PGE3) theo sơ đồ hình 4.5.
Hình 4.5. Sơ đồ phân lập PG từ rong câu Gracilaria vermiculophylla
4.3.1. Phân lập PGE2 từ loài rong Câu Gracilaria vermiculophylla
4.3.1.1. Khảo sát các điều kiện phân lập PGE2.
Đã xác định điều kiện nghiền mẫu: bằng nitơ lỏng, thêm nước cất và
ủ trong các điều kiện tối ưu. Các thông số cho quá trình ủ để phân lập
PGE2: nhiệt độ 3-60C, pH 2-3, thời gian: 2h.
4.3.1.2. Tinh chế PGE2
Tách PGE2 trên cột silica gel với hệ dung môi etyl axetat:hexan:axit
axetic biến đổi gradient (30:70:2 – 50:50:2 – 70:30:2), thu được các phân
đoạn E1-E7. Tiếp tục tinh chế phân đoạn E6 bằng HPLC điều chế thu được
PGE2 ở phút thứ 39. Độ tinh sạch >90%.
4.3.1.3. Xác định cấu trúc hoá học của PGE2
19
Từ các kết quả phân tích dữ liệu phổ thu được nêu trên cộng với so
sánh với tài liệu tham khảo [89,91] cho phép xác định chính xác cấu trúc
hóa học của hợp chất thu được là prostaglandin E2 (PGE2).
Bảng 4.12. Các dữ liệu phổ 1H, 13C, COSY and HMBC NMR của PGE2
TT
Hợp chất PGE2
1H
(δ, J in Hz)
13C
(δ, ppm) HMBC COSY
1 177,0 , H-3
2 2,29, t, 7.5 34,1 H-3, H-4 H-3
3 1.67, qd, 3.0, 7.5 25,6 H-4, H-2 H-2, H-4
4 2,09, m 27,4 H-6, H-2, H-3 H-3, H-5
5 5,43, m 131,6 H-7, H-3, H-4 H-4, H-6
6 5,34, m 127,3 H-7, H-8 H-5, H-7
7 2,35, m 25,5 H-5, H-8 H-6, H-8
8 2,18, m 55,3 H-7 H-7, H-12
9 216,7 H-10, H-7 H-10b, H-11
10 2,70, ddd, 1.5, 7.5, 18.0 2,17, m 47,1 H-11
11 4,06, m 72,5 H-13, H-10 H-10, H-12
12 2,42, m 53,9 H-14,H-10 H-11, H-13, H-8
13 5,58, m 131,8 H-11, H-12, H-15 H-12, H-14
14 5,62, m 137,4 H-12, H-15 H-13, H-15
15 4,06, m 73,4 H-13 H-14, H-16
16 1,58, m 1,48, m 37,9 H-15, H-17
17 1,33, m 26,0 H-16 H-16, H-18
18 1,33 m 32,5 H-19, H-20, H-17 H-17, H-19
19 1,35 m 23,3 H-20 H-18, H-20
20 0,91, t, 7.5 14,3 H-19 H-19
Prostaglandin E2
20
4.3.2. Nhận biết prostaglandin E3
Trên phổ khối phân giải cao LCMS-IT-TOF đã xác định hợp chất
phân lập được từ phân đoạn E5 là PGE3.
Hình 4.16. Phổ LCMS của PGE3
4.3.3. Bàn luận về sự chuyển hoá của axit béo họ eicosanoit thành các
prostaglandin bằng enzyme nội sinh từ rong Đỏ
Các kết quả nghiên cứu cho thấy mẫu rong Nga Gracilaria
vermiculophylla ngoài hàm lượng AA rất cao (33% tổng axit béo) còn chứa
một lượng đáng chú ý EPA (2,08% tổng axit béo). Đây là 2 tiền chất cho
quá trình sinh tổng hợp các prostaglandin có 2 và 3 nối đôi. Điều này là
nguyên nhân trực tiếp phát sinh PGE2 và PGE3 thu được trong quá trình
phân lập các hoạt chất từ mẫu rong này. Đây cũng là mẫu được xem như
một nguồn nguyên liệu tiềm năng cho việc thu nhận các prostaglandin.
4.4. Phân lập axit arachidonic từ loài rong Câu chỉ vàng Gracilaria
tenuistipitata
4.4.1. Quy trình phân lập axit arachidonic (hình 4.17)
4.4.2. Thuỷ phân lipit tổng
Quá trình thủy phân sử dụng KOH và dung môi là etanol. Điều kiện
tiến hành phản ứng thủy phân như sau: Thời gian 120 phút; Nồng độ cồn
70%; Nhiệt độ 750C. Hàm lượng AA sau khi thuỷ phân là 12,18%.
!
21
4.4.3. Nghiên cứu làm giàu AA bằng phương pháp tạo muối với LiOH
Hỗn hợp các axit béo được tạo muối với LiOH trong axeton, các
muối của axit béo no sẽ kết tủa và được lọc để loại ra. Các điều kiện tối ưu
cho phản ứng là: Thời gian là 60 phút; Tỉ lệ LiOH/axit béo là 2:1; Nhiệt độ
phản ứng từ 35oC ÷ 40oC. Hàm lượng AA sau phản ứng là 69,71%.
Hình 4.17. Sơ đồ phân lập axit arachidonic từ loài rong Câu chỉ vàng
Gracilaria tenuistipitata
4.3.4.4. Tinh chế axit arachidonic và chứng minh cấu trúc
Tinh chế axit arachidonic từ hỗn hợp axit béo sau khi làm giàu bằng
HPLC Shimadu – LC8A, cột SDSH C-18 (250mm x 50mm, ID 10µm) thu
được axit arachidonic dưới dạng etyl este.
22
Các dữ liệu phổ thu được nêu trên cộng với so sánh với tài liệu tham
khảo [96,107] cho phép xác định chính xác cấu trúc hóa học của hợp chất
thu được là etyl arachidonat như dưới đây.
Bảng 4.14. Các dữ liệu phổ 1H, 13C, COSY and HMBC NMR của
etyl arachidonat
STT
1H
(δ, J in Hz)
13C
(δ, ppm) HMBC COSY
1 173,5 H-21; H-2; H-3
2 2,30 33,7 H-3, H-4 H-3
3 1,70 25,6 H-2, H-4, H-5 H-2, H-4
4 2,10 26,5 H-2, H-3, H-5 H-3, H-5
5 5,37 127,8 H-7, H-4 H-4, H-6
6 5,37 127,5 H-7 H-5, H-7
7 2,80 25,6 H-8, H-9 H-6, H-8
8 5,37 128,9 H-7, H-10 H-7, H-9
9 5,37 128,8 H-10 H-8, H-10
10 2,80 25,6 H-12 H-9, H-11
11 5,37 128,5 H-10, H-12
12 5,37 128,1 H-13 H-13
13 2,80 24,8 H-12, H-14
14 5,37 128,1 H-13 H-13, H-15
15 5,37 130,4 H-13, H-16 H-14, H-16
16 2,06 27.2 H-17 H-15, H-17
17 1,35 29,3 H-16 H-16, H-18
18 1,30 31,5 H-6, H-17, H20 H-19, H-20
19 1,30 22,5 H-17,H-20,H-18 H-18, H-20
20 0,90 14,1 H-18 H-19
21 4,12 60.2 H-22 H-22
22 1,27 14,2 H-21 H-21
23
KẾT LUẬN
Lần đầu tiên ở Việt Nam, đã nghiên cứu sàng lọc toàn diện hàm
lượng lipit tổng, thành phần các axit béo, axit arachidonic và prostaglandin
trong 70 mẫu rong Đỏ thu ở biển Việt Nam và 01 mẫu rong Đỏ thu ở biển
Viễn Đông - Liên bang Nga.
1. Đã xác định được hàm lượng lipit tổng của 70 mẫu của 25 loài thuộc
9 họ rong Đỏ, trong đó 64 mẫu của 21 loài hàm lượng nằm trong
khoảng từ 0,118-0,449% khối lượng tươi, 4 mẫu của 3 loài thuộc họ
rong Đông (Hypneaceae) hàm lượng lipit tổng lên đến 0,6-0,73%.
Riêng mẫu của loài rong Câu Nga hàm lượng lipit tổng là 1,39 khối
lượng rong tươi, gấp 2-10 lần so với các mẫu rong của Việt Nam.
2. Đã xác định thành phần và hàm lượng các axit béo của 70 mẫu
nghiên cứu và đánh giá các nhóm axit béo có giá trị cao thuộc các
dãy omega-3, omega-6, các axit béo không no thiết yếu PUFA và
HUFA. Trong đó đặc biệt là tìm thấy các axit C20:4n-6 (AA),
C20:5n-3 (EPA) có hàm lượng cao ở nhiều mẫu rong Đỏ. Lần đầu
tiên xác định được axit C22:6n-3 (DHA) có trong 5 mẫu rong Đỏ,
mẫu cao nhất là loài Hypnea flagelliformis (Grev.) có hàm lượng là
2,61% tổng axit béo. Các kết quả này cũng cho phép phát hiện ra một
số cá thể đặc biệt trong mỗi họ, cụ thể là các mẫu A5, A3, T28, T5,
T29, A16, A17 (thuộc họ Gracilariaceae), mẫu N6 (họ Hypneaceae),
mẫu N9 họ Hylamaniaceae. Các mẫu này hoặc có hàm lượng các axit
béo quý vượt trội (mẫu N9, N6, A5, A3, T28, T5), hoặc có các chỉ số
PUFA/SFA và omega-3 / omega-6 cao, thích hợp làm chất bổ sung
dinh dưỡng (mẫu T29, N6, A3, A16, A17, T28), xứng đáng được
nghiên cứu kỹ lưỡng hơn để chọn ra các giống có tính chất ưu việt
cho thu hái và nuôi trồng.
3. Qua nghiên cứu việc hình thành tích luỹ lipit và axit béo ở các mẫu
đặc trưng cho họ, chi và loài của ngành rong Đỏ ở các vùng sinh thái
khác nhau rút ra kết luận sơ bộ: Sự hình thành và tích luỹ lipit và axit
béo của rong Đỏ chịu tác động không nhỏ của điều kiện tự nhiên như
vùng biển thu mẫu, dinh dưỡng, độ sâu mà rong phân bố và đặc biệt
24
là nhiệt độ theo hướng giảm hàm lượng các axit béo không no và
tăng axit béo no khi nhiệt độ môi trường sống của rong giảm.
4. Kết quả phân tích PCA và phân tích chùm trên tập số liệu 12 thành
phần axit béo chính yếu (là C14:0, C15:0, C16:0, C16:1n-7, C18:0,
C18:1n-9, C18:1n-7, C18:2n-6, C20:3n-6, C20:4n-6, C20:5n-3,
C22:0) của 69 mẫu rong đỏ thu được cho phép phân biệt khá rõ ràng
các mẫu thuộc 3 họ Gracilariaceae, Hypneaceae và Ceraminaceae và
mối liên hệ của chúng với nhau.
5. Đã xác định hàm lượng PGE2 của loài rong Câu Nga Gracilaria
vermiculophylla (Ohmi) Papenf. là 21,52 µg/g rong tươi cao gấp 6-20
lần, trung bình là 10 lần các mẫu rong Đỏ Việt Nam. Đã xác định
định lượng PGE2 có trong 14 mẫu rong Việt Nam có hàm lượng từ
0,3 đến 3,6 µg/g rong tươi. Từ đó đã xác định được một số loài rong
có tiềm năng để khai thác các hoạt chất prostaglandin như là loài
rong Câu Gracilaria vermiculophylla (Ohmi, Papenf.) (Liên bang
Nga), 02 loài rong Câu của Việt Nam là Gracilaria tenuistipitata
(Zhang et Xia) và Gracilaria gigas (Harv.).
6. Đã khảo sát sự biến động các axit béo và prostaglandin của loài rong
Gracilaria vermiculophylla (Ohmi) Papenf. thu từ biển Viễn Đông –
LB Nga trong quá tình nuôi (từ 8/11/2011 đến 30/3/2012) trong
phòng thí nghiệm ở Việt Nam. Trong đó: Hàm lượng các axit béo no
tăng dần theo thời gian nuôi từ 33,68% lên đến 68,89%; Hàm lượng
các axit béo không no đặc biệt là các PUFA trong đó có AA), giảm
dần theo thời gian nuôi từ 49,41 xuống còn 15,91% tổng axit béo;
Hàm lượng PGE2 trong quá trình nuôi loài rong Câu trên trong phòng
thí nghiệm giảm từ 21,52 xuống còn 3,16 µg/g rong tươi.
7. Đã xây dựng được quy trình phân lập prostaglandin E2 từ loài rong
Gracilaria vermiculophylla (Ohmi, Papenf.).
8. Lần đầu tiên chiết xuất, làm giàu và nhận dạng được prostaglandin E3
từ loài rong Câu Gracilaria vermiculophylla (Ohmi, Papenf.).
9. Đã xây dựng đươc quy trình phân lập axit arachidonic từ loài rong
Câu chỉ vàng Gracilaria tenuistipitata Zhang et Xia.
25
KIẾN NGHỊ
- Các loài rong có khả năng tích lũy lipit cao A5, A3, T28, T5, T29,
A16, A17 (thuộc họ Gracilariaceae), mẫu N6 (họ Hypneaceae), mẫu
N9 họ Hylamaniaceae, có hàm lượng PUFA và các chỉ số PUFA/SFA
cũng như n-3/n-6 cao (các mẫu T29, N6, A3, A16, A17, T28) cần
được nghiên cứu kỹ để làm nguồn nguyên liệu sản xuất thực phẩm
chức năng và cho các mục đích kinh tế khác.
- Các loài rong Việt Nam có hàm lượng PGE2 cũng như hàm lượng AA
cao cần được nghiên cứu thu hái và nuôi trồng để làm nguồn nguyên
liệu sản xuất prostaglandin E2 thực vật.
- Cần tiếp tục nghiên cứu sâu về thành phần hoá học, các chất có hoạt
tính sinh học cao của một số loài rong Đỏ có tiềm năng để có cơ sở
khai thác chế biến các sản phẩm từ rong Đỏ nhằm phát triển kinh tế
vùng ven biển Việt Nam.
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. A.B.Imbs N.A., Latyshev V.I., Svetashev A.V., A. Skriptsova, Thanh
L.T., Quan P.M., Son N.V. and Long P.Q., (2012), Distribution of
polyunsaturated fatty acids in red algae of the genus Gracilaria, a
promising source of prostaglandins, Russian Journal of Marine
Biology, ISSN :1063- 0740, Vol: 38, Issue: 4, pp 318-325.
2. V.G. Rybin, V.I. Svetashev, A.B. Imbs, T.T. Le, L.Q. Pham, and H.V.
Ha (2013), Detection of prostaglandin E3 in the red alga Gracilaria
vermiculophylla, Chemistry of Natural Compounds Vol. 49, No. 3,
July.
3. Lê Tất Thành, Nguyễn Văn Tuyến Anh, Nguyễn Thị Hương Liên,
Nguyễn Văn Trung, Đàm Đức Tiến, A.V. Skriptsova, A.B. Imbs,
Phạm Quốc Long (2012), Bước đầu khảo sát một số điều kiện sinh
trưởng và phát triển của rong biển Gracilaria vermiculophylla nuôi
trong điều kiện phòng thí nghiệm, Tạp chí Khoa học Công nghệ số 50,
tập 3A, trang 320-326.
4. Lê Tất Thành, Nguyễn Văn Tuyến Anh, Nguyễn Thanh Hòa, Nguyễn
Thị Nguyệt, Đàm Đức Tiến, Đoàn Lan Phương, Phạm Quốc Long
(2013), Khảo sát hàm lượng lipit và thành phần axit béo của rong
biển chi Hypnea, Tạp chí hóa học tập 6ABC, trang 49-53.
26
5. Lê Tất Thành, Hoàng Thị Bích, Nguyễn Văn Tuyến Anh, Nguyễn Thị
Thủy, Đinh Thị Thu Thủy, Vũ Thị Oanh, Đỗ Trung Sỹ, Đàm Đức
Tiến, Phạm Quốc Long (2013), Nghiên cứu thu nhận lipit giàu axit
béo họ eicosanoid từ quá trình sản xuất agar, Tạp chí khoa học và
công nghệ số 51, tập 6A, trang 183-188.
6. Lê Tất Thành, Nguyễn Văn Tuyến Anh, Trần Quốc Toàn, Hoàng Thị
Bích, Hà Việt Hải, Lê Xuân Hưng, Dương Nghĩa Bang, Đàm Đức
Tiến, Đỗ Trung Sỹ, Phạm Quốc Long (2014), Nghiên cứu quy trình
phân lập axit Arachidonic từ rong câu Việt Nam, Tuyển tập Hội nghị
khoa học toàn quốc về sinh học biển và phát triển bền vững lần thứ
hai, trang 729- 734.
7. Lê Tất Thành, Trần Quốc Toàn, Nguyễn Văn Tuyến Anh, Hoàng Thị
Bích, Hà Việt Hải, Đàm Đức Tiến, Nguyễn Thị Kiều Oanh, A.B.
Imbs, Đỗ Trung Sỹ, Phạm Quốc Long (2014), Nghiên cứu quy trình
công nghệ phân lập prostaglandin E2 từ rong câu chỉ vàng Việt Nam
(Gracilaria tennuispititata Zhang et xia), Tuyển tập Hội nghị khoa
học toàn quốc về sinh học biển và phát triển bền vững lần thứ hai,
trang 717- 723.
8. Lê Tất Thành, Phạm Minh Quân, Nguyễn Văn Tuyến Anh, Đàm Đức
Tiến, Đỗ Trung Sỹ, Phạm Thu Huế, Phạm Quốc Long (2015), Nghiên
cứu sử dụng dữ liệu các axit béo trong phân loại hóa thực vật
(Chemotaxonomy) đối với các loài rong đỏ, Tạp chí Khoa học và
Công nghệ Biển số 3/2015.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_sang_loc_phan_lap_va_nhan_dang_ca.pdf