Tóm tắt Luận án Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - Xã hội Trung Quốc cổ đại và ảnh hưởng của nó đối với xã hội phong kiến Việt Nam

Toàn bộ hoạt động của đế chế Tần trong những năm đầu đều tập trung vào việc củng cố vị thế giành được bằng các phương pháp của Pháp gia như: Tổ chức bộ máy hành chính thống nhất, tập quyền theo hai cấp (ở trung ương và địa phương), phỏng theo cách thức tổ chức của Thương Ưởng: thi hành ban bố và phổ biến pháp luật; những chính sách tận thu kinh tế, xây dựng quân đội, thủ tiêu văn hoá Đây là những cải cách vừa cấp tiến, nhưng quá hà khắc của Tần Thuỷ Hoàng. Do tính cứng nhắc trong vận dụng mà nhà Tần đã sụp đổ chỉ sau 15 năm trị vì.

pdf27 trang | Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 1172 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - Xã hội Trung Quốc cổ đại và ảnh hưởng của nó đối với xã hội phong kiến Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5. Phước. tóm tăt.Việt.doc VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Nguyễn Hữu Phước PHÁP GIA TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI XÃ HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM Chuyên ngành: Triết học Mã số: 62 22 03 01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI – năm 2016 Hà Nội, 2015 Công trình được hoàn thành tại: Khoa Triết học, Học viện KHXH – Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Nguyên Việt Phản biện 1: ............................................................................................................................. ......................................................................................................................... Phản biện 2: ............................................................................................................................. ......................................................................................................................... Phản biện 3: ............................................................................................................................. ......................................................................................................................... Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện KHXH – Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam vào hồi...giờphút, ngàytháng.năm 2016. Luận án lưu tại: Học Viện khoa học xã hội, Thư viện Quốc gia Việt nam DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN [1]. Nguyễn Hữu Phước (2015), Bốn nguyên tắc dùng “pháp” của pháp gia và ý nghĩa hiện thời của nó, Tạp chí Triết học số 3(286), tr. 70-78. [2]. Nguyễn Hữu Phước (2015), Hàn Phi – người kế thừa và hoàn thiện tư tưởng của các Pháp gia tiền bối, Tạp chí nhân lực Khoa học xã hội, số 3(22), tr. 51-61. [3]. Nguyễn Hữu Phước (2015), Sự xung đột giữa Nho gia và Pháp gia về tư tưởng trị nước, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 231(2015), tr.60-64. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Danh gia, Âm dương gia với tư cách là sản phẩm của “Bách gia tranh minh” thì Pháp gia là một trong sáu học phái lớn nhất, có tầm ảnh hưởng đến toàn xã hội Xuân Thu - Chiến Quốc ở Trung Quốc. Pháp gia và học thuyết của nó có lịch sử phát triển khá độc đáo trong quá trình hình thành nhà nước quân chủ chuyên chế Trung Hoa cổ đại. Vai trò của học thuyết Pháp gia không chỉ ở việc Tần Thủy Hoàng đã áp dụng thành công học thuyết này trên đất Tần để kết thúc cục diện Xuân Thu – Chiến Quốc, mà còn tiếp tục tác động đến xã hội phong kiến Trung Hoa và các nước phương Đông đồng văn, trong đó có Việt Nam. Sở dĩ như vậy là vì nội dung tư tưởng biến pháp, những phương cách về thuật dùng người, biện pháp để cải tạo xã hội, cách dựng luật, phýõng pháp xây dựng nhà nýớc mạnh, cách thức phát triển kinh tế - xã hội trong đường lối trị nước là điều kiện cần thiết cho sự trường tồn của bất kỳ triều đại phong kiến nào. Với giá trị to lớn đó, Pháp gia đã thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả cũng như các nhà hoạt động chính trị từ trước đến nay trên thế giới. Ở Việt Nam, trong 70 năm qua kể từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, việc nghiên cứu về Pháp gia và tư tưởng trị nước của nó luôn được các học giả quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế những nghiên cứu về vị thế và vai trò của Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại được đề cập còn khá mờ nhạt, đặc biệt là sự tiếp thu những giá trị lý luận trong học thuyết đó cho việc thiết lập thể chế, kiến tạo xã hội và hình thành nên một hệ thống pháp luật đồng bộ cho xã hội phong kiến Việt Nam như thế nào, cho đến nay vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ. 2 Chính vì vậy, việc trình bày một cách có hệ thống nhằm lý giải nguyên nhân ra đời của Pháp gia và những nội dung căn bản về tư tưởng chính trị - xã hội của nó cũng như những tác động của hệ tư tưởng này đến đời sống chính trị - xã hội phong kiến nước ta là một việc làm có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn. Về lý luận, những kết quả nghiên cứu mới sẽ góp phần làm rõ thêm diện mạo của trường Pháp gia trong lịch sử triết học chính trị, chỉ ra những giá trị và đóng góp của nó cho kho tàng văn hóa của phương Đông nói riêng, của toàn nhân loại nói chung. Về thực tiễn, do nhu cầu quản lý xã hội không thể thiếu pháp luật trong bất kỳ thời đại nào cũng như cách thức vận dụng những nội dung phù hợp của tư tưởng pháp trị, cho nên việc tìm hiểu mức độ ảnh hưởng, cách thức ảnh hưởng của Pháp gia trong lịch sử cũng như ngày nay là việc làm có ý nghĩa. Trải qua 70 năm chính thể mới của chúng ta, đặc biệt là sau 30 năm đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực pháp luật. Đó là đổi mới, hoàn thiện Hiến pháp cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cụ thể, đáp ứng nhu cầu về luật pháp để "đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”1. Để hoàn thiện mục tiêu trên, chúng ta phải tiếp tục đổi mới toàn diện và triệt để các lĩnh vực đời sống chính trị - xã hội, đặc biệt là hệ thống chính trị XHCN, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Do đó, việc kế thừa có chọn lọc những tư tưởng và học thuyết chính trị - xã 1 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn Kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.103. 3 hội trong lịch sử có vai trò rất quan trọng, trong đó có những giá trị tiến bộ của học thuyết Pháp gia. Để góp phần thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, với tinh thần “ôn cố nhi tri tân” cũng như “tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của nhân loại”2, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn “Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại và ảnh hưởng của nó đối với xã hội phong kiến Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ Triết học của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án * Mục đích: Làm rõ vị thế, vai trò của Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại và ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị trong học thuyết này đến chế độ phong kiến Trung Hoa, Việt Nam trên một số phương diện tiêu biểu. * Nhiệm vụ: Từ yêu cầu trên, luận án cần giải quyết và làm rõ những nội dung căn bản sau: Một là: Nghiên cứu tổng quan các công trình tiêu biểu nghiên cứu về Pháp gia và tư tưởng của trường phái này, từ đó đặt ra những vấn đề cần nghiên cứu tiếp theo. Hai là: Trên cơ sở phân tích bối cảnh lịch sử, những tiền đề cho sự ra đời trường phái Pháp gia; những nội dung căn bản của trường phái này, luận án sẽ tập trung làm rõ vị thế, vai trò của Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa thời cổ đại. Ba là: Luận án làm sáng tỏ tư tưởng pháp trị của Pháp gia đã tác động lên đời sống chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại, đặc biệt là sự thúc đẩy thành lập nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập 2 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn Kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr.115. 4 quyền như thế nào, từ đó phân tích vì sao tư tưởng pháp trị đã ảnh hưởng sâu sắc đến chế độ phong kiến Trung Hoa từ thời Hán đến nửa đầu thế kỷ XIX. Bốn là: Luận án sẽ luận giải sự ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đối với đời sống chính trị - xã hội dưới chế độ phong kiến nước ta từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX, từ đó rút ra ý nghĩa, bài học lịch sử cho công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại và ảnh hưởng của nó đối với xã hội phong kiến Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu: Do dung lượng luận án có giới hạn và việc xác định mục tiêu của luận án, cho nên chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau: Nghiên cứu những nội dung căn bản về tư tưởng pháp trị của các Pháp gia thời kỳ cổ đại mà đỉnh cao là tư tưởng Hàn Phi; chỉ ra vị trí, vai trò của hệ tư tưởng này chi phối tư tưởng, đời sống chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại và ảnh hưởng của nó đến nhà nước phong kiến Tung Hoa từ thời Hán đến nửa đầu thế kỷ XIX. Làm rõ một số ảnh hưởng tiêu biểu tư tưởng của Pháp gia lên đời sống chính trị - xã hội dưới chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX và rút ra bài học cho công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. 4. Phương pháp nghiên cứu của luận án Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ đạo trong luận án là phương pháp luận mácxít trong nghiên cứu lịch sử tư tưởng, cụ thể chúng tôi sử dụng tổ hợp các phương pháp: lôgic - lịch sử, phân tích - 5 tổng hợp, quy nạp - diễn dịch... Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội khác như: khảo cứu tài liệu, so sánh - đối chiếu 5. Những đóng góp mới của luận án Trên cơ sở kế thừa thành tựu của các học giả đi trước, chúng tôi phát triển và đưa ra một số điểm mới như sau: Một là, làm rõ vị thế, vai trò của Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại. Hai là, làm sáng tỏ tư tưởng pháp trị của Pháp gia đã tác động lên đời sống chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại, đặc biệt là sự thúc đẩy thành lập nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền như thế nào, từ đó phân tích vì sao tư tưởng pháp trị đã ảnh hưởng sâu sắc đến chế độ phong kiến Trung Hoa từ thời Hán đến nửa đầu thế kỷ XIX. Ba là, luận giải sự tiếp biến và vận dụng tư tưởng pháp trị của Pháp gia trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX (trên một số phương diện tiêu biểu). Từ đó rút ra ý nghĩa, bài học của học thuyết pháp trị của Pháp gia đối với thực tiễn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 6. Kết cấu của luận án Ngoài các nội dung theo quy định, luận án được kết cấu: 3 phần chính là mở đầu, nội dung và kết luận được luận giải trong 4 chương 14 tiết. 6 NỘI DUNG Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1. Các công trình tiếp cận theo phương diện bối cảnh lịch sử Trung Hoa cổ đại và những tiền đề cho sự ra đời của Pháp gia * Các công trình nghiên cứu về lịch sử - xã hội - chính trị và học thuật của Trung Hoa cổ đại Tiêu biểu là: “Sử ký” của Tư Mã Thiên và cuốn “Hàn Phi Tử” trước tác của Hàn Phi do Phan Ngọc dịch. Đây là hai tài liệu căn bản mà chúng tôi sử dụng khi nghiên cứu tư tưởng Pháp gia. Bên cạnh đó còn có: “Hàn Phi Tử” tác giả của Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (Nxb VHTT, Hà Nội, 1992) vừa là tác phẩm triết học vừa nghiên cứu, trích dịch. Tuy nhiên, cần phải mở rộng phạm vi nghiên cứu với các nhà luân lý khác: Tử Sản, Ngô Khởi, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng; tư liệu sử và liên ngành..., để đi đến khẳng định về vị thế, vai trò Pháp gia trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa cổ đại. * Các công trình nghiên cứu về nguồn gốc, sự hình thành trường Pháp gia Trước hết là công trình: Lịch sử triết học (tập 1) – Triết học cổ đại, của Nguyễn Thế Nghĩa, Doãn Chính (Nxb KHXH, Hà Nội, 2002); Nguyễn Đăng Thục với cuốn Lịch sử triết học phương Đông (Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2006); Max Kaltenmark trong cuốn Triết học Trung Hoa nằm trong Bộ sách giới thiệu những kiến thức thời đại (Que sais je – Tôi biết gì?) do Nxb Thế giới dịch và giới thiệu năm 1999 Các công trình đi đến khẳng định: Tư tưởng pháp gia là sản phẩm của sự biến đổi xã hội thời Chiến quốc. Nó đại biểu cho tầng lớp địa chủ mới trỗi dậy do yêu cầu củng cố chế độ tập quyền trung ương của nền chuyên chế quân chủ. Tuy nhiên, phong trào “Bách gia tranh minh” là 7 động lực để tư tưởng Pháp gia thăng hoa như thế nào? Các cuộc biến pháp của Pháp gia ra sao? Vẫn là vấn đề ngỏ đòi hỏi luận án cần tiếp cận để giải quyết. 1.2. Các công trình nghiên cứu chú trọng đến nội dung tư tưởng Pháp gia và vai trò, vị thế của nó trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại * Khuynh hướng nghiên cứu đi sâu vào nội dung, đặc điểm tư tưởng Pháp gia Nội dung tư tưởng pháp trị của Pháp gia cũng đã được nhiều tác giả công bố. Tiêu biểu: Lịch sử triết học phương Đông của tác giả Doãn Chính chủ biên (Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội, 2012); Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc (Nxb CTQG, Hà Nội, 2004) Doãn Chính; Phạm Quýnh có cuốn Bách gia Chư tử do Nguyễn Quốc Thái dịch (Nxb VHTT, Hà Nội, 2000); Lê Nguyễn Gia Thiện, Nguyễn Ngọc Kiện với bài “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi” (Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 4 116/2001); Luận án tiến sĩ Triết học Tư tưởng Hàn Phi Tử của Vũ Kim Dung (Viện Triết học, Hà Nội, 2003); cuốn Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, do Nguyễn Huệ Chi giới thiệu (Nxb Văn học, Hà Nội, 1995); Lã Trấn Vũ với công trình Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc do Trần Văn Tấn dịch (Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1964) Trường phái Pháp gia và triết học Hàn Phi có nội dung căn bản: Pháp gia là một trường phái triết học lớn nhất Trung Quốc; chủ trương của Pháp gia là “Pháp – Thế - Thuật”; cơ sở triết lý của Pháp gia là học thuyết về Đạo; trong Pháp gia có thể chia làm bốn phái “trọng thực”, “trọng thế”, “trọng thuật”, “ trọng pháp và biến pháp”. Hàn Phi là đại biểu ưu tú nhất của Pháp gia. Mặc dù các công trình đã đề cập khá nhiều đến những nội dung, đặc điểm căn bản học thuyết pháp trị của Pháp gia, nhưng vẫn còn những 8 nội dung như: sự tác động của tư tưởng pháp trị ở kiến trúc thượng tầng đã ảnh hưởng đến việc thiết lập nhà nước trung ương tập quyền như thế nào, Pháp gia với tư duy kinh tế, quản lý và ổn định xã hội ra sao? Hay những hệ luỵ của học thuyết pháp trị do Tần Thủy Hoàng dẫn đến sự sụp đổ của đế chế Tần sau 15 năm thống nhất chưa được đề cập sâu sắc, đòi hỏi cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng hơn. * Khuynh hướng nghiên cứu chuyên sâu về vai trò và vị thế của Pháp gia trong lịch sử chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại Thứ nhất, đi sâu vào quan hệ của Pháp gia với các trường phái, trong cuốn Những tư tưởng gia vĩ đại ở phương Đông của IAN P.McGREAL do Phạm Khải dịch (Nxb Lao động, Hà Nội, 2005); Giải thích về quan hệ giữa Pháp gia với Nho và Đạo, trong Từ điển triết học Trung Quốc, tác giả Doãn Chính đều cho rằng các Pháp gia tiền bối đều xuất phát từ đạo Khổng và người có công tổng hợp và cho ra đời học thuyết pháp trị là Hàn Phi. Thứ hai, đi sâu và làm rõ quan hệ tư tưởng giữa Pháp gia với trường phái khác, phải kể đến tác giả Phùng Hữu Lan với công trình Đại cương triết học sử Trung Quốc do Nguyễn Văn Dương dịch (Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1999); Luận án tiến sĩ Chính trị học Tư tưởng chính trị Hàn Phi Tử của Trương Văn Huyền (HVCT HCQG HCM, Hà Nội, 2012); Ngô Quân có sách Bảy đại triết gia Trung Quốc thời Chu – Tần Các công trình ập trung đi sâu lý giải sự ra đời của Pháp gia và tư tưởng pháp trị là sản phẩm kế thừa từ “Bách gia chư tử” mà điển hình là Nho, Mặc, Lão, Danh gia. Nhưng ngay sau khi ra đời, nó đã tỏ rõ là một học thuyết triết học chính trị đặc thù, có tính thực tế cao, thậm chí đối cực với Nho gia và trong cuộc luận chiến với Nho gia, Pháp gia đã thắng thế, trở thành tư tưởng thống trị dưới thời chư hầu 9 Tần. Đây cũng chính là một trong những nhiệm vụ đặt ra cho luận án của chúng tôi cần phải làm rõ. 1.3. Các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của Pháp gia trong đời sống chính trị - xã hội Trung Quốc và Việt Nam thời phong kiến Công trình nghiên cứu về vai trò của Pháp gia đối với lịch sử phải kể đến: tập thể tác giả Hồng Tiềm, Nhiệm Hoa, Uông Tử Tung, Trương Thế Anh, Trần Tú Mai, Chu Bá Côn là cuốn Lịch sử triết học Trung Quốc do Lê Vũ Lang dịch (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1957); Nguyễn Văn Hiền có bài “Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử - ý nghĩa và bài học lịch sử” (Tạp chí KHXH, số 1 - 113/2008) đã khẳng định Pháp gia là trường phái đã giúp Trung Hoa cổ đại đi đến thống nhất. Nói về sức sống của tư tưởng pháp trị gắn liền với các quân vương, có cuốn Aristotle và Hàn Phi Tử - con người chính trị và thể chế chính trị, của Nguyễn Văn Vĩnh; bài viết “Trung Hoa pháp hệ” - sản phẩm đặc sắc của sự kết hợp giữa hai học thuyết Đức trị và Pháp trị trong lịch sử phong kiến Trung Hoa (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2010) của tác giả Đỗ Đức Minh; Luận án tiến sĩ “Tư tưởng Hàn Phi”của Vũ Kim Dung sau khi phác họa chân dung Hàn Phi và những đặc điểm của tư tưởng Pháp gia, đường lối pháp trị, các tác giả đi vào phân tích những giá trị ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đối với văn hóa các nước Đông và Bắc Á: Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Đánh giá về những giá trị và hạn chế trong học thuyết pháp trị của Pháp gia có tác giả: Đỗ Đức Minh với bài “Những giá trị và hạn chế của học thuyết Pháp trị Trung Hoa cổ đại”, (Tạp chí KHXH, số 7 - 143/ 2010); tác giả Trần Đình Hượu có bài “Nho Pháp tịnh dụng và con đường bành trường của thiên triều” (1979), bài viết đã có nhiều kết luận sâu sắc: Một là, Pháp gia, mà đại biểu ưu tú nhất là Hàn Phi Tử đã 10 xây dựng học thuyết của mình đạt đến tầm đỉnh cao của nhân loại, những giá trị của học thuyết này không chỉ có giá trị lịch sử mà về cơ bản những giá trị đó vẫn phù hợp với thực tiễn đương đại. Hai là, những hạn chế của Pháp gia và Hàn Phi đưa họ đến bế tắc không thể giải quyết được. Thể hiện, một mặt, họ muốn xây dựng pháp luật trên cơ sở khách quan, tạo ra sự bình đẳng trong xã hội; mặt khác, xây dựng pháp luật nhằm củng cố vị trí tuyệt đối của một ông vua, đó là điều không thể thực thi lâu dài, đặc biệt trong xã hội phát triển Về sự vận dụng kết hợp giữa tư duy pháp trị với các học thuyết khác ở Việt Nam có: Luận án tiến sĩ triết học Vấn đề Đức trị và Pháp trị trong lịch sử tư tưởng Việt Nam (Viện KHXH Việt Nam, 2004) của Phan Quốc Khánh; bài viết “Tư tưởng kết hợp Đức trị và Pháp trị trong đường lối trị nước của triều đại Lê Sơ và ý nghĩa lịch sử của nó” của Ngô Văn Hưởng (Tạp chí Triết học, số 6 - 229/2010); cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam của Huỳnh Công Bá (Nxb Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế, 2007) các tác giả đều có chung nhận định: Chịu ảnh hưởng của đường lối và tổ chức cai trị của Trung Quốc, các nhà chính trị và Nho gia Việt Nam cũng áp dụng chủ trương “ngoại Nho, nội Pháp” họ tiếp nhận một cách đương nhiên chủ trương cai trị dùng pháp luật của Pháp gia mà không tự biết, vẫn cho đó là việc làm của đường lối nhân chính, đức trị, xem đó là một công cụ phụ giúp cho việc cai trị. Có thể nói, những công trình, bài viết, hay ý kiến của các tác giả, đã bước đầu đề cập đến vai trò của Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội và sự ảnh hưởng của nó ở những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, do giới hạn về phạm vi nghiên cứu, nên cho đến nay chưa có công trình chuyên biệt nào bàn về sự ảnh hưởng tư tưởng pháp trị đối với đời sống chính trị - xã hội dưới chế độ phong 11 kiến nước ta, đó là vấn đề đặt ra cho chúng tôi phải tiếp tục nghiên cứu để đưa ra những kết luận mới ở góc độ này. 1.4. Một số vấn đề cần giải quyết trong luận án Một là: Luận án làm rõ bối cảnh ra đời, những tiền đề căn bản cho sự ra đời trường phái Pháp gia, những nội dung căn bản của trường phái này và vị thế, vai trò của nó trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa thời cổ đại. Hai là: Luận án khái quát những ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng pháp trị của Pháp gia lên đời sống chính trị gắn với việc thiết lập nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền Trung Hoa cổ đại; những ảnh hưởng của tư tưởng đó đến các triều đại phong kiến Trung Hoa từ thời Hán đến nửa đầu thế kỷ XIX. Ba là: Luận án làm rõ sự ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đối với đời sống chính trị - xã hội dưới chế độ phong kiến nước ta từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX trên một số phương diện tiêu biểu. Đánh giá những giá trị, hạn chế của việc vận dụng tư tưởng pháp trị dưới chế độ phong kiến nước ta, từ đó rút ra ý nghĩa, bài học cho công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tiểu kết chương 1 Có thể nói, các công trình, tài liệu công bố về Pháp gia và tư tưởng của trường phái này là khá nhiều. Qua kháo sát và bước đầu phân định tài liệu theo các lĩnh vực nghiên cứu: lịch sử, xã hội, triết học, chính trị - xã hội thuần túy và những công trình thiên về đánh giá vai trò Pháp gia trong lịch sử. Nhưng cho đến nay chưa có công trình nào chuyên bàn về vị thế, vai trò của Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị Trung Hoa thời kỳ cổ đại; cũng như sự ảnh hưởng của hệ tư tưởng này đã tác động lên đời sống tư tưởng chính trị phong kiến Trung Hoa với vai trò là một 12 trong hai công cụ trị nước (Đức và Pháp trị). Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đối với đời sống chính trị - xã hội dưới các triều đại phong kiến nước ta. Vì vậy, luận án cần tiếp tục nghiên cứu những vấn đề đặt ra như trên. Chương 2. SỰ HÌNH THÀNH TRƯỜNG PHÁI PHÁP GIA VÀ NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA NÓ 2.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu – Chiến Quốc và những tiền đề cơ bản cho sự hình thành trường phái Pháp gia 2.1.1. Bối cảnh lịch sử Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, xét đến cùng thì sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo quy luật Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Vì thế, khi nghiên cứu sự xuất hiện tư tưởng chính trị - xã hội cần phải xuất phát từ chính nội bối cảnh xã hội đó. Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ III Tr.CN kéo dài tới tận thế kỷ III Tr.CN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 Tr.CN, mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Trong hơn 2000 năm đó lịch sử Trung Hoa được phân chia làm 2 thời kỳ lớn: Từ thế kỷ IX Tr.CN trở về trước và từ thế kỷ VIII Tr.CN đến cuối thế kỷ III Tr.CN. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu, nên luận án chỉ tập trung khảo cứu ở thời kỳ thứ hai, thời Xuân Thu – Chiến Quốc (tức 770 – 221 Tr.CN). 2.1.2. Tình hình kinh tế Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kỳ có sự thay đổi mau lẹ về công cụ sản xuất với cuộc cách mạng chuyển từ đồ đồng sang đồ sắt gắn liền với sức kéo bằng trâu, bò thay thế sức người. Từ sự thay đổi căn bản về lực lượng sản xuất dẫn đến yêu cầu cần có một quan hệ sản xuất phù hợp. Trước những biến động sâu sắc của kinh tế các học thuyết chính trị 13 đương thời, như: Nho gia, Mặc gia... tỏ ra lúng túng, đòi hỏi phải có một hệ tư tưởng và thiết chế mới đủ sức quản lý, điều hành xã hội. Trước yêu cầu đó Pháp gia xuất hiện để đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử này. 2.1.3. Tình hình chính trị - xã hội Đây là thời kỳ mà trong xã hội thường xuyên xảy ra cảnh tôi giết vua, cha con hại nhau, vợ chồng chia lìa. Xuân Thu cũng là thời kỳ mà người dân phải gánh nhiều nghĩa vụ: sưu thuế, phu phen, lao dịch nặng nề. Thêm vào đó, bao phủ thời Xuân Thu - Chiến Quốc là khung cảnh chiến tranh. Thực trạng này chứng tỏ, hệ tư tưởng Nho giáo – học thuyết “Ngô tòng Chu” đã không còn đủ sức lãnh đạo xã hội, đòi hỏi phải có một hệ tư tưởng mới có đủ lý luận và sức thuyết phục để ổn định xã hội. 2.2. Các tiền đề tư tưởng 2.2.1. Phong trào "Bách gia tranh minh" với sự hình thành tư tưởng Pháp gia Trước thực tiễn xã hội phát triển nhanh và phức tạp, chư hầu xưng hùng, xưng bá. Các vua chúa, quý tộc cần đến kẻ sĩ để vạch mưu tính kế, do vậy việc đào tạo kẻ sĩ đã trở thành nhu cầu trong xã hội. Theo sách “Hán thư, Thiên Nghệ văn chí” thì có 103 học phái, song chủ yếu là sáu học phái: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm dương gia và Danh gia nên còn gọi là thời kỳ “Bách gia tranh minh”. Mặc dù “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, số lượng các phu tử cũng như những tiền bối xuất hiện là rất nhiều, nhưng trước khi Pháp gia xuất hiện với tư cách là một học thuyết hoàn chỉnh bởi nhà kiến tạo Hàn Phi – Tập đại thành của tư tưởng Pháp gia, thì Trung Hoa cổ đại vẫn là một thế trận hỗn chiến, phản ánh sự khủng hoảng sâu sắc về đường lối chính trị. 14 2.2.2. Ảnh hưởng của Nho gia và Đạo gia đến sự hình thành tư tưởng Pháp gia 2.2.2.1. Ảnh hưởng “chính danh” của Nho giáo Khổng Tử - Mạnh Tử; thuyết “tính ác” và quan điểm của Tuân Tử về “lễ pháp kiêm trị” trong đường lối trị nước Thứ nhất, kế thừa học thuyết “chính danh” của Khổng giáo, Pháp gia phát triển thành bộ quy tắc “hình - danh”. “Danh” phải phù hợp với “thực”, từ đó Pháp gia ứng dụng vào “thuật dùng người” theo nguyên tắc “theo danh mà trách thực”. Thứ hai, phạm trù “tính ác” của Tuân Tử là cơ sở lý luận quan trọng để Pháp gia phát triển quan niệm về con người và bản chất con người theo quan điểm của mình. 2.2.2.2 Ảnh hưởng của học thuyết về “Đạo” và “vô vi” từ Đạo gia Hàn Phi đã dùng “mánh khóe” của mình để biến nội dung của “Đạo đức kinh” vốn là lý thuyết tư biện thuần túy của Lão Tử thành một tác phẩm thực dụng thuần túy của Hàn Phi; đồng thời chủ động chuyển hóa phạm trù “vô vi”(tự nhiên) nguyên bản của Lão Tử thành “thuật vô vi” của Pháp gia. Kể từ đây, học thuyết triết học của Lão Tử trở thành “bệ đỡ” cho lý thuyết pháp trị của Pháp gia. 2.2.3. Các cuộc biến pháp trước Hàn Phi là cơ sở cho sự phát triển và hoàn thiện học thuyết pháp trị của Pháp gia Mặc dù Pháp gia không có một người khởi tạo như Nho, Đạo hay Mặc gia, nhưng khi nhắc đến học phái này, người ta không thể không đề cập đến các Pháp gia tiền bối. Họ là những đại biểu của Pháp gia cổ đại mà ở đây chúng ta có thể chia thành bốn phái: Thời Xuân Thu có phái trọng thực gồm: Quản Trọng, Tử Sản, Lý Khôi, Ngô Khởi. Sang thời Chiến Quốc, Pháp gia đã hình thành 3 hệ phái rõ rệt là: “trọng pháp” tiêu biểu có Thương Ưởng; “trọng thuật” rõ nhất là Thân Bất Hại, “trọng thế” được biết đến là Thận Đáo. Còn người có công lao đào tạo nên những học trò xuất sắc Hàn Phi, Lý Tư để hoàn thiện học thuyết pháp 15 trị và vận hành trên đất Tần là Tuân Tử. 2.3. Hàn Phi – Tập đại thành những nội dung pháp trị căn bản của tư tưởng Pháp gia Hàn Phi (khoảng 280 – 233 Tr.CN). Người được xem là kế thừa “Bách gia Chư tử”, người đã chủ trương tổng hợp giữa ba yếu tố “Pháp”, “Thuật”, “Thế”, đưa vào hệ thống để hoàn thành học thuyết pháp trị của Pháp gia. Cho nên, ông được coi là “Tập đại thành” của tư tưởng Pháp gia. Tư tưởng của ông được trình bày rất rõ trong sách “Hàn Phi Tử". 2.3.1. Quan niệm về “pháp” 2.3.1.1. Khái niệm "Pháp" “Pháp” nguyên nghĩa là luật, pháp luật, hình pháp, phương pháp, cách thức, phương thức; tiêu chuẩn mẫu mực; bắt chước, theo; phép, pháp thuật. 2.3.1.2. Nội dung, nguyên tắc của “Pháp” Quan niệm về “pháp” của những người theo Pháp gia có hai mặt. Một mặt, “pháp” là để phòng ngừa, những cái quy định sẵn, nếu phạm vào điều cấm nào thì xử theo hình phạt ấy. Với ý nghĩa này, quan niệm “pháp” của Pháp gia là công cụ đắc lực cho kẻ thống trị dùng với nhân dân, cho nên nói “pháp” của Hàn Phi đi liền với “cấm”; mặt khác, “pháp” để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người dân, tạo ra một xã hội công bằng dưới ánh sáng của pháp luật. 2.3.2. Quan niệm về “Thế” 2.3.2.1. Khái niệm "Thế" “Thế” là một thuật ngữ triết học chính trị, “thế” theo quan niệm của Thận Đáo là địa vị, quyền hành của người cai trị, là sức mạnh của đất nước 2.3.2.2. Nội dung của "Thế" Theo Pháp gia thì “thế” là uy thế, quyền lực, địa vị, xu thế do con 16 người đặt ra và có vị trí, ý nghĩa quan trọng bậc nhất trong mối tương quan “pháp – thuật – thế”, thậm chí còn hơn cả “pháp” và “thuật”. 2.3.3. Quan niệm về “Thuật” 2.3.3.1. Khái niệm "Thuật" “Thuật” được hiểu là: phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược điều khiển công việc và dùng người, khiến người triệt để, tận tâm thực hiện hiến lệnh của nhà vua mà không hiểu vua dùng họ như thế. Nghĩa là, “thuật” là nghệ thuật cai trị của nhà vua. 2.3.3.2. Nội dung, nguyên tắc dụng "Thuật" “Thuật trị nước” gồm: “kỹ thuật” và “tâm thuật”. Trong đó, “kỹ thuật” có: Thuật trị quan lại, thuật trừ gian, thuật thưởng phạt, thuật dụng nhân; còn “tâm thuật” là điều bí ẩn bên trong chỉ nhà vua mới biết. 2.3.4. Mối quan hệ hữu cơ giữa “Pháp – Thuật – Thế” trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Trước hết, là sự tương quan “pháp - thuật”. Hàn Phi ví "pháp" và "thuật" giống như con người ta cần cơm để ăn và áo để mặc. Khi trời rét mà không có áo thì chết, nhưng nếu thiếu ăn thì sự sống cũng không thể duy trì. Thứ hai, trong quan hệ giữa “pháp - thế”. Trong quan hệ này thì "thế" nhờ "pháp" làm cơ sở, còn "pháp" nhờ "thế" mà biểu hiện, thực thi và bắt mọi người phải tuân theo. Thứ ba, quan hệ giữa “thế - thuật”, trong tư tưởng pháp trị, “thuật” và “thế” là hai công cụ, phương tiện để thi hành “pháp”, nó có quan hệ rất gần nhau, có tác dụng bổ trợ trực tiếp cho nhau. 2.4. Một số nhận định khái quát về vai trò, vị thế của Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại Để nhận định đúng vai trò và vị thế của Pháp gia trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa cổ đại, cần nghiên cứu trong trạng thái đối sánh giữa Pháp gia với Nho gia. Nho gia thì chủ trương 17 đức trị, còn Pháp gia với chủ thuyết pháp trị. Điển hình là cuộc luận chiến giữa Mạnh Tử với Thương Ưởng và phần thắng đã nghiêng về Pháp gia. Đây cũng là cơ sở lý luận quan trọng để Tuân Tử, Hàn Phi, Lý Tư hoàn thiện, đưa Pháp gia lên vị trí độc tôn dưới đế chế Tần. Tiểu kết chương 2 Có thể nói, Pháp ra ra đời là một sản phẩm của lịch sử khi những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội đã chín muồi cộng với tài năng xuất chúng của “Tập đại thành tư tưởng Hàn Phi”. Nội dung nội dung cốt lõi trong học thuyết pháp trị của Pháp gia là mối quan hệ “pháp - thế - thuật”. Vị thế, vai trò của Pháp gia trong lịch sử Trung Hoa cổ đại là sự thắng thế giữa Pháp gia với các học phái khác, mà trước hết là Nho gia trong cuộc luận chiến về tư tưởng chính trị - xã hội . Chương 3. ẢNH HƯỞNG CỦA PHÁP GIA TRONG LỊCH SỬ CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN TRUNG HOA (221 Tr.CN – 1840) 3.1. Ảnh hưởng của Pháp gia trong sự hình thành và phát triển chế độ quân chủ chuyên chế Trung Hoa 3.1.1. Vài nét khái quát về nhà nước quân chủ chuyên chế và vai trò của Pháp gia trong hệ thống kiến trúc thượng tầng của nó Có thể khái quát mô hình hình nhà nước quân chủ chuyên chế theo lý tưởng của Pháp gia theo bốn đặc điểm như sau: Thứ nhất, nhà nước thiết lập hệ thống pháp chế trung ương tập quyền Thứ hai, là nhà nước tập trung quyền lực trong tay nhà vua Thứ ba, thiết lập một hệ thống chính trị - hành chính thống nhất Thứ tư, là mở rộng và thống lĩnh “thiên hạ” 18 3.1.2. Ảnh hưởng của Pháp gia trong thực tiễn đời sống chính trị - xã hội Trung Hoa dưới chế độ quân chủ chuyên chế nhà Tần 3.1.2.1. Nhà Tần hiện thực hóa mô hình nhà nước quân chủ chuyên chế của Pháp gia Một là, sự thống nhất đất nước Trung Hoa là điều kiện tiên quyết của một nhà nước quân chủ chuyên chế Hai là, quan điểm chính trị của Tần Thủy Hoàng dựa trên nền tảng tư tưởng Pháp gia 3.1.2.2 Đường lối cai trị của Tần Thủy Hoàng Toàn bộ hoạt động của đế chế Tần trong những năm đầu đều tập trung vào việc củng cố vị thế giành được bằng các phương pháp của Pháp gia như: Tổ chức bộ máy hành chính thống nhất, tập quyền theo hai cấp (ở trung ương và địa phương), phỏng theo cách thức tổ chức của Thương Ưởng: thi hành ban bố và phổ biến pháp luật; những chính sách tận thu kinh tế, xây dựng quân đội, thủ tiêu văn hoá Đây là những cải cách vừa cấp tiến, nhưng quá hà khắc của Tần Thuỷ Hoàng. Do tính cứng nhắc trong vận dụng mà nhà Tần đã sụp đổ chỉ sau 15 năm trị vì. 3.2. Sự dung hợp giữa Nho gia và Pháp gia thời Hán và ý nghĩa của sự dung hợp đó đối với chế độ phong kiến Trung Hoa về sau Sau cuộc kiến tạo tư tưởng thần kỳ dưới bàn tay của Nho gia Đổng Trọng Thư nhằm biến Nho giáo trở thành học thuyết “chính trị - pháp lý”. Kể từ đây phương pháp trị nước theo phương thuật “nội thánh - ngoại vương”, “dương Nho - âm Pháp”, “đức chủ - pháp bổ”... bản chất là “Nho pháp tịnh dụng” đã ngự trị suốt 2000 năm lịch sử các triều đại phong kiến Trung Hoa. 19 Tiểu kết chương 3 Có thể vắn tắt về ảnh hưởng của Pháp gia đến tư tưởng chính trị - xã hội Trung Hoa qua ba thời kỳ: thứ nhất, là thời kỳ các nước chư hầu Tần, lúc này học thuyết pháp trị chiếm ưu thế ở bộ phận kiến trúc thượng tầng bởi tư duy thực tế của nó; thứ hai, là thời kỳ đế chế Tần thống nhất Trung Hoa cổ đại, tư tưởng Pháp gia được người ta biết đến với sự cai trị của Tần Thuỷ Hoàng và những hệ lụy của nó; thứ ba, là từ nhà Hán trở đi, tuy Pháp gia không nổi lên là học thuyết thống trị, song các nhà nước phong kiến Trung Hoa đã “tịnh dụng” tư tưởng này vào những mục đích chính trị của mình, nhất là trong xây dựng, củng cố chính quyền, ban bố pháp luật. Chương 4. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI DƯỚI CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX 4.1. Ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đến xây dựng và phát triển chế độ phong kiến trung ương tập quyền Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX 4.1.1. Ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị trong việc tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến Căn cứ vào trình độ phát triển nhà nước giai đoạn này, có thể phân kỳ lịch sử ra làm ba thời kỳ: Thời kỳ thiết lập chính quyền (thế kỷ X); Thời kỳ củng cố và giữ vững chính quyền (thế kỷ XI – XIV); Thời kỳ phát triển hung thịnh và suy tàn nhà nước trung ương tập quyền, (từ thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XIX). Các triều đại phong kiến Việt Nam đã hướng tới xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Để quyền lực tập trung trong 20 tay nhà vua, việc kiến tạo nên một cơ cấu hành chính thống nhất từ trung ương đến địa phương mô phỏng theo mô hình của tư tưởng Pháp gia, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các triều đại phong kiến Trung Quốc đương thời là điều hết sức cần thiết. Tuy nhiên, về cách thức tổ chức quản lý thì có những điểm rất đặc thù bản sắc văn hóa Việt Nam. 4.1.2. Những biện pháp cơ bản nhằm củng cố và phát triển bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền * Thiết lập quan hệ sở hữu ruộng đất tập trung vào tay nhà vua * Phát triển lực lượng quân đội thân dân 4.2. Ảnh hưởng tư tưởng pháp trị đến xây dựng luật pháp dưới chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX 4.2.1. Sự ra đời của "Hình thư" và "Hình luật" của chế độ phong kiến Việt Nam thời kỳ đầu độc lập (từ thế kỷ X- cuối thế kỷ XIV) Thời Lý - Trần, Phật giáo được tôn làm quốc giáo trong đời sống tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, do yêu cầu quản lý xã hội theo xu hướng xây dựng thể chế nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, các triều đại này không thể không sử dụng phương diện hình pháp để thiết lập trật tự xã hội và duy trì quyền lực thống trị của mình. Năm 1042 vua Lý Thái Tông cho ban hành bộ Hình thư. Hình thư thời Lý ra đời trước hết là để bảo vệ quyền lợi và địa vị cho chế độ phong kiến thống trị, song nó đã đáp ứng được một yêu cầu khách quan khác, đó là đem lại sự ổn định cho xã hội. Năm 1341, sau vài lần sửa chữa vua Trần Dụ Tông giao cho Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên dịch bộ Hoàng triều đại điển và khảo soạn bộ Hình thư để ban hành Hình luật (Quốc triều hình luật). Về căn bản thì Hình luật dưới thời Trần được sửa đổi, bổ sung luật thời Lý để đảm bảo lợi ích của nhà cầm quyền. 21 4.2.2. Ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đến sự ra đời và nội dung của “Quốc triều hình luật” thời Hậu Lê và “Hoàng triều luật lệ” thời Nguyễn Để đáp ứng yêu cầu trị nước vụ đức, trọng pháp, năm 1483 Lê Thánh Tông chính thức cho ban hành bộ Quốc triều hình luật, đây là bộ luật phong kiến thứ ba ở nước ta sau hai bộ Hình thư và Hình luật thời Lý - Trần, đồng thời là bộ luật đề cập đến nhiều lĩnh vực nhất trong lịch sử lập pháp dưới chế độ phong kiến Việt Nam. Đặc biệt, lần đầu tiên những vấn đề dân sự, tố tụng được quy định trong bộ luật. Để củng cố địa vị mới, đồng thời ổn định lại xã hội sau ba thế kỷ khủng hoảng, khi lên ngôi, Gia Long đã gấp rút cho các quần thần biên soạn bộ luật mới có tên Hoàng Việt Luật lệ vào năm 1815 (còn gọi là Luật Gia long). Giống như Luật Hồng Đức, Bộ Luật Gia Long là bộ luật tổng hợp nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, song phần lớn là quy định các điều khoản dưới dạng các quy phạm pháp luật hình sự và áp dụng các chế tài hình sự theo diện rộng hơn. 4.3. Những giá trị và hạn chế của tư tưởng pháp trị trong đời sống chính trị - xã hội phong kiến Việt Nam 4.3.1. Giá trị Thứ nhất, tư tưởng pháp trị là cơ sở lý luận vững chắc giúp các triều đại phong kiến Việt Nam có được phương tiện kỹ thuật và phương pháp để lập pháp, hành pháp. Thứ hai, cùng với hệ tư tưởng kết phối bằng pháp luật, một chính thể nhà nước quân chủ chuyển động tích cực theo hướng tập quyền đã ra đời. Thứ ba, cùng với những chính sách quản lý thông qua hệ thống pháp luật phản ánh sự tiến bộ của xã hội phong kiến Việt Nam trên tất cả các bình diện: kinh tế - xã hội, văn hóa, tư tưởng. Thứ tư, trong cách cai trị và quản lý xã hội của các nhà nước phong 22 kiến Việt Nam luôn có sự vận dụng kế thừa cách thức trị nước của Trung Quốc, nhưng phù hợp với những đặc điểm cộng đồng. 4.3.2. Hạn chế Thứ nhất, xét về bản chất những bộ luật phong kiến nước ta được sinh ra để bảo vệ chính thể quân chủ, chứ không phản ánh được ý chí và nguyện vọng thiết thực của nhân dân. Thứ hai, do lợi ích căn bản giữa triều đình với người dân là khác nhau, cho nên thể chế ở bất kỳ triều đại nào cũng chỉ đáp ứng được nguyện vọng nhân dân ở giai đoạn mới thành lập. Thứ ba, do áp dụng máy móc phương thức quản lý xã hội bằng con đường pháp luật, lại thêm ý thức hệ bảo thủ của tư tưởng Nho giáo nên hình thành bộ máy quan liêu, cửa quyền. Thứ tư, do tính duy tình cao hơn duy lý, phép vua thua lệ làng, cho nên pháp luật và thể chế đi ngược với chủ trương của Pháp gia. 4.4. Bài học lịch sử từ sự vận dụng tư tưởng pháp trị trong chế độ phong kiến đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 4.4.1 Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay và những tiêu chí, đặc trưng của nó Với khát vọng Độc lập – Tự do – Hạnh phúc, sau khi cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nhà nước dân chủ nhân dân. Trải qua quá trình phát triển, Đảng và nhân dân lựa chọn: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. 23 4.4.2. Tiếp thu những giá trị cơ bản từ học thuyết pháp trị của Pháp gia trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp trên tinh thần thượng tôn pháp luật Hai là, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Tiểu kết chương 4 Những điều kiện khách quan đã quy định chế độ phong kiến Việt Nam tiếp nhận sự ảnh hưởng của tư tưởng trị nước Trung Hoa thời cổ, trung đại như một tất yếu lịch sử. Sự ảnh hưởng tư tưởng trị nước trên các phương diện tiêu biểu: lập pháp, xây dựng bộ máy chính quyền chuyên chế và các chức năng hành pháp, đồng thời là cơ sở để bảo hộ cho nhà nước ấy phát triển bền vững. Ý nghĩa hiện thời của học thuyết pháp trị cũng đang và sẽ rất cần cho công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN (trên một số lĩnh vực) ở nước ta. KẾT LUẬN Mặc dù Pháp gia không có người sáng lập chính thống như một số trường phái khác như Nho gia, Đạo gia, Mặc gia. Song, sự ra đời của nó không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, mà do đòi hỏi tất yếu của thời đại. Mục đích của tư tưởng Pháp gia là làm sao để có nước hùng, quân mạnh. Vai trò và vị thế của Pháp gia không chỉ dừng lại ở thành tích kết thúc cục diện Xuân Thu – Chiến Quốc, đưa Trung Hoa cổ đại về một mối, mà những giá trị khoa học về cách dựng luật, phương pháp xây dựng nhà nước mạnh, biện pháp quản lý xã hội, cách thức thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Tuy nhiên, do sự vận dụng 24 tư tưởng pháp trị của Pháp gia dưới thời Tần thủy Hoàng một cách cực đoan, quá tả trên phạm vi một nước Trung Hoa rộng lớn vừa mới được thống nhất dẫn đến những bất cập không thể tránh khỏi. Bài học lịch sử về sự sụp đổ của nhà Tần có ý nghĩa to lớn không chỉ cho chế độ phong kiến trung ương tập quyền Trung Hoa, mà cho cả các nước đồng văn về cách thức sử dụng học thuyết pháp trị. Đối với lịch sử phong kiến Trung Hoa, sau thời Tần, từ Hán trở đi chế độ phong kiến Trung Hoa thường sử dụng biện pháp trị nước tổ hợp “nội thánh - ngoại vương”, “đức chủ - pháp bổ”, “đức trị - pháp trị” mà bản chất là “Nho Pháp tịnh dụng”, lấy cái mềm mại của Nho gia để bù vào phần khô cứng của Pháp gia, biện pháp này không chỉ giúp nhà Hán tồn tại suốt 400 năm mà còn giúp cho chế độ phong kiến Trung Hoa tồn tại gần 2000 năm. Trong lịch sử tư tưởng chính trị phong kiến Việt Nam, qua nghiên cứu, trình bày ở trên, chúng ta dễ dàng nhận diện được tư tưởng trị nước trong khoảng 10 thế kỷ dưới chế độ quân chủ chuyên chế ở nước ta đó là chủ trương dùng đức trị và pháp trị song hành. Tất nhiên, mức độ sử dụng pháp hay đức thì còn tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể và tâm thế của mỗi triều đại. Đồng thời để bảo vệ chế độ ấy, các bộ pháp điển đã ra đời và là công cụ đắc dụng để nhà nước phong kiến Việt Nam tồn tại và phát triển đến đầu thế kỷ XX. Bài học lịch sử mà Pháp gia để lại cho chúng ta, trước hết là sự minh bạch, nhất quán, thống nhất trong hoạt động lập pháp, tư pháp và hành pháp trên cơ sở thượng tôn pháp luật. Gắn liền với thượng tôn pháp luật, cần thiết lập một cơ chế quản lý, giám sát hữu hiệu. Bên cạnh đó là những phương thức giáo dục ý thức pháp luật công hiệu cho người dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_phap_gia_trong_lich_su_tu_tuong_chinh_tri_xa.pdf