[Tóm tắt] Luận án Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)

1. Quan hệ dòng họ là đối tượng được nhiều lĩnh vực khoa học quan tâm nghiên cứu như sử học, dân tộc học/nhân học, xã hội học, văn hóa học Có thể giữa các tộc người có sự khác biệt nhất định về tổ chức dòng họ, nhưng không thể phủ nhận vai trò quan trọng của quan hệ dòng họ trong xã hội truyền thống cũng như hiện nay, đặc biệt là trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Quan hệ dòng họ, dầu là của dân tộc nào cũng đều tác động đến nhiều mặt đời sống của cá nhân, gia đình và xã hội. 2. Trong các nghiên cứu về quan hệ dòng họ trước đây, hầu như các tác giả chỉ quan tâm xem xét quan hệ của họ nội, tức họ bên bố (các dân tộc theo chế độ phụ hệ), hoặc bên mẹ (các dân tộc theo chế độ mẫu hệ). Thực ra, quan hệ dòng họ không chỉ có một bên, và nghiên cứu này đã cố gắng khắc phục hạn chế đó. Mỗi người Nùng Phàn Slình đều có ba mối quan hệ họ hàng là họ bố, họ mẹ và họ vợ; trong đó họ nội - họ bố có vai trò và nghĩa vụ chủ yếu. Tuy họ ngoại không có nhiều trách nhiệm như họ nội, nhưng vẫn có vai trò và chức năng nhất định. Bởi thế, mối quan hệ họ hàng với cả ba bên của người Nùng Phàn Slình đều được coi trọng và được củng cố vững chắc. 3. Dòng họ người Nùng Phàn Slình đều có những đặc điểm khá giống nhau về cư trú, quan hệ giữa các hộ gia đình trong cùng dòng họ, hệ thống lễ nghi thờ cúng, quan hệ hôn nhân, tập quán đặt tên đệm theo thứ bậc thế hệ trong mỗi dòng họ, và vai trò cá nhân trong đời sống dòng họ. Sự phân biệt dòng họ và chi họ của người Nùng Phàn Slình chủ yếu thông qua số lượng chén thờ, cách thức cúng, hệ thống tên đệm Những đặc thù này vừa cụ thể lại vừa phức tạp, đòi hỏi các thành viên dòng họ phải ghi nhớ để phân biệt các dòng họ và chi họ. Những yếu tố đó đã tạo nên những nét đặc trưng của dòng họ người Nùng Phàn Slình.

doc27 trang | Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1066 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu [Tóm tắt] Luận án Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hổ công. Từ quan niệm về tín ngưỡng như vậy, người Nùng Phàn Slình đã tổ chức lễ sinh nhật cho người già, làm lễ tang ma cho người quá cố rất chu đáo. 3.2. Quan hệ dòng họ qua tang ma Đám tang của người Nùng Phàn Slình phải trải qua rất nhiều nghi lễ bắt buộc khá rườm rà, đến nay vẫn chưa giảm bớt nhiều. Với một khối lượng công việc liên quan đến phong tục, lễ nghi nhiều vừa cần đến sức lực, vật chất, gia đình tang chủ phải nhờ cậy sự giúp đỡ của họ hàng và cộng đồng. Theo quan niệm của người Nùng Phàn Slình, nếu trong họ hàng có người chết, gia đình nào trong họ tộc không đến nhận tang thì coi như gia đình đó đã từ bỏ quan hệ về dòng máu và tổ tiên. Bởi vậy, khi trong họ có việc ma chay, các gia đình trong họ đều có trách nhiệm trợ giúp về sức lực và vật chất để thể hiện mối quan hệ này giúp đỡ tang chủ, gia đình có nhiều giúp nhiều, có ít giúp ít, có thế nào giúp vậy, có thể là vài cân gạo, chai rượu, bó củi, con lợn, Thực hiện nghi lễ tang ma, họ hàng gần bên nội đóng vai trò chủ đạo. Người con trai trưởng phải có mặt trong các nghi lễ chịu tang theo luật tục (trừ lễ tế minh tinh). Gia đình nào không có con trai phải nhận một cháu trai trong nội tộc làm con nuôi. Con nuôi được hưởng quyền thừa kế như con trai đẻ trong gia đình. Lúc cha, mẹ chết phải chống gậy, chịu tang. Họ bên ngoại, các bên thông gia thường ứng xử như những thành viên trong gia đình. Họ cùng chia sẻ với gia đình tang chủ thông qua những lễ tế riêng. Điều đó đã trở thành một tập quán quan trọng đối với người Nùng Phàn Slình. Chính sự tương trợ này đã tạo nên sự cố kết ngày càng bền chặt hơn trong dòng họ bên nội, ngoại và họ vợ ở người Nùng Phàn Slình. Những năm gần đây, nhất là từ sau khi quan hệ Việt - Trung bình thường hóa trở lại, những người Nùng Phàn Slình có quan hệ họ hàng với bên kia biên giới đều đến thăm viếng vào các dịp lễ tang, đám cưới hoặc Thanh minh. 3.3. Quan hệ dòng họ trong cưới xin Trước đây cũng như hiện nay, cưới xin phải trải qua rất nhiều nghi lễ nên rất ít gia đình có thể tự lực hoàn toàn trong việc lấy vợ gả chồng cho con cái, mà thường phải nhờ vào sự tương trợ, giúp đỡ của họ hàng gần, sau đó là hàng xóm láng giềng hoặc là bạn bè. Trước tiên, khi gia đình có việc cưới xin, người chủ gia đình phải thông báo cho bà con trong họ hàng biết, để cho các gia đình trong họ tùy theo khả năng mà giúp đỡ nhân lực, trong việc dựng rạp, thực hiện các nghi lễ, cỗ bàn... Thái độ giúp đỡ nhau trong dịp cưới xin của các gia đình đều rất tận tình và được coi như một trách nhiệm trong họ với nhau. Lễ cưới chính thức là việc quan trọng nhất trong nghi thức kết hôn, thường diễn ra từ hai đến ba ngày, trong đó một ngày là tiệc chính. Những ngày này, chủ gia đình có nghĩa vụ phải mời đông đủ các thành viên trong họ hàng tới dự. Bên họ nội là những anh em, con cháu thân thiết trong dòng tộc, còn bên mẹ và bên vợ cũng là những người gần gũi nhất như anh chị em của mẹ và anh chị em của vợ... . Về quan hệ dòng họ với những người đồng tộc người xuyên biên giới, người Nùng Phàn Slình ở bên kia biên giới tại những điểm nghiên cứu vẫn có tham dự những bữa tiệc mừng trong hôn lễ nếu có quan hệ họ hàng, nhưng không nhiều. 3.4. Quan hệ dòng họ trong lễ dựng và về nhà mới Thực tế, nếu một gia đình chuẩn bị nguyên vật liệu để làm nhà, các gia đình trong họ sẽ đến giúp đỡ xẻ gỗ, trình tường... Tùy theo yêu cầu của gia đình mà thời gian giúp có thể ngắn hay dài. Thái độ giúp đỡ nhau trong việc chuẩn bị làm nhà mới của anh em họ hàng bao giờ cũng hết sức nhiệt tình và hăng hái, thể hiện qua chất lượng từng công việc được giao, tuyệt đối không có biểu hiện trễ nải, chiếu lệ trong công việc. Quá trình làm nhà, ngày dựng nhà cần sự giúp đỡ của nhiều người trong họ. Những người là anh em, chú bác trong dòng họ thường xuyên có mặt từ khi chuẩn bị nguyên vật liệu đến khi hoàn thành, kết thúc bằng nghi lễ lên nhà mới. Khi làm lễ lên nhà mới, gia chủ mổ lợn và mời toàn thể họ hàng đến dự bữa cơm và uống rượu ăn mừng. Nghi lễ lên nhà mới cổ truyền của người Nùng Phàn Slình có tục lệ chọn 4 người đàn ông của hai bên nội, ngoại là những người làm ăn hòa thuận, khấm khá đứng ở bốn góc nhà tiến ra châm lửa đốt đống củi ở giữa nhà khi thầy cúng bắt đầu làm lễ nhập nhà mới. Truyền thống giúp đỡ nhau trong dịp làm nhà mới của bà con họ hàng người Nùng Phàn Slình đến nay vẫn còn được gìn giữ cho dù điều kiện kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi. 3.5. Quan hệ dòng họ qua một số lễ nghi trong gia đình 3.5.1. Thờ cúng tổ tiên Thờ cúng tổ tiển là một trong những hình thức tín ngưỡng quan trọng của người Nùng Phàn Slình nhằm củng cố trật tự trong gia đình, dòng họ. Hệ thống thờ tự trong gia đình người Nùng Phàn Slình thường được thờ ở 4 khu vực chính: Bộ bàn thờ tổ tiên (xoòng cống); Bàn thờ thổ công - chỉ là ống hương cắm ở bên phải cửa ra vào chính (vị thần bảo vệ mùa màng, sức khỏe, con cái, bảo vệ gia đình); Bàn thờ ông táo (xoòng cháo) ở phía trên bếp nấu, là một tấm ván, phía trên để ống tre cắm hương (vị thần trông coi việc bếp núc, hạnh phúc trong gia đình; kiêng không được bày thức ăn hay bất cứ vật gì lên đó); Bàn thờ Mụ (ăn va) là nơi thờ những người phụ nữ đã sinh con trong gia đình. Bộ bàn thờ tổ tiên được để ở tầng 2, đặt chính giữa tường, đối diện với cửa chính của tầng 2. Bộ bàn thờ trên gồm 4 ban với 4 đối tượng thờ, gồm: Bàn thờ bồ tát (tinh tàn); Bàn thờ tổ tiên (xoòng cống); Bàn thờ thần nuôi súc vật (tử làng); Bàn thờ mụ (ăn va). Bộ bàn thờ của các gia đình người Nùng Phàn Slình giống nhau về số lượng ban thờ, thứ tự trên dưới, chỉ khác biệt là số lượng chén để trên ban thờ. Tùy theo từng dòng họ mà có số lượng chén để khác nhau, cách bài trí trên từng ban thờ cũng phụ thuộc theo dòng họ và điều kiện kinh tế của hộ gia đình. Ví dụ như họ Hoàng thờ 7 chén, nhưng trong họ Hoàng lại chia ra: họ Hoàng thờ 7 chén và họ Hoàng thờ 5 chén; họ Vi lại để 5 chén. Theo cách giải thích của đồng bào, đây là dấu hiệu để một người cùng dân tộc từ nơi khác đến, họ có thể nhìn vào số lượng chén thờ mà đoán định gia chủ thuộc dòng họ nào. 3.5.2. Lễ tạ mộ (sòn mộ) Hàng năm, người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc còn làm lễ tạ mộ vào dịp mùng 3 tháng 3 Âm lịch. Đây là dịp để con cháu báo hiếu và cầu mong tổ tiên phù hộ cho các gia đình trong dòng họ gặp được nhiều may mắn, làm ăn thuận lợi. Đến ngày này, con cháu, họ hàng trong dòng họ tập trung lại để đi tu sửa mồ mả của ông bà, cha mẹ. Công việc thường là quét dọn, làm cỏ sạch sẽ, sau đó con cháu đến thắp hương. Thông qua lễ tạ mộ chính là để con cháu mới lớn nhận họ hàng, biết về phần mộ của tổ tiên, lắng nghe ông trưởng họ và bậc cao niên trong dòng họ kể về nguồn gốc tổ tiên của dòng họ mình. Hàng năm những người cùng dòng họ ở bên kia biên giới lại sang các điểm nghiên cứu vào những dịp lễ tạ mộ. Tính đến tháng 10 năm 2013, tại một số thôn của các điểm nghiên cứu vẫn còn 13 ngôi mộ của các hộ gia đình của thôn Chiểng Lầy và Liểu Hàng thuộc xã Thượng Thạch, thị trấn Bằng Tường, huyện Ninh Minh, tỉnh Quảng Tây. Những ngôi mộ này hiện nay vẫn chưa di dời sang bên kia biên giới theo như hiệp ước mà hai quốc gia đã ký kết, hiện vẫn được cả người dân hai bên biên giới trông nom và hương khói vào dịp lễ tạ mộ. 3.6. Quan hệ dòng họ qua lễ tết cổ truyền Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc còn được thắt chặt hơn vào những dịp lễ tết cổ truyền. Hàng năm, họ có nhiều lễ tết quan trọng như: Nguyên đán, Thanh minh, Đoan ngọ, Rằm tháng Bảy, Đông chí... Vào dịp này, đều có những nghi lễ và mục đích khác nhau, nhưng đây là dịp để các thành viên trong dòng họ thăm hỏi, vui chơi, hay thể hiện sự tôn kính đối với các bậc tiền bối. Dịp tết cổ truyền, những người có quan hệ họ ngoại như họ mẹ và vợ thường giành nhiều thời gian thăm hỏi gia đình bên ngoại. Những ngày này cũng là dịp tốt nhất để anh em, chú bác xa gần họp mặt nhau đông đủ. Nếu vì một lý do nào đó mà các thành viên trong gia đình chưa gặp mặt được đông đủ, sẽ có cảm giác thiếu tình cảm gia đình. Tết Nguyên đán được người Nùng Phàn Slình chuẩn bị chu đáo nhất, thời gian ăn tết cũng dài nhất và là dịp để những người trong dòng họ đến thăm hỏi, chúc tụng nhau. Vào dịp này, người Nùng Phàn Slình thường có tập quán là gia đình nào trong dòng họ làm lễ cúng tổ tiên trước sẽ mời những gia đình họ khác đến ăn uống. Cứ như thế, anh em, chú bác trong họ hàng lần lượt ăn uống từ nhà này sang nhà khác, đến khi hết lượt anh em trong họ mới thôi. Đây cũng là dịp tốt nhất để qua lại thăm hỏi và chúc tụng nhau trong họ hàng. Anh em họ gần, họ xa dù khó khăn và xa xôi đến mấy cũng phải đi thăm hỏi nhau. Tiểu kết Chương 3 Tín ngưỡng thể hiện quan hệ dòng họ bền chặt trong đời sống người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, Lạng Sơn. Những sinh hoạt tín ngưỡng, thờ cúng tổ tiên và thờ cúng họ, chi họ của người Nùng Phàn Slình hiện tại là sợi dây xuyên suốt trong sự cố kết các thành viên trong gia đình, dòng họ. Còn trong phạm vi lớn hơn thì các sinh hoạt tín ngưỡng này cũng tạo nên sự cố kết cộng đồng tộc người mạnh mẽ. Hiện nay, những nghi lễ thờ cúng trong gia đình - dòng họ vẫn được người Nùng Phàn Slình chú trọng và tăng cường càng thắt chặt hơn mối quan hệ dòng họ và quan hệ trong cộng đồng tộc người này vùng biên giới. Qua những nghi lễ trong tang ma thể hiện một quy tắc ứng xử giữa cá nhân, gia đình, dòng tộc với cộng đồng thôn bản. Thế ứng xử đó tạo nên mối giao ước và những quy tắc không chỉ liên quan đến người chết, mà ràng buộc người sống với nhau, thể hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của thành viên với cộng đồng. Nghi lễ trong đám ma là một sinh hoạt thắt chặt hơn mối quan hệ dòng họ. Cưới xin của người Nùng Phàn Slình cũng mang đậm bản sắc dân tộc với những quy định thống nhất về lễ nghi, phương thức và những bước tổ chức. Thông qua những nghi lễ đám cưới, quan hệ họ hàng ngày càng được thắt chặt hơn. CHƯƠNG 4 QUAN HỆ DÒNG HỌ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ VÀ TƯƠNG TRỢ 4.1. Quan hệ dòng họ trong sản xuất nông nghiệp Theo tục lệ cổ truyền của người Nùng Phàn Slình, những người trong cùng dòng họ có bổn phận giúp đỡ, đổi công với nhau trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Họ giúp nhau chủ yếu trong các khâu làm đất, gieo cấy và thu hoạch. Đây là hoạt động mang tính hoàn toàn tự nguyện, trên cơ sở mối quan hệ anh em, họ hàng truyền thống và cũng có nghĩa hai bên cùng có lợi. Trong thủy lợi, các thành viên trong dòng họ đã liên kết với nhau để có thể tạo dựng được những mảnh ruộng và hệ thống dẫn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Vào các vụ gieo trồng và thu hoạch, các gia đình trong dòng họ thường giúp đỡ nhau. Nếu một hộ gia đình nào trong dòng họ gặp khó khăn về kinh tế, không đủ tiền mua lúa giống, trưởng họ đứng ra vận động các gia đình khác trong họ giúp đỡ tiền... Về chăn nuôi: Đồng bào thường nuôi trâu, bò để lấy sức kéo, gia cầm lấy thịt, làm phân bón và tạo nguồn thu nhập cho hộ gia đình. Mỗi gia đình thường nuôi trâu, bò từ 3 đến 4 con; lợn vài con, gia cầm cũng phải vài chục con. Với số lượng đầu gia súc, gia cầm như vậy, đối với một gia đình khá giả thì không sao nhưng đối với gia đình còn nghèo thì nguồn vốn để đầu tư vào chăn nuôi là hết sức khó khăn. Lúc này, ông trưởng họ sẽ huy động sự giúp đỡ của mọi người. Thực tế tại các điểm nghiên cứu cho thấy, sự liên kết giữa các gia đình người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn có quan hệ họ hàng gần gũi trong sản xuất nông nghiệp chủ yếu là hình thức liên kết, đổi công, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Sự liên kết này được thể hiện ở chỗ: Một mặt, canh tác nông nghiệp lúa nước với những đòi hỏi của quá trình sản xuất như khâu thủy lợi đến các hoạt động khẩn trương trong mùa vụ cũng như những hạn chế về nguồn vốn, tư liệu sản xuất, lao động đã buộc đồng bào nơi đây khó có thể một mình trong sản xuất; mặt khác, thông qua sự liên kết này cho thấy việc coi trọng dòng họ. Các quan hệ họ hàng ở đây đã đảm bảo cho quan hệ kinh tế của gia đình người Nùng Phàn Slình có thể vận hành một cách có hiệu quả hơn kể cả xưa và nay. 4.2. Quan hệ dòng họ qua tương trợ kinh tế 4.2.1. Tương trợ trong sinh đẻ và nuôi con cái Tư liệu của chúng tôi thu thập được tại các điểm nghiên cứu cho thấy, họ hàng bên nội và bên ngoại đều đến thăm hỏi và tặng quà cho người mẹ sinh con. Quà tặng thường là những loại thức ăn mà dân làng coi là nhiều chất dinh dưỡng như trứng gà, thịt gà, thịt lợn, gạo nếp để gia đình chế biến cho sản phụ ăn tăng cường sức khỏe, nhiều sữa nuôi con. Với những gia đình thuộc dòng họ lớn trong thôn thì việc đến thăm hỏi diễn ra tới vài tháng. Đây có thể coi là một sự tương trợ kinh tế phi chính thức mà chủ yếu là thực phẩm chính để sản phụ dùng trong nhiều ngày. Tuy nhiên, hiện nay, tặng phẩm của những người trong cùng dòng tộc đang có xu hướng thay quà tặng bằng tiền, đặc biệt là ở khu vực có mối giao thương thuận tiện bởi hoạt động thương mại hay dịch vụ làm thuê qua biên giới. Không chỉ có những vật phẩm thường ngày được họ hàng mang đến tặng sản phụ mà còn chia sẻ những tri thức truyền thống trong nuôi và chăm sóc trẻ sơ sinh. Những chia sẻ về kinh nghiệm, kiến thức dân gian trong việc nuôi dưỡng trẻ là vô cùng quan trọng, đặc biệt với những người phụ nữ làm mẹ lần đầu. 4.2.2. Tương trợ trong dịp tổ chức đám cưới Đến thời điểm nghiên cứu, tập quán trợ giúp vật chất (lợn, rượu, gạo) của các gia đình tùy theo mối quan hệ (họ hàng, anh em, bà con trong thôn bản) đối với gia chủ của người Nùng Phàn Slình vẫn còn tồn tại rõ nét. Trong đám cưới, không chỉ có sự tương trợ vật phẩm mà còn có tiền mừng đám cưới, trước hết là của anh em họ hàng ruột thịt - những người đóng vai trò quan trọng trong trợ giúp gia đình khi có công việc lớn như đám cưới. Việc trợ giúp những vật phẩm của người Nùng Phàn Slình không bao giờ tính lãi và thời gian giúp đỡ thường rất dài, chỉ đến khi nào gia đình người trợ giúp có việc thì người được giúp đỡ mới mang đến trả lại. Thậm chí đời cha chưa trả thì đến đời con trai ở cùng với cha, mẹ có trách nhiệm trả. Nó được coi như một loại nợ miệng, nợ đồng lần. Đám cưới của người Nùng Phàn Slình có hai loại quà tặng bằng tiền nổi bật: thứ nhất là tiền mừng cho gia chủ được ghi vào sổ, gia đình sẽ giao cho một người đứng ra ghi chép cẩn thận để sau này còn đáp lại; thứ hai là tiền mừng cho cô dâu, chú rể khi đi mời khách ăn trầu, hút thuốc, uống rượu, trong lễ “sài hồng”. Những người đến uống rượu ở đám cưới, dù là khách bên nội hay bên ngoại đều mừng một ít tiền để cho đôi vợ chồng mới cưới gây vốn về sau. Tài liệu thực địa cho thấy, hệ thống tương trợ hay giúp đỡ đã thể hiện tinh thần gắn kết của các gia đình trong cộng đồng. Đây là mạng lưới tạo nên sự cố kết cộng đồng trong dòng tộc thể hiện qua những người được quyền tham gia vào việc tặng quà cho cô dâu, chú rể và họ nhận lại miếng trầu, cau hay một chén rượu. Xu hướng chung cho thấy, quà tặng trong đám cưới ở người Nùng Phàn Slình ngày một tăng cường hơn cả về số lượng người trao đổi và giá trị tương trợ. 4.2.3. Tương trợ trong lễ sinh nhật cho người già Người Nùng Phàn Slình thường tổ chức lễ mừng sinh nhật cho cha mẹ mình ngay dưới bàn thờ mụ. Lễ sinh nhật thường diễn ra vào ban đêm với hai phần chính là lễ sinh nhật và cầu giải hạn cầu an. Thầy cúng mời linh hồn của tổ tiên về chứng kiến buổi lễ, phù hộ sức khỏe cho người được làm sinh nhật với sự tham dự chủ yếu là con cháu, họ hàng nội ngoại, thông gia, bạn bè của người được làm sinh nhật. Khoảng 5 năm trở lại đây, việc mang lễ vật có phần giảm, thay vào đó là tiền để gia đình tự đi mua thực phẩm. Việc đến mừng gia chủ bằng hiện vật hay tiền trong lễ nghi này tương tự tập tục “trả nợ miệng”. Việc mừng hiện vật biểu hiện cho sự chia sẻ trợ giúp về kinh tế với gia chủ là thành viên thuộc quan hệ họ hàng, nội ngoại. 4.2.4. Tương trợ qua tang ma Tang ma cho người quá cố thường diễn ra trong nhiều ngày và phải tốn kém một khoản kinh phí lớn nên chính trong lúc này gia đình tang chủ rất cần sự giúp đỡ, động viên của mọi thành viên trong họ hàng và bà con thôn bản. Khi nghe tin có người mất, bà còn họ hàng, thông gia, dân bản đến hỏi thăm, lo tổ chức nghi lễ hậu sự theo phong tục. Sự cố kết cộng đồng thể hiện qua đám ma rõ nét nhất chính là “hội hàng phường”, một tổ chức phi quan phương chuyên giúp đỡ tang chủ các công việc trong tang ma. Khi nhận được tin báo của gia chủ, người hội trưởng có trách nhiệm thông báo cho toàn bộ hội viên. Mỗi một gia đình hội viên phải cử một thành viên trong hộ gia đình đến để giúp đỡ gia đình tang chủ và họ thường đem theo rượu, gạo, củi, số lượng tùy theo từng phường quy định. Thông thường, gia chủ đều bị rơi vào tình thế bị động không có sự chuẩn bị về lợn, rượu và gạo nên phải hỏi mượn anh em trong dòng họ trước, nếu không có mới hỏi bà con trong thôn. Sau khi đã có sự thống nhất và lên kế hoạch về các khoản chi cho đám ma, hội trưởng và hội phó sẽ tiến hành phân thành các nhóm để cùng nhau giúp tang chủ lo chu toàn cho người qua cố. Tuy nhiên, ở đây vai trò của dòng họ không vì thế mà ít có vị trí quan trọng khi một thành viên cộng đồng dòng họ quá cố. Đó là, ngoài trách nhiệm của hội hàng phường còn có trách nhiệm của quan hệ họ hàng thân tộc với người quá cố. Đây chính là quan hệ chặt chẽ của mạng lưới xã hội giữa các cá nhân và hộ gia đình với các bên liên quan một cách tự giác, phân cấp trên nền tảng gia đình, dòng tộc và cộng đồng. Tiểu kết Chương 4 Cũng như nhiều tộc người và nhóm địa phương khác, quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn cũng được biểu hiện trong các hoạt động kinh tế, mà trước hết là truyền thống tương trợ trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Với điều kiện thiên nhiên không thuận lợi cho việc canh tác, nhất là canh tác lúa nước rất cần đổi công trong các khâu sản xuất, đặc biệt là các khâu nặng nhọc và cần nhiều công lao động vào thời điểm cho kịp thời vụ. Thông qua hoạt động đổi công, tương trợ trong sản xuất, không chỉ góp phần giải quyết nhu cầu trong sản xuất mà còn tăng cường tính gắn kết giữa các thành viên dòng họ ở người Nùng Phàn Slình. Quan hệ dòng họ còn được biểu hiện qua các hoạt động trợ giúp trong các lễ nghi sinh đẻ, cưới xin, tang ma, lễ sinh nhật cho người già, về nhà mới. Trong các lễ nghi này, dòng họ đóng vai trò thiết yếu trong sự tương trợ cả về vật chất, tinh thần và công sức. Trợ giúp tạo thành mạng lưới quan hệ của cá nhân, hộ gia đình với các hộ gia đình khác cùng dòng tộc, cũng như các hộ gia đình có mối liên hệ thông gia trong cộng đồng. Qua thực hiện các lễ nghi, đã hình thành mạng lưới quan hệ xã hội, với sự tương trợ được vận hành như một hệ thống hỗ trợ xã hội. Xu hướng đưa cả quan hệ dòng họ vào trong mạng lưới cá nhân và hộ gia đình càng được tăng cường. Mối quan hệ này không chỉ có bên dòng họ nội mà còn bao gồm họ ngoại và họ vợ/chồng, không chỉ ở cộng đồng thôn bản mà trong một số trường hợp còn vượt ra ngoài phạm vi thôn bản. Tuy nhiên, về căn bản, mạng lưới quan hệ các cá nhân dòng tộc của người Nùng Phàn Slình chủ yếu vẫn chưa vượt ra ngoài ranh giới của cộng đồng thôn bản. CHƯƠNG 5 QUAN HỆ DÒNG HỌ VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ 5.1. Về hệ thống chính trị cơ sở Hệ thống chính trị cơ sở là toàn bộ các thiết chế chính trị như tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định và gắn bó hữu cơ với nhau nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở. Trong phạm vi luận án, chúng tôi đề cập tới mối quan hệ dòng họ ở hệ thống chính trị cấp cơ sở (cấp xã và chân rết hành chính của nó - cấp thôn). Ở đây, quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình được đặt trong bối cảnh quan hệ dòng họ của các nhóm người Nùng khác và của tộc người khác tại xã được nghiên cứu. Bởi vậy, việc phân tích có nhiều chỗ không thể tách riêng cho người Nùng Phàn Slình. 5.2. Quan hệ dòng họ trong hệ thống chính trị cấp xã và cấp thôn 5.2.1. Đặc điểm hệ thống chính trị cấp xã và cấp thôn Xã Thụy Hùng gồm 12 thôn: Nà Pàn, Nà Hỏ, Còn Phèo, Khuổi Khe, Nà Pài, Pò Nghiều, Pò Mạch, Nà Lại, Khuổi Mươi, Còn Tòong, Lũng Cọong, Tam Lung. Xã có 1.038 hộ với 4.765 nhân khẩu, có 3 dân tộc cùng chung sống là Tày, Nùng (nhóm Nùng Phàn Slình và Nùng Cháo), Kinh, trong đó người Nùng Phàn Slình sinh sống chủ yếu ở 5 thôn (Pò Nghiều, Nà Pàn, Nà Lại, Còn Phèo, Còn Tòong). Tính đến thời điểm tháng 12/2012, cán bộ, công chức cấp xã của Thụy Hùng là 31 người (bao gồm cả cán bộ, công chức và những người chuyên trách), trong đó có 17 người, tức hơn 50% số lượng cán bộ xã là người Nùng (Nùng Phàn Slình: 8 người, Nùng Cháo - 9 người), còn lại là người Tày. Xã Gia Cát gồm 10 thôn: Bắc Nga, Liên Hòa, Bắc Đông I, Bắc Đông II, Nà Pó, Sơn Hồng, Hợp Tân, Cổ Lương, Pò Cại, Sa Cao. Xã có 1.072 hộ với 4.581 nhân khẩu, có 6 dân tộc chung sống là Kinh, Nùng, Tày, Hoa, Dao, và dân tộc khác. Trong số các dân tộc kể trên, người Nùng có 2.102 người, chiếm 45,89%; Tày là 2.350 người, chiếm 51,30%, còn lại là các dân tộc khác. Tổng số cán bộ công chức của xã gồm 30 người (bao gồm cả cán bộ, công chức và những người chuyên trách), trong đó 21 người là dân tộc Tày, 9 người là dân tộc Nùng Phàn Slình. Xã Thanh Lòa gồm 6 thôn: Còn Phạc, Bản Rọi, Nà Làng, Nà Pheo, Bản Lòa, Co Khuất. Xã có 325 hộ với 1.630 nhân khẩu, trong đó chỉ có 45 hộ là người Tày, còn lại là người Nùng Phàn Slình. Tổng số cán bộ công chức của xã gồm 27 người (bao gồm cả cán bộ, công chức và những người chuyên trách), trong đó 5 người là dân tộc Tày, 22 người là dân tộc Nùng (nhóm Phàn Slình) Như vậy, ở xã Thanh Lòa, đa số cán bộ là người Nùng Phàn Slình; tại xã Thụy Hùng, đa số cán bộ là người Nùng Cháo; còn ở xã Gia Cát, đa phần là người Tày. 5.2.2. Quan hệ dòng họ với cán bộ chủ chốt cấp xã Bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay ở địa phương được nghiên cứu cho thấy, những người giữ vị trí trong bộ máy chính quyền cấp xã đều có lợi ích nhất định về vật chất, tinh thần và lợi ích chính trị. Các vị trí có tiếng nói quyết định trong hệ thống này là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân và Bí thư Đảng ủy. Từ tài liệu điền dã cho thấy, một số chức danh chủ chốt như Chủ tịch Ủy ban Nhân dân và Bí thư Đảng ủy đều là người thuộc dòng họ chiếm dân số đông nhất xã. Ở đây, chưa xét đến vai trò, năng lực quản lý của họ mà chỉ muốn nói đến một hiện tượng, một số người giữ chức vụ chủ chốt của xã đều có mối quan hệ họ hàng với Chủ tịch và Bí thư Đảng ủy xã. Dựa trên phân tích mạng lưới quan hệ họ hàng tại địa phương đã chỉ ra, những người đương giữ chức vụ trên không chỉ là những người ruột thịt bên họ nội, mà còn cả họ ngoại và bên họ vợ nữa (phi nội, tác ngoại). Bên cạnh các chức vị Chủ tịch, Bí thư có quan hệ họ hàng nội ngoại gần gũi còn có các Phó Chủ tịch, Phó Bí thư Đảng ủy, Trưởng Công an xã, Chủ tịch Hội người cao tuổi cũng như vậy. Ở đây không chỉ có quan hệ cha con (cha - con gái; cha - con trai; cha - con rể) mà còn có quan hệ thông gia, quan hệ vợ chồng, quan hệ anh em không chi gần thì cũng là chi xa trong cùng dòng tộc. Qua đây cho thấy rằng, quan hệ gia đình, dòng họ đều có sự chi phối không nhỏ đến việc bố trí cơ cấu đội ngũ cán bộ cấp xã. Sự cố kết dòng họ ngày càng rõ nét, đang chi phối sự vận hành của hệ thống chính trị tại địa phương các điểm nghiên cứu là một thực tế. Ngoài quan hệ dòng họ là quan hệ bản vị địa phương ở cấp xã có mối gần gũi với người cùng làng, bản cũng được thể hiện ở các địa bàn Nùng Phàn Slình vào thời điểm khảo sát. 5.2.3. Quan hệ dòng họ trong hệ thống chính trị cấp thôn Có thể thấy rằng, mối quan hệ gia đình, họ hàng có những ảnh hưởng tới hoạt động quản lý cấp xã và cấp thôn nhưng trên thực tế, ảnh hưởng này đối với cấp thôn yếu hơn so với bộ máy quản lý cấp xã tại những điểm nghiên cứu. Những người được bầu vào ban quản lý cấp thôn đều có điều kiện thuận lợi về gia đình (vợ chồng hòa thuận, đủ nhân sự để sản xuất,) không quá nghèo, có uy tín với gia đình, thôn bản. Mỗi thôn thường có vài dòng họ cùng tụ cư với nhau, trong đó thường có một dòng họ có dân số lớn và là dòng họ đến cư trú đầu tiên trong thôn. Dòng họ lớn có ưu thế trong việc bầu cử nên dễ giữ những vị trí chủ chốt của cấp thôn. Điều này cũng dễ lý giải, bởi bên cạnh dòng họ lớn với số hộ, số nhân khẩu đông là những dòng họ có số hộ, nhân khẩu ít hơn nhưng thường có mối quan hệ thông gia với họ lớn và các dòng họ khác ở trong thôn. Như vậy, trong một cộng đồng thôn mặc dù có những dòng họ khác nhau cùng sinh sống nhưng nó hội đủ các mối quan hệ thân tộc, quan hệ thông gia giữa hai gia đình khác tộc họ với nhau. Chính những mối quan hệ chằng chéo này đã tạo thành một mạng lưới các quan hệ xã hội, chi phối các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa trong cộng đồng thôn bản hiện nay. 5.2.4. Quan hệ dòng họ qua các chương trình phát triển nông thôn miền núi Với khuôn khổ của luận án, chúng tôi chỉ khảo sát hoạt động một số chương trình, dự án lớn có tác động tới đại bộ phận người dân tại ba điểm nghiên cứu. Tại xã Gia Cát gồm 2 Chương trình: xây dựng nông thôn mới và trồng cây phân tán; xã Thanh Lòa là Chương trình 134, 135, 120 và xã Thụy Hùng là Dự án trồng rừng Việt - Đức và Chương trình 135. Qua khảo sát thực tế cho thấy, có một bộ phận không nhỏ các hộ gia đình tại các thôn được hưởng lợi từ các chương trình dự án này nhờ các mối quan hệ họ hàng với lãnh đạo cấp xã, thôn hoặc thành viên ban quản lý cấp thôn. Như Chương trình trồng rừng Việt - Đức (KfW3) tại xã Thụy Hùng là một ví dụ. Mục tiêu của dự án là hỗ trợ người nông dân trồng rừng trên đất lâm nghiệp được giao. Xã Thụy Hùng có 12 thôn, chủ yếu là hai nhóm Nùng (Nùng Phàn Slình và Nùng Cháo), một số hộ người Tày và người Kinh. Theo tiêu chí của dự án, tất cả các thôn trong xã đều đủ điều kiện để thực hiện chương trình, nhưng khi tiến hành triển khai phát cây thông giống và kinh phí thì chủ tịch đương nhiệm lúc đó đã chỉ đạo cho cán bộ nông nghiệp và thành viên chương trình của xã triển khai tới 100 số hộ thuộc thôn có người nhà và gia đình mình. Trong khi dự án đánh giá lúc ban đầu chỉ triển khai khoảng 50 số hộ mỗi thôn. Nguyên trưởng thôn lúc đó cho biết, thôn có 59 hộ, trong đó có 31 hộ họ Hoàng (cùng dòng họ với chủ tịch xã), được nhận số cây thông giống gấp đôi số cây giống so với các hộ khác trong thôn. Còn tại thôn Pò Nghiều, phần lớn cán bộ trong xã là người thuộc nhóm Nùng Cháo, chỉ ngoại trừ Chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ xã là người Nùng Phàn Slình. Vì vậy, họp và phân bổ các chương trình hỗ trợ cho hộ dân thiếu tiếng nói của nhóm Nùng Phàn Slình. Khi dự án trồng rừng Việt - Đức triển khai ở ba thôn người Nùng Phàn Slình, số lượng cây giống nhận được rất ít mặc dù 100% số hộ trong các thôn đều đăng ký nhận cam kết thực hiện dự án. Tiểu kết Chương 5 Quan hệ dòng họ, trong đó có dòng họ của người Nùng Phàn Slình ảnh hưởng nhất định đến hệ thống chính trị cơ sở. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng có sự khác nhau ở ba điểm nghiên cứu. Nguyên nhân khác nhau là bởi điều kiện cư trú, hay mức độ cư trú xen cài của các tộc người. Có thể nói, quan hệ dòng họ có tác động hai chiều tích cực và tiêu cực đến bộ máy quản lý xã hội ở cơ sở. Hiện nay, dòng họ đóng vai trò quan trọng trong quan hệ giữa gia đình, dòng họ và cộng đồng. Thậm chí, người dân địa phương còn đánh giá dòng họ hiện nay có vai trò lớn hơn trong quá khứ. Do vậy, trong quá trình xây dựng nông thôn mới, vai trò của dòng họ ngày càng được khẳng định, kể cả họ nội, họ ngoại và họ vợ/chồng. Sự phục hưng hay là sự tăng cường quan hệ dòng họ trong những năm gần đây được coi như là sự trở lại của văn hóa truyền thống. Các dòng họ trong xã, thôn đã cung cấp cho chính quyền nhiều thành viên có năng lực, đạo đức, cống hiến cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Nếu biết dựa vào yếu tố tích cực của dòng họ, sẽ có tác dụng tốt trong thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, trong công cuộc Đổi mới, quan hệ dòng họ cũng nảy sinh nhiều vấn đề có ảnh hưởng tới tính dân chủ, tinh thần đoàn kết và sự vận hành của hệ thống chính trị cấp cơ sở. CHƯƠNG 6 KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Qua trình bày 5 Chương trong luận án, chúng tôi rút ra một số kết quả chính và nêu lên những bàn luận. 6.1. Về tổ chức dòng họ Người Nùng Phàn Slình quan niệm, dòng họ là những người cùng quan hệ huyết thống, với biểu hiện là có cùng tên họ, cùng hệ thống tên đệm và cùng “ma” - tức cùng tín ngưỡng thờ cúng... Về hệ thống tên đệm của người Nùng Phàn Slình, một người Nùng Phàn Slình có hai tên: một tên trong khai sinh dùng trong việc giao tiếp hàng ngày, đi học, đi làm, còn một tên chỉ dùng trong thực hành các lễ nghi thờ cúng. Đây chính là hệ thống tên đệm để người Nùng Phàn Slình nhận ra quan hệ họ hàng, được biểu hiện khác nhau ở mỗi dòng họ. Dòng họ người Nùng Phàn Slình không có từ đường, không có ruộng hương hỏa hay những sinh hoạt hội họp như tổ chức dòng họ của người Kinh, nhưng không vì thế mà dòng họ của người Nùng Phàn Slình lỏng lẻo. Một người Nùng Phàn Slình khi đã có vợ, có chồng đều có ba mối quan hệ về họ hàng. Ngoài họ bên nội - bên bố và bên ngoại - bên mẹ, còn thêm họ bên vợ hoặc chồng nhưng bên nội được coi trọng hơn. Mỗi dòng họ người Nùng Phàn Slình thường có tổ chức khá chặt chẽ, bao gồm hai hay nhiều chi họ, mỗi chi họ gồm một số hộ gia đình cư trú trong cùng một thôn hay những thôn lân cận trong phạm vi một xã và có cả liên xã, liên huyện và xuyên quốc gia. Trong tổ chức dòng họ của người Nùng Phàn Slình, người trưởng họ có vai trò quan trọng. Trưởng họ là người đứng đầu dòng họ, có uy tín, am hiểu phong tục tập quán của dòng họ Người Nùng Phàn Slình không có khu vực cư trú riêng theo dòng họ, mà chủ yếu cư trú đan xen giữa các dòng họ. Trong quan hệ giữa thành viên cùng dòng họ, bao giờ người ta cũng giữ được tôn ti trật tự, luôn có sự nhường nhịn và thông cảm mỗi khi chưa có sự thống nhất về ý kiến. Tập quán này không chỉ biểu hiện đối với các thành viên bên họ nội mà còn đối với bên họ mẹ và họ vợ. 6.2. Về vai trò, chức năng của quan hệ dòng họ Tính cố kết dòng họ và đặc trưng dòng họ của người Nùng Phàn Slình được phản ảnh rất rõ nét qua việc thực hành các nghi lễ như: tang ma, cưới xin, làm nhà Trong các lễ nghi này, dòng họ đóng vai trò thiết yếu trong sự tương trợ cả về vật chất, tinh thần và công sức. Trợ giúp trong dòng họ đã tạo thành mạng lưới quan hệ của hộ gia đình với các hộ gia đình khác cùng dòng tộc, cũng như các hộ gia đình có mối quan hệ thông gia. Mỗi hộ gia đình sinh sống trong thôn bản vừa có trách nhiệm của một người cùng dòng tộc vừa có phần đóng góp của chính họ vào những lễ nghi trong chu kỳ đời người của một hộ gia đình khác, vừa thể hiện quan hệ của mình qua mối quan hệ thông gia trong một cộng đồng thôn và rộng hơn là xã, liên xã và xuyên quốc gia. Qua những nghi lễ này của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, có một xu hướng đưa quan hệ dòng họ vào mạng lưới cá nhân và hộ gia đình trong chiến lược sống của mình. Mối quan hệ này không hẳn chỉ nghiêng về bên họ nội mà cả họ ngoại và họ bên vợ. Trong đời sống hàng ngày của người Nùng Phàn Slình, vẫn hiện hữu những sinh hoạt lễ nghi, tín ngưỡng và hoạt động này là sợi dây xuyên suốt để cố kết các thành viên trong gia đình, dòng họ. Còn trong phạm vi lớn hơn, những sinh hoạt này đang tạo nên sự cố kết cộng đồng tộc người mạnh mẽ, và điều đặc biệt, khi có sự tác động của hội nhập kinh tế thì những sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống lại hưng thịnh, góp phần tái khẳng định nguồn gốc và bản sắc văn hóa tộc người. Các nghi lễ trong chu kỳ đời người như cưới xin, ma chay là nơi mạng lưới quan hệ dòng họ và quan hệ xã hội nói chung được vận hành như một hệ thống hỗ trợ xã hội. Uy tín và địa vị của người được trợ giúp trong thôn sẽ được thể hiện qua số lượng họ hàng và khách đến giúp đỡ (cả về tinh thần và vật chất). Theo tập quán địa phương, càng đông họ hàng, bạn bè, làng xóm đến dự, thì chủ nhà càng có thêm uy thế xã hội và cũng thể hiện được sức mạnh của sự cố kết trong dòng họ đó. Dòng họ không phải là một đơn vị kinh tế, nhưng không có nghĩa là phủ nhận vai trò của dòng họ đối với các hoạt động kinh tế, nhất là sự tương trợ trong sản xuất giữa các thành viên, gia đình trong dòng họ. Đối với người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, sự tương trợ giữa các thành viên cùng dòng họ thông qua hoạt động kinh tế không chỉ được biểu hiện trong các lĩnh vực trực tiếp sản xuất mà còn bao hàm cả các hệ thống trao đổi khác nhau, như đổi công, giúp đỡ trong nông nghiệp và hoạt động buôn bán vùng giáp biên theo nhóm họ cũng như trao đổi hiện vật trong khuôn khổ tương trợ nhau. Qua khảo sát cho thấy, có hai hình thức hỗ trợ lẫn nhau ở đây: Một là, sự trao đổi lao động trực tiếp giữa nhiều gia đình trong cùng dòng họ - gọi là "đổi công"; Hai là,những gia đình nào thiếu lao động thì tìm sự trợ giúp của họ hàng, bạn bè, làng xóm, sau này tìm cơ hội thích hợp để hoàn trả người giúp đỡ. Như vậy, qua đó vẫn thấy được sự đan xen đậm nét của các quan hệ họ hàng thể hiện rõ nét nhất ở việc phân công lao động ưu tiên cho những người thuộc họ tộc thân thích. Những biểu hiện trên mặc dù không phải là cách giải quyết tối ưu song nó càng khẳng định vai trò của dòng họ trong điều kiện xã hội có nhiều biến đổi hiện nay. Do những điều kiện lịch sử, còn có mối quan hệ dòng họ xuyên quốc gia. Tại địa bàn nghiên cứu, một số dòng họ của người Nùng Phàn Slình còn có nguồn gốc hoặc có quan hệ với người cùng họ ở các địa phương của Trung Quốc. Vì thế, việc xem xét chức năng về tinh thần và tương trợ của mối quan hệ này cần đặt trong bối cảnh đảm bảo an ninh ở vùng biên. 6.3. Quan hệ dòng họ với quyền lực ở hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay Xã là đơn vị hành chính thấp nhất trong tổ chức nhà nước của chúng ta. Còn bộ máy quản lý ở thôn là chân rết của bộ máy hành chính cấp xã, giúp Ủy ban nhân dân xã thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước ở địa phương. Do đó, cán bộ chủ chốt ở thôn (như trưởng thôn, bí thư) có vai trò quan trọng trong việc giúp chính quyền cấp cơ sở quản lý cộng đồng dân cư, trực tiếp triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phần lớn cán bộ thôn hiện tại vẫn đang sinh sống và làm việc tại thôn của mình - nơi mà sự ràng buộc về gia đình, dòng họ vẫn còn bền chặt. Do đó, khó tránh khỏi sự ảnh hưởng của mối quan hệ dòng tộc trong công việc. Như trường hợp nghiên cứu của luận án cho thấy, một làng thường có nhiều dòng họ cùng cư trú và họ có mong muốn mở rộng và phát triển mối quan hệ họ hàng, tìm kiếm sự hợp tác giữa các dòng họ để cùng tồn tại. Sự đoàn kết trong dòng họ ở làng nhiều dòng họ có thể cùng tồn tại thành công với một cảm thức bao trùm hơn về cộng đồng vốn có thể thay thế nhưng không loại bỏ nó. Quan hệ họ hàng đã cung cấp một sức mạnh cố kết dưới những hình thức khác nhau. Những kết quả nghiên cứu của chúng tôi từ những địa điểm nghiên cứu đã cho thấy sự hợp tác trong gia đình, dòng họ được duy trì qua cả quan hệ họ hàng lẫn quan hệ thông gia. Từ sự phân tích trên đây về mạng lưới quan hệ của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn chúng tôi thấy có hai điểm cần lưu ý: Thứ nhất, có một xu hướng đưa cả quan hệ cộng đồng lẫn quan hệ họ hàng vào mạng lưới cá nhân. Người dân ở đây không chỉ sử dụng quan hệ họ hàng thuần túy dựa trên quan hệ dòng tộc chủ yếu trong các nghi lễ chính thức như thờ cúng trong gia đình..., mà còn sử dụng quan hệ họ hàng mang tính chất tình huống và mềm dẻo, điều đó thể hiện ở những trường hợp cụ thể như chúng tôi đã trình bày trong các chương của luận án. Ở các điểm nghiên cứu, hầu hết quan hệ với họ hàng bên vợ, bạn bè, láng giềng, được chính người dân xây dựng và vun đắp, chứ không chủ yếu kế thừa từ cha mẹ hay tổ tiên, và thực sự họ muốn làm điều đó vì nó mang lại những lợi ích trong cuộc sống. Theo nghĩa này, có thể coi mạng lưới quan hệ họ hàng này là biểu hiện của quan hệ họ hàng thực tiễn. Vì vậy, bản chất và chức năng của các quan hệ phi họ hàng này cần được tiếp tục nghiên cứu và bàn luận. Thứ hai là, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, các cán bộ cấp xã, cấp thôn ở đây có xu hướng thu hút nhiều hơn quan hệ phi họ hàng vào mạng lưới cá nhân của họ, và xây dựng những mạng lưới lớn hơn, nhờ vậy củng cố thêm vị trí xã hội chủ đạo của họ. Như chúng tôi đã trình bày ở Chương 5, với những người có chức vụ, đặc biệt là những chức vụ chủ chốt (như Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân..) trong hệ thống chính trị cấp xã/thôn đều là những người có quyền hành, uy tín, có khả năng tham gia vào các hoạt động không chỉ ở địa phương mình mà còn cả ở cấp cao hơn như huyện, tỉnh Do đó, họ dễ dàng có thêm được những mối quan hệ khác trong quá trình làm việc, giao lưu Vun đắp quan hệ tốt với cấp trên là việc quan trọng sống còn đối với cán bộ cấp xã/thôn. Việc xây dựng mạng lưới như vậy giúp cán bộ thực hiện và duy trì được quyền lực của mình. Bên cạnh đó, cán bộ thôn/xã cũng cần phải xây dựng cho mình một mạng lưới những người ủng hộ và đồng minh. Với uy tín và quyền hạn của mình, các cán bộ này đã bố trí, sắp xếp các vị trí quan trọng trong hệ thống chính quyền cấp cơ sở như cán bộ văn hóa, hộ tịch, văn phòng đảng ủy, đoàn thanh niên cho những người thân trong dòng họ, các mối quan hệ xung quanh mình như quan hệ thông gia, bạn bè để tạo thêm những người ủng hộ họ trong quá trình vận hành hệ thống chính quyền cơ sở nơi đây. Không chỉ thông qua việc tạo mạng lưới những người ủng hộ mình trong công việc, mà ngay cả trong những sinh hoạt lễ nghi của đời sống hàng ngày, họ cũng tạo được một mạng lưới quan hệ xã hội xung quanh mình. Như chúng tôi đã trình bày ở các chương, những lễ nghi chủ yếu trong vòng đời của người Nùng Phàn Slình là tang ma, mừng sinh nhật người già, cưới xin, mừng nhà mới, sinh đẻ Việc mừng quà tặng (cả hiện vật và tiền) nhân những dịp lễ nghi này cho thấy vị thế và quan hệ quen biết - một bằng chứng biểu hiện về vốn quan hệ mà người ta có thể huy động. Và trong điều kiện hiện nay, chính cán bộ là người có thể vượt lên nhanh chóng, giống như họ đã vượt lên ở các khía cạnh khác của đời sống xã hội để tạo thành những mạng lưới quan hệ dòng họ, quan hệ xã hội vượt ra ngoài ranh giới thôn bản, và những mối quan hệ với cấp trên, cấp dưới đã khiến họ khác hẳn với những người dân bình thường. Họ làm như vậy để giúp họ duy trì vị trí có uy thế trong đời sống xã hội hiện nay. 6.4. Nhìn lại việc áp dụng thuyết Chức năng và thuyết Vốn xã hội trong nghiên cứu Dựa trên cơ sở của thuyết Chức năng, luận án đã phân tích chức năng dòng họ của người Nùng Phàn Slình như sau: Thứ nhất, chức năng sinh học: Cùng với gia đình, dòng họ của người Nùng Phàn Slình đã thực hiện chức năng duy trì nòi giống. Trong quan hệ của mỗi dòng họ, một nguyên tắc được tuân thủ là ngoại hôn, tức là không kết hôn với người cùng họ gần. Thứ hai, chức năng cố kết tộc người: Mỗi dòng họ của người Nùng Phàn Slình không chỉ là một cộng đồng những người có quan hệ huyết thống tính theo hệ cha mà còn là đơn vị cố kết về mặt tinh thần. Tính cố kết dòng họ của người Nùng Phàn Slình được phản ảnh rõ nét qua việc thực hành các nghi lễ chung của dòng họ, gia đình và cộng đồng. Thứ ba, chức năng giáo dục: Giáo dục không chỉ giản đơn là giáo dục đạo đức xã hội, mà còn có chức năng quan trọng là truyền thụ văn hóa tộc người cho các thế hệ sau thông qua sự dạy dỗ và trao truyền ngôn ngữ dân tộc (tiếng Nùng), về những phong tục tập quán dân tộc, tâm lý và ý thức tự giác dân tộc, thực hành lễ nghi... Thứ tư, bảo tồn văn hóa tộc người: Dòng họ có vai trò nhất định trong việc bảo tồn bản sắc văn hoá tộc người và tiếp thu các yếu tố văn hóa mới. Thông qua các sinh hoạt văn hoá của dòng họ, văn hóa tộc người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được thấm sâu vào mỗi thành viên. Thứ năm, chức năng tương trợ: Chức năng này được biểu hiện rõ nét thông qua các nghi lễ trong chu kỳ đời người như tang ma, cưới xin, sinh đẻ, làm nhà... Thứ sáu, chức năng quản lý cộng đồng và ổn định chính trị, xã hội: Sự đoàn kết, gắn bó của mỗi dòng họ tạo nên đoàn kết, gắn bó của cộng đồng. Người Nùng Phàn Slình quan niệm rằng, dòng họ càng đông càng có sức mạnh. Ở những thôn có dòng họ lớn, có thế lực thường là những dòng họ có những người được cử làm trưởng thôn, bí thư, tham gia vào các hoạt động của chính quyền cơ sở. Tiếng nói của họ thường có uy tín trong các cuộc vận động xây dựng nếp sống mới ở thôn. Với cấu trúc, vai trò, chức năng quan trọng như vậy, rõ ràng dòng họ của người Nùng Phàn Slình là một bộ phận quan trọng vận hành, đóng góp vào sự vận hành ổn định chung của cả hệ thống xã hội tộc người từ trước đến nay. Nó cũng có mối liên hệ mật thiết với các thiết chế xã hội khác như gia đình, làng bản, tôn giáo tín ngưỡng và hệ thống chính trị Có thể nói rằng, việc áp dụng thuyết chức năng vào phân tích cấu trúc, thể chế, chức năng của quan hệ dòng họ người Nùng Phàn Slình như trên rất có ích cho việc giải thích, xác định vai trò của dòng họ trong đời sống văn hóa - xã hội của tộc người, cũng như đóng góp của nó vào sự vận hành, phát triển ổn định hiện nay của cộng đồng tộc người này. Tuy nhiên, một trong những bất cập khi áp dụng thuyết chức năng trong nghiên cứu này là nó không giúp ích trong việc giải thích những biến đổi trong quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình đang chịu tác động mạnh mẽ của bối cảnh hội nhập hiện nay. Gần đây, trong cơ chế kinh tế thị trường, xu hướng biến đổi về kinh tế - xã hội và các giá trị văn hóa truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Phải chăng trong một xã hội chuyển đổi khi các thiết chế xã hội mới chưa ổn định, chưa đủ mạnh để đảm bảo xã hội vận hành ổn định và phát triển, những thiết chế xã hội truyền thống như dòng họ trở thành những chỗ dựa vững chắc của các cá nhân và cộng đồng. Mục đích của việc vận dụng lý thuyết vốn xã hội đối với đề tài luận án là dựa trên nguồn lực về niềm tin thực thi và trao đổi có đi có lại được gắn vào trong các mạng xã hội của cá nhân. Cá nhân có thể sản xuất, duy trì và sử dụng vốn xã hội thông qua các mối quan hệ trong mạng lưới họ hàng để bảo đảm lợi ích cho bản thân. Có thể nói rằng, vốn xã hội của người Nùng Phàn Slình có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết nhiều vấn đề của cuộc sống hàng ngày, kể cả hoạt động kinh tế và tương trợ. Trong lĩnh vực kinh tế, chúng tôi thấy được những cách thức mà người dân ở đây sử dụng vốn xã hội để đảm bảo lợi ích kinh tế như trong sản xuất nông nghiệp, làm thủy lợi, buôn bán giáp biên... Ở đây, người Nùng Phàn Slình thường dựa vào các mối quan hệ họ hàng bên cha, họ hàng bên mẹ, họ hàng bên vợ, họ hàng bên thông gia để giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất. Hầu hết các hoạt động này chủ yếu được thực hiện dựa trên sự tin tưởng, kể từ quá trình trao đổi công giữa các hộ gia đình trong dòng họ đến vay tiền để đầu tư sản xuất, kinh doanh như mua thóc giống, phân bón, con giống. Do có niềm tin, mọi người trong dòng họ đều sẵn sàng giúp đỡ nhau, phổ biến cho nhau làm kinh tế. Trong tương trợ, nhất là khi thực hiện những lễ nghi hay công việc quan trọng liên quan đến chu kỳ đời người (cưới xin, tang ma, làm nhà), vốn xã hội của quan hệ dòng họ được huy động triệt để. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay, cùng với việc mức sống được cải thiện, mức độ nhận được khi tương trợ càng lớn hơn so với trước đây. Qua những trình bày nêu trên cho thấy, thuyết Chức năng và Vốn xã hội đã có vai trò quan trọng trong việc định hướng nghiên cứu của luận án. Quan hệ dòng họ là vấn đề phức tạp, nhưng bằng việc áp dụng các lý thuyết nêu trên, tác giả luận án đã xây dựng được cách hệ thống và phân tích mối quan hệ này trong đời sống của người Nùng Phàn Slình. Tiểu kết Chương 6 Quan hệ dòng họ là vấn đề không mới trong nghiên cứu dân tộc học/nhân học, kể cả ở trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, tại Việt Nam, các nghiên cứu thường tập trung ở người Kinh (Việt) mà còn ít được triển khai ở các dân tộc thiểu số. Hơn nữa, nghiên cứu quan hệ dòng họ thường chỉ xem xét quan hệ một bên, tức quan hệ của họ bố (theo phụ hệ) hay họ mẹ (theo mẫu hệ). Cách thức ấy vô hình dung đã giản lược mối quan hệ dòng họ. Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, luận án này tập trung nghiên cứu quan hệ dòng họ ở một nhóm địa phương của tộc người thiểu số: người Nùng Phàn Slình tại huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, với ba bên họ (của một cá nhân đã có vợ hoặc chồng), đó là họ bố, họ mẹ và họ vợ/chồng. Trên cơ sở áp dụng các lý thuyết Chức năng và Vốn xã hội, luận án đã tìm hiểu cấu trúc dòng họ và vai trò của quan hệ dòng họ trong đời sống tín ngưỡng, hoạt động kinh tế và hệ thống chính trị cơ sở. Nghiên cứu đã chỉ ra tính đa tầng và phức hợp trong quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình. Qua đó, cũng nêu lên vai trò quan trọng của dòng họ trong bối cảnh chuyển sang nền kinh tế thị trường tại vùng biên và nơi có mối quan hệ dòng họ xuyên biên giới. Nhìn lại việc áp dụng các lý thuyết Chức năng và Vốn xã hội, cho thấy tính khả dụng của các lý thuyết đó trong triển khai luận án này. Tuy nhiên, vẫn có bất cập khi áp dụng lý thuyết chức năng, đó là việc khó khăn khi xem xét cấu trúc dòng họ và quan hệ dòng họ trong quá trình biến đổi, hoặc trong nhiều cảnh huống khác nhau. Điều đó khiến tác giả luận án phải linh hoạt hơn trong quá trình áp dụng lý thuyết. KẾT LUẬN 1. Quan hệ dòng họ là đối tượng được nhiều lĩnh vực khoa học quan tâm nghiên cứu như sử học, dân tộc học/nhân học, xã hội học, văn hóa học Có thể giữa các tộc người có sự khác biệt nhất định về tổ chức dòng họ, nhưng không thể phủ nhận vai trò quan trọng của quan hệ dòng họ trong xã hội truyền thống cũng như hiện nay, đặc biệt là trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Quan hệ dòng họ, dầu là của dân tộc nào cũng đều tác động đến nhiều mặt đời sống của cá nhân, gia đình và xã hội. 2. Trong các nghiên cứu về quan hệ dòng họ trước đây, hầu như các tác giả chỉ quan tâm xem xét quan hệ của họ nội, tức họ bên bố (các dân tộc theo chế độ phụ hệ), hoặc bên mẹ (các dân tộc theo chế độ mẫu hệ). Thực ra, quan hệ dòng họ không chỉ có một bên, và nghiên cứu này đã cố gắng khắc phục hạn chế đó. Mỗi người Nùng Phàn Slình đều có ba mối quan hệ họ hàng là họ bố, họ mẹ và họ vợ; trong đó họ nội - họ bố có vai trò và nghĩa vụ chủ yếu. Tuy họ ngoại không có nhiều trách nhiệm như họ nội, nhưng vẫn có vai trò và chức năng nhất định. Bởi thế, mối quan hệ họ hàng với cả ba bên của người Nùng Phàn Slình đều được coi trọng và được củng cố vững chắc. 3. Dòng họ người Nùng Phàn Slình đều có những đặc điểm khá giống nhau về cư trú, quan hệ giữa các hộ gia đình trong cùng dòng họ, hệ thống lễ nghi thờ cúng, quan hệ hôn nhân, tập quán đặt tên đệm theo thứ bậc thế hệ trong mỗi dòng họ, và vai trò cá nhân trong đời sống dòng họ. Sự phân biệt dòng họ và chi họ của người Nùng Phàn Slình chủ yếu thông qua số lượng chén thờ, cách thức cúng, hệ thống tên đệm Những đặc thù này vừa cụ thể lại vừa phức tạp, đòi hỏi các thành viên dòng họ phải ghi nhớ để phân biệt các dòng họ và chi họ. Những yếu tố đó đã tạo nên những nét đặc trưng của dòng họ người Nùng Phàn Slình. 4. Trong các chức năng quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình, tín ngưỡng dòng họ là một hoạt động văn hóa tinh thần có ý nghĩa quan trọng trong đời sống và chiếm một tỷ lệ lớn trong những thực hành lễ nghi. Đó là các tín ngưỡng trong cưới xin, tang ma, thờ cúng trong gia đình, thờ cúng dòng họ Tín ngưỡng này ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa tộc người. Những sinh hoạt tín ngưỡng vừa đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần, vừa là động lực cố kết các thành viên trong dòng họ. Ở phạm vi rộng hơn, những sinh hoạt tín ngưỡng còn góp phần tạo nên sự cố kết cộng đồng tộc người. Bởi vậy, dù chịu sự tác động của hội nhập, song những sinh hoạt tín ngưỡng vẫn hưng thịnh. Bên cạnh tín ngưỡng, hoạt động tương trợ cũng là chức năng to lớn của quan hệ dòng họ. Đến nay, người Nùng Phàn Slình còn duy trì truyền thống giúp đỡ nhau trong sản xuất nông nghiệp và trong các trường hợp như sinh đẻ, cưới xin, tang ma, sinh nhật cho người già, về nhà mới Trong đời sống ở vùng cao, người dân rất cần sự tương trợ trong làm thủy lợi, cày cấy, thu hoạch, khai thác nông, lâm sản Việc tương trợ này trước hết diễn ra trong dòng họ. 5. Như vậy, hoạt động tín ngưỡng và tương trợ trong quan hệ dòng họ đã tạo nên mạng lưới quan hệ của cá nhân và gia đình; và ngược lại, cá nhân và gia đình càng thấm sâu trong quan hệ dòng họ. Như đã trình bày, mối quan hệ này không chỉ ở bên họ nội mà còn ở họ ngoại và họ vợ/chồng. Mạng lưới quan hệ đó không chỉ ở cộng đồng thôn bản, mà trong nhiều trường hợp còn vượt ra ngoài phạm vi thôn bản, thậm chí xuyên biên giới. Vì vậy, nó đã góp phần củng cố sự cố kết tộc người của người Nùng Phàn Slình. 6. Trong bối cảnh hiện nay, quan hệ dòng họ vẫn có tác động nhất định đến cơ cấu bộ máy và sự vận hành của hệ thống chính trị cấp cơ sở và sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Các dòng họ đã cung cấp cho chính quyền nhiều thành viên có năng lực, đạo đức. Tuy nhiên, quan hệ của dòng họ cũng nảy sinh nhiều vấn đề ảnh hưởng tới tính dân chủ, tinh thần đoàn kết ở cộng đồng và sự vận hành của hệ thống chính trị cấp cơ sở. 7. Dựa trên kết quả nghiên cứu trên đây, chúng tôi xin nêu lên một số khuyến nghị như sau: 7.1. Dòng họ là tổ chức xã hội còn lưu giữ đậm nét nhiều yếu tố văn hóa của tộc người. Bởi vậy, để tìm hiểu, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa đó, cần chú trọng văn hóa của dòng họ, đặc biệt là mối quan hệ dòng họ. 7.2. Trong bối cảnh hiện nay, quan hệ dòng họ có cả tác động tích cực và tiêu cực đến phát triển tại địa phương. Điểm tích cực là quan hệ dòng họ có vai trò trong giáo dục nhân cách và thực hiện tương trợ; còn điểm tiêu cực là mối quan hệ này có thể ảnh hưởng đến việc bảo đảm công bằng và dân chủ. Vì thế, cần nhận diện rõ vai trò của quan hệ dòng họ để phát huy yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực. 7.3 Tại các địa phương gần biên giới, như địa bàn nghiên cứu ở người Nùng Phàn Slình, xu hướng quan hệ dòng họ xuyên biên giới sẽ ngày càng gia tăng. Mối quan hệ này luôn tiềm ẩn những vấn đề gắn với an ninh, quốc phòng ở vùng biên. Bởi vậy, chính quyền các cấp cần có biện pháp để quản lý tốt quan hệ dòng họ xuyên biên giới. 7.4. Với vai trò của quan hệ dòng họ như đã nêu, việc tiếp tục nghiên cứu sâu về quan hệ dòng họ, nhất là của các tộc người ở vùng biên giới là nhiệm vụ cần thiết. Vì thế, việc nghiên cứu về quan hệ dòng họ nói chung và quan hệ dòng họ ở vùng biên giới nói riêng cần được đẩy mạnh hơn nữa./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docquan_he_dong_ho_cua_nguoi_nung_phan_slinh_nghien_cuu_o_huyen_cao_loc_tinh_lang_son_tt_3888.doc
Luận văn liên quan