Tóm tắt Luận án Quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp qua công tác thanh tra

Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn nhà nước chưa tương xứng với mức đầu tư và những lợi thế. Các doanh nghiệp có vốn nhà nước kinh doanh có hiệu quả tập trung ở các doanh nghiệp có lợi thế độc quyền tự nhiên, độc quyền nhà nước, có vốn nhà nước đầu tư nhiều, nhưng hiệu quả chưa tương xứng với những lợi thế đó. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, không bảo toàn được vốn. Một số doanh nghiệp còn có sai phạm nghiêm trọng phải xử lý hình sự. Nhiều doanh nghiệp có hệ số nợ cao, khả năng thanh toán thấp, thiếu an toàn tài chính, khiến doanh nghiệp phát triển thiếu bền vững. Tình trạng đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp dàn trải, đầu tư vào những lĩnh vực có nhiều rủi ro với giá trị lớn, không liên quan đến ngành nghề kinh doanh chính. Tỷ suất lợi nhuận đạt được rất thấp, kém hiệu quả, lỗ, thậm chí lãng phí, thất thoát, vốn không thu hồi được. Quản lý việc mua sắm, đầu tư dự án, quản lý chi phí cố định có nhiều sai phạm. Quản lý và sử dụng tài sản là đất đai có nhiều sai phạm. Quản lý và sử dụng hàng tồn kho, công nợ phải thu không tốt, quản lý doanh thu chi phí không chặt chẽ, sai phạm về hạch toán. Quản lý công nợ phải thu thiếu chặt chẽ, sai quy định, không hiệu quả. Việc thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra

pdf26 trang | Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 10/02/2022 | Lượt xem: 313 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp qua công tác thanh tra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ặt hái tiềm năng tăng trưởng” được thực hiện bởi Quỹ tiền tệ thế giới và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tổ chức vào ngày 18/4/2013 tại Hà Nội. Phần 4 của Hội thảo có tiêu đề “Reform of SOEs in Viet Nam - Cải cách DNNN ở Việt Nam”, người trình bày Thornton Matheson. Nội dung tài liệu đánh giá cao thành tựu của Việt Nam trên con đường đổi mới, tự do hóa kinh tế để trở thành một thị trường mới nổi trong đó có cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước. Bài tham luận đưa ra một số khuyến nghị để cải cách DNNN như: Nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm, định lượng rủi ro tài chính từ việc tái cơ cấu DNNN, tạo sân chơi bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp tư nhân, chấm dứt tài trợ tín dụng cho DNNN, yêu cầu các DNNN có lợi nhuận cao phải trả cổ tức cho nhà nước, tập trung vào ngành công nghiệp mà nhà nước chi phối, cải cách mua sắm đầu tư công, quảng bá tái cơ cấu DNNN có hiệu quả, tăng cường giám sát của chính phủ, nâng cao hiệu lực hiệu quả của công tác kiếm toán, kế toán, cải thiện công cụ phá sản doanh nghiệp. Việc cổ phần hóa các DNNN có thể làm cải thiện thị trường chứng khoán Việt Nam. - Nghiên cứu về quản lý và sử dụng vốn nhà nước trong doanh nghiệp trên thế giới còn có một số nghiên cứu về cấu trúc tài chính và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý vốn trong doanh nghiệp nhà nước. Điển hình là nghiên cứu của Abbasali 5 Pouraghajan và cộng sự “The Relationship between Capital Structure and Firm Performance Evaluation Measures: Evidence from the Tehran Stock Exchange”.Với mục tiêu chính của nghiên cứu này là qua điều tra tác động của cơ cấu vốn đến hiệu quả hoạt động của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Tehran- Iran (mẫu được chọn để điều tra là các công ty thuộc 12 ngành công nghiệp giai đoạn 2006- 2010). Các tác giả đi tìm mối quan hệ giữa các nhân tố như: cấu trúc vốn, quy mô doanh nghiệp, tuổi của doanh nghiệp, giá trị tài sản hữu hình, cơ hội phát triển với hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Các tác giả đưa ra nhận xét là hệ số nợ trong cấu trúc vốn có ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu suất sinh lời trên vốn (ROA), đồng thời với các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ lớn hơn 65% thì các chủ nợ có thể gặp rủi ro cao, nên khuyến nghị của các tác giả là để có hiệu quả cao, các doanh nghiệp nên giảm hệ số nợ. Ngoài ra, các yếu tố khác có thể ảnh hưởng tích cực đến suất sinh lời của tài sản và vốn chủ là tỷ lệ doanh thu tài sản, quy mô doanh nghiệp, và các tài sản hữu hình và cơ hội phát triển. Không có mối liên quan giữa tuổi công ty (lịch sử hoạt động) và các biện pháp thực hiện. Hướng thứ hai, các công trình nghiên cứu về hoạt động thanh tra doanh nghiệp, điển hình là các công trình: - Bài tham luận tác giả Florentin Blanc - “Assessing business inspections, effectiveness and burden Perspectives on a peculiar “regulatory object” from the World Bank Group perspective - Đánh giá hiệu quả và trách nhiệm những cuộc thanh tra doanh nghiệp – đối với những đối tượng quy định đặc thù trên quan điểm của Ngân hàng thế giới” được đăng trên trang web của tổ chức giáo dục ECPR General. Tác giả đánh giá những điểm chung của thanh tra trên thế giới đối với doanh nghiệp như sau. Một là, “mục đích của thanh tra là để tìm ra và trừng phạt người phạm tội”, ngay cả khi Luật quy định mục đích của thanh tra là "Xác minh và thúc đẩy việc tuân thủ các chuẩn mực được áp dụng". Hai là, cán bộ thanh tra thường có quan điểm đối đầu với doanh nghiệp, vì họ cho rằng doanh nghiệp luôn tìm cách gian lận và trốn tránh pháp luật. Ba là, việc quy định quyền cho thanh tra viên được đình chỉ hoặc đóng cửa hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nên ở hầu hết, quyền lực của thanh tra viên là rất lớn, trong khi tiền lương của thanh tra viên lại thấp nên dễ dẫn đến tham nhũng, tiêu cực. Bốn là, quy định mang tính chung chung và quyền hạn rộng lớn, dễ dẫn đến sự thỏa hiệp trong 6 thanh tra, tình trạng “một kích thước phù hợp với tất cả” dẫn đến hiệu quả thanh tra doanh nghiệp thấp và khác nhau giữa các cuộc thanh tra. Cuối cùng, dù còn nhiều hạn chế, nhưng công tác thanh tra trên thế giới đều có tác động tích cực không thể phủ nhận: làm cho hiệu quả sử dụng các nguồn lực được nâng lên. - Các tác giả Marielle Leseur và Florentin Blanc trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu trước đây của các tác giả Sanda Liepina và Jackie Cooldige (cả từ các dịch vụ tư vấn môi trường đầu tư nhóm Ngân hàng Thế giới) cũng như Cesar Cordova (Jacobs và Associates) có cuốn tài liệu “How to Reform Business Inspections- Cải cách thanh tra doanh nghiệp bằng cách nào”. Nhóm các tác giả cũng đưa ra một số giải pháp cải cách thanh tra doanh nghiệp. Đó là: thay đổi tư duy từ phía Chính phủ, tạo sự đồng thuận từ trên xuống dưới (Chính phủ, doanh nghiệp, cơ quan thanh tra và công dân), xây dựng mẫu điển hình về công cuộc cải cách thanh tra, thiết kế công cụ, cải cách thể chế, xây dựng kế hoạch thanh tra ngắn hạn, dài hạn, quy định thời gian thanh tra hợp lý, xây dưng pháp luật khiếu nại, có hình phạt cụ thể với thanh tra viên nếu vi phạm quy tắc đạo đức trong hành nghề thanh tra, công bố và công khai thông tin về danh sách doanh nghiệp thanh tra, xây dựng chuẩn mực quốc tế về thanh tra, thực hiện đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho thanh tra viên Ngoài ra, còn rất nhiều công trình nghiên cứu về thanh tra doanh nghiệp ở các nước trên thế giới của các tác giả Jacqueline Coolidge, Lars Grava và Sanda Putnina “Đổi mới Thanh tra tại Latvia 1999-2003” FIAS (2004); tác giả Florentin Blanc cũng có hàng loạt các báo cáo về đổi mới thanh tra doanh nghiệp ở các nước Colombia, Bogota, Uzbekistan, JordanCác tác giả tập trung nêu kinh nghiệm về cải cách công tác thanh tra doanh nghiệp tại các quốc gia trên thế giới. Tóm lại, trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về các nội dung và khía cạnh khác nhau có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: quản lý và sử dụng vốn tại doanh nghiệp, hoạt động thanh tra doanh nghiệp. Chưa có công trình nào nghiên cứu về tình hình quản lý và sử vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp được phản ánh qua kết quả của hoạt động thanh tra tại Việt Nam trong giai đoạn qua. 1.2. Tổng quan nghiên cứu trong nước Hướng thứ nhất, có nhiều công trình nghiên cứu về cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp hoặc trong DNNN, cụ thể: 7 - Luận án Tiến sỹ “Cơ chế quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước Việt Nam”(2005) của tác giả Trần Thị Mai Hương; Đề tài: “Nâng cao hiệu quả quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hương; Luận án của tiến sĩ “Cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp ở Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Thanh Hòa Đề tài “Chính sách và cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp đến 2020”(2009) do PGS.TS Nguyễn Đăng Nam nghiên cứu. Luận án tiến sỹ: “Hoàn thiện chính sách quản lý vốn của nhà nước trong doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa”(2012) của tác giả Trần Xuân Long; Luận án tiến sỹ:“Quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước”( 2009) của tác giả Nguyễn Thị Thu Hương.. Luận án tiến sỹ kinh tế “Quản lý của Nhà nước đối với vốn nhà nước tại các Tổng công ty xây dựng Nhà nước” (2015) của tác giả Mai Công Quyền; Luận án tiến sỹ kinh tế: “Hoàn thiện cơ chế huy động và sử dụng vốn của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT)”(năm 2008) của Nguyễn Phi Hà; Luận án tiến sỹ kinh tế:“Đổi mới cơ chế quản lý vốn và tài sản đối với các Tổng công ty 91 phát triển theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam”(năm 2006) của tác giả Nguyễn Xuân Nam. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp như: Đề tài “Hệ thống hoá và đánh giá hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về vấn đề sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào kinh doanh” (năm 2006); Đề tài nghiên cứu “Cơ chế chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá” (năm 2010); Đề tài nghiên cứu“Cải cách phương thức quản lý, giám sát phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp” (năm 2009).Các công trình khuyến nghị một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý vốn nhà nước ở nước ta. Các tác giả đưa ra những vấn đề lý thuyết và thực tiễn tại Việt Nam về quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, nghiên cứu các mô hình quản lý vốn được áp dụng trên thế giới và có thể làm tham khảo cho Việt Nam, đánh giá thực trạng quản lý vốn nhà nước tại các DNNN, khuyến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Hướng thứ hai, các công trình nghiên cứu khoa học về vai trò của hoạt động thanh tra quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Điển hình là các công trình: Đề tài “Thanh tra cổ phần hoá doanh nghiệp nhà 8 nước - Thực trạng và những bài học kinh nghiệm” của tác giả Lê Hồng Lĩnh; Đề tài "Hoạt động thanh tra doanh nghiệp nhà nước của Thanh tra Chính phủ - thực trạng và giải pháp" của tác giả Phạm Đăng Dũng; Đề tài “Thanh tra việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước từ thực tiễn hoạt động của Thanh tra Chính phủ thời gian qua” (2016) của tác giả Đậu Thị Hiền. Các tác giả đưa ra một số vấn đề chung về hoạt động thanh tra tài sản, tài chính doanh nghiệp, đánh giá thực trạng về hiệu lực, hiệu quả hoạt động này trong thời gian vừa qua. Qua đó, phần lớn các tác giả đều đánh giá hoạt động này mặc dù góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, nhưng còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục. Với mỗi công trình, trên các khía cạnh nghiên cứu, các tác giả đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra tài chính doanh nghiệp nhà nước. 1.3. Đánh giá kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu 1.3.1. Đánh giá kết quả nghiên cứu đã đạt được Các công trình nghiên cứu cả trong và ngoài nước đã đề cập và phân tích cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng trên những khía cạnh khác nhau về cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các DNNN. So sánh cơ chế quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp của một số quốc gia trên thế giới, từ đó chỉ ra những bất cập của cơ chế, chính sách và mô hình đã áp dụng tại Việt Nam trong thời gian qua. Trong đó, các công trình chỉ ra nguyên nhân của việc quản lý vốn kém hiệu quả là do không giải quyết tốt vấn đề sở hữu nhà nước và quản lý nhà nước và lợi ích giữa nhà nước và doanh nghiệp. Các công trình nghiên cứu cũng đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ở Việt Nam. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu có định hướng cụ thể vào việc hoàn thiện pháp luật về cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp nhà nước trong những lĩnh vực hoạt động cụ thể, chưa thực sự xem xét vấn đề về thực tiễn sử dụng vốn nhà nước từ góc nhìn của doanh nghiệp, đặt trong mối quan hệ với hoạt động thanh tra - một công cụ hữu hiệu trong quản lý kinh tế nói riêng và quản lý nhà nước nói chung, cũng chưa xem xét vấn đề quản lý vốn nhà nước có hiệu quả tại các doanh nghiệp không phải là DNNN. 1.3.2. Những vấn đề còn chưa được giải quyết thấu đáo cần phải tiếp tục nghiên cứu trong Luận án 9 - Việc thay đổi mô hình sở hữu vốn tại các DNNN và số lượng các DNNN ngày càng giảm, thay vào đó một lượng vốn nhà nước còn rất lớn tại các công ty cổ phần, đòi hỏi việc quản lý vốn phải có những giải pháp điều chỉnh phù hợp với xu thế hiện đại. Những công trình nghiên cứu trước đây cũng đã lạc hậu, cần phải có những nghiên cứu mới hơn, cập nhật hơn. - Các quyết định kinh tế được các nhà quản lý nhà nước, nhà quản trị doanh nghiệp được đưa ra thường trên nền thông tin về doanh nghiệp đã được “tô hồng”, “làm đẹp” bởi chế độ thông tin báo cáo thiếu trung thực. Hoạt động thanh tra cung cấp thông tin đa chiều và trung thực hơn, nhất là nhìn thẳng vào những vấn đề yếu kém về tình hình quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Như vậy, nghiên cứu về quản lý và sử dụng vốn của nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty lớn dưới góc nhìn cả ở tầm vĩ mô và vi mô còn hạn chế, đặc biệt là việc sử dụng vốn được đánh giá qua thanh tra chấp hành chính sách pháp luật của doanh nghiệp. Luận án có mục tiêu nghiên cứu để khỏa lấp khoảng trống nghiên cứu này. CHƯƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VNN TẠI DOANH NGHIỆP 2.1. Tổng quan về doanh nghiệp có vốn nhà nước 2.1.1. Công ty cổ phần Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; chủ sở hữu của những cổ phần đó là cổ đông. * Công ty cổ phần có vốn của nhà nước: là công ty cổ phần, trong đó có một hoặc nhiều chủ sở hữu là nhà nước, các chủ sở hữu khác là các thể nhân, pháp nhân ngoài nhà nước. 2.1.2. Công ty trách nhiệm hữu hạn: là loại hình công ty đối vốn, có tư cách pháp nhân, thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp (trách nhiệm hữu hạn). 2.1.3. Doanh nghiệp nhà nước Theo quan điểm chung nhất, doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà 10 nước nắm quyền chi phối về vốn, có quyền quyết định đối với những vấn đề quan trọng của doanh nghiệp như: chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, phân phối và hưởng thụ kết quả. 2.2. Vốn nhà nước tại các doanh nghiệp 2.2.1. Khái niệm vốn kinh doanh Vốn là biểu hiện bằng tiền của tài sản đem vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Căn cứ theo đặc điểm luân chuyển của vốn, vốn kinh doanh được chia thành hai bộ phận: Vốn cố định và vốn lưu động. Trong đó, vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản ngắn hạn. 2.2.2.Vốn nhà nước tại các doanh nghiệp Vốn nhà nước tại các doanh nghiệp là số vốn mà chủ sở hữu là nhà nước, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vốn nhà nước tại doanh nghiệp bao gồm vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tiếp nhận có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, vốn từ quỹ đầu tư phát triển tại doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp, vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn khác được Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp dưới hình thức vốn bằng tiền, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị những tài sản được nhà nước đầu tư; giá trị cổ phần của nhà nước tại các công ty nhà nước đã cổ phần hóa; Lợi tức và các khoản được chia do đầu tư góp vốn vào doanh nghiệp; Các loại vốn khác theo quy định của pháp luật. 2.3. Quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp 2.3.1. Yêu cầu của việc quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp 2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý và sử dụng vốn 2.3.3. Nội dung quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp 2.3.3.1. Quản lý vốn nhà nước dưới góc độ chủ sở hữu nhà nước 2.3.3.2. Quản lý, sử dụng vốn nhà nước dưới góc độ doanh nghiệp 2.3.4. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp - Xét về mặt lợi ích của xã hội: vốn nhà nước được bảo toàn và phát triển; nhà nước điều tiết được nền kinh tế, dẫn dắt, định hướng đúng, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm 11 chế lạm phát, tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người lao động, phát triển các ngành, các vùng theo chiến lược, quy hoạch phát triển đất nước, chấp hành tốt chính sách pháp luật và chủ trương của Đảng và nhà nước. Để đánh giá tính hiệu lực, người ta thường đánh giá tình hình thực tế hoạt động chấp hành các quyết định của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. - Hiệu quả với tư cách nhà nước là chủ sở hữu vốn, nhà đầu tư: được đánh giá bằng yêu cầu phải tối đa hóa lợi nhuận, phát triển và bảo toàn vốn, mở rộng quy mô, thị trường mở rộng, khả năng cạnh tranh được tăng cường. Về đánh giá về hiệu quả kinh tế, người ta thường dùng các chỉ tiêu: doanh thu, lợi nhuận, các chỉ số ROA, ROE, hệ số khả năng thanh toán, hệ số nợ Hai mặt lợi ích trên phải thống nhất với nhau, hoặc không được mâu thuẫn nhau. 2.4. Cơ chế kiểm tra giám sát của nhà nước đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp Có rất nhiều hình thức giám sát: Giám sát từ bên trong và giám sát từ bên ngoài. - Việc giám sát từ bên trong doanh nghiệp bao gồm hệ thống các quy định kiểm soát nội bộ và cơ cấu tổ chức bộ máy vận hành một cách có hệ thống để đạt được mục tiêu quản lý. Hình thức này do doanh nghiệp tự tổ chức thực hiện. - Việc giám sát từ bên ngoài: có hai hình thức là giám sát gián tiếp và giám sát trực tiếp. Hình thức giám sát gián tiếp là theo dõi từ bên ngoài thông qua thông tin báo cáo của doanh nghiệp như báo cáo tài chính, công khai thông tin, báo cáo thống kê, các báo cáo khác...Hình thức giám sát trực tiếp là hình thức kiểm tra, thanh tra trực tiếp tại doanh nghiệp. CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC QUA CÔNG TÁC THANH TRA GIAI ĐOẠN 2010-2016 3.1. Khái quát về các doanh nghiệp có vốn nhà nước ở nước ta Theo Báo cáo số 428/BC-CP ngày 17/10/2016 của Chính phủ, tổng tài sản của 652 doanh nghiệp (bao gồm 07 tập đoàn kinh tế, 76 tổng công ty nhà nước, 20 công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con và 549 công ty độc lập có 100% vốn 12 của Nhà nước 230 doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp của Nhà nước, không bao gồm các doanh nghiệp do Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước quản lý) tại ngày 31/12/2015 là 3.382.767 tỷ đồng, vốn nhà nước là 1.478.858 tỷ đồng. Danh mục quản lý của Tổng công ty kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) tại ngày 31/12/2015 có 197 doanh nghiệp cổ phần với vốn nhà nước theo giá trị sổ sách là 19.740 tỷ đồng, trên tổng số vốn điều lệ là 86.115 tỷ đồng. Như vậy, đến 31/12/2015, tổng số vốn do nhà nước sở hữu tại các doanh nghiệp là 1.499 nghìn tỷ đồng (trong đó tại DNNN là 1.376 nghìn tỷ đồng, tại Công ty cổ phần có vốn nhà nước thuộc Tổng công ty kinh doanh vốn nhà nước là 20 nghìn tỷ đồng và ở các công ty cổ phần còn lại là 103 nghìn tỷ đồng). Với xu hướng giảm dần số các DNNN, nhưng các doanh nghiệp có vốn nhà nước nắm giữ lượng vốn kinh doanh không nhỏ trong nền kinh tế . 3.2. Thực trạng quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp qua thanh tra Trong những năm vừa qua, hoạt động thanh tra về việc quản lý và sử dụng VNN tại các doanh nghiệp do Thanh tra Chính phủ tiến hành đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Nhờ hoạt động này, nhiều sơ hở của cơ chế chính sách được phát hiện, nhiều sai phạm trong việc chấp hành chính sách pháp luật được ngăn ngừa, xử lý. Kết quả thanh tra cho thấy bức tranh đa chiều hơn, trung thực hơn, nhất là các hạn chế yếu kém trong quản lý và sử dụng VNN, kể cả dưới góc độ chủ sở hữu nhà nước và góc độ vi mô của doanh nghiệp cho những nhà quản lý và những đối tượng quan tâm ra các quyết định kinh tế và quyết định quản lý. Nhờ kết quả thanh tra, cả nhà nước và doanh nghiệp đánh giá tình hình thực tế hơn để đưa ra các giải pháp hữu hiệu hơn nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng VNN tại doanh nghiệp. 3.2.1. Địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Chính phủ Cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ do Chính phủ quy định theo tại Nghị định số 83/2012/NĐ-CP của Chính phủ. Theo đó, Thanh tra Chính phủ là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; thực hiện hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Tổ chức, bộ máy của Thanh tra Chính phủ gồm có 23 cục, vụ, đơn vị. Việc thanh tra đối với doanh nghiệp của Thanh tra Chính phủ được thực hiện 13 trong các trường hợp: Thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; Thanh tra vụ việc khác do Thủ tướng Chính phủ giao; Thanh tra lại vụ việc đã được Bộ trưởng kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Thủ tướng Chính phủ giao; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. 3.2.2. Kết quả thanh tra quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp Giai đoạn 2010 - 2016, toàn ngành thanh tra tiến hành 1.313.702 cuộc thanh tra. Trong đó có 61.495 cuộc thanh tra hành chính và 1.252.207 cuộc thanh kiểm tra chuyên ngành. Thanh tra đã phát hiện thiếu sót, sai phạm và kiến nghị thu hồi về ngân sách nhà nước 177.344 tỷ đồng, 48.388 ha đất; xử phạt vi phạm hành chính 45.244 tỷ đồng; xuất toán, loại khỏi giá trị quyết toán và đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét xử lý 155.337 tỷ đồng và 14.262 ha đất; kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính đối với 10.331 tập thể, 27.575 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý 429 vụ việc, 565 người. Trong giai đoạn 2010 – 2016, trong quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Thanh tra Chính phủ đã phát hiện sai phạm trên 41.173 tỷ đồng, kiến nghị thu hồi về ngân sách nhà nước 3.402 tỷ đồng, kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý và kiến nghị khác trên 37.772 tỷ đồng; chuyển cơ quan điều tra tiếp tục xem xét, xử lý 25 vụ, 49 đối tượng. 3.2.3. Thực trạng về hệ thống pháp lý về quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp giai đoạn 2010 - 2016 của Việt Nam Pháp luật về tổ chức DNNN, về quản lý và sử dụng vốn nhà nước, về mô hình quản lý vốn nhà nước ngày càng được hoàn thiện. Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế thế giới, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn về thành lập mới, tổ chức lại và giải thể công ty nhà nước, khung pháp lý đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước, các quyết định thành lập và phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động của từng tập đoàn kinh tế nhà nước. Chính phủ cũng ban hành Nghị định về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp.Việc hình thành Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) để thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa thuộc các Bộ, địa phương là bước tiến quan trọng để đổi mới phương thức 14 quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, hướng tới xóa bỏ sự can thiệp bằng hành chính mệnh lệnh, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa DNNN, tăng hiệu quả sử dụng VNN. Để quản lý chặt chẽ tài chính của doanh nghiệp, có hàng loạt các văn bản quy định về cơ chế tài chính của Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu: Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác; các quy định về quản lý tài chính đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu; quy định về đầu tư ngoài ngành, nhất là những ngành rủi ro lớn như bất động sản, tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán của các doanh nghiệp của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước cũng đã được ban hành và ngày càng đầy đủ và hoàn thiện. 3.2.3. Thực trạng thực hiện quyền và trách nhiệm chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn nhà nước tại Việt Nam Ở Việt Nam hiện nay, việc quản lý vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp được giao cho Chính phủ, với mô hình hỗn hợp: Chính phủ trực tiếp thực hiện quyền và trách nhiệm chủ sở hữu hoặc phân cấp cho Thủ tướng, cho các bộ ngành và chính quyền địa phương, các tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty, công ty mẹ- công ty con và thông qua SCIC. Việc thực hiện chủ sở hữu đối với vốn nhà nước tại doanh nghiệp là công ty cổ phần, công ty TNHH hai thành viên trở lên trong đó vốn nhà nước chiếm dưới 100% được thực hiện thông qua việc cử người đại diện. Việc thực hiện cơ chế quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp hiện nay, tuy đã có nhiều đổi mới, trách nhiệm kiểm tra, giám sát của các cơ quan chủ sở hữu nhà nước được tăng cường, quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu được xác định ngày càng rõ, việc phân tách chức năng chủ sở hữu và chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan chính quyền, các bộ ngành ngày càng rõ rệt. Tuy nhiên, trong hoạt động này còn bộc lộ nhiều yếu kém cần khắc phục, được phát hiện qua thanh tra như: - Trong các quyền chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, một số quyền quan trọng như quyết định thành lập mới công ty TNHH một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu, quyết định chiến lược, mục tiêu kế hoạch kinh doanh chưa được thực hiện nhiều trong thực tế. Các mục tiêu chính trị- xã hội- công ích chưa được quan tâm, chưa xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu và chưa xác định rõ (đặc biệt là các 15 doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng không được phê duyệt kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ an ninh quốc phòng và mục tiêu phát triển kinh tế; thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích qua các năm chưa được xác nhận quyết toán, chưa được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt việc hoàn thành nhiệm vụ thực hiện trách nhiệm cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích Các quyền được thực hiện nhiều là trong thực tế là ban hành cơ chế, chính sách, quy định quyết định về cơ cấu, tổ chức, cấu trúc vốn, quản trị doanh nghiệp, cử người đại diện ra quyết định quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở đa số các doanh nghiệp có VNN được thanh tra, đều có sai phạm trong việc thực hiện các quyền này. - Về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp: các doanh nghiệp quyết định tăng vốn điều lệ không đúng thẩm quyền, không đúng trình tự thủ tục, sai mục đích, không đúng đối tượng. Ở một số doanh nghiệp thì vốn điều lệ không được góp đúng theo tiến độ, nên các doanh nghiệp không đủ vốn hoạt động, phải huy động vốn vay, làm tăng rủi ro tài chính. Thu tiền bán vốn nhà nước, nhiều doanh nghiệp còn chiếm dụng dưới hình thức để lại bổ sung quỹ điều lệ khi chưa có ý kiến đồng ý của Thủ tướng Chính phủ hoặc dùng để mua sắm tài sản, tạm ứng cho các dự án sai mục đích hoặc chậm nộp về SCIC. - Việc bàn giao quyền quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cho SCIC còn chưa được thực hiện đồng bộ giữa các bộ ngành địa phương. Thành phố Hà Nội giai đoạn 2009-2015 mới chỉ bàn giao 01 công ty theo kết luận của Thanh tra Chính phủ. Thành phố Hồ Chí Minh không chuyển giao các doanh nghiệp về SCIC mà xin thành lập thí điểm Công ty Đầu tư tài chính nhà nước để thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với phần vốn nhà nước đầu tư tại doanh. Các bộ ngành địa phương khác thì cố tình trì hoãn bàn giao các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hoặc chưa xác định rõ đối tượng doanh nghiệp cần chuyển giao về SCIC, dẫn tới việc chậm bàn giao các doanh nghiệp. - Về việc thực hiện quyền và trách nhiệm của Người đại diện vốn nhà nước tại các doanh nghiệp: Qua thanh tra cũng cho thấy, nhiều người đại diện vốn tại doanh nghiệp chưa thực hiện nghiêm túc quy chế người đại diện, không hoàn thành nhiệm vụ, quản trị điều hành doanh nghiệp không hiệu quả hoặc lạm quyền làm mất quyền chi phối của nhà nước tại công ty cổ phần. SCIC thực hiện việc ủy quyền Người đại diện trong một số trường hợp không có văn bản ủy quyền, không xử lý các trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ, để tình trạng doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, mất cân đối tài chính, 16 công nợ khó đòi lớn, vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính. Hoạt động giám sát đối với doanh nghiệp do SCIC làm đại diện cũng còn chưa được thực hiện nghiêm túc. 3.2.4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn nhà nước qua thanh tra Theo báo cáo của Chính phủ (được tổng hợp từ các báo cáo của các doanh nghiệp), lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp có vốn nhà nước cao hơn mức tỷ suất lợi nhuận bình quân của toàn bộ doanh nghiệp trong cả nước. Khác với thông tin được báo cáo, qua thanh tra cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp được thanh tra phản án không đúng kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh có lãi (do lợi thế tự nhiên hoặc độc quyền nhà nước), còn nhiều doanh nghiệp không bảo toàn được vốn, tình hình tài chính tiềm ẩn nhiều rủi ro. Qua thanh tra cho thấy, ở các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, có xu hướng treo các khoản chi phí để giảm lỗ. Thủ thuận che lỗ bằng cách không thực hiện trích lập dự phòng công nợ phải thu khó đòi, treo các khoản chi phí lãi vay, phải trả, phân bổ không đúng các khoản chi phí trả trướcNgược lại, ở các doanh nghiệp có lãi cao thì có xu hướng giấu lãi. Thủ thuật thường được áp dụng đã bị phát hiện qua thanh tra là hạch toán thiếu doanh thu, trích trước các chi phí không đúng quy định, trích khấu hao nhanh vượt mức cho phép 3.3. Tình hình sử dụng vốn nhà nước và tuân thủ chế độ quản lý tài chính và chế độ kế toán tại doanh nghiệp - Tình hình tuân thủ chế độ quản lý doanh thu, chi phí: Ở hầu hết các doanh nghiệp được Thanh tra Chính phủ thanh tra về việc chấp hành chính sách pháp luật về quản lý và sử dụng vốn nhà nước đều xảy ra tình trạng quản lý doanh thu và chi phí không đúng các quy định về tài chính, kế toán và pháp luật thuế, thậm chí gây thất thoát, lãng phí vốn nhà nước. - Việc quản lý sử dụng nguồn vốn, quỹ: Qua thanh tra cho thấy, nhiều doanh nghiệp trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế sai quy định, chiếm dụng vốn của các quỹ chuyên dùng, không trích hoặc chiếm dụng, sử dụng sai nguồn vốn quỹ hoặc chậm nộp tiền về Quỹ hỗ trợ và sắp xếp doanh nghiệp hoặc chiếm dụng hoặc chi sai mục đích tiền thu từ việc thoái vốn nhà nước, chậm nộp lợi nhuận đầu tư ở nước ngoài về Việt nam. Việc sử dụng các quỹ sai mục đích hoặc sử dụng khi không có nguồn cũng diễn ra ở rất 17 nhiều doanh nghiệp lớn được thanh tra. - Việc huy động, quản lý và sử dụng nguồn vốn vay: Các doanh nghiệp có vốn nhà nước huy động nguồn vốn qua các kênh chủ yếu như vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, phát hành trái phiếu, vay vốn trái phiếu chính phủ, vay nợ nước ngoài. Các doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp của nhà nước hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn vay, có hệ số nợ cao và đặc biệt là dùng vốn vay để đầu tư vào lĩnh vực rủi ro, mất khả năng cân đối, do sử dụng vốn không hiệu quả nên nhiều khoản vay không có khả năng thanh toán đúng hạn. - Về việc đầu tư ra ngoài ra ngoài ngành kinh doanh chính: Qua thanh tra, phát hiện nhiều sai phạm trong việc đầu tư ra ngoài của các doanh nghiệp như: đầu tư ra ngoài với số lượng lớn, vượt vốn điều lệ. Tình trạng sở hữu chéo diễn ra tràn lan. Lĩnh vực mà các doanh nghiệp đầu tư không gắn với ngành nghề kinh doanh chính, có nhiều rủi ro lớn như ngân hàng, cho vay, bất động sản, chứng khoán được các doanh nghiệp ưu tiên đầu tư. Trong khi việc quản lý các dự án hoặc công nợ cho vay lỏng lẻo, là nguyên nhân quan trọng dẫn tới việc thất thoát vốn nhà nước, hiệu quả sử dụng vốn không cao. - Về quản lý công nợ phải thu: Hoạt động của Công ty mẹ cấp tín dụng cho công ty con và các công ty thành viên là hoạt động cấp tín dụng trái pháp luật; Một số ngân hàng có thỏa thuận trái pháp luật với khách hàng, vi phạm về pháp luật quản lý rủi ro công nợ phải thu, phân loại, ký kết hợp đồng kinh tế thiếu chặt chẽ để cấp tín dụng cho khách hàng, duy trì tỷ lệ nợ cao, lỏng lẻo, dẫn tới công nợ phải thu khó đòi ở hầu hết các doanh nghiệp được thanh tra. - Quản lý, sử dụng tài sản là đất đai: Trong quản lý, sử dụng tài sản là đất đai tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước cũng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Tình trạng sử dụng đất đai sai mục đích, quản lý lỏng lẻo, không theo dõi chặt chẽ dẫn tới việc đất đai bị chiếm dụng, sử dụng kém hiệu quả xảy ra ở nhiều doanh nghiệp. Việc đem tài sản đi góp vốn thiếu cơ sở pháp lý định giá đất khi cổ phần hóa có nhiều tiêu cực, làm lãng phí hoặc thất thoát vốn nhà nước. - Về quản lý dự án đầu tư xây dựng, mua sắm, sử dụng tài sản cố định, hàng tồn kho: Quyết định đầu tư sai thẩm quyền, đầu tư dàn trải, dự án bị kéo dài, mua sắm tài sản vượt định mức, đấu thầu, đấu giá không đúng quy định, dẫn tới lãng phí và thất thoát lượng vốn lớn của nhà nước. Mua hàng dự trữ tồn kho bất hợp lý, không trích lập dự 18 phòng giảm giá hàng tồn kho - Về việc cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước: chậm cổ phần hóa, định giá tài sản nhà nước thấp, người đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước lợi dụng quyền hạn tư lợi, không thực hiện đúng chức trách nhiệm vụ 3.4. Đánh giá về quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp qua công tác thanh tra 3.4.1. Những kết quả đạt được - Về mô hình và cơ chế chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp: Chuyển đổi hình thức hoạt động của các doanh nghiệp sang mô hình tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ-con, nhằm đa dạng hóa mô hình quản lý vốn nhà nước, chuyển từ mô hình quản lý bằng mệnh lệnh hành chính sang mô hình doanh nghiệp. Việc thành lập Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước để thực hiện chức năng chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp là bước tiến quan trọng để đổi mới phương thức quản lý vốn, chuyên môn hóa và xóa bỏ sự can thiệp mang tính hành chính vào việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Và đặc biệt là tách biệt giữa chức năng quản lý nhà nước của các cấp hành chính với chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp, hướng dần đến chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp. Khuôn khổ pháp lý về thoái vốn nhà nước và chuyển đổi hình thức doanh, về phân loại DNNN được ban hành và điều chỉnh nhiều, các quy định về giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với DNNN trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu; quy định về giám sát tài chính đối với doanh nghiệp có vốn nhà nước...ngày càng được hoàn thiện. - Về hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sau sắp xếp đổi mới Theo báo cáo của Bộ Tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh năm 2015 của các doanh nghiệp cổ phần đều tăng so với năm trước khi cổ phần hóa 3.4.2. Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế 3.4.2.1. Hạn chế - Về hành lang pháp lý hoạt động của các ngân hàng: Các quy định của pháp luật về quy chế cho vay, phân loại nợ đối với các tổ chức tín dụng còn nhiều sơ hở, bất cập, chưa cụ thể. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay hình thành ở mức cao trong thời gian dài, trong khi hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp còn hạn chế. Việc áp đặt 19 lãi suất trần cho vay chưa phù hợp với các quy luật kinh tế thị trường, khiến nhiều ngân hàng vượt trần bằng các thủ thuật chi lãi ngoài, làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp. Các quy định về quản lý vốn tại các doanh nghiệp là các tập đoàn và tổng công ty nhà nước còn lúng túng, chậm đổi mới, nhất là các quy chế quản trị các doanh nghiệp có quan hệ mẹ- con, các quy định về quản lý và sử dụng vốn, quản trị doanh nghiệp. Việc xác định quyền, nghĩa vụ chủ sở hữu và quản lý nhà nước giữa các cấp còn chưa rõ ràng, khiến các sai phạm diễn ra khó xác định trách nhiệm. Các quy định về kiểm tra giám sát và công khai thông tin chậm được thực hiện, dẫn tới tình trạng trong thời gian dài, chúng ta không có các chỉ tiêu đánh giá phù hợp đối với các doanh nghiệp và tổ chức cá nhân liên quan. Thông tin đến với công luận và các nhà chức trách để ra quyết định thiếu chính xác, bị bưng bít, làm sai lệch, không kịp thời. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn nhà nước chưa tương xứng với mức đầu tư và những lợi thế. Các doanh nghiệp có vốn nhà nước kinh doanh có hiệu quả tập trung ở các doanh nghiệp có lợi thế độc quyền tự nhiên, độc quyền nhà nước, có vốn nhà nước đầu tư nhiều, nhưng hiệu quả chưa tương xứng với những lợi thế đó. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, không bảo toàn được vốn. Một số doanh nghiệp còn có sai phạm nghiêm trọng phải xử lý hình sự. Nhiều doanh nghiệp có hệ số nợ cao, khả năng thanh toán thấp, thiếu an toàn tài chính, khiến doanh nghiệp phát triển thiếu bền vững. Tình trạng đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp dàn trải, đầu tư vào những lĩnh vực có nhiều rủi ro với giá trị lớn, không liên quan đến ngành nghề kinh doanh chính. Tỷ suất lợi nhuận đạt được rất thấp, kém hiệu quả, lỗ, thậm chí lãng phí, thất thoát, vốn không thu hồi được. Quản lý việc mua sắm, đầu tư dự án, quản lý chi phí cố định có nhiều sai phạm. Quản lý và sử dụng tài sản là đất đai có nhiều sai phạm. Quản lý và sử dụng hàng tồn kho, công nợ phải thu không tốt, quản lý doanh thu chi phí không chặt chẽ, sai phạm về hạch toán. Quản lý công nợ phải thu thiếu chặt chẽ, sai quy định, không hiệu quả. Việc thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. 3.4.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế * Nguyên nhân khách quan Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, những diễn biến phức tạp của thị trường xăng dầu, bất động sản, thị trường chứng khoán sụt giảm, ngân hàng, 20 lương thực, nguyên vật liệu có tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, lạm phát làm cho các nhà đầu tư bị hạn chế về năng lực tài chính. Một bộ phận không nhỏ các DNCVNN ngoài việc thực hiện mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận, phải thực hiện mục tiêu an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, hoạt động trong lĩnh vực sinh lời thấp. * Nguyên nhân chủ quan - Một số chủ trương, định hướng về mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp có vốn nhà nước còn chưa rõ ràng. - Mô hình quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp còn chưa phù hợp: Việc xác định đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước còn nhiều lúng túng, nhất là đối với doanh nghiệp nhà nước là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Chưa thực sự tách bạch chức năng kinh doanh và chức năng quản lý nhà nước. Hiện nay còn tồn tại quá nhiều cơ quan chủ sở hữu, trong đó còn nhiều bộ, ủy ban nhân dân tỉnh vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước vừa làm đại diện chủ sở hữu. Với mô hình SCIC, trình độ và năng lực của người đại diện chưa đáp ứng được yêu cầu thực. Điều đặc biệt lưu ý là, chưa có ranh giới rõ ràng phân định và phân loại các doanh nghiệp để xác định quyền và trách nhiệm sở hữu vốn giữa các cơ quan được phân công (Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, Công ty mẹ của các TĐ, TCT có vốn nhà nước, SCIC). - Hệ thống pháp lý quy định về quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp còn nhiều sơ hở. - Công tác tham mưu, chỉ đạo, đề xuất của các Bộ, ngành liên quan giúp Chính phủ ban hành các văn bản pháp quy để thực hiện chức năng quản lý nhà nước còn thiếu, bất cập, chưa sát và chưa phù hợp với thực tế; sự phối hợp giữa các đơn vị liên quan và cơ quan thanh tra chưa có hiệu quả. - Công tác kiểm tra, kiểm soát, giám sát nội bộ và của các cơ quan ban ngành để phát hiện kịp thời trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước còn hạn chế. - Trình độ năng lực và đạo đức công vụ của không ít lãnh đạo cơ quan quản lý nhà nước và cán bộ lãnh đạo quản lý doanh nghiệp còn hạn chế. CHƯƠNG 4 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG 21 VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP 4.1. Bối cảnh và dự báo tình hình tác động đến quản lý và sử dụng vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp Xu thế hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, cạnh tranh ngày càng khốc liệt có ảnh hưởng lớn đến quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Đặc trưng nổi bật cho xu hướng phát triển kinh tế thế giới hiện nay là hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau. Trong thời gian tới, với xu hướng cạnh tranh ngày càng khốc liệt để dành thị trường giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Nhiệm vụ quan trọng đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước là phải đổi mới về tổ chức, quản trị sao cho phù hợp với tình hình mới của thị trường và nền kinh tế. 4.2. Quan điểm, mục tiêu về quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp 4.2.1. Quan điểm về quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp Việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong thời gian tới để khắc phục những tồn tại, hạn chế, yếu kém đã được bộc lộ trong thời gian qua là yêu cầu cấp thiết; Quản lý và sử dụng vốn nhà nước phải gắn với cơ chế thị trường và quản trị doanh nghiệp hiện đại và hội nhập kinh tế thế giới, có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước và chịu sự chi phối, giám sát toàn diện của chủ sở hữu là Nhà nước; Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của quản lý và sử dụng vốn nhà nước không chỉ xét về kinh tế, mà còn xét về chính trị, xã hội, vừa mang tính khoa học, vừa phải phù hợp với điều kiện thực tiễn. 4.2.2. Mục tiêu - Quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả, nâng cao hiệu quả hoạt động, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tăng sức cạnh tranh, tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đối với doanh nghiệp kinh doanh, là nguồn lực tài chính cho nhà nước thực hiện các mục tiêu về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội và thực hiện công bằng xã hội; Phân bổ nguồn vốn nhà nước hợp lý, có trọng tâm trọng điểm, sử dụng vốn nhà nước tập trung vào những ngành, lĩnh vực tư nhân không làm được, không được làm và không muốn làm, góp phần tái cơ cấu nền kinh tế hợp lý. 4.2.3. Phương hướng, nhiệm vụ 22 Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp; Phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước thực hiện quản lý vốn; Tăng cường hiệu quả, hiệu lực của công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra quản lý và sử dụng vốn nhà nước 4.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn nhà nước 4.3.1. Nhóm giải pháp về mô hình chủ sở hữu vốn nhà nước - Thành lập cơ quan giám sát tài chính là một cơ quan chức năng có đủ quyền lực, độc lập. Đảm bảo các DNNN và chủ thể tham gia các quan hệ thị trường tuân thủ “luật chơi” đã đề ra. - Cần đánh giá và rút kinh nghiệm từ mô hình SCIC: Qua thanh tra cho thấy hiện tượng “quá tải” đã và đang xảy ra với tổng công ty trong bố trí người đại diện chủ sở hữu. Khi thành lập cơ quan chuyên trách quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, cần tăng cường hiệu lực của cơ quan này để hạn chế tình trạng đó. Cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp đã cổ phần hóa thông qua người đại diện phần vốn nhà nước đôn đốc các doanh nghiệp đã cổ phần hóa thực hiện nghiêm các quy định và phải có tinh thần trách nhiệm cao. - Tổng kết việc thí điểm thành lập, tổ chức hoạt động và quản lý của tập đoàn kinh tế nhà nước: Trước mắt, Chính phủ nên tạm ngừng việc thành lập mới các tập đoàn kinh tế nhà nước và tiếp tục chấn chỉnh tổ chức, hoạt động của các tập đoàn đã được thành lập. - Hoàn thiện mô hình và thể chế về quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp 4.3.2. Nhóm giải pháp đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước - Hoàn thiện thể chế về đầu tư vốn vào doanh nghiệp - Hoàn thiện thể chế về quản trị doanh nghiệp có vốn nhà nước - Sắp xếp, cơ cấu lại và đổi mới phương thức hoạt động của doanh nghiệp có vốn nhà nước. - Nâng cao hiệu quả quản trị tài chính doanh nghiệp + Đối với tài sản cố định: Doanh nghiệp cần có kế hoạch, chiến lược dài hạn trong đầu tư tài sản cố định, đưa ra quy chế quản lý, sử dụng tài sản cố định và thực hiện nghiêm túc các quy định của nhà nước. + Đối với hàng tồn kho: Doanh nghiệp cần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng tồn kho. + Quản trị công nợ phải thu khó đòi là một trong những vấn đề khó với các doanh nghiệp. 23 + Đối với phát hành chứng khoán để huy động vốn cho các dự án đầu tư: Các doanh nghiệp chú ý tính khả thi và hiệu quả của dự án. - Phát triển thị trường vốn, tạo nguồn vốn cho doanh nghiệp +Phát triển thị trường tài chính; Tổng kết việc xử lý nợ của doanh nghiệp nhà nước, khắc phục nợ dây dưa, chiếm dụng vốn; Đánh giá và có biện pháp phát huy công cụ mua, bán nợ của doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp cổ phần hóa phải niêm yết công khai trên thị trường chứng khoán theo quy định của Luật chứng khoán. - Minh bạch hóa thông tin về doanh nghiệp +Ban hành quy định công khai kết quả, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và trách nhiệm giải trình của lãnh đạo doanh nghiệp, của các cơ quan quản lý nhà nước. +Ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, chế độ công bố minh bạch báo cáo tài chính. 4.3.3. Nhóm giải pháp về thanh tra, kiểm tra, giám sát - Cần tăng cường tính độc lập của các cơ quan thanh tra: Về địa vị pháp lý của Thanh tra, cần nghiên cứu sáp nhập với cơ quan Kiểm toán nhà nước theo hướng không trực thuộc Chính phủ như hiện nay, mà trực thuộc Quốc hội theo mô hình của một số nước tiên tiến trên thế giới. Thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán trước khi thực hiện các dự án lớn, các phương án sản xuất kinh doanh có sử dụng nguồn vốn lớn của nhà nước, để tránh tình trạng xảy ra hậu quả rồi mới thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Có như vậy mới thực hiện được yêu cầu “phòng ngừa sai phạm” mới được thực hiện tốt. Tập trung thanh tra, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm vào các doanh nghiệp có nhiều bức xúc được các phương tiện thông tin truyền thông đưa tin hoặc đang có đơn thư khiếu nại tố cáo về các sai phạm trong việc thực hiện quản lý và sử dụng tài chính gửi các cơ quan có thẩm quyền. Tập trung thanh tra vào các DNNN đặc trưng cho một nhóm doanh nghiệp có mô hình hoạt động tổ chức tương đồng, có thể quan tâm thêm đến giá trị vốn nhà nước doanh nghiệp đó đang nắm giữ, vị trí, vai trò của doanh nghiệp đó về lĩnh vực đó trên địa bàn hoặc số lao động mà doanh nghiệp đó đang có. Tổ chức thực hiện việc thanh tra tài chính doanh nghiệp đúng các quy định pháp luật về thanh tra, kiểm tra, quy chế làm việc của cơ quan; khắc phục tình trạng chậm ban hành kết luận thanh tra, biên bản kiểm tra đối với doanh nghiệp. - Xây dựng đội ngũ công chức làm công tác thanh tra, kiểm tra tài chính trong 24 sạch, vững mạnh, có tâm, có tầm, có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ trong giai đoạn mới, nhất là bản lĩnh chính trị phải vững vàng, trình độ nghiệp vụ và kỹ năng chuyên môn chuyên sâu PHẦN KẾT LUẬN Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của DNNN và vốn nhà nước trong phát triển nền kinh tế quốc gia và là lực lượng vật chất, công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, với tư cách là chủ sở hữu, nhà nước sử dụng nguồn lực của mình tại các doanh nghiệp chưa tốt nên tình trạng thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả trong sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp đã xảy ra, được Luận án phân tích, đánh giá, nhất là qua các cuộc thanh tra của Thanh tra Chính phủ trong giai đoạn vừa qua. Mặc dù hệ thống các văn bản về quản lý và sử dụng vốn của Nhà nước đã tạo hành lang pháp lý ngày càng đầy đủ, rõ ràng, chặt chẽ hơn, bao gồm cả Luật doanh nghiệp được sửa đổi, thay đổi căn bản khái niệm về DNNN, và các văn bản hướng dẫn chi tiết cổ phần hóa, thoái vốn, đầu tư, giám sát, công khai, quản lý các quỹ, chi phí, doanh thu, tài sản, nguồn vốn. Luận án phân tích những nguyên nhân chủ quan và khách quan của những tồn tại, hạn chế nêu trên, là cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp như: cần cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động theo cơ chế thị trường, bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; hoàn thiện thể chế định giá đất đai, đặc biệt là xác định mô hình quản lý vốn phù hợp, nâng cao hiệu quả hiệu lực hoạt động thanh tra, kiểm tra. Do hạn chế về mặt thời gian, còn một số vấn đề nổi cộm trong quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp là tài sản bất động sản, rất tiếc là luận án chưa có điều kiện nghiên cứu sâu hơn. Đây là vấn đề lớn, cần có những công trình nghiên cứu chuyên sâu hơn để có thể đưa ra những giải pháp quản lý tài sản công là đất đai có hiệu quả hơn tại các doanh nghiệp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_quan_ly_va_su_dung_von_nha_nuoc_tai_cac_doan.pdf
  • pdfTomtat_Eng_TangThiThiem.pdf
Luận văn liên quan