Văn hóa Đồng Đậu được sản sinh ra trong sự bùng nổ kỹ thuật luyện kim do cuộc cách mạng luyện khí mang lại - là một trong những nền văn hóa có sự đóng góp mang ý nghĩa tạo nền cho sự ra đời của nền văn minh rực rỡ ở buổi đầu dựng nước và giữ nước của dân tộc” [171, tr.73]. Kết quả nghiên cứu dưới các khía cạnh khác nhau như môi trường sinh thái, đặc điểm cư trú và các hoạt động sinh kế, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân, nghệ thuật trang trí hoa văn, nguồn gốc văn hóa. cho phép chúng ta khẳng định một cách chắc chắn rằng Đồng Đậu là một “văn hóa sông nước”. Sông nước đã thực sự trở thành một hằng số/ đặc tính nổi trội của văn hóa, văn minh Việt cổ.
27 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1725 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu [Tóm tắt] Luận án Văn hóa đồng đậu và vị trí của nó trong thời đại đồng thau ở lưu vực sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂ VĂN
BÙI HỮU TIẾN
VĂN HÓA ĐỒNG ĐẬU VÀ VỊ TRÍ CỦA NÓ TRONG THỜI ĐẠI ĐỒNG THAU Ở LƯU VỰC SÔNG HỒNG
Chuyên ngành: Khảo cổ học
Mã số: 62.22.60.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội - 2015
Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Người hướng dẫn khoa học:
- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lâm Mỹ Dung
- Tiến sĩ Ngô Thế Phong
Giới thiệu: ..............................................................
Giới thiệu: ..............................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp cơ sở chấm luận án tiến sĩ họp tại: ...............................................................................
.......................................................................................................
Vào hồi: giờ ngày tháng năm 2015.
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa Đồng Đậu là một mắt xích trong phổ hệ văn hóa Tiền Đông Sơn và Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng. Nghiên cứu về phổ hệ văn hóa này đã có các công trình mang tính tổng hợp như “Văn hoá Phùng Nguyên” của Hán Văn Khẩn, “Văn hoá Gò Mun” của Hà Văn Phùng, “Văn hoá Đông Sơn tính thống nhất và đa dạng” của Phạm Minh Huyền, “Văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam” do Hà Văn Tấn làm chủ biên Để nâng cao nhận thức và góp phần nghiên cứu về thời kỳ văn minh sông Hồng nói riêng và lịch sử dân tộc thời dựng nước nói chung cần có một công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, tổng hợp và toàn diện về văn hoá Đồng Đậu. Luận án “Văn hoá Đồng Đậu và vị trí của nó trong thời đại đồng thau ở lưu vực sông Hồng” bước đầu hướng tới mục đích đó.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Hệ thống hoá toàn bộ tư liệu và kết quả nghiên cứu từ trước đến nay về văn hoá Đồng Đậu nhằm cung cấp những tư liệu tổng hợp, cập nhật, đảo bảo tính chính xác, khoa học, khách quan.
2.2. Phân tích, diễn giải hệ thống tư liệu nhằm nhận diện các nét đặc trưng cơ bản; sự phát triển kinh tế, xã hội cũng như đời sống vật chất và tinh thần của cư dân văn hoá Đồng Đậu.
2.3. Làm rõ quá trình phát triển của văn hóa Đồng Đậu.
2.4. Tìm hiểu các mối quan hệ của văn hoá Đồng Đậu trong không gian và thời gian.
3. Đối tượng, phạm vi, nguồn tư liệu và các vấn đề cần đi sâu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các di tích, di vật thuộc văn hóa Đồng Đậu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi nghiên cứu của luận án: nghiên cứu các di tích, di vật của văn hóa Đồng Đậu nhằm làm rõ những đặc trưng cơ bản; và nhận thức về vai trò, vị trí của văn hóa Đồng Đậu trong thời đại kim khí ở lưu vực sông Hồng.
- Về không gian, thời gian: luận án tập trung nghiên cứu các di tích văn hóa Đồng Đậu đã được điều tra, khảo sát, khai quật ở lưu vực sông Hồng trong khoảng thời gian từ khoảng 3.500 - 2.900 năm cách nay.
3.3. Nguồn tư liệu sử dụng trong luận án
- Nguồn tư liệu sử dụng chủ yếu là báo cáo của các cuộc điều tra, khảo sát, thám sát, khai quật khảo cổ học; các bài viết đăng trên tạp chỉ Khảo cổ học và Kỷ yếu Những phát hiện mới về khảo cổ học xuất bản hàng năm; các sách chuyên khảo, đề tài khoa học đã công bố và một số bài viết đăng trên các tạp chí và kỷ yếu hội thảo khoa học trong nước và ngoài nước có liên quan đến đề tài luận án.
- Những kết quả chỉnh lý hiện vật, nghiên cứu của tác giả về văn hóa Đồng Đậu trong khoảng 10 năm từ 2005 đến nay.
3.4. Các vấn đề cần đi sâu nghiên cứu
- Nghiên cứu những đặc điểm cơ bản của văn hóa Đồng Đậu biểu hiện qua những di tích, di vật .
- Những biến đổi trong cấu trúc kinh tế xã hội và đời sống cư dân cổ trong giai đoạn văn hóa Đồng Đậu là gì ? Lý giải nguyên nhân/ động lực tạo ra sự biến đổi.
- Xác định, đánh giá vai trò của những yếu tố nội sinh và ngoại sinh tham gia vào sự hình thành văn hóa Đồng Đậu.
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Các cách tiếp cận: luận án sử dụng cách tiếp cận lịch sử văn hóa, vận dụng các quy luật của duy vật lịch sử và duy vật biện chứng để nhìn nhận, phân tích, lý giải sự vận động và những chuyển biến của văn hoá, lịch sử trong thời kỳ Đồng Đậu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu sử dụng chính yếu trong luận án là phương pháp nghiên cứu liên ngành: kết hợp giữa các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khảo cổ học với các phương pháp của ngành khoa học tự nhiên (phân tích quang phổ, AMS, C14, phương pháp phân tích khoáng vật đá).
5. Kết quả, đóng góp của luận án
5.1. Luận án đã xây dựng được một hệ thống tư liệu tương đối đầy đủ và toàn diện phục vụ cho việc nghiên cứu về văn hoá Đồng Đậu nói riêng và thời kỳ dựng nước nói chung.
5.2. Nêu được các nét đặc trưng cơ bản về di tích và di vật của văn hoá Đồng Đậu.
5.3. Bước đầu phác dựng lại được bức tranh kinh tế, xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của cư dân Đồng Đậu trong bối cảnh thời đại kim khí ở lưu vực sông Hồng. Trên cơ sở phân tích di tích, di vật nêu bật được vai trò then chốt của nghề luyện kim trong sự chuyển biến cấu trúc kinh tế xã hội của thời kỳ này.
5.4. Đã làm rõ việc phân kỳ cũng như đặc điểm các giai đoạn phát triển của văn hoá Đồng Đậu.
5.5. Phân tích, lý giải và làm sáng tỏ được vấn đề nguồn gốc của văn hoá Đồng Đậu cũng như các mối quan hệ đồng đại, lịch đại của văn hoá này. Từ đó, góp phần làm rõ thêm về vấn đề nguồn gốc người Việt.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của luận án (147 trang) được chia thành 5 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu văn hoá Đồng Đậu
Chương 2: Đặc điểm môi trường sinh thái và di tích văn hoá Đồng Đậu
Chương 3: Các di vật văn hoá Đồng Đậu
Chương 4: Vị trí của văn hoá Đồng Đậu trong thời đại kim khí ở lưu vực sông Hồng
Chương 5: Cấu trúc kinh tế xã hội và đời sống cư dân Đồng Đậu
Ngoài ra, trong luận án còn có các mục: danh mục công trình của tác giả luận án, tài liệu tham khảo và phụ lục minh họa.
Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VĂN HÓA ĐỒNG ĐẬU
1.1. Giai đoạn từ 1962 - 1971
1.2. Giai đoạn từ 1972 đến nay
Tiểu kết chương 1
- Sau hơn 50 năm nghiên cứu, các nhà khảo cổ đã phát hiện được 42 di tích thuộc văn hoá Đồng Đậu nhiều cuộc thám sát, khai quật đã được các cơ quan nghiên cứu thực hiện, tư liệu nghiên cứu về văn hoá Đồng Đậu vô cùng đồ sộ và phong phú. Tuy nhiên, nguồn tư liệu này hầu hết đều ở dạng tài liệu báo cáo, và phân tán ở các cơ quan nghiên cứu khác nhau khác nhau. Do vậy, để phục vụ cho công tác nghiên cứu lâu dài về văn hoá Đồng Đậu nói riêng và thời kỳ kim khí nói chung, những tài liệu này cần được tập hợp, hệ thống hóa.
- Tới nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về văn hoá Đồng Đậu, trong đó có một số đi sâu nghiên cứu về văn hoá này, nhưng đó chỉ là những chuyên khảo về một di tích, di vật hay một khía cạnh nào đó. Đến nay xung quanh văn hoá này còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa thống nhất về tư liệu cũng như nhận thức, và chưa có công trình nghiên cứu nào mang tính tổng hợp, toàn diện về văn hóa Đồng Đậu. Vì vậy, những vấn đề như đặc trưng di tích và di vật, những mối quan hệ trước, sau, gần, xa cũng như những chuyển biến trong cấu trúc kinh tế xã hội, nguồn gốc của văn hóa Đồng Đậu, đời sống vật chất, tinh thần của cư dân Đồng Đậu, quá trình phát triển của văn hoá Đồng Đậu cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Đây cũng chính là những vấn đề mà tác giả luận án đã và đang giành nhiều tâm huyết cùng thời gian, công sức để tìm hiểu, làm rõ.
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM MÔI TRƯỜNG SINH THÁI VÀ DI TÍCH VĂN HOÁ ĐỒNG ĐẬU
2.1. Môi trường sinh thái
2.2. Sự phân bố và đặc điểm các di tích văn hóa Đồng Đậu
Tìm hiểu về không gian phân bố, đặc điểm các khu cư trú, cấu tạo địa tầng các di tích, các dấu tích văn hóa, mộ táng, vết tích động thực vật.
Tiểu kết chương 2
- Văn hoá Đồng Đậu được hình thành và phát triển trong vùng môi trường sinh thái của vùng tam giác châu thổ Bắc Bộ. Đó là một môi trường tự nhiên rất đa dạng với nhiều tiểu hệ sinh thái khác nhau,. Trong giai đoạn Đồng Đậu, yếu tố tự nhiên giữa vai trò quan trọng, tác động và chi phối mạnh mẽ nhất đến văn hoá, đời sống cư dân lúc đó là yếu tố đồng bằng và sông nước.
- Qua nghiên cứu sự phân bố di tích đã cho thấy, người văn hóa Đồng Đậu đã cư trú với mật độ cao ở vùng đồng bằng và tạo thành một hệ thống làng ven sông. Đặc điểm này cần phải được xem như một nét đặc trưng của văn hoá Đồng Đậu. Truyền thống đó sau này tiếp tục được cư dân Gò Mun, Đông Sơn kế thừa và phát triển.
- Có nhiều loại hình dấu tích khác nhau đã được phát hiện trong các địa điểm văn hoá Đồng Đậu, trong đó có thể xác định các loại đặc trưng của văn hoá này, đó là lò đúc đồng, nền nhà đắp bằng đất sét vàng, mộ táng chôn trên nền đất sét. Những dấu tích này tới nay chưa phát hiện được trong giai đoạn trước đó.
Chương 3. CÁC DI VẬT VĂN HÓA ĐỒNG ĐẬU
3.1. Đồ đá
3.2. Đồ đồng
4.4. Đồ gốm
3.3. Đồ xương sừng
Nghiên cứu các loại di vật (đồ đá, đồ đồng, đồ gồm, đồ xương, sừng) văn hóa Đồng Đậu dưới các khía cạnh loại hình, chất liệu và kỹ thuật.
Tiểu kết chương 3
- Một đặc trưng nổi bật trong giai đoạn văn hoá Đồng Đậu là kỹ thuật chế tác đá đã được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất một loại hình hiện vật mới với mức độ phức tạp hơn cao hơn, đó là khuôn đúc. Với việc chế tạo khuôn đúc có hoa văn hay khuôn đúc có nhiều hiện vật như khuôn đúc mũi tên, khuôn đúc dùi thì càng yêu cầu mức độ tỉ mỉ, chính xác cao hơn nữa. Mặc khác, trong việc chế tạo khuôn đúc, cần sự sáng tạo rất lớn của người thợ đá để cải biến các mẫu hiện vật đá sang đồ đồng (rìu, mũi tên, lao, giáo...) cũng như có thể làm ra nhiều mẫu hình hiện vật đồng mới như “bàn chải”, búa, nạo, dao... Về mặt loại hình, đồ đá tới đây đạt tới mức độ đa dạng cao. So với giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên, giai đoạn văn hoá Đồng Đậu có thêm một số loại hình hiện vật mới (mũi tên ba cạnh có chuôi tra cán, khuôn đúc, khuyên tai hình gối quạ, khuyên tai dạng khối tròn đặc, khuyên tai hình con đỉa, khuyên tai hình đồng xu, khuyên tai bản rộng có gờ, khuyên tai hình giọt nước, hạt chuỗi hình tang trống, hạt chuỗi hình hạt cườm, nhẫn, cúc áo, vật đeo hình răng thú, đá có khắc hoa văn). Chất liệu đá sử dụng ở nhiều nơi có sự tăng cường của đá spilite, giảm tỷ lệ đá ngọc. Nhìn chung, sự suy thoái về chất liệu đá tập trung chủ yếu vào loại hình công cụ sản xuất và vũ khí, còn đồ trang sức thì vẫn hầu hết vẫn được chế tác từ đá ngọc.
- Việc đúc chế thành công nhiều loại hình đồ đồng khác nhau là một thành tựu lớn, một đóng góp quan trong của cư dân Đồng Đậu. Trước đây có ý kiến cho rằng, văn hóa Đồng Đậu có không quá 10 loại hình đồ đồng, và chỉ đến văn hóa Gò Mun thì mới đúc thành công trên 20 loại hình [184, tr.138]. Tuy nhiên, những tư liệu thống kê mới mà tác giả tổng hợp từ các di tích đã cho thấy, ngay từ văn hóa Đồng Đậu, cư dân cổ với sự tài hoa, khéo léo và làm chủ kỹ thuật đã đúc chế thành công 20 loại hình đồ đồng khác nhau. Bên cạnh những loại hình mô phỏng đồ đá đã xuất hiện thêm các loại hình mới có cấu tạo khá phức tạp như rìu xoè cân, thuổng, búa, bàn chải, lưỡi câu, dao xéo, dao trổ... Hơn nữa, tính chuyên hoá về chức năng của đồ đồng đã khá cao. Nếu so với giai đoạn Phùng Nguyên, khi người Việt cổ mới bắt đầu làm quen với kỹ thuật luyện kim, và chỉ đúc được những hiện vật rất nhỏ, chưa định hình về hình dáng, thì với bộ sản phẩm đa dạng về kiểu dáng của văn hóa Đồng Đậu đã thực sự đánh dấu một bước chuyển quan trọng về trình độ kỹ thuật luyện đúc đồng của cư dân cổ. Người Đồng Đậu đã bước đầu biết trang trí hoa văn lên đồ đồng. Đó là các đường chỉ nổi đơn giản hay hoa văn hình học như đã thấy ở Thành Dền, Đại Trạch, Gò Diễn, Đông Lâm... Mặc dù, số lượng đồ đồng được trang trí hoa văn chưa nhiều, và hoa văn còn đơn giản, nhưng có thể xem đây là một tín hiệu mở đầu cho một phong cách trang trí mới, để rồi phát triển tới đỉnh cao trong giai đoạn văn hóa Đông Sơn.
- Trong giai đoạn Đồng Đậu, chất liệu và kỹ thuật nung gốm tiếp tục được cải tiến, nên chất lượng gốm đã được nâng lên, gốm cứng đanh, ít thấm nước hơn. Về mặt loại hình, giai đoạn này đánh dấu sự xuất hiện, phát triển khá mạnh của các loại hình đồ đựng với đáy bằng có dung tích lớn. Đây là một nét khác biệt của đồ gốm Đồng Đậu so với đồ gốm giai đoạn Phùng Nguyên. Sự biến đổi về kiểu dáng đồ gốm nhằm đáp ứng cho nhu cầu tích trữ lương thực thực phẩm ngày càng tăng của hoạt động sản xuất nông nghiệp. Các loại hoa văn tiêu biểu nhất của đồ gốm văn hóa Đồng Đậu là văn khuông nhạc, văn đan và văn in hình hạt. Đây là tổ hợp hoa văn mang tính chỉ thị, giúp chúng ta nhận dạng và phân biệt gốm văn hoá Đồng Đậu với gốm của các văn hóa khác trong phức hợp gốm Tiền Đông Sơn ở lưu vực sông Hồng. Chính tổ hợp hoa văn này là một trong những yếu tố cốt lõi nhất để hình thành nên phong cách riêng của gốm văn hóa Đồng Đậu.
- Đồ xương mặc dù không phổ biến, nhưng nhìn chung đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng và loại hình so với giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên. Về mặt loại hình, bên cạnh các loại vũ khí chiếm chủ đạo, thì đáng chú ý nhất là sự xuất hiện của một số loại hình hiện vật được cho rằng có thể mang tính nghi lễ.
Chương 4. VỊ TRÍ CỦA VĂN HOÁ ĐỒNG ĐẬU
TRONG THỜI ĐẠI KIM KHÍ Ở LƯU VỰC SÔNG HỒNG
4.1. Các giai đoạn phát triển văn hóa Đồng Đậu
4.2. Niên đại văn hóa Đồng Đậu
4.3. Mối quan hệ văn hóa
Tìm hiểu mối quan hệ của văn hóa Đồng Đậu với văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Gò Mun, nhóm di tích Gò Mả Đống - Gò Con Lợn, văn hóa Hạ Long và nhóm di tích Tràng Kênh - Đầu Rằm ở vùng duyên hải Đông Bắc, nhơm di tích Đan Nê ở vùng duyên hải Bắc Trung Bộ.
Tiểu kết chương 4
- Những kết quả nghiên cứu trong nhiều năm qua đã chỉ ra quy luật của sự hình thành và phát triển của các văn hóa Phùng Nguyên, Gò Mun và Đông Sơn, đó là đều trải qua 3 giai đoạn phát triển kế tiếp nhau. Những tư liệu khai quật mới ở Thành Dền, Đồng Đậu và nhiều di tích khác được cập nhật, tổng hợp đã góp phần làm sáng rõ quan điểm cho rằng, quá trình phát triển của văn hóa Đồng Đậu cũng bao gồm 3 giai đoạn sớm muộn khác nhau. Trong mỗi giai đoạn, di tích và di vật mang những đặc trưng riêng bên cạnh những nét chung giống nhau, vừa thể hiện sự phát triển mang tính nội tại, kế thừa hết sức chặt chẽ của các văn hóa Tiền Đông Sơn. Sự khác nhau về đặc trưng di tích, di vật theo diễn trình thời gian cũng cho thấy, sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế xã hội qua các giai đoạn. Ở mức độ nhất định có thể khẳng định, các giai đoạn phát triển của văn hóa Đồng Đậu chính là những “nấc thang” thể hiện sự phát triển của xã hội lúc đó.
- Về nguồn gốc văn hóa Đồng Đậu, nếu trước đây chúng ta cho rằng, văn hóa Đồng Đậu có nguồn gốc từ yếu tố Phùng Nguyên và nhóm Mả Đống - Gò Con Lợn, thì tới nay qua nghiên cứu về hoa văn đồ gốm văn hóa Đồng Đậu, chúng ta có thể nhận thức thêm rằng, văn hóa Hạ Long cũng tham góp như một hợp nguồn quan trọng. Có thể nói, yếu tố Hạ Long tham gia vào sự hình thành văn hóa Đồng Đậu không chỉ thông qua con đường Mả Đống - Gò Con Lợn, mà bằng cả con đường trực tiếp.
- Theo chiều kích không gian có thể nhận thấy, văn hóa Đồng Đậu không chỉ có mối quan hệ chặt chẽ với cư dân nhóm di tích Tràng Kênh - Đầu Rằm ở vùng Đông Bắc, nhóm di tích Đan Nê ở khu vực Bắc Trung Bộ, hay di tích ở vùng núi Tây Bắc, mà còn có sự tiếp xúc, giao lưu với cư dân ở khu vực Nam Trung Hoa, Đông Bắc Thái Lan. Mối quan hệ đa chiều, đa phương này đã thể hiện một “cá tính mở” của văn hóa Đồng Đậu [65]. Thông qua con đường giao lưu, trao đổi, thì một mặt, những yếu tố văn hóa Đồng Đậu đã phát huy sức ảnh hưởng, lan tỏa rộng rãi ra bên ngoài; mặt khác, chủ nhân văn hóa Đồng Đậu cũng có cơ hội chủ động tiếp nhận một cách có chọn lọc các yếu tố văn hóa mới. Những chứng cứ khảo cổ cũng bước đầu cho thấy, đã có một gói công nghệ kỹ thuật luyện kim được chuyển giao từ khu vực trung tâm đồng bằng Bắc Bộ (Hà Nội và phụ cận) tới khu vực Đông Bắc, Bắc Trung Bộ Việt Nam... vào giai đoạn văn hóa Đồng Đậu.
Chương 5. CẤU TRÚC KINH TẾ XÃ HỘI VÀ ĐỜI SỐNG CƯ DÂN ĐỒNG ĐẬU
5.1. Cấu trúc kinh tế
Nghiên cứu các hoạt động kinh tế sản xuất như nông nghiệp, thủ công nghiệp (nghề luyện kim, nghề chế tác đá, nghề làm gốm, nghề dệt, nghề đan lát, nghề mộc, nghề se sợi dệt vải), trao đổi - mua bán; kinh tế khai thác tự nhiên như đánh cá, săn bắn, thu lượm.
5.2. Cấu trúc xã hội
Tìm hiểu sự phân công lao động xã hội, sự phân hóa xã hội, tổ chức xã hội.
5.3. Đời sống cư dân Đồng Đậu
Phác dựng đời sống vật chất (ăn, mặc, ở, đi lại) và đời sống tinh thần (tín ngưỡng, táng tục, khiếu thẩm mỹ).
Tiểu kết chương 5
Trong chương này, trên cơ sở phân tích, diễn giải hệ thống dữ liệu (di tích, di vật) phát hiện được, tác giả luận án đã bước đầu phác dựng lại bức tranh về kinh tế, xã hội và đời sống vật chất và tinh thần của con người, trong đó, đặc biệt chú ý làm rõ những chuyển biến trong cấu trúc kinh tế và xã hội diễn ra trong giai đoạn Đồng Đậu so với giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên trước đó như:
- Nông nghiệp đã có sự phát triển mạnh mẽ hơn và đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế đa thành phần. Sự phát triển của nông nghiệp trồng lúa đã tạo sự ổn định cho việc định cư lâu dài. “Chính môi trường này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các trung tâm kinh tế - luyện kim nổi tiếng như Đồng Đậu, Thành Dền, đồng thời tạo điều kiện cho bước chuyển về chất tiến lên văn hóa Gò Mun” [122, tr.281].
- Trên cơ sở kế thừa những thành tựu luyện kim từ giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, những cư dân Đồng Đậu đã không ngừng cải tiến về mặt kỹ thuật, cũng như gia tăng mức độ sản xuất và ứng dụng kim loại vào phát triển các lĩnh vực sản xuất khác nhau và đạt được những thành tựu nhất định, làm cho quy mô kinh tế ngày càng tăng, thúc đẩy sự phân hóa xã hội, tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong cấu trúc kinh tế, quan hệ và cơ cấu xã hội cũng như toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của người Việt cổ. Nghề luyện kim đã phát triển trở thành nghề thủ công quan trọng nhất, và đóng vai trò là động lực mới của sự phát triển kinh tế xã hội. Có thể nói, nghề luyện kim trong giai đoạn văn hóa Đồng Đậu đã đẩy nhanh quá trình “kim loại hóa” đời sống cư dân Việt cổ ở lưu vực sông Hồng [45]. Nếu trong giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, đồ đồng còn khan hiếm, thì tới giai đoạn văn hóa Đồng Đậu, với những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ kỹ thuật chế tác, quy mô sản xuất đã cơ bản/ bước đầu đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu nhất của xã hội lúc đó. Sự phát triển đột phá của nghề luyện kim chính là chất xúc tác mới kích thích sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế.
- Qúa trình chuyên môn hóa trong các hoạt động thủ công đã diễn ra sâu sắc hơn. Sự phát triển mang tính chuyên hóa của một loạt công xưởng chế tác đá (Hồng Đà, Bãi Tự, Tràng Kênh...) và các trung tâm đúc đồng (Thành Dền, Đồng Đậu) ở khu vực trung du và đồng bằng Bắc Bộ đã đánh dấu một bước biến chuyển rất lớn của xã hội lúc đó, bởi nó đã đặt nền tảng đặc biệt quan trọng cho sự chia tách của các hoạt động thủ công nghiệp ra khỏi lĩnh vực sản xuất nông nghiệp - điều sẽ xảy ra ở giai đoạn Đông Sơn sau đó. Sự tương tác chặt chẽ về kinh tế giữa các cộng đồng/ làng nông nghiệp - làng thủ công đúc đồng - làng chế tác đá... để trao đổi các loại hàng hóa cho nhau là một điều tất yếu đã xảy ra, và đây chính là một kênh quan trọng để thúc đẩy sự giao lưu, trao đổi về văn hóa, kỹ thuật... giữa các cộng đồng. Thông qua mạng lưới trao đổi, giao lưu nội vùng, liên vùng được củng cố và mở rộng, tri thức luyện kim từ khu vực trung tâm đồng bằng Bắc Bộ cũng được lan tỏa không ngừng tới khu vực Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ, làm cho bức tranh kinh tế và văn hóa giữa các khu vực, vùng miền ngày càng đa dạng và phát triển hơn, từ đó, góp phần tạo tiền đề, nền tảng cho sự thống nhất về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các cộng đồng cư dân cổ sinh sống ở các địa vực khác nhau, để rồi cuối cùng hình thành nên một nền văn hóa Đông Sơn bản địa, thống nhất trong đa dạng.
- Về mặt xã hội, sự phân công lao động xã hội có những chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng trong nghề đúc đồng với công nghệ kỹ thuật được xem là tiên tiến nhất lúc đó và giảm trong nghề chế tác đá. Sự phân hóa xã hội ngày đã diễn ra ngày càng sâu sắc giữa các cộng đồng cư dân. Tổ chức xã hội cũng ngày càng chặt chẽ hơn theo hướng hình thành các liên minh bộ lạc, các mạng lưới liên kết vùng và liên vùng.
- Trên cơ sở kinh tế phát triển, đời sống con người được nâng cao, cải thiện về mọi mặt so với giai đoạn.
KẾT LUẬN
Văn hóa Đồng Đậu thuộc trung kỳ thời đại Đồng thau, có niên đại khoảng 3.500 đến 3.000/ 2.900 năm cách nay, phát triển trải qua 3 giai đoạn sớm muộn khác nhau. Dựa vào khối tư liệu tư liệu khảo cổ được tập hợp, phân loại, hệ thống hóa và việc sử dụng tổng hợp nhiều cách tiếp cận, lý thuyết, phương pháp nghiên cứu khác nhau, luận án đã mang lại những kết quả nhận thức mới, thể hiện ở những luận điểm chính như sau:
1. Luận án đã làm rõ những tác động của môi trường tới sự biến đổi cấu trúc không gian xã hội giai đoạn Đồng Đậu. Do tác động của biển thoái, không gian địa lý của đồng bằng châu thổ sông Hồng có sự mở rộng hơn về phía Đông. Tới giai đoạn Đồng Đậu, trung tâm của đồng bằng châu thổ lúc đó bao gồm Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh chính là vùng đất rộng lớn, màu mỡ, rất thuận lợi cho sự cư trú, định cư của con người. Xã hội Phùng Nguyên là một xã hội định hướng nông nghiệp trồng lúa nước, vì vậy, nông nghiệp càng phát triển, thì đất lại càng khan hiếm. Dải đồng bằng hẹp thuộc thềm bậc 2 châu thổ ở khu vực quanh đỉnh Việt Trì cũng như các ruộng dộc ở thung lũng ven đồi mà hầu hết chỉ trồng lúa một vụ (vụ chiêm) đã không còn đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển nghề trồng lúa nước trong bối cảnh sức ép/ nhu cầu về lương thực ngày càng gia tăng do sự bùng nổ dân số mạnh mẽ. Hơn nữa, đất ở vùng trung du chủ yếu là đất đồi, nhanh bị bạc màu do quá trình bào mòn, rửa trôi cũng như việc gia tăng tốc độ khai thác, sử dụng đất của con người. Thiếu đất canh tác lúa nước có lẽ chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới nhu cầu chuyển dịch không gian sống của cư dân Phùng Nguyên từ khu vực địa bàn truyền thống (gốc) quanh Việt Trì (Phú Thọ, Sơn Tây) tới vùng đất màu mỡ ở phía Đông của châu thổ sông Hồng. Bên cạnh nguồn đất đai phì nhiêu hơn, thì ở đây, nguồn nước cho sinh hoạt và tưới tiêu cho nông nghiệp nói riêng và sản xuất nói chung cũng dồi dào hơn. Có thể nói, sự biến đổi của cấu trúc không gian địa lý vùng châu thổ chính là tác nhân kích thích và tác động trực tiếp, mạnh mẽ tới sự biển đổi của cấu trúc không gian xã hội. Vào giai đoạn Đồng Đậu, cấu trúc định cư truyền thống bị phá vỡ để hình thành nên một cấu trúc định cư mới, trong đó trung tâm của hệ thống định cư, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội đã có sự chuyển đổi từ vùng Việt Trì (giai đoạn Phùng Nguyên) tới vùng Hà Nội và phụ cận (giai đoạn Đồng Đậu). Như vậy, trong mô hình xã hội Đồng Đậu, có sự tương hợp giữa trung tâm của hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội và trung tâm địa lý vùng.
2. Nhằm tận dụng và khai thác tối đa lợi thế về sự đa dạng các nguồn lực của hệ thống sinh thái nhân văn vùng trung du và châu thổ sông Hồng, xã hội Đồng Đậu đã phát triển một mô hình cấu trúc kinh tế đa thành phần dựa trên cơ sở nền tảng kinh tế vững chắc của nghề nông trồng lúa nước. So với giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên trước đó, thì cơ cấu thành phần của hệ thống kinh tế giai đoạn văn hóa Đồng Đậu không có sự khác biệt, tuy nhiên, qui mô của các hoạt động sản xuất đã có sự mở rộng hơn. Xoay quanh trụ cột là nền nông nghiệp đa canh với cây lúa là cây lương thực chủ đạo, và trồng lúa là ngành kinh tế chính yếu, một số lĩnh vực thủ công nghiệp đã tập trung phát triển theo hướng chuyên hóa, để hình thành nên các trung tâm sản xuất thủ công mà điển hình là các công xưởng chế tác đá (Hồng Đà, Bãi Tự...), các trung tâm đúc đồng (Thành Dền, Đồng Đậu). Trong cấu trúc kinh tế của giai đoạn Đồng Đậu, chúng ta dễ dàng nhận thấy có một sự phát triển mang tính bứt phá của nghề luyện kim. Với những tiến bộ vượt bậc về công nghệ kỹ thuật, nghề luyện kim và đúc đồng từ vị trí thứ yếu, đã vươn lên trở thành một nghề quan trọng bậc nhất trong hệ thống các ngành nghề thủ công, thay thế cho vị trí của nghề chế tác đá trước đó. Như vậy, một cách tự nhiên, tự thân thủ công nghiệp với vai trò là một phân hệ trọng yếu trong hệ thống kinh tế đã diễn ra quá trình tái cấu trúc. Nhìn trên bình diện rộng, tổng thể toàn xã hội, thì đồ đồng đã chuyển từ “khan hiếm tuyệt đối” sang “khan hiếm tương đối”, vì vậy, việc sở hữu đồ đồng đối với các cộng đồng cư dân đã trở nên dễ dàng hơn, và hệ quả là, đồ đồng đã len lỏi, chen lấn vào từng hoạt động sản xuất, qua đó, nó đã bổ sung và dần thay thế cho các loại công cụ truyền thống bằng đá, tre, gỗ, xương... Trong hệ thống kinh tế của giai đoạn này, thì nghề luyện kim có thể ví như “đòn bẩy” hay “đầu tầu” thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề kinh tế khác nhau. Công nghệ luyện kim chính là động lực mới của nền sản xuất. Trên cơ sở tư liệu sản xuất được cải tiến, năng suất lao động của các lĩnh vực kinh tế đã không ngừng tăng, và nhờ đó, quy mô kinh tế cũng không ngừng được mở rộng. Có thể nói, nghề luyện kim chính là nhân tố đóng vai trò quyết định dẫn tới sự biến đổi mang tính bứt phá của nền kinh tế giai đoạn Tiền sử và Sơ sử, đồng thời tạo nên những biến chuyển sâu sắc trong đời sống văn hóa xã hội. Với những tiến bộ và thành tựu đạt được, giai đoạn văn hóa Đồng Đậu đã đánh dấu một cuộc cách mạng luyện kim đầu tiên thời Tiền Sơ sử ở miền Bắc Việt Nam. Phải nhấn mạnh rằng, nếu không có cuộc cách mạng mang tính bứt phá này, thì sẽ không có cuộc cách mạng đột phá thứ hai vào giai đoạn Đông Sơn, để nghề luyện kim phát triển “thăng hoa” đạt tới đỉnh cao nhất. Một thực tế không thể phủ nhận là, công nghệ kỹ thuật luyện kim và các loại hình đồ đồng của giai đoạn văn hóa Đồng Đậu đã được kế thừa, và tiếp tục phát triển trong các văn hóa kế tiếp là Gò Mun và Đông Sơn. Do đó, không phải là không có lý khi cho rằng, “Văn minh sông Hồng, văn minh Đông Sơn, được tạo nên bởi cuộc cách mạng luyện kim diễn ra ở giai đoạn văn hóa Đồng Đậu” [172, tt.65], bởi vì, cách mạng luyện kim đã mở đầu cho cuộc cách mạng thứ hai là “cách mạng nhà nước” [236]. Có thể khẳng định rằng, cuộc cách mạng luyện kim trong giai đoạn văn hóa Đồng Đậu đã đưa cư dân Việt cổ tiến bước vững chắc vào ngưỡng cửa của nền văn minh nhân loại. Sự phát triển liên tục, và hết sức mạnh mẽ của nghề luyện kim trong giai đoạn Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn đã thúc đẩy sự tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế, góp phần tạo ra một xã hội “thịnh vượng” ở lưu vực sông Hồng.
3. Tới giai đoạn Đồng Đậu, sự phát triển không đồng đều của các hoạt động kinh tế nói chung và nghề luyện kim nói riêng đã làm cho quá trình phân hóa giàu nghèo giữa các cộng đồng trở nên rõ rệt hơn với những mức độ phân hóa từ giàu tới khá, trung bình và nghèo, và đây chính là cơ sở kinh tế xã hội đặc biệt quan trọng cho sự hình thành các “trung tâm” kinh tế - chính trị - văn hóa lớn mang tính hạt nhân, các liên minh bộ lạc, các thủ lĩnh địa và các mạng lưới liên kết cộng đồng ở cấp độ cao. Cần nhấn mạnh rằng, xã hội Đồng Đậu được đặc trưng bởi sự phân hóa theo khuynh hướng chiều ngang, chứ không phải là một xã hội theo đẳng cấp chiều dọc. Sự phân nhóm xã hội theo dòng họ lớn với nhiều thế hệ cộng cư nhưng lại chia thành các gia đình hạt nhân, cư trú theo địa vực có thể tạo nên những lợi thế, chênh lệch thu nhập và phần nào chênh lệch thân phận. Tuy nhiên, sự phân hóa thân phân trong xã hội Đồng Đậu còn thấp, chưa đạt tới mức để hình thành nên các giai cấp. Trong xã hội đã có những dòng họ, cộng đồng đông thành viên hơn, cư trú tại địa bàn thuận lợn hơn, giàu có hơn về kinh tế, họ có những người nổi bật, có nhiều kinh nghiệm và uy tín trong các hoạt động kinh tế, quân sự, quản lý xã hội cũng như tổ chức các sinh hoạt cộng đồng (văn hóa, tín ngưỡng...), như vậy họ dễ dàng được cộng đồng chọn lựa và đạt được vị trí thủ lĩnh địa phương mà chủ nhân ngôi mộ ở Gò Diễn là một ví dụ và cao hơn là thủ lĩnh liên minh bộ lạc.
4. Đời sống của cư dân Đồng Đậu đã có những chuyển biến rõ rệt, không chỉ trong các sinh hoạt thường ngày là ăn, mặc, ở, đi lại, mà cả trong các mặt của đời sống tinh thần, từ việc tổ chức các nghi lễ cúng tế cầu mùa đến việc trang sức làm đẹp, phát triển nghệ thuật trang trí hoa văn đồ gốm, và đặc biệt là tri thức biểu tượng.... Trong xã hội Đồng Đậu, việc phát triển hệ thống biểu tượng cũng như các tín ngưỡng nông nghiệp chính là sợi dây “vô hình” để gia tăng sự cố kết cộng đồng, đồng thời qua đó, ít nhiều góp phần tạo lập một “sức mạnh mềm”/ “quyền lực mềm” cho giới tinh hoa trong xã hội.
5. Qua nghiên cứu văn hóa Đồng Đậu trong bối cảnh rộng hơn, chúng ta có thể phác thảo một cấu trúc không gian xã hội ở miền Bắc Việt Nam. Theo cách tiếp cận khu vực học, địa văn hóa, địa kinh tế, địa chính trị và tiếp cận hệ thống có thể dễ dàng nhận thấy, vào giai đoạn văn hóa Đồng Đậu, vùng trung tâm của châu thổ sông Hồng (khu vực Hà Nội và phụ cận) đã trở thành vùng hạch phát triển của khu vực miền Bắc. Trên cơ sở sự phát triển của kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp và luyện kim, thì có khả năng Thành Dền, Đồng Đậu, Đình Tràng, Đại Trạch, Vườn Chuối đã trở thành những hạt nhân của vùng trung tâm, trong đó Thành Dền và Đồng Đậu là lớn nhất và quan trọng nhất. Có thể thấy rằng, một loạt các nhóm di tích ở trung du miền núi, ven biển đã trở thành những cấu trúc vệ tinh của vùng hạch châu thổ. Theo chiều kích Đông - Tây và Bắc - Nam, bước đầu có thể xác định 3 cấu trúc vệ tinh chính như sau:
Nhóm di tích ở khu vực miền núi trung du Phú Thọ mà trung tâm là Việt Trì bao gồm: Hồng Đà, Mã Lao, Nội Gan, Đồng Đậu con, Gò Diễn (Phú Thọ)
Nhóm di tích ở vùng duyên hải Đông Bắc: Tràng Kênh (Hải Phòng), Bãi Bến, Đầu Rằm, Bồ Chuyến (Quảng Ninh)...
Nhóm di tích ở Bắc Trung Bộ tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Mã, Thanh Hóa như: Đồng Ngầm, Qùy Chử, Thiệu Dương... (Sơ đồ 8).
Trong việc kết nối vùng hạch/ trung tâm và các cấu trúc vệ tinh với nhau, thì sông Hồng và các chi lưu (sông Đáy, sông Cầu...) đóng vai trò hết sức quan trọng, hay nói cách khác, đây chính là tuyến đường huyết mạch của những tương tác về kinh tế, văn hóa, xã hội lúc đó. Việc tiếp xúc và giao lưu trao đổi tăng cường giữa các nhóm cư dân trong hệ thống đã góp phần kích thích sự gia tăng các nhu cầu, và như vậy đã thúc đẩy các quá trình phân công lao động và mô hình chuyên môn hóa theo chiều sâu (các công xưởng chế tác đá như Hồng Đà, Bãi Tự, Tràng Kênh...; các trung tâm đúc đồng như Thành Dền, Đồng Đậu...). Trên cơ sở đó, các mạng lưới trao đổi nội vùng, liên vùng theo các tuyến đường bộ và đường sông cũng được củng cố và mở rộng. Vùng trung tâm với ưu thế nổi bật nhất là phát triển mạnh về sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, đặc biệt là trồng lúa và luyện kim đã cung cấp các sản phẩm lương thực và đồ đồng cho các khu vực vệ tinh, trong đó, đồ đồng là nguồn hàng có giá trị cao của khu vực này. Đồng thời, vùng trung tâm sẽ trao đổi, thu nhận về các thương phẩm như lâm thổ sản; công cụ và đồ trang sức bằng đá, đặc biệt là đồ trang sức bằng đá ngọc; một số loại nguyên liệu thô quan trọng như đá ngọc, đồng, thiếc...; và có lẽ cả muối và thủy hải sản từ các vùng vệ tinh xung quanh. Cần nhấn mạnh rằng, bên cạnh những mặt hàng chủ yếu ở trên, còn có các loại hàng hóa khác tham gia vào quá trình trao đổi này, chẳng hạn như đồ gốm, đồ đan hay đồ vải... Hơn nữa, quá trình trao đổi không chỉ diễn ra giữa vùng trung tâm với vùng vệ tinh, mà có thể còn diễn ra trực tiếp giữa các trung tâm vệ tinh với nhau, tuy nhiên, cường độ và qui mô của những trao đổi này có lẽ là không cao và lưu lượng hàng hóa cũng không nhiều như những trao đổi giữa khu vực trung tâm và vùng vệ tinh. Bởi vì, ở khu vực trung tâm có qui mô dân số lớn hơn, và tập trung một số lượng tầng lớp tinh hoa/ quí tộc đông đảo hơn, các hoạt động kinh tế cũng phát triển đa dạng hơn nên nhu cầu hàng hóa phục vụ cho tiêu dùng và sản xuất cũng lớn hơn. Hơn nữa, nguồn thương phẩm phục vụ cho trao đổi, đặc biệt là lương thực và đồ đồng từ vùng trung tâm cũng khá “dồi dào”. Xét trong bối cảnh rộng hơn, thì các vùng vệ tinh chính là ngõ hầu/ cửa ngõ quan trọng cho những tiếp xúc giao lưu giữa vùng trung tâm với thế giới bên ngoài. Vùng Đông Bắc chính là cửa ngõ thông thương ra biển Đông, nơi đón nhận những giao lưu trao đổi với cư dân vùng Đông Bắc Trung Quốc, Đông Nam Á hải đảo. Vùng vệ tinh Phú Thọ, Tây Bắc là cửa ngõ phía Tây, nơi tiếp nhận những trao đổi theo tuyến đường sông với khu vực Tây Nam Trung Quốc hay Đông Nam Á lục địa. Vùng Ninh Bình, sông Mã là cửa ngõ của những tương tác với cư dân ở phía Nam. Vai trò cầu nối này đã góp phần tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa vùng trung tâm và vùng ngoại vi. Cần đặc biệt lưu ý là, mối liên hệ trong hệ thống cấu trúc giữa khu vực trung tâm và vùng vệ tinh không chỉ trên khía cạnh kinh tế, mà cả trên lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội. Bởi vì, thông qua quá trình trao đổi, buôn bán cùng với quá trình hội nhập tộc người, những tri thức về luyện kim, văn hóa, nghệ thuật... cũng được lan tỏa, truyền nhập không ngừng, chẳng hạn như, phong cách trang trí văn khuông nhạc Đồng Đậu, đặc biệt là cách trang trí bên trong miệng gốm đã có ảnh hưởng tới truyền thống gốm Tràng Kênh, Đầu Rằm, cũng tương tự như vậy, lối trang trí hoa văn hình học trong miệng gốm xuất hiện vào giai đoạn muộn của văn hóa Đồng Đậu đã truyền tải và tiếp thu ở vùng sông Mã; hay như tri thức và kinh nghiệm về kỹ thuật luyện đồng cũng được lan tỏa và được tiếp nhận bởi cư dân ở vùng Tả Vải (Sơn La), Tràng Kênh (Hải Phòng), Qùy Chử (Thanh Hóa)... Và tác giả cũng cho rằng, khi một cấu trúc kinh tế, cấu trúc văn hóa được thiết lập, thì tương ứng với nó sẽ dần hình thành nên một cấu trúc chính trị. Thực tế, những chứng cứ khảo cổ học đã cho thấy, các di tích và cụm di tích quan trọng của giai đoạn trung kỳ thời đại Đồng thau ở miền Bắc Việt Nam đều tập trung với mật độ cao ở khu vực trung tâm của hệ thống (Hà Nội và phụ cận). Như vậy, nếu trong giai đoạn Phùng Nguyên, vùng Hà Nội và phụ cận từ vị trí chỉ là một vệ tinh trong hệ thống cấu trúc kinh tế - chính trị - xã hội của vùng châu thổ sông Hồng, thì tới nay, nó đã phát triển trở thành trung tâm của hệ thống vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, hay nói cách khác, đây chính là trung tâm hội tụ, kết tinh của văn hóa, văn minh Việt cổ ở miền Bắc Việt Nam. Việc tái cấu trúc và mở rộng quy mô hệ thống theo hướng liên vùng, liên văn hóa này đã phản ánh quá trình vận động, biến đổi, phát triển biện chứng không ngừng của lịch sử.
6. Xã hội Đồng Đậu là một phức hợp các nhóm dân cư khác nhau. Tham gia vào quá trình hình thành xã hội Đồng Đậu, bên cạnh nhóm cư dân Phùng Nguyên gốc, đóng vai trò cốt lõi, căn bản, thì còn có các nhóm cư dân ngoại sinh tham góp là nhóm Mả Đống - Gò Con Lợn và nhóm cư dân Hạ Long. Có thể nói, những tác động do biến đổi về môi trường (khí hậu, biển tiến, biển thoái) vào cuối giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên đầu văn hóa Đồng Đậu chính là động lực thúc đẩy quá trình hội nhập tộc người và văn hóa, làm cho hệ thống văn hóa Tiền Đông Sơn ở vùng sinh thái nhân văn châu thổ sông Hồng có những thay đổi mang tính “cách mạng”. Trong quá trình hội nhập, các yếu tố truyền thống văn hóa biển chẳng hạn như, những tri thức về thuyền, kinh nghiệm đi lại trên sông nước và buôn bán đường dài, làm gốm (gốm xốp, gốm đáy bằng, kỹ thuật sử dụng tấm lót đan trong khâu tạo dáng đồ gốm...), tri thức về nghệ thuật (kỹ thuật tạo hoa văn khuông nhạc), biểu tượng... đã được tiếp nhận một cách sâu rộng để góp phần làm giàu thêm, phong phú thêm bản sắc của văn hóa Việt cổ.
7. Nguồn gốc của văn hóa Tiền Đông Sơn và Đông Sơn là một vấn đề khoa học đã và đang được các nhà nghiên cứu thảo luận rất sôi nổi. Tác giả cho rằng, con đường phát triển của văn hóa Tiền Sơ sử ở khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam là đa chiều, đa tuyến, tuy nhiên, cuối cùng đều hội tụ, quy hợp, kết tinh về một nguồn chính để hình thành nên văn hóa Đông Sơn. Để làm rõ vấn đề nguồn gốc của người Việt cổ, bên cạnh hướng đi tìm hiểu nguồn gốc của văn hóa Phùng Nguyên, chúng ta cần chú trọng đến những nền văn hóa, tuyến phát triển văn hóa khác ở Việt Nam cùng tham gia, đóng góp vào quá trình hình thành nên cộng đồng người Việt cổ. Tới nay, đã có những cứ liệu cho thấy, có những con đường phát triển liên tục khởi phát từ thời đại Đồ đá, tiến lên thời đại Kim khí, để rồi sau đó vào khoảng 3.500 năm cách ngày nay đã hòa nhập vào bình tuyến Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn, đó là bình tuyến Soi Nhụ (18.000 - 7.000 BP) - Cái Bèo (7.000 - 5000 BP)- Hạ Long (5.000 - 3.5000 BP) và bình tuyến Quỳnh Văn (6.000 - 4.000 BP) - Thạch Lạc (4.000 - 3.500 BP) - Gò Mả Đống, Gò Con Lợn (4.000 - 3.500 BP) (Bảng 4.1, sơ đồ 9). Cần nhấn mạnh rằng, trong bình tuyến thứ hai, ở bước mang tính chuyển tiếp là Gò Mả Đống - Gò Con Lợn, bên cạnh yếu tố Thạch Lạc (lớp trên) còn có sự tham góp quan trọng của yếu tố văn hóa Hạ Long và Hoa Lộc. Có thể nói, những yếu tố truyền thống văn hóa biển ở khu vực duyên hải Đông Bắc và Bắc Trung Bộ với tính cởi mở, linh hoạt và năng động đã tham gia hết sức tích cực, chủ động vào sự hình thành nên nền văn hóa, văn minh Việt cổ.
8. “Văn hóa Đồng Đậu được sản sinh ra trong sự bùng nổ kỹ thuật luyện kim do cuộc cách mạng luyện khí mang lại - là một trong những nền văn hóa có sự đóng góp mang ý nghĩa tạo nền cho sự ra đời của nền văn minh rực rỡ ở buổi đầu dựng nước và giữ nước của dân tộc” [171, tr.73]. Kết quả nghiên cứu dưới các khía cạnh khác nhau như môi trường sinh thái, đặc điểm cư trú và các hoạt động sinh kế, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân, nghệ thuật trang trí hoa văn, nguồn gốc văn hóa... cho phép chúng ta khẳng định một cách chắc chắn rằng Đồng Đậu là một “văn hóa sông nước”. Sông nước đã thực sự trở thành một hằng số/ đặc tính nổi trội của văn hóa, văn minh Việt cổ.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Hoàng Xuân Chinh, Bùi Hữu Tiến (2010), Đồng Đậu di tích tiêu biểu thời Tiền sơ sử, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc, Vĩnh Phúc.
2. Lâm Mỹ Dung, Bùi Hữu Tiến (2010), “Tư liệu Thành Dền (Mê Linh, Hà Nội) liên quan đến trồng lúa nước ở châu thổ Bắc Bộ thời văn minh sông Hồng”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.114 - 123.
3. Bùi Hữu Tiến (2012), “Môi trường sông nước và đời sống cư dân Đồng Đậu”, Khảo cổ học (1), tr.8 - 18.
4. Bùi Hữu Tiến (2014), Hoa văn gốm văn hóa Đồng Đậu, NXB Thế giới, Hà Nội.
5. Lâm Mỹ Dung, Nguyễn Thị Bích Hường, Bùi Hữu Tiến (2014), “Diện mạo di tích Thành Dền qua những nghiên cứu khảo cổ học,” Khảo cổ học (3), 2014, tr.79 - 100.
6. Bùi Hữu Tiến (2014), “Một số yếu tố truyền thống biển trong văn hóa Đồng Đậu”, Khảo cổ học (5), tr.3 - 14.
7. Bùi Hữu Tiến (2015), Nghề luyện kim văn hóa Đồng Đậu, NXB Thế giới, Hà Nội.
8. Bùi Hữu Tiến (2015), “Các giai đoạn phát triển văn hóa Đồng Đậu”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Sử học trẻ: những nghiên cứu mới năm 2015, tư liệu Bảo tàng Nhân học, Trường ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN, tr.116 - 135.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_hoa_dong_dau_va_vi_tri_cua_no_trong_thoi_dai_dong_thau_o_luu_vuc_song_hong_3943.doc