Pháp luật về bảo hiểm xã hội không phải xây dựng mới hoàn toàn mà là sự
kế thừa chính sách bảo hiểm xã hội trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Chính vì
vậy mà pháp luật về bảo hiểm xã hội hiện hành không tránh khỏi những bất cập
như: mối quan hệ giữa đóng góp và hưởng thụ, những bất cập về lương hưu, đối
tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đã được mở rộng. Để khắc phục
những bất cập và hạn chế của chính sách bảo hiểm xã hội, xây dựng hệ thống pháp
luật bảo hiểm xã hội phù hợp với sự nghiệp đổi mới của nền kinh tế nhiều thành
phần, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo người lao động, chủ sử dụng lao động và
phù hợp với xu thế phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Việc hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội, củng cố và bổ sung văn bản
quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội là hết sức cần thiết. Với mục đích nghiên
cứu đã đặt ra, dựa trên cơ sở nghiên cứu pháp luật bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thị
xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên, kết hợp với những kinh nghiệm thực tiễn, luậnvăn đã đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tại
thị xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên.
Qua nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thị xã Sông Công,
tỉnh Thái Nguyên có thể thấy việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội một cách
thực sự có hiệu quả vẫn còn là một vấn đề phức tạp, khó khăn, luôn đòi hỏi sự tìm
tòi, nghiên cứu về lý luận, sáng tạo trong thực tiễn thực hiện tại mỗi địa phương.
Tác giả hy vọng những giải pháp trên đây sẽ được áp dụng, kiểm chứng trên
thực tế và qua thực tế các giải pháp này sẽ được bổ sung, hoàn thiện để góp phần
chung vào pháp luật về bảo hiểm xã hội một cách có hiệu quả, từ đó góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo sự bình ổn cho người dân, phát
triển kinh tế - xã hội tại thị xã Sông Công và các địa phương trên cả nước
26 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 754 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Pháp luật về bảo hiểm xã hội - Từ thực tiễn thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
--------/--------
BỘ NỘI VỤ
-----/-----
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI - TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 60 38 01 02
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP
VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI – 2017
Luận văn được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS NGUYỄN THỊ THU HÀ
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn,
Học viện Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng họp tầng Hội trường bảo vệ Luận văn Thạc sĩ
Học viện Hành chính Quốc gia
Số: 77, Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội
Thời gian: vào hồi h ngày tháng năm 2017
Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học,
Học viện Hành chính Quốc gia
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta
đối với người lao động nhằm từng bước mở rộng và nâng cao đảm bảo vật chất,
góp phần ổn định đời sống cho người lao động khi gặp rủi ro như bị ốm đau, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động, qua đời. Cùng với
sự đổi mới của nền kinh tế đất nước trong thời gian vừa qua, chính sách BHXH
cũng được điều chỉnh, thay đổi để phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế
đất nước, với nguyện vọng của người lao động góp phần bảo đảm ổn định đời
sống cho người lao động ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều coi BHXH là bộ phận
chính cấu thành hệ thống An sinh xã hội (ASXH), là chính sách xã hội quan
trọng của mỗi nước. Tuy nhiên, rất khó có một khái niệm chung về BHXH được
tất cả các quốc gia thống nhất sử dụng bởi quan niệm về vấn đề này như thế nào
phụ thuộc vào nhận thức của người dân, của Nhà nước, của tập quán lựa chọn
và khả năng quản lý của mỗi loại rủi ro... trong từng nước. Vì vậy, trên bình
diện quốc tế, khái niệm chung của ILO về ASXH cũng được sử dụng trong lĩnh
vực BHXH. Theo đó, BHXH có thể được hiểu khái quát là sự bảo vệ của xã hội
đối với các thành viên của mình thông qua các biện pháp cộng đồng, nhằm
chống lại các khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây
ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và
chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con
(theo Công ước 102, 1952).
Năm 2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật BHXH và hàng loạt
các văn bản hướng dẫn thi hành; có thể khẳng định pháp luật BHXH đã được
xây dựng tương đối hoàn chỉnh, đầy đủ và có cơ sở pháp lý cao nhất để triển
khai thực hiện trong đời sống xã hội.
Có thể thấy BHXH là một chính sách xã hội phức tạp, lại khá mới mẻ
trong nền kinh tế thị trường mới định hình ở Việt Nam, nên việc thực hiện pháp
luật về BHXH không tránh khỏi những hạn chế, tồn tại nhất định trên các địa
phương trong cả nước trong đó có địa bàn tỉnh Thái Nguyên nói chung và thực
tiễn địa bàn thị xã Sông Công nói riêng như: Việc phát triển đối tượng tham gia
BHXH, nhất là khu vực dân doanh còn quá thấp, chưa đáp ứng yêu cầu và
tương xứng với tiềm năng của tỉnh; công tác phối hợp giữa BHXH với các cơ
quan chức năng trong việc thực hiện chính sách BHXH theo quy định của Luật
BHXH còn nhiều bất cập; chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BHXH còn quá nhẹ, tính cưỡng chế của pháp luật chưa nghiêm; mức phạt lãi
chậm nộp BHXH thấp so với lãi suất ngân hàng, nên tình trạng chậm đóng, nợ
đọng, tham gia không đầy đủ, hoặc không tham gia BHXH đang xảy ra; nhận
thức của một số chủ sử dụng lao động (SDLĐ) về chính sách, pháp luật BHXH
còn hạn chế, trách nhiệm xã hội chưa cao, ý thức chấp hành pháp luật thấp.
Thái Nguyên là một tỉnh có thế mạnh thu hút đầu tư về công nghiệp và
giáo dục, công tác BHXH trong thời gian qua được quan tâm và ưu tiên đặc
biệt. Vai trò của pháp luật về BHXH trong đó có hoạt động thu chi, đảm bảo
chính sách cho đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng trưởng khá. Tuy
nhiên so với yêu cầu đổi mới, BHXH chưa khai thác hết tiềm năng và thế mạnh.
Đặc biệt từ khi có Quyết định 20/TTg/2002 của Thủ tướng Chính Phủ về việc
sát nhập Bảo hiểm Y tế vào BHXH, mặc dù đối tượng phát triển ngày một tăng
nhưng nhiều vấn đề phát sinh bên cạnh đó gây bức xúc trong đời sống xã hội.
Xuất phát từ những lý do nêu trên em đã chọn đề tài “Pháp luật về bảo
hiểm xã hội - từ thực tiễn Thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài
Luận văn tốt nghiệp chương trình sau đại học chuyên ngành Luật Hiến pháp và
Luật Hành chính tại Học viện Hành chính Quốc gia.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Ở nước ta trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài, công trình nghiên
cứu về BHXH nhằm phân tích những ưu điểm và hạn chế của chính sách, chế
độ, và đề ra những giải pháp hoàn thiện chính sách về BHXH đã được nhiều cơ
quan bộ, ngành nghiên cứu, cụ thể như:
- Đỗ Văn Sinh: “Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam”, Luận án
tiến sỹ kinh tế, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005. Luận án
đưa ra phân tích quản lý quỹ BHXH ở nước ta hiện nay là nguồn quỹ tập trung
thống nhất, hạch toán độc lập, tách khỏi ngân sách nhà nước, thực hiện cơ chế
quản lý chặt chẽ và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý
quỹ Bảo hiểm Việt Nam.
- Đặng Ngọc Liên: “Quản lý thu BHXH đối với khu vực kinh tế tư nhân
tại Hà Nội”. Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2004.
Luận văn nghiên cứu BHXH dưới góc độ quản lý nguồn thu trên địa bàn Hà Nội
ở khu vực kinh tế tư nhân, những khó khăn trong đảm bảo nguồn thu BHXH
cũng như quản lý nguồn thu trong thời gian từ năm 1997 - 2004 và đưa ra các
giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý thu bảo hiểm xã hội tại thành phố Hà
Nội.
- Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến: “Góp phần đổi mới và hoàn thiện
chính sách bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay”, sách tham khảo, NXB Chính
trị Quốc gia, năm 1996. Tác giả phân tích những bất cập, tồn tại của chính sách
bảo hiểm xã hội so với tốc độ phát triển kinh tế ở nước ta và đề xuất những giải
pháp góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo hiểm ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
- Phạm Duy Đỉnh: Nghiên cứu “Dịch vụ BHXH Hà Nội”. Luận văn thạc
sỹ kinh tế, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006. Luận văn nêu
rõ dịch vụ BHXH là một loại hình dịch vụ đặc thù. Những thành công phát triển
dịch vụ BHXH của Hà Nội và đề xuất giải pháp mở rộng dịch vụ trong giai
đoạn đến 2010.
- Trần Quang Lâm: “Bảo hiểm Y tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học Viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2006. Luận văn nêu BHXH Việt Nam, chương trình phát
triển ngành BHXH Việt Nam đến 2010. Chương trình đề cập mục tiêu, quy
hoạch và phương hướng phát triển ngành BHXH Việt Nam trên cơ sở phân tích
dự báo xu hướng phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập
WTO.
- Nguyễn Văn Khánh:“Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện khu vực phi
chính thức ở Việt Nam” Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị hành chính - quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2010. Luận văn đề cập vấn đề bảo hiểm xã hội tự nguyện ở
Việt Nam.
- Đặng Thị Vân Khánh: “Bảo hiểm xã hội tự nguyện - 5 năm thực hiện và
một số kiến nghị hoàn thiện” Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Luật Hà Nội, năm 2013.
Luận văn chỉ ra những kết quả và vướng mắc trong thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện,
đồng thời đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện các quy định.
Ngoài ra còn nhiều bài báo, tạp chí chuyên ngành nghiên cứu đánh giá
những vấn đề BHXH đang đặt ra như quản lý, mở rộng đối tượng tham gia BHXH.
Đề xuất các giải pháp chi trả bảo hiểm đúng đối tượng, thời gian.Cũng như biện
pháp hành chính, chế tài đối với những đối tượng trốn tránh trách nhiệm BHXH.
Tuy nhiên nghiên cứu pháp luật về BHXH từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên hiện nay
thì chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách cụ thể.
Với đề tài luận văn này, tác giả mong muốn từ thực tiễn việc thực hiện
pháp luật về BHXH trên địa bàn Thị xã Sông Công, tỉnh Thái nguyên trong
những năm vừa qua làm cơ sở, từ đó đánh giá nhằm thực hiện tốt pháp luật về
BHXH đối với mọi người dân trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế.
3. Mục đ ch và nhiệm vụ của đề tài luận văn
- Mục đ ch:
Tìm hiểu cơ sở lý luận pháp luật về BHXH cũng như thực trạng của pháp
luật về bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên, chỉ ra những
mặt tồn tại, yếu kém và nguyên nhân, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp
phù hợp mang tính khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội trong
thời gian tới, phục vụ tốt hơn quyền lợi bảo hiểm xã hội cho người lao động
trong tỉnh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn sẽ thực hiện nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về bảo hiểm xã hội; trên cơ
sở đó nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về vai trò, chủ thể, nội dung
của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng của pháp luật về bảo hiểm xã hội tại
thị xã Sông Công. Trong quá trình nghiên cứu chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế
của pháp luật về bảo hiểm xã hội trong thực tiễn.
+ Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ sở pháp luật về
bảo hiểm xã hội; các giải pháp, kiến nghị đó sẽ nhằm hoàn thiện pháp về bảo
hiểm xã hội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là các quy định pháp luật về
bảo hiểm xã hội hiện hành và đánh giá thực trạng pháp luật về BHXH nói chung
và việc áp dụng BHXH từ thực tiễn địa bàn thị xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên
nói riêng. Trong đó đi sâu nghiên cứu những mặt đã làm được và những mặt
còn tồn tại của pháp luật về bảo hiểm xã hội trong giai đoạn mới hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã
hội ở các xã, phường, các công ty đóng trên địa bàn thị xã Sông Công, tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 5 năm từ năm 2012-2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận:
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, vận dụng các quan điểm,
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như phương pháp thống kê những số liệu thực tế qua các năm về các
quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội trên địa bàn thị xã Sông Công, tỉnh Thái
Nguyên; phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh nhằm đưa ra những nhận
định, đánh giá thực trạng của pháp luật về bảo hiểm xã hội trên địa bàn thị xã,
so sánh về đối tượng tham gia BHXH, về tình hình quản lý thu, chi BHXH, về
thực trạng chấp hành, áp dụng, sử dụng pháp luật về BHXH qua các năm để có
phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật trên địa bàn thị xã Sông Công,
tỉnh Thái Nguyên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ
quan hữu quan trong quá trình hoàn thiện và thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã
hội, đặc biệt là các cơ quan bảo hiểm xã hội, các đơn vị tham gia bảo hiểm xã
hội trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Đây là đề tài nghiên cứu việc thực hiện một chính sách xã hội lớn của
Đảng và Nhà nước ở tỉnh Thái Nguyên, nhìn dưới góc độ BHXH là một bộ
phận của hệ thống tài chính phục vụ người lao động trong các thành phần kinh
tế. Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công tác
giảng dạy, nghiên cứu pháp luật hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có bố cục gồm: 3 phần
Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công, tỉnh
Thái Nguyên.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội
từ thực tiễn thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.
Chương 1
C SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT
VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật về bảo hiểm ã h i
1.1.1 Khái niệm bảo hiểm xã hội
Theo Điều 3 Luật BHXH năm 2014: "Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất
thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết
tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH". Bảo hiểm xã hội có mục
tiêu rộng hơn sự phòng ngừa hay trợ giúp vật chất trong những trường hợp cần
thiết, mà nó còn là sự đáp ứng những nhu cầu, những mong ước của loài người
muốn được bảo đảm an toàn trong cuộc sống theo nghĩa rộng nhất.
1.1.2 Pháp luật về bảo hiểm xã hội
Pháp luật về BHXH là hệ thống các quy tắc xử sự bao gồm các quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể tham gia BHXH. Tổng thể các quyền và nghĩa vụ này tạo
thành quy chế pháp lý buộc NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước phải có trách nhiệt với
nhau trong việc thực hiện và bảo đảm duy trì quan hệ lao động hài hòa, ổn định.
Tổng hợp các quy phạm pháp luật về BHXH này do Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành nhằm thực hiện hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật, trong đó
Luật BHXH là trung tâm quy định các chế độ, chính sách BHXH, quyền và trách
nhiệm của NLĐ, của cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia BHXH, tổ chức BHXH,
quỹ BHXH, thủ tục thực hiện BHXH và quản lý nhà nước về BHXH.
1.1.3 Vai trò của pháp luật về bảo hiểm xã hội
Pháp luật BHXH ra đời có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Pháp luật là công cụ của Nhà nước mang tính cưỡng
chế, bắt buộc, không ai được phép làm trái pháp luật, nếu làm trái pháp luật sẽ bị
xử phạt. Một khi bảo hiểm xã hội được pháp luật điều chỉnh thì dù muốn hay
không, người sử dụng lao động và người lao động cũng phải thực hiện nghĩa vụ
đóng quỹ bảo hiểm xã hội theo mức mà pháp luật đã quy định.
1.2 Chủ thể, n i dung pháp luật về bảo hiểm ã h i
1.2.1 Chủ thể pháp luật về bảo hiểm xã hội
Trong quan hệ về BHXH, các bên (thành viên, chủ thể) tham gia pháp luật
về BHXH gồm có: bên thực hiện BHXH, bên tham gia BHXH, bên được BHXH.
1.2.2 Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội
- Các quy định về chế độ bảo hiểm xã hội
Trong hệ thống Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay có tất cả 6 loại chế độ
trợ cấp đó là:
BHXH bắt buộc bao gồm các chế độ sau đây: (1) Ốm đau; (2) Thai sản; (3)
Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; (4) Hưu trí; (5) Tử tuất.
BHXH tự nguyện bao gồm các chế độ sau đây: (1) Hưu trí; (2) Tử tuất.
BHTN bao gồm các chế độ sau đây: (1) Trợ cấp thất nghiệp; (2) Hỗ trợ học nghề;
(3) Hỗ trợ tìm việc làm.
- Quy định về nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội
Thu được coi là nguồn công tác trọng tâm để hình thành quỹ BHXH, thực
hiện tốt công tác thu sẽ đảm bào việc thực hiện pháp luật BHXH được triệt để. Tổ
chức tốt công tác thu tiền đóng BHXH hàng tháng đồng thời giải quyết nhanh gọn,
chế độ chính sách BHXH, bảo đảm quyền, lợi ích cho NLĐ. Tập trung đôn đốc
đơn vị ngay từ khi đơn vị có dấu hiệu chậm đóng BHXH từ 1 đến 2 tháng
- Quy định về quản lý quỹ bảo hiểm xã hội
Theo những quan niệm về quỹ nói chung, thì quỹ bảo hiểm xã hội là tập hợp
những đóng góp bằng tiền của những người tham gia bảo hiểm xã hội hình thành
một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được bảo hiểm xã hội và gia
đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc
bị mất việc làm.
Quỹ bảo hiểm xã hội hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết
những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc
dàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời
giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho
cả ngân sách Nhà nước và ngân sách gia đình.
- Quy định về công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật về
bảo hiểm xã hội
Thanh tra nhà nước về lao động là cơ quan chuyên trách có chức năng kiểm
tra, giám sát và xử phạt hành chính đối với những đối tượng có hành vi vi phạm
pháp luật BHXH. Tùy theo mức độ vi phạm và thẩm quyền quy định mà Chánh
thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (LĐ-TB&XH), Chánh thanh tra lao
động cấp Sở hoặc thanh tra viên lao động khi đang thi hành công vụ ra quyết định
xử lý vi phạm. Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp cũng có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH ở địa phương mình quản lý theo quy định
của pháp luật. Trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì sẽ bị xử lý hình sự theo
quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Tiểu kết Chương 1
Tại Chương 1, Luận văn đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận chung của
pháp luật về bảo hiểm xã hội; trên cơ sở đó nghiên cứu quy định pháp luật hiện
hành về khái niệm, vai trò, chủ thể, nội dung của pháp luật bảo hiểm xã hội, lần
lượt phân tích một cách hệ thống, đi từ khái quát chung về bảo hiểm xã hội, pháp
luật về bảo hiểm xã hội, là cơ sở để thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Qua việc phân tích có thể thấy bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội
đặc biệt quan trọng được các nước chú trọng phát triển phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội của mình và pháp luật hóa trong hệ thống pháp luật của Nhà nước.
Khẳng định rõ ở nước ta BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước được
quy định trong Hiến pháp, các văn kiện của Đảng không ngừng bổ sung và hoàn
thiện trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước. BHXH ra đời góp phần điều hòa
mâu thuẫn giữa người lao động và chủ sử dụng lao động, đồng thời nhìn nhận vai
trò Nhà nước thông qua việc chi BHXH ổn định đời sống cho người lao động và
ổn định xã hội. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, BHXH ngày càng trở nên quan trọng trong việc góp phần đảm bảo công
bằng xã hội và phát triển xã hội một cách bền vững.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1 Giới thiệu chung về Bảo hiểm ã h i thị ã Sông Công
2.2.1 Quá trình hình thành Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công
2. 1. 2 Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công
2.1.3 Cơ cấu tổ chức Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công
2.2 Pháp luật về bảo hiểm ã h i từ thực tiễn thị ã Sông Công, tỉnh
Thái Nguyên
2.2.1 Thực trạng thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội
Trong những năm gần đây, nền kinh tế tại thị xã Sông Công đang ổn định và
phát triển, kéo theo đó là sự xuất hiện của các khu công nghiệp, vì vậy các thành
phần tham gia vào nền kinh tê cũng ngày càng đa dạng và phong phú làm cho số
lượng đơn vị thuộc diện tham gia BHXHBB cũng gia tăng đáng kể.
Trong tổng số đơn vị tham gia thì khối DN ngoài quốc doanh tăng nhiều
nhất cụ thể: Năm 2012 tăng 16 đơn vị so với năm 2013, tương ứng tăng 13.56%.
Năm 2014 tăng 3 đơn vị so với năm 2013, tương ứng tăng 2,4%. Năm 2016 tăng
21 đơn vị so với năm 2015, tương ứng 13,21%.
Số lao động tham gia BHXHBB năm 2012 là 6.009 người, năm 2013 là
7.067 người, tăng 1058 người so với năm 2012, tương ứng tăng 17,61%. Năm
2014 tỉ lệ tăng cũng tương tự, nhưng tới năm 2016 là 17.330 tăng so với năm 2015
là 7952, tương ứng tăng 84,79%. Sở dĩ năm 2016 số lao động tham gia tăng mạnh
bởi vì có nhiều đơn vị ngoài quốc doanh và ngoài công lập được thành lập thu hút
một lượng lớn người lao động.
Số đơn vị và người tham gia BHTN đều tăng qua các năm, cụ thể: Năm
2013 tăng có 955 đối tượng so với năm 2012, năm 2014 có 7945 đối tượng tăng
1027 lượt người tham gia, tương ứng tăng 14,84% so với năm 2013. Đến năm
2015 có 9211 người, tăng 1266 người so với năm 2014, tương ứng tăng 15,94%.
Đặc biệt trong năm 2016 có 17249 người tham gia, tăng 8038 người tương ứng
87,26% so với năm 2015.
Năm 2012, BHXH thị xã Sông Công đã tiếp nhận 1244 người hưởng chế độ
hưu trí bao gồm hưu viên chức và hưu quân đội, năm 2013 là 1498 người, năm
2014 là 1361 người, năm 2015 là 1434 người, đến năm 2016, BHXH thị xã đã tiếp
nhận 1022 người nâng số người hưởng chế độ lương hưu tại thị xã là 12611 người.
Trong đó, người nghỉ hưu trước tuổi chiếm 58%, bình quân tuổi nghỉ hưu là 57
tuổi đối với nam, 53 tuổi đối với nữ.
Năm 2012, BHXH thị xã Sông Công thực hiện chi trả cho 838 người là thân
nhân của người đang đóng, đang bảo lưu BHXH hoặc đang hưởng lương hưu hàng
tháng chết hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng với số tiền là 4,728 tỷ đồng. Năm
2013, là 935 người với số tiền 5,571 tỷ đồng. Năm 2014, là 1.028 người với số tiền
6,291 tỷ đồng. Năm 2015, là 1.133 người với số tiền 7,078 tỷ đồng. Năm 2016,
BHXH thị xã Sông Công thực hiện chi trả cho 725 trường hợp với số tiền 4,581 tỷ
đồng.
2.2.2 Công tác thu và hình thành quỹ bảo hiểm xã hội
Khi công tác quản lý thu, quản lý chi được đảm bảo thực hiện tốt thì sẽ đảm
bảo được sự cân đối quỹ. Cho nên công tác quản lý thu, chi rất quan trọng và luôn
được BHXH thị xã đặt lên hàng đầu.
Năm 2012 tổng số phải thu là 64.821 triệu đồng, số thực thu là 63.204 triệu
đồng. Năm 2013 tổng số phải thu là 76.358 triệu đồng trong khi đó số thực thu là
75.826 triệu đồng. Năm 2014 tổng số phải thu là 110.821 triệu đồng trong khi đó
số thực thu là 105.204 triệu đồng. Năm 2015 tổng số phải thu là 120.084 triệu đồng
trong khi đó số thực thu là 116.694 triệu đồng. Năm 2016 tổng số phải thu là
170.783 triệu đồng trong khi đó số thực thu là 168.022 triệu đồng.
2.2.3 Công tác quản lý quỹ bảo hiểm xã hội
Khi công tác quản lý thu, quản lý chi được đảm bảo thực hiện tốt thì sẽ đảm
bảo được sự cân đối quỹ. Cho nên công tác quản lý thu, chi rất quan trọng và luôn
được BHXH thị xã đặt lên hàng đầu. Trong những năm qua, quỹ BHXH của thị xã
Sông Công, dưới sự quản lý trực tiếp của BHXH tỉnh Thái Nguyên, luôn được
quản lý chặt chẽ, công khai và minh bạch. Các chính sách, chế độ được hạch toán
và quyết toán đúng, đủ, kịp thời, không xảy ra sai sót, thất thoát.
2.2.4 Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật về bảo
hiểm xã hội
Cơ quan BHXH thị xã chưa có thẩm quyền xử phạt các doanh nghiệp vi
phạm pháp luật về BHXH mà sau khi phát hiện chỉ dừng lại ở việc làm văn bản đề
nghị các sở, ngành xử lý. Mặt dù mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BHXH đã được tăng lên theo quy định tại Nghị định số 86/2010/NĐ-CP, song thực
tế mức xử phạt này vẫn còn quá thấp, không đủ sức răn đe đối với những doanh
nghiệp vị phạm. Khối lượng công việc của BHXH thị xã ngày càng tăng, biên chế
chưa được BHXH tỉnh bổ sung dẫn đến việc kiểm tra, đôn đốc các doanh nghiệp
đóng BHXH của BHXH quận chưa kịp thời.
2.3 Đánh giá chung
2.3.1 Kết quả đạt được
Những ưu điểm cơ bản của việc thực hiện pháp luật về BHXH trên địa bàn
thị xã Sông Công có thể khái quát những điểm chính sau:
Thứ nhất, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật BHXH đã huy
động được một số cơ quan, đơn vị cấp huyện, thị tham gia.
Thứ hai, đối tượng tham gia BHXH ngày càng được mở rộng, cùng với đó là
số người tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH ngày càng tăng trên cả 3 loại
hình BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BHTN.
Thứ ba, công tác giải quyết và chi trả các chế độ BHXH, BHTN cho NLĐ
được thực hiện đầy đủ, kịp thời, chính xác đúng quy định của pháp luật,
Thứ tư, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động thực hiện
chế độ, chính sách BHXH của quận không ngừng phát triển.
Thứ năm, công tác quản lý nhà nước về BHXH trong thị xã được tăng
cường, sự phối hợp giữa cơ quan BHXH với Sở LĐ-TB&XH và các ngành, các
cấp ngày càng chặt chẽ, thường xuyên và đồng bộ hơn.
Thứ sáu, nhận thức và chấp hành pháp luật BHXH của cấp ủy, chính quyền,
các phòng ban trong thị xã và NSDLĐ, NLĐ và nhân dân từng bước được nâng cao.
2.3.2 Tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật BHXH triển
khai chưa thực sự chuyên sâu, hình thức, biện pháp tuyên truyền chưa đa dạng và
chưa được tổ chức thường xuyên, còn một bộ phận NSDLĐ chưa hiểu đúng và
thực hiện đúng pháp luật về BHXH, BHTN.
Thứ hai, việc tuân thủ pháp luật về BHXH của phần lớn các doanh nghiệp
dân doanh, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác chưa tốt, biểu hiện ở việc
trốn đóng BHXH, đóng không đúng thời gian, không đúng mức hoặc không đủ số
người theo quy định.
Thứ ba, chế tài xử lý vi phạm chưa đủ mạnh, sự phối hợp của các ngành vẫn
còn hạn chế.
Thứ tư, cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về BHXH, cơ quan
BHXH và Công đoàn thiếu chặt chẽ, xử lý các vụ việc chậm, thiếu tính răn đe,
thiếu kiên quyết xử lý làm cho tình trạng vi phạm pháp luật BHXH trở lên phức
tạp, dây dưa, kéo dài.
Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về thực hiện chế độ,
chính sách BHXH của Thanh tra Sở LĐ-TB&XH, thanh tra thị xã, liên ngành thị
xã kiểm tra các đơn vị trên địa bàn thị xã còn hạn chế về số lượng.
Thứ sáu, nhận thức của các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội về quyền lợi
và nghĩa vụ BHXH không đầy đủ.
Thứ bảy, BHXH thị xã chưa có kế hoạch chi tiết trong việc phát triển đối
tượng tham gia BHXH.
2.3.3 Nguyên nhân của những mặt hạn chế
2.3.3.1 Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, nhận thức về BHXH còn nhiều hạn chế:
Thứ hai, các văn bản pháp luật về BHXH chưa đầy đủ và hoàn chỉnh:
Thứ ba, tình trạng yếu kém của nhiều doanh nghiệp.
2.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, trình độ quản lý và năng lực thực hiện nghiệp vụ của cán bộ, viên
chức ngành BHXH còn hạn chế:
Thứ hai, công tác thông tin, tuyên truyền còn nhiều hạn chế.
Tiểu kết chương 2
Tại Chương 2, Luận văn đã phân tích, đánh giá các thực trạng pháp luật về
bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công và đánh giá kết quả đạt được, nêu các hạn
chế về tổ chức, hoạt động của Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công để tạo tiền đề, đề
xuất giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu lực hiệu quả của pháp luật về bảo hiểm xã
hội.
Luận văn nêu ra cơ cấu và tổ chức của bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông
Công, chỉ ra vị trí, vai trò của bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công trong tổ chức
bộ máy của Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên để có được những phân tích, đánh
giá, chỉ ra một số tồn tại, bất cập cụ thể trong các quy định về cơ cấu và tổ chức
của bảo hiểm xã hội thị xã.
Tiếp theo, luận văn xem xét việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội từ
thực tiễn thị xã Sông Công. Trong đó, trước hết khái quát về thực trạng pháp luật
về bảo hiểm xã hội tại thị xã; sau đó đưa ra những kết quả đạt được, những bất cập
hạn chế trong các nội dung của bảo hiểm xã hội và phân tích các nguyên nhân của
những kết quả đạt được, của những hạn chế từ thực tiễn pháp luật về bảo hiểm xã
hội tại thị xã Sông Công.
Chương 3
PHƯ NG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN
3.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm ã h i
Quyết định phê duyệt Chiến lược hội nhập quốc tế của ngành Bảo hiểm xã
hội (BHXH) đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt.
Theo đó, mục tiêu của hội nhập quốc tế là phát huy tối đa nguồn lực và điều
kiện thuận lợi của hội nhập quốc tế góp phần xây dựng hệ thống an sinh xã hội tại
Việt Nam bền vững, hiệu quả, hiện đại; xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện
chính sách về BHXH, BHYT phù hợp với các chuẩn mực, điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên.
Cụ thể, mục tiêu đến năm 2020 là: Góp phần thực hiện thành công Nghị
quyết số 31/NQ-CP ngày 13/5/2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ
Chính trị về hội nhập quốc tế; nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển
BHXH Việt Nam, phấn đấu đến năm 2020 có 35% lực lượng lao động tham gia
BH thất nghiệp, 50% tham gia BHXH và trên 80% tham gia BHYT; tiến tới
BHXH cho mọi người lao động và BHYT toàn dân; xây dựng ngành BHXH hiện
đại, chuyên nghiệp, hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế; hoàn thiện chính sách và đảm bảo thực thi chính sách BHXH,
BHYT cho người lao động trong các hiệp định song phương và đa phương theo lộ
trình; huy động thêm nguồn lực, kinh nghiệp quốc tế nhằm thực hiện tốt chính sách
BHXH, BHYT; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ BHXH, BHYT cho người dân.
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm ã h i từ thực tiễn thị
xã Sông Công
3.2.1 Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội
3.2.1.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về phạm vi áp dụng
Hiện nay, trong bối cảnh Luật Việc làm năm 2013 với quan điểm BHTN là
một trong các chính sách của thị trường lao động và gắn với quan hệ lao động thì
việc chuyển BHTN sang Luật Việc làm là phù hợp. Nhưng theo quy định thì
nhóm đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; lực lượng vũ trang;
những người lao động làm việc theo mùa vụ sẽ không thuộc đối tượng tham gia
bảo hiểm thất nghiệp. Và rõ ràng, đối tượng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp hẹp hơn
rất nhiều so với đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc và cần được mở rộng
nhóm đối tượng này.
3.2.1.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đối tượng áp dụng
Việc mở rộng đối tượng áp dụng chế độ BHXH bắt buộc đối với học viên
quân đội, công an, cơ yếu đang theo học hưởng sinh hoạt phí từ Ngân sách Nhà
nước và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thuộc đối tượng tham gia
BHXH bắt buộc là hợp lý. Quy định mới này sẽ góp phần đáng kể vào việc tăng
diện bao phủ của BHXH bắt buộc, bởi các nhóm đối tượng này khá ổn định và
chiếm một tỷ lệ tương đối. Hiện nay, Việt Nam đang có một lực lượng khá đông
đảo đội ngũ cán bộ không chuyên trách cấp xã đang được hưởng phụ cấp khác với
10 năm về trước phần lớn cán bộ không chuyên trách cấp xã là do nhiều cán bộ về
hưu đảm nhận, nên chưa có chính sách BHXH. Để khuyến khích và tạo điều kiện
cho cán bộ chuyên trách cấp xã gắn bó tâm huyết với công việc đang đảm nhận thì
việc quy định này là rất cần thiết.
Bổ sung đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với NLĐ làm việc theo
HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng
đến dưới 12 tháng được giao kết bằng văn bản, kể cả HĐLĐđược ký kết giữa
NSDLĐ với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp
luật lao động.
3.2.1.3 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ ốm đau
Về mặt kết cấu, chế độ ốm đau trong Luật BHXH năm 2014 gồm 06 điều
được kết cấu tương tự như Luật BHXH hiện hành và đã bao quát đầy đủ các quy
định về chế độ ốm đau của người tham gia BHXH. Theo đó, đối tượng áp dụng
được quy định cụ thể hơn theo hướng mở rộng diện thụ hưởng, rõ ràng hơn, thuận
lợi cho việc thực hiện và quản lý.
Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau đã được quy định hợp lý, tạo thuận
lợi hơn so với quy định hiện hành khi thực hiện trong trường hợp cả cha và mẹ
cùng tham gia BHXH khi con bị ốm đau. Việc đưa người cha vào đối tượng thụ
hưởng chế độ khi con ốm đau là một bổ sung tích cực của Luật BHXH ngày
20/11/2014.
3.2.1.4 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ thai sản
Thời gian hưởng chế độ khi sinh con được điều chỉnh tăng phù hợp với quy
định tại Điều 157 Bộ luật Lao động 2012 và mở rộng thêm đối tượng thụ hưởng
theo hướng đáp ứng yêu cầu bình đẳng giới. Cụ thể: Tăng thời gian nghỉ sinh con
lên 6 tháng; thời gian nghỉ phụ thuộc vào phương thức sinh của người vợ; Linh
hoạt hơn về mức hưởng đối với người được thụ hưởng khi người mẹ chết sau khi
sinh.
Mức hưởng chế độ thai sản cũng được quy định cụ thể hơn với từng trường
hợp tạo thuận lợi trong tổ chức thực hiện
3.2.1.5 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ TNLĐ- BNN
Điều kiện hưởng chế độ TNLĐ được quy định chi tiết và rõ ràng hơn so với
quy định hiện hành tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện. Luật đã cụ thể
hóa quy định tại khoản 1 Điều 43 trường hợp bị tai nạn trong các trường hợp nêu
tại điểm a,b,c (khoản 1 Điều 43); bổ sung quy định các trường hợp cần loại trừ
(khoản 2 Điều 43); các quy định nêu trên được thể hiện rõ và thuận lợi trong tổ
chức thực hiện.
Thời điểm hưởng trợ cấp cũng được quy định chặt chẽ và đầy đủ hơn. Cụ
thể là bổ sung quy định về thời điểm hưởng trợ cấp trong các trường hợp không
điều trị nội trú (khoản 1, Điều 48); bổ sung quy định về thời điểm hưởng trợ cấp
TNLĐ – BNN trong trường hợp không xác định được thời điểm điều trị ổn định
xong, ra viện; bổ sung Điều 49 về điều chỉnh trợ cấp TNLĐ-BNN.
3.2.1.6 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí
Mức lương hưu sẽ vẫn giữ nguyên đến hết năm 2017 và chỉ điều chỉnh từ
năm 2018 trở đi. Đặc biệt, đối tượng được điều chỉnh chỉ là lao động nam, trong
khi mức hưởng đối với lao động nữ giữ nguyên như cũ. Điều này thực sự hướng
tới mục tiêu bình đẳng giới trong pháp luật BHXH.
Mức hưởng chế độ trợ cấp một lần: Mức hưởng tối thiểu vẫn giữ nguyên
như cũ cho những năm đóng trước năm 2014, từ năm 2014 trở đi, mức hưởng
BHXH một lần được tính bằng 2,0 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng
BHXH.
Đối với NLĐ bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 01 tháng 7 năm 2015 trở đi
thì tiền lương tháng đã đóng BHXH để làm căn cứ tính mức bình quân được điều
chỉnh trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt của từng thời kỳ như đối với NLĐ đóng
BHXH theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định.
3.2.1.7 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ tử tuất
Bất cập lớn nhất trong quá trình thực hiện Luật BHXH hiện hành về chế độ
tử tuất, đó chính là sự chênh lệch giữa mức hưởng trợ cấp tuất hàng tháng và trợ
cấp tuất 1 lần.
Về cơ bản, chế độ tử tuất trong Luật BHXH đã có sự thay đổi đáng kể, tuy
nhiên, qua thực tế, Luật BHXH năm 2014 vẫn chưa giải quyết thoả đáng những
khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện thời gian qua. Luật BHXH năm
2014 nên quy định rõ thu nhập hàng tháng được xác định tại thời điểm nào và gồm
những khoản gì vì đây là nội dung rất vướng trong tổ chức thực hiện.
3.2.2 Nhóm giải pháp khác
3.2.2.1 Giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội
- Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các phòng nghiệp vụ và
BHXH thị xã.
- Tiếp tục rà soát, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm từng đơn vị. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác chỉ
đạo, hướng dẫn thực thi nhiệm vụ.
- Phân công nhiệm vụ, trách nhiệm rõ ràng cho từng công chức, viên chức;
khắc phục tình trạng thụ động, phong cách làm việc hành chính, quan liêu trong chỉ
đạo, điều hành thực thi nhiệm vụ, chuyển đổi nhanh sang phong cách phục vụ.
3.2.2.2 Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công
tác bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công
Một là, nâng cao năng lực đội ngũ công chức, viên chức thực thi pháp luật
BHXH (đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo) là một trong những giải pháp cơ bản
nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về BHXH.
Hai là, bảo hiểm xã hội là một ngành hoạt động nghiệp vụ mang tính chuyên
môn sâu. Nhưng đội ngũ công chức, viên chức hiện tại của BHXH thị xã chủ yếu
được đào tạo về kinh tế, tài chính, xã hội, hầu hết chưa được đào tạo cơ bản nghiệp
vụ về BHXH.
Ba là, tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí
Minh để xây dựng đội ngũ công chức, viên chức BHXH tỉnh có bản lĩnh chính trị
vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ trong thực thi
nhiệm vụ thực hiện pháp luật về BHXH.
Bốn là, thực hiện tốt công tác nâng lương thường xuyên, nâng lương trước
thời hạn và các chế độ chính sách khác đối với viên chức BHXH tỉnh; đẩy mạnh
các phòng trào thi đua, biểu dương khen thưởng kịp thời đối với những tập thể, cá
nhân có thành tích xuất sắc trong đơn vị.
Năm là, nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả một cửa.
Sáu là, bảo đảm trang bị mỗi BHXH huyện, thị xã của tỉnh.
3.2.12.3 Nhóm giải pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý
các trường hợp vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội
- Công tác thanh tra, kiểm tra phải được phối hợp chặt chẽ giữa Thanh tra
chuyên ngành của Phòng LĐ-TB&XH, của Liên đoàn Lao động, Công an, Sở Kế
hoạch- Đầu tư, Thuế, BHXH và các cơ quan liên quan trong kiểm tra, giám sát,
đôn đốc việc thực hiện các quy định của pháp luật về BHXH.
- Tăng cường củng cố, kiện toàn Phòng kiểm tra của BHXH tỉnh, viên chức
phụ trách công tác kiểm tra của BHXH các huyện, thị; lựa chọn xây dựng viên
chức làm công tác kiểm tra thực hiện pháp luật về BHXH.
- BHXH tỉnhThái Nguyên và BHXH các huyện, thị xây dựng kế hoạch thực
hiện công tác kiểm tra đối với các đơn vị sử dụng lao động đăng ký với Thanh tra
Nhà nước và tổ chức thực hiện.
- Việc thanh tra, kiểm tra phải bảo đảm nghiêm minh, tuân thủ đúng các quy
định của pháp luật.
Tiểu kết Chương 3
Xuất phát từ vị trí, vai trò và ý nghĩa của bảo hiểm xã hội trong pháp luật của
nhà nước cùng với thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thị xã Sông
Công, có thể thấy rằng, việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng pháp luật về bảo
hiểm xã hội là một vấn đề tất yếu.
Căn cứ vào đặc điểm, tình hình cụ thể của thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã
hội, Chương 3 đã của luận văn đã đưa ra những yêu cầu, định hướng và giải pháp cơ
bản nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thị xã Sông Công, tỉnh
Thái Nguyên. Trong thời gian tới, bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công, chính quyền các
cấp, sở, ban, ngành cần đẩy mạnh, nâng cao nhận thức cho các chủ thể và đối tượng
trong thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội; tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật
về bảo hiểm xã hội; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy và sự tham gia, phối hợp
của các đoàn thể, ban, ngành tham gia bảo hiểm xã hội; nâng cao năng lực đội ngũ cán
bộ, công chức làm công bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công.
Để thực hiện tốt, đồng bộ các yêu cầu, phương hướng, giải pháp trong việc nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra hành chính, yêu cầu các cơ quan chức năng
có liên quan, các cơ quan chuyên ngành phải phối hợp xây dựng các văn bản pháp lý
nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác bảo hiểm xã hội hiện nay. Đồng thời Đảng và Nhà
nước cũng cần đưa ra những chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật tích cực hơn
nữa, nhằm xây dựng mặt bằng tri thức pháp luật chung cho toàn xã hội.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu về “Pháp luật về bảo hiểm xã hội- từ thực tiễn Thị xã Sông
Công, tỉnh Thái Nguyên” cho thấy việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tại
thị xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi
nhận. Song bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhữn hạn chế, bất cập, đòi hỏi các cấp, các
ngành cùng có sự phối hợp để giải quyết trong thời gian tới.
Từ thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công cho
thấy: Hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập, đi vào hoạt động, tổ
chức thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội trên phạm vi toàn quốc đã giải
quyết được những vấn đề cơ bản, có tác dụng nhiều mặt trong việc đảm bảo an
toàn xã hội, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội. Luật BHXH đã
phù hợp với thực tiễn, được cuộc sống chấp nhận và ngày càng khẳng định vai trò
quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện Luật BHXH cũng bộc lộ những bất cập, hạn chế đặt ra
nhu cầu khách quan về việc sửa đổi Luật BHXH một cách căn cơ nhằm thiết lập
khung chính sách, pháp luật BHXH phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị
trường.
Pháp luật về bảo hiểm xã hội không phải xây dựng mới hoàn toàn mà là sự
kế thừa chính sách bảo hiểm xã hội trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Chính vì
vậy mà pháp luật về bảo hiểm xã hội hiện hành không tránh khỏi những bất cập
như: mối quan hệ giữa đóng góp và hưởng thụ, những bất cập về lương hưu, đối
tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đã được mở rộng. Để khắc phục
những bất cập và hạn chế của chính sách bảo hiểm xã hội, xây dựng hệ thống pháp
luật bảo hiểm xã hội phù hợp với sự nghiệp đổi mới của nền kinh tế nhiều thành
phần, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo người lao động, chủ sử dụng lao động và
phù hợp với xu thế phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Việc hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội, củng cố và bổ sung văn bản
quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội là hết sức cần thiết. Với mục đích nghiên
cứu đã đặt ra, dựa trên cơ sở nghiên cứu pháp luật bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thị
xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên, kết hợp với những kinh nghiệm thực tiễn, luận
văn đã đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tại
thị xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên.
Qua nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thị xã Sông Công,
tỉnh Thái Nguyên có thể thấy việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội một cách
thực sự có hiệu quả vẫn còn là một vấn đề phức tạp, khó khăn, luôn đòi hỏi sự tìm
tòi, nghiên cứu về lý luận, sáng tạo trong thực tiễn thực hiện tại mỗi địa phương.
Tác giả hy vọng những giải pháp trên đây sẽ được áp dụng, kiểm chứng trên
thực tế và qua thực tế các giải pháp này sẽ được bổ sung, hoàn thiện để góp phần
chung vào pháp luật về bảo hiểm xã hội một cách có hiệu quả, từ đó góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo sự bình ổn cho người dân, phát
triển kinh tế - xã hội tại thị xã Sông Công và các địa phương trên cả nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_phap_luat_ve_bao_hiem_xa_hoi_tu_thuc_tien_t.pdf